Đề tài Định hướng về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh Hà Nam trong giai đoạn 2001 - 2010

Mặc dù không tránh khỏi những khiếm khuyết nhưng đề tài không thể thiếu đi những nội dung cần thiết của một công trình nghiên cứu khoa học, nghiên cứu đề tài đã giúp tôi vận dụng nhiều kiến thức đã học vào thực tế. Hy vọng rằng kết quả nghiên cứu đề tài sẽ góp phần đấy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh Hà nam, tiến tới xây dựng một tỉnh giàu mạnh- thành phố vệ tinh của thủ đô Hà nội trong tương lai.

doc57 trang | Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1266 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Định hướng về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh Hà Nam trong giai đoạn 2001 - 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iệp vật liệu xây dựng như gạch, ngói, xi măng, đá vôi,...có thị trường tương đối lớn, không những phục vụ trong tỉnh mà còn cung cấp cho cả các vùng lân cận. Vì vậy trong tương lai, Hà nam nên phát triển mạnh công nghiệp vật liệu xây dựng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của mình.. Về phân bón hoá chất, ngoài nguồn phân chuồng sẵn có, trung bình phải sử dụng 30 nghìn tấn phân hỗn hợp NPK/ 1 vụ mà tỉnh lại chưa sản xuất được. Dự báo trong thời gian tới nông nghiệp Hà nam phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá, phải thâm canh, tăng năng suất cây trồng, vì vậy lượng phân bón sẽ sử dụng nhiều hơn. Do đó, Hà nam nên phát triển loại phân bón nói trên, trước mắt là đáp ứng nhu cầu sản xuất trong tỉnh, về lâu dài có thể cung cấp cho các vùng lân cận, đang và sẽ có cầu lớn. Về nhu cầu thực phẩm, đồ uống trong những năm tới là rất lớn. Một mặt do thu nhập và mức sống của người dân được nâng lên, sẽ làm thay đổi cầu về thực phẩm và đồ uống theo hướng sử dụng những sản phẩm có chất lượng ngày càng cao và sẽ làm cho khả năng tiêu thụ các sản phẩm của công nghiệp chế biến ở thị trường nội tỉnh tăng lên nhanh chóng. Mặt khác Hà nam có thể tận dụng vị trí gần thủ đô Hà nội để cung ứng cho thị trường lớn đó và tham gia xuất khẩu mặt hàng này sang các nước ASEAN. Về hàng cơ khí máy móc phục vụ sản xuất nông nghiệp hiện nay có cầu không lớn, nhưng trong thời gian tới cầu này sẽ tăng lên rất nhanh chưa nói đến phải vươn ra ngoài. Bởi vì mức độ cơ giới hoá làm đất nông nghiệp ở Hà nam hiện nay rất thấp, mới chỉ ở mức 20 % trong khi đó ở đồng bằng sông Cửu Long đã là 60%, mặt khác một ngành nông nghiệp phát triển nhất định phải cơ giới hoá ở mức độ tối đa. Vì vậy ngay từ bây giờ Hà nam phải quan tâm nghiên cứu việc đầu tư phát triển, làm cho ngành cơ khí nói chung và ngành cơ khí nông nghiệp nói riêng có bước đột phá mạnh vươn lên theo kịp các tỉnh khác. Về hàng dệt da, may mặc, trên thị trường thế giới có cầu lớn do đó Hà nam có thể cần phát triển sản xuất, gia công những mặt hàng này để xuất khẩu ra thị trường ngoài nước. Cầu về hàng hoá nông sản: rau quả, thực phẩm gia súc, gia cầm,... Trong tương lai, khi mức sống của người dân được nâng cao thì cầu về thịt trong bữa ăn sẽ lớn hơn do đó mà ngành chăn nuôi cần được mở rộng phát triển. Mặt khác khi các ngành chế biến lương thực, thực phẩm phát triển đòi hỏi nguồn nguyên liệu cho ngành này ngày một lớn hơn do đó mà cầu về hàng hoá của khu vực nông nghiệp và nông thôn là rất lớn. Vì vậy trong ngành nông nghiệp cũng phải có sự chuyển dịch thích hợp để thoả mãn đòi hỏi trên. Cầu về dịch vụ. Cùng với sự phát triển của công nghiệp và nông nghiệp thì dịch vụ cũng có bước phát triển theo. Cầu về xuất khẩu hàng hoá, giao thông vận tải, tài chính ngân hàng cũng sẽ tăng lên đáng kể. Mặt khác đời sống khá hơn do đó cầu du lịch và các hoạt động dịch vụ khác cũng sẽ tăng. Tóm lại, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh Hà nam nhằm đạt được một cơ cấu hợp lý để có thể thoả mãn cầu về sản phẩm của các ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ trong tương lai. 3- Phương án chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của Hà nam giai đoạn 2001-2010. Lựa chọn cơ cấu ngành kinh tế tổng quát Để tạo điều kiện cho nền kinh tế của tỉnh tăng trưởng nhanh, ổn định, vững chắc, hiệu quả nhằm giảm dần khoảng cách chênh lệch tiến tới bằng hoặc vượt mức GDP/ người so với mức trung bình của cả nước, tận dụng mọi cơ hội nhanh chóng hội nhập với quá trình phát triển của vùng đồng bằng sông Hồng, vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ, cải thiện, nâng cao rõ rệt đời sống của nhân dân, từ nay đến năm 2010 tỉnh sẽ chủ động chỉ đạo tạo sự chuyển biến mạnh mẽ cơ cấu ngành kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trên cơ sở tiếp tục đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp đa dạng sản phẩm, sẽ đặc biệt ưu tiên phát triển công nghiệp và dịch vụ có tốc độ cao hơn để trong giai đoạn 2001-2010 sẽ xây dựng một cơ cấu kinh tế mới. Đó là cơ cấu Công nghiệp- Nông nghiệp- Dịch vụ. Cụ thể là: Biểu13 . Dự kiến cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh Hà nam giai đoạn 2001-2010. Đơn vị : %. 1996 2000 2010 GDP 100 100 100 1.Công nghiệp 18,8 27,1 39,0 2.Nông nghiệp 49,6 41,5 22,0 3.Dịch vụ 31,6 31,4 39,0 Nguồn: Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội tỉnh Hà nam đến 2010. Như vậy, từ nay đến năm 2010, công nghiệp sẽ là trọng tâm đột phá của tỉnh. Tỷ trọng công nghiệp trong cơ cấu GDP sẽ tăng mạnh từ 18,8% năm 1996 lên 27,1% năm 2000 và phấn đấu tới năm 2010 sẽ đạt 39,0%. Trong công nghiệp, Hà nam sẽ tăng cường đầu tư phát triển công nghiệp vật liệu xây dựng vì đây là ngành công nghiệp chủ lực, có tính mũi nhọn của tỉnh xét về trước mắt cũng như lâu dài. Bên cạnh đó, tỉnh cũng tập trung phát triển các ngành chế biến lương thực ,thực phẩm, công nghiệp dệt, da, may mặc và công nghiệp cơ khí điện tử. Tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu GDP sẽ giảm mạnh, phấn đấu đến năm 2010 tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu GDP chỉ còn chiếm 22%, như vậy sẽ tạo điều kiện cho phát triển nền kinh tế theo hướng CNH- HĐH. Trong trồng trọt, sẽ tập trung phát triển cây ăn quả, cây thực phẩm và cây công nghiệp để bổ trợ cho ngành chế biến lương thực thực phẩm, đồng thời trong chăn nuôi lấy bò, lợn, gia cầm làm vật nuôi chính. Các ngành dịch vụ giữ vai trò ngày càng quan trọng đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội của tỉnh từ nay đến năm 2010. Tỷ trọng của ngành dịch vụ trong cơ cấu GDP tăng từ 31,6% năm 1996 lên 39% năm 2010. Trong ngành dịch vụ thì tỉnh sẽ lấy hai ngành thương mại và du lịch làm cực tăng trưởng . Tóm lại, trong giai đoạn 2001- 2010, để có thể đạt được mục tiêu kinh tế- xã hội như đã trình bày ở trên thì cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh Hà nam sẽ phải chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ đồng thời giảm dần tỷ trọng của nông nghiệp trong cơ cấu GDP để hình thành một cơ cấu kinh tế Công nghiệp- Nông nghiệp -Dịch vụ. Cùng với chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu lao động cũng cần có sự chuyển dịch tương ứng. Phân công lao động xã hội ngày càng tiến bộ hơn, lao động trong ngành nông nghiệp phải được chuyển dần sang hoạt động cho ngành công nghiệp và dịch vụ. Cụ thể lao động trong các ngành sẽ được phân bổ như sau: Biểu 14.Dự kiến cơ cấu lao động của tỉnh Hà nam đến năm 2010. Đơn vị : % . 1996 2000 2010 Tổng số 100 100 100 1.Công nghiệp 4,9 8,5 25,0 2.Nông nghiệp 88,2 75,0 47,0 3.Dịch vụ 6,9 16,5 28,0 Nguồn: Theo quy hoạch phát triển kinh tế xã hội tỉnh Hà nam đến năm 2010. Như vậy, đến năm 2010 dự kiến lao động trong nông nghiệp chỉ còn chiếm 47% tổng số lao động trong nền kinh tế của tỉnh. Lao động trong hai ngành công nghiệp và dịch vụ sẽ tăng lên đáng kể. Phấn đấu từ nay đến năm 2010 sẽ giải quyết thêm việc làm cho 114 nghìn người. Đồng thời năng suất lao động cũng cần phải được nâng cao, sẽ đạt khoảng 1,5 lần vào năm 2000 so với năm 1996, khoảng 2,7 lần vào năm 2010 so với năm 2000. Để xây dựng được một cơ cấu ngành kinh tế như đã trình bày ở trên, trong giai đoạn 2001-2010 cũng cần phải thay đổi lại cơ cấu vốn trong các ngành theo hướng tăng tỷ trọng vốn đầu tư vào hai ngành công nghiệp và dịch vụ, đồng thời giảm tỷ trọng vốn đầu tư vào ngành nông nghiệp. Cụ thể cơ cấu vốn đầu tư đến năm 2010 như sau: Biểu 15. Cơ cấu đầu tư của tỉnh Hà nam thời kỳ 2001-2010. Đơn vị : %. Thời kỳ 1997-2000 Thời kỳ 2001-2010 Tổng số 100 100 1.Công nghiệp 39,3 47,9 2.Nông nghiệp 11,8 5,1 3.Dịch vụ 48,9 47,0 Nguồn: Theo quy hoạch phát triển KT- XH tỉnh Hà nam đến năm 2010 b. Hướng chuyển dịch cho từng ngành. Ngành Công nghiệp. Trong giai đoạn từ nay đến năm 2005, Hà nam cần phát huy lợi thế của mình về nguồn nguyên liệu sẵn có để sản xuất vật liệu xây dựng như xi măng, gạch , ngói, đá xây dựng,...Hà nam cần đầu tư tiếp dây chuyền 2 xi măng Bút Sơn, nâng cao công suất của các cơ sở sản xuất đá xây dựng, các lò gạch, ngói trên địa bàn. Bên cạnh ngành công nghiệp vật liệu xây dựng, trong giai đoạn tới Hà nam cần phát triển công nghiệp chế biến. Có thể coi đây là mũi nhọn phát triển trong giai đoạn từ nay đến năm 2005. Bởi vì ngành công nghiệp chế biến nông sản là ngành hứa hẹn có mức tăng trưởng nhanh, dễ dàng thu hút lao động trong tỉnh. Ngoài ra, Hà nam cũng cần chú trọng phát triển các ngành thủ công nghiệp truyền thống, song song với việc mở rộng các làng nghề mới nhằm từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế nội tỉnh. Các ngành còn lại như dệt may, da giày, cơ khí điện tử, phân bón hoá chất,...cũng vẫn được tạo điều kiện phát triển nhưng ở mức độ quan tâm ít hơn. Sau khi tạo được chuyển biến khá căn bản về cơ cấu kinh tế trong giai đoạn trước, trên cơ sở tích luỹ được kinh nghiệm và vốn qua việc phát triển công nghiệp vật liệu xây dựng và công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm, bước sang giai đoạn 2005- 2010, Hà nam cần tập trung phát triển công nghiệp dệt may da giày, cơ khí điện tử để nâng tỷ trọng của các ngành này lên trong cơ cấu công nghiệp.Dự kiến giai đoạn 2001-2010, vốn đầu tư cho ngành công nghiệp phân bổ như sau: Biểu 16. Cơ cấu vốn đầu tư cho Công nghiệp Hà nam giai đoạn 2001-2010. Ngành sản xuất Giá trị (tỷ đồng) Tỷ trọng ( %) Toàn ngành Công nghiệp 5.300 100 1-CN Vật liệu xây dựng 3.570 67,3 2-CN Chế biến LT - TP 495 9,3 3-CN Cơ khí, điện tử 370 6,9 4- CN Dệt may giày da 370 6,9 5-CN Hoá chất 370 6,9 6- CN khác 125 2,7 Nguồn:Sở Công nghiệp Hà nam. Như vậy, giai đoạn 2001- 2010 Hà nam đầu tư lớn cho hai ngành công nghiệp vật liệu xây dựng và công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm đồ uống vì đó là hai ngành mũi nhọn của tỉnh đến năm 2010. Bên cạnh đó Hà nam cũng đầu tư phát triển các ngành cơ khí, điện tử, dệt may, giày da, phân bón hoá chất và các ngành công nghiệp khác. Cụ thể, hướng phát triển cho từng ngành như sau. Đối với công nghiệp vật liệu xây dựng. Đến năm 2010, công nghiệp vật liệu xây dựng vẫn là ngành trọng điểm của tỉnh vì nó tận dụng được thế mạnh về địa lý, tài nguyên. Trong công nghiệp vật liệu xây dựng sẽ tập trung một số loại vật liệu chủ yếu như xi măng, đá xây dựng, gạch xây, tấm lợp và gạch lát nền. Dự kiến sản lượng của các vật liệu đó đến năm 2010 như sau: Biểu 17. Dự kiến sản lượng một số sản phẩm chủ yếu của ngành vật liệu xây dựng Hà nam. Tên vật liệu xây dựng Đơn vị 2000 2005 2010 1.Xi măng Triệu tấn 1,5 1,7 3,0 2.Đá xây dựng Triệu m3 1,5 3,0 3,5 3.Gạch xây Triệu viên 120 150 170 4.Tấm lợp Triệu m2 1 1 1 5.Gạch lát nền Nghìn m2 - 200 200 Nguồn : Sở Công nghiệp Hà nam Đối với công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm và đồ uống. Đây là một ngành quan trọng vì nó sẽ làm tăng giá trị của ngành sản xuất nông nghiệp. Trong ngành này những lĩnh vực cần tập trung phát triển là Công nghiệp chế biến nông sản như xay xát gạo, Công nghiệp chế biến hoa quả, Công nghiệp chế đồ uống như bia, rượu, nước giải khát, Công nghiệp chế biến thực phẩm. Hướng phát triển của ngành này như sau. Trước mắt, tập trung củng cố nâng cao hiệu quả các cơ sở sản xuất hiện có về xay xát gạo. Bên cạnh đó mở rộng sản xuất nước khoáng không cồn, cơ sở sản xuất bia ở trung tâm các huyện lỵ. Đưa nhà máy bia Phủ Lý thuộc công ty Bia nước giải khát Phủ Lý lên công suất 6 triệu lít/ năm. Trong tương lai sẽ tìm các đối tác liên doanh sản xuất rượu cao cấp, bánh kẹo chất lượng cao tại thị xã Phủ Lý, nghiên cứu chuẩn bị điều kiện đầu tư xí nghiệp chế biến thức ăn gia súc gia cầm, tìm đối tác liên doanh đầu tư xây dựng dây chuyền chế biến nước hoa quả công suất 5000 tấn/ năm, khoảng 50% sản phẩm dùng để xuất khẩu , phục hồi dây chuyền ép dầu lạc và đầu tư chiều sâu để có sản phẩm dầu ăn. Đối với công nghiệp Dệt may, da giày. ở Hà nam nói chung các xí nghiệp may có năng lực nhỏ bé, trừ xí nghiệp 2717 Hà nam có doanh thu năm 1996 là 2.027 triệu đồng, nộp ngân sách 40 triệu đồng, còn các xí nghiệp may 27/7 Duy Tiên, Bình Lục có doanh thu nhỏ từ 100- 200 triệu đồng và hiệu quả kinh doanh lỗ. Do vậy để sản xuất có hiệu quả kinh tế, hoà nhập với ngành tiêu dùng trong cả nước, sản phẩm có khả năng cạnh tranh và xuất khẩu thì nhiệm vụ và phương hướng chung của ngành này là.phải cải tạo, bổ sung sắp xếp các xí nghiệp hiện có, xây dựng các xí nghiệp may, xí nghiệp giày thể thao, giầy da xuất khẩu. Hiện nay, một trong những khó khăn chính là thị trường tiêu thụ sản phẩm không đủ sức cạnh tranh với hàng ngoại nhập vì vậy nhóm ngành này cần được đầu tư công nghệ mới để nâng cao chất lượng sản phẩm. Phấn đấu đến năm 2010 đạt khoảng 9,8 triệu mét vải các loại: 1,6 triệu sản phẩm may sẵn, 80 tấn tơ tằm, 2,5- 3 triệu khăn mặt. Đối với ngành cơ khí điện tử. Phương hướng chung của ngành cơ khí Hà nam là sản xuất các sản phẩm truyền thống với chất lượng mẫu mã quy cách ngày càng tốt hơn, phong phú hơn như máy tuốt lúa, máy bơm, các công cụ phục vụ sản xuất nông nghiệp. Mặt khác, tham gia làm tốt công tác sửa chữa thiết bị máy móc của các cơ sở sản xuất đóng trên địa bàn, tham gia lắp ráp máy canh tác phục vụ nông nghiệp và chế biến thực phẩm, chế tạo sửa chữa máy móc thiết bị chế biến đá, sản xuất bột nhẹ, chế tạo máy móc thiết bị phục vụ vận chuyển giao thông. Đối với ngành điện tử cần xây dựng các cơ sở lắp ráp có dây chuyền thiết bị hiện đại, hoàn chỉnh dây chuyền lắp ráp CKD có trang thiết bị công nghệ kiểm tra tốt để lắp ráp các thiết bị điện tử dân dụng và dần dần hướng tới lắp ráp IKD. Đối với ngành công nghiệp phân bón, hoá chất. Trong giai đoạn 2000- 2005, Hà nam tập trung phát triển các công trình sản xuất phân bón hoá chất tận dụng được nguồn nguyên liệu nội tỉnh, đồng thời lại không đòi hỏi vốn đầu tư lớn, công nghệ ít phức tạp như: Công trình sản xuất bột nhẹ chất lượng cao, cung cấp cho các ngành sản xuất cao su, giấy, gia công nhựa, thuốc đánh răng, ytế, hoá mỹ phẩm,... ;Công trình sản xuất phân hỗn hợp NPK chất lượng cao có công suất từ 100.000- 300.000 tấn / năm cung cấp cho sản xuất nông nghiệp trong vùng, ngoài ra còn tận dụng nguồn than bùn lớn để sản xuất phân vi sinh với công suất 5.000 tấn / năm ; Công trình sản xuất ống nhựa dẫn nước và các sản phẩm nhựa dân dụng công suất 1000- 2000 tấn / năm phục vụ cho nhu cầu dân dụng và xây dựng. Ngoài ra còn công trình sản xuất bao xi măng, vỏ bao bì nông sản. Trong giai đoạn 2006- 2010, sau thời gian tập trung phát triển các ngành hoá chất nói trên, Hà nam cần tiến tới phát triển các ngành hoá chất hiện đại như sản xuất sôđa Na2CO3 quy mô 100 nghìn tấn/ năm cung cấp cho các ngành thuỷ tinh, kính, bột giặt,...các công trình sản xuất phân vi sinh công suất 500 nghìn tấn/ năm, công trình sản xuất vật liệu chịu lửa công suất 15- 20 nghìn tấn/ năm. Để đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp từ nay đến năm 2010, Hà nam cần xây dựng các khu, cụm công nghiệp tập trung như: - Cụm công nghiệp phía Tây sông Đáy gồm hai cụm là cụm Bút Sơn- Kim Bảng bao gồm các cơ sở khai thác, chế biến đá và sản xuất vật liệu xây dựng như xi măng, bê tông tươi, cấu kiện bê tông đúc sẵn, bê tông tấm lớn, bê tông ly tâm các loại..Cụm Kiện Khê gồm các cơ sở sản xuất chế biến đá, sản xuất xi măng, hoá chất bột nhẹ, vôi củ, vôi nghiền,... - Cụm công nghiệp thị xã Phủ Lý và vùng phụ cận bao gồm các cơ sở sản xuất hàng tiêu dùng như bánh kẹo, nước giải khát ,bia, rượu, các hàng may mặc, giày thể thao, giầy da tiêu thụ nội địa và xuất khẩu, các cơ sở sản xuất mặt hàng cơ khí, trung tâm thương mại, dịch vụ. - Khu công nghiệp Đồng Văn dành riêng cho công nghiệp chế biến nông sản, chế biến thức ăn gia súc gia cầm, các cơ sở chế biến nông sản như tinh bột cà chua, khoai lang khoai tây, đồ hộp xuất khẩu, thực phẩm đông lạnh,... - Cụm công nghiệp dọc đường quốc lộ 1A, 21A, 21B, quốc lộ 38 bố trí các cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng như gạch không nung, tấm lợp, gạch trang trí, gạch lát nền, các sản phẩm từ xi măng: bê tông tươi, bê tông đúc sẵn và các cơ sở chế biến nông sản, thức ăn gia súc, dệt may xuất khẩu, thêu ren thảm len, thảm đay xuất khẩu. Tóm lại, xu hướng chung cho chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp của Hà nam giai đoạn 2001-2010 là tăng dần tỷ trọng của các ngành công nghiệp sử dụng nguyên liệu nhập ngoài như cơ khí điện tử, dệt may,...và giảm dần tỷ trọng của các ngành sử dụng nguyên liệu tại chỗ như công nghiệp vật liệu xây dựng, công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm, đồ uống,... Ngành Nông nghiệp. Phát triển nhanh sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá đạt hiệu quả cao, góp phần quan trọng vào sự tăng trưởng chung của nền kinh tế địa phương và nuôi sống được nhiều nhân khẩu nhất. Phát triển nông nghiệp đặt trong mối quan hệ hữu cơ với các ngành hoặc lĩnh vực khác của tỉnh, đặc biệt gắn chặt nông nghiệp với công nghiệp chế biến, gắn nông nghiệp với chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong nông thôn. Khuyến khích nông dân làm giàu thông qua việc khai thác sử dụng hiệu quả đất đai, phát triển mạnh ngành nghề, dịch vụ ở nông thôn, tạo thêm việc làm và thu nhập cho nông dân, giảm bớt hộ nông nghiệp thuần nông, tăng nhanh số hộ nông dân kiêm các ngành nghề, dịch vụ. Tóm lại, trong giai đoạn 2001- 2010, cùng với quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế chung, trong ngành nông nghiệp của tỉnh Hà nam cũng có sự chuyển dịch tương ứng theo xu hướng tăng tỷ trọng của ngành chăn nuôi, giảm tỷ trọng của ngành trồng trọt. Dự kiến cơ cấu nông nghiệp của tỉnh Hà nam đến năm 2010 như sau. Biểu 18. Cơ cấu và tốc độ tăng trưởng ngành nông nghiệp tỉnh Hà nam đến năm 2010. Đơn vị :%. 1997 2000 2010 Tốc độ phát triển 1997-2000 2001-2010 Tổng số 100 100 100 4,7 2,5 -Trồng trọt 74,2 70,0 60,0 4,6 2,2 -Chăn nuôi 25,8 30,0 40,0 7,5 6,5 Nguồn: Sở Nông nghiệp tỉnh Hà nam. Như vậy, tỷ trọng của ngành trồng trọt sẽ có xu hướng giảm từ 74,2% năm 1997 xuống còn 60% năm 2010 và tỷ trọng của ngành chăn nuôi và dịch vụ sẽ tăng từ 25,8% năm 1997 lên 40% vào năm 2010. Trong từng ngành trồng trọt và chăn nuôi cũng cần có sự chuyển dịch phù hợp. Hướng chuyển dịch cơ cấu ngành Trồng trọt. Đẩy mạnh phát triển ngành trồng trọt trên cơ sở sử dụng có hiệu quả cao nhất diện tích đất nông nghiệp, sao cho trên một diện tích đất nông nghiệp tạo ra được nhiều giá trị nhất, tỷ suất hàng hoá cao nhất và nuôi sống được nhiều người nhất. Muốn đảm bảo yêu cầu trên trước hết phải thay đổi lại cơ cấu sử dụng đất nông nghiệp. Trong giai đoạn 2001- 2010, tỉnh sẽ tập trung chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất nông nghiệp theo hướng ổn định, sản xuất lương thực là trọng tâm của trồng trọt nhưng phải giảm dần diện tích cây lương thực ở những nơi có năng suất thấp, bấp bênh kém hiệu quả so với cây con khác. Mặt khác tăng diện tích cây rau đậu thực phẩm, cây ăn quả, cây công nghiệp và cây con có giá trị kinh tế cao hơn. Cụ thể sự thay đổi cơ cấu sử dụng đất nông nghiệp được biểu hiện như sau: Biểu 19. Dự kiến cơ cấu sử dụng đất trồng trọt của tỉnh Hà nam đến năm 2010 Đơn vị:% 1997 2000 2010 Tổng số 100 100 100 1.Cây lương thực 87,7 85,5 82,5 2.Cây thực phẩm 3,1 3,7 4,5 3.Cây ăn quả 3,8 5,0 7,0 4.Cây công nghiệp 4,0 4,2 4,5 5.Cây khác 1,4 1,3 1,5 Nguồn: Sở Nông nghiệp Hà nam Cùng với thay đổi cơ cấu sử dụng đất cũng cần phải bố trí lại cơ cấu giống cây trồng cho phù hợp đi đôi với cải tiến chất lượng giống theo hướng đưa vào các giống cây có năng suất cao phù hợp với điều kiện tự nhiên và tập quán canh tác của từng vùng, trên cơ sở được thị trường chấp nhận nhằm đạt giá trị kinh tế cao nhất. Trong từng loại cây trồng cũng có sự chuyển dịch cơ cấu nhất định. Cây lương thực chính của Hà nam vẫn là cây lúa, ngoài ra còn có các cây ngô, khoai, sắn. Phương hướng chính là thâm canh tăng năng suất, phát triển các vùng sản xuất lương thực có giá trị cao.Đến năm 2010 nhu cầu lương thực tại chỗ khoảng 400- 420 nghìn tấn.. Cây lương thực vẫn được quan tâm phát triển, nhất là tăng diện tích làm vụ đông để đáp ứng nhu cầu tại chỗ và tham gia thị trường bên ngoài, tạo nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Cây ăn quả là cây có giá trị kinh tế cao, Hà nam đã xác định được cây ăn quả chính là cam, quýt, bưởi, nhãn, vải, xoài.Trong giai đoạn tới cần cải tạo vườn tạp, quy hoạch vùng cây ăn quả tập trung, khai thác vùng đất đồi, đất bãi ven sông để trồng cây ăn quả. Đối với cây công nghiệp cần tập trung phát triển các cây lạc, đỗ tương, đay, mía, đó là những cây công nghiệp ngắn ngày cho giá trị kinh tế cao. Cây thực phẩm cần được quy hoạch thành vùng rau sạch tập trung phục vụ cho khu đô thị và xuất khẩu, đồng thời phát triển các cây dưa chuột, tỏi, cà chua, cà rốt, hành tây để cung cấp cho ngành chế biến thực phẩm xuất khẩu. Như vậy, giai đoạn 2001- 2010, cơ cấu ngành trồng trọt sẽ thay đổi theo hướng chuyển sang phát triển các cây thực phẩm, cây ăn quả, cây công nghiệp là những cây cho giá trị kinh tế cao. Hướng chuyển dịch cơ cấu ngành chăn nuôi. Chăn nuôi cần được chú trọng phát triển, tỷ trọng chăn nuôi trong nông nghiệp từ 25% hiện nay cần được nâng lên thành 35- 40 % vào năm 2010. Trong thời kỳ 2001-2010, Hà nam cần tập trung phát triển các loại vật nuôi vừa tạo nguồn phân bón, kết hợp tận dụng sản phẩm thừa của ngành trồng trọt, chuyển dần chăn nuôi từ dạng truyền thống sang chăn nuôi theo kiểu công nghiệp. Trong chiến lược phát triển ngành chăn nuôi, Hà nam cần tập chung phát triển các loại vật nuôi chính là trâu, bò, dê, lợn và gia cầm. Phát triển nuôi lợn là hướng chủ yếu, phải chú trọng cả hai mặt tăng nhanh đàn lợn, trọng lượng lợn xuất chuồng bình quân và chất lượng thịt hàng hoá. Phấn đấu đến năm 2010 đảm bảo cho nhu cầu tiêu dùng thịt lợn tại địa phương và tham gia khoảng 5% vào thị trường thịt của các đô thị Bắc bộ. Như vậy đến năm 2010 đàn lợn phải có khoảng 400 nghìn con. Chăn nuôi gia cầm là hướng phát triển quan trọng để tăng sản lượng thịt phục vụ cho nhu cầu tại chỗ, thị trường trong nước và tham gia xuất khẩu. Đến năm 2010 chỉ cần 20% nhu cầu sử dụng thịt là thịt gia cầm thì đàn gia cầm phải có7,5- 8 triệu con, trung bình mỗi hộ nông dân phải nuôi 40- 45 nghìn con gia cầm một năm. Do vậy, việc chuyển hướng chăn nuôi gia cầm sang kiểu chăn nuôi công nghiệp là rất cần thiết.Trong đàn gia cầm thì xác định gà là con gia cầm chính. Đối với đàn gia súc như trâu, bò, dê cần được duy trì và phát triển cả về số lượng và chất lượng sản phẩm. Phấn đấu đến năm 2010, đàn trâu bò có từ 40- 45 nghìn con, đàn dê có từ 25- 30 nghìn con. Biểu 20. Dự kiến số lượng vật nuôi của tỉnh Hà nam đến năm 2010. Vật nuôi Đơn vị 1997 2010 Trâu, bò Dê Lợn Gia cầm Nghìn con ,, ,, ,, 32,7 - 245,9 1.966,7 40- 45 25- 30 400 7.500 Nguồn :Quy hoạch phát triển KT- XH tỉnh Hà nam đến năm 2010. Trong kế hoạch phát triển ngành chăn nuôi đến năm 2010, cần nghiên cứu chuyển những vùng đất trũng, khu vực hồ, đầm chưa khai thác, vùng sản xuất lương thực bấp bênh sang nuôi trồng thuỷ sản như cá, tôm, và các con đặc sản khác. Ngành dịch vụ. Các ngành thuộc khối ngành dịch vụ giữ vai trò ngày càng quan trọng đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội của tỉnh trong giai đoạn đến năm 2010 và những năm tiếp theo. Tỷ trọng khối ngành dịch vụ trong GDP sẽ tăng từ 31,6% năm 1996 lên khoảng 39-40% vào năm 2010. Trong ngành dịch vụ xu hướng sẽ tăng tỷ trọng của ngành thương mại và du lịch trong cơ cấu GDP ngành Dịch vụ. Hướng chuyển dịch ngành Thương mại. Phát triển ngành thương mại là một khâu rất quan trọng đảm bảo cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hoá. Do vậy từ nay đến năm 2010 cần phải gắn sự phát triển ngành thương mại dịch vụ của tỉnh với sự phát triển của các ngành kinh tế khác và sự phát triển chung về kinh tế xã hội của địa phương cũng như vùng Bắc bộ và cả nước. Thị trường thương mại phải được mở rộng trên cơ sở phát huy các lợi thế của địa phương, đa dạng hoá các thành phần kinh tế tham gia các hoạt động thương mại. Đối với hoạt động nội thương phải đảm bảo đầu ra cho những sản phẩm chủ lực của tỉnh như xi măng, đá xây dựng, gạch, nông sản chế biến, lương thực, thịt, hoa quả,..Mặt khác đảm bảo cung ứng kịp thời, đầy đủ yêu cầu về vật tư cho sản xuất, hàng tiêu dùng cho nhân dân. Đối với hoạt động ngoại thương cần tăng cường hoạt động xuất nhập khẩu, phấn đấu đưa kim ngạch xuất khẩu đạt tỷ lệ 7- 8% so với GDP vào năm 2010, nhịp độ tăng trưởng bình quân thời kỳ 2001-2010 đạt 18- 20 %/ năm. Hoạt động xuất khẩu có sự thay đổi theo hướng tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp dệt may, da giày, vật liệu xây dựng, thủ công mỹ nghệ, hàng điện tử và một số hàng khác, đồng thời giảm tỷ trọng xuất khẩu hàng nông sản thô. Cụ thể cơ cấu hàng xuất khẩu đến năm 2010 như sau: Biểu 21. Dự kiến cơ cấu hàng xuất khẩu đến năm 2010. Đơn vị %. Nhóm sản phẩm Tỷ trọng xuất khẩu Hàng nông, lâm, thuỷ sản chế biến Hàng dệt may, da giày, VLXD Hàng điện tử 50-60 30-35 5-10 Nguồn :Quy hoạch phát triển Thương mại- Dịch vụ Hà nam đến năm 2010 Về nhập khẩu, trước mắt cần nhập một số dây chuyền thiết bị máy chế biến nông sản, còn lại nhập một phần vật tư chiến lược phục vụ sản xuất như phân bón thuốc trừ sâu, sắt thép và một phần hàng tiêu dùng thiết yếu mà tỉnh không sản xuất. Hướng chuyển dịch ngành Du lịch. Du lịch Hà nam sẽ được phát triển trên cơ sở tiềm năng và lợi thế của địa phương, đó là du lịch quá cảnh, tham quan, lễ hội, tín ngưỡng, du lịch sinh thái,.. Hà nam xác định khách du lịch trong nước làm đối tượng phục vụ chính. Từ nay đến năm 2010 phấn đấu thu hút khách quốc tế đến Hà nam tăng ở mức khoảng 20%/ năm, khách du lịch nội địa trên 20%/ năm, ngày lưu trú trung bình của khách khoảng 1,8- 1,9 ngày vào năm 2010. Để thu hút thêm nhiều khách du lịch đến Hà Nam trong thời gian tới cần phải phát triển không gian du lịch hợp lý theo các hướng: Hướng Tây gắn trung tâm tỉnh với huyện Kim Bảng và khu du lịch Hương Sơn (Hà Tây); Hướng Đông- Đông Bắc gắn với lễ hội như Đọi Sơn, đền Lảnh, đền Trần Thương và vùng du lịch sinh thái ven sông Hồng, sông Châu. Đồng thời phát triển kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất chuyên ngành, các điểm vui chơi giải trí, thể thao, nghỉ ngơi cuối tuần, phương tiện vận chuyển, dịch vụ bán hàng lưu niệm,...Việc đầu tư không đúng hướng hoặc không đồng bộ cũng làm ảnh hưởng đến sự phát triển của ngành du lịch. Tóm lại, phấn đấu đến năm 2010 sẽ đưa du lịch Hà Nam phát triển mạnh để có thể góp phần tăng tỷ trọng của ngành dịch vụ trong cơ cấu GDP của tỉnh. Dự kiến năm 2010, doanh thu từ du lịch đạt 7.400.000 đôla. Biểu 22. Dự kiến doanh thu từ du lịch đến năm 2010 Đơn vị tính: nghìn USD Doanh thu 2000 2010 Từ khách du lịch quốc tế 70 900 Từ khách du lịch trong nước 1.250 6.500 Cộng 1.320 7.400 Nguồn : Sở Thương mại- Dịch vụ Hà nam. Hướng chuyển dịch các ngành dịch vụ khác: Đối với hoạt động tài chính ngân hàng, phấn đấu tăng thu ngân sách, cả giai đoạn từ nay đến năm 2010 đạt khoảng 17%/ năm so với GDP. Vì vậy, từ nay đến năm 2010 ngành này cần phải: Thứ nhất, tăng cường tạo các nguồn thu trên cơ sở khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh dịch vụ. Thứ hai, phải tạo được thị trường vốn thông qua các hình thức thu hút vốn còn nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư, tổ chức kinh tế, mở rộng các điểm cho vay vốn. Thứ ba, mở rộng các hình thức bảo hiểm, tư vấn đầu tư, giảm các thủ tục phiền hà không cần thiết để thu hút được nhiều vốn đầu tư. Trong lĩnh vực vận tải, bưu chính viễn thông,Hà Nam cần phải mở rộng quy mô và phạm vi cả vận tải liên tỉnh và nội tỉnh, đáp ứng nhu cầu về lưu thông cho hàng hoá và đi lại của nhân dân, cho khách du lịch. Phát triển dịch vụ vận tải trên cả ba loại đường là đường sắt, đường bộ và đường sông, trong đó chú trọng phát triển tốt vận tải đường bộ. Ngoài ra phải đầu tư các trang thiết bị vận chuyển hiện đại, các phương tiện bốc dỡ, xây dựng kho tàng bến bãi theo quy hoạch của tỉnh. Đối với dịch vụ bưu chính viễn thông cần phát triển thông tin nội tỉnh, nội huyện cũng như mở rộng viễn thông ra các tỉnh và quốc tế để đáp ứng nhu cầu cho sự phát triển và đời sống nhân dân. Ngoài ra cần phát triển tổng hợp các dịch vụ tiếp thị, chuyển giao công nghệ, sửa chữa dân dụng và phát triển mạnh dịch vụ ăn uống, dịch vụ văn hoá nghệ thuật, thẩm mỹ. II. Giải pháp chủ yếu để đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh Hà Nam giai đoạn 2001-2010. 1- Giải pháp. a. Về tổ chức không gian kinh tế xã hội. Để thực hiện định hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh Hà Nam trước hết phải tổ chức hợp lý không gian kinh tế xã hội của tỉnh bởi vì trên cơ sở không gian kinh tế xã hội sẽ tổ chức không gian các ngành. Vì vậy tổ chức không gian kinh tế xã hội là một giải pháp cần thiết để đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh. Thứ nhất, cần tổ chức phát triển chuyên môn hoá theo 3 tiểu vùng. Tiểu vùng phía Tây sông Đáy bao gồm phần lãnh thổ của các huyện Kim Bảng và Thanh Liêm nằm về phía Tây sông Đáy sẽ hình thành vùng sản xuất công nghiệp vật liệu xây dựng; các cụm du lịch; vùng sản xuất cây ăn quả như vải, na, hồng..., vùng chăn nuôi đặc sản như bò, dê, chim, ong...; gắn với phát triển kinh tế xã hội các xã miền núi. Tiểu vùng phía Đông sông Đáy bao gồm phần lãnh thổ của thị xã Phủ Lý, huyện Lý Nhân, Bình Lục, Kim Bảng và Thanh Liêm nằm về phía Đông sông Đáy có chức năng chuyên môn hóa như trung tâm công nghiệp, thương mại của toàn tỉnh; sản xuất lúa và cây lương thực, vùng chăn nuôi lợn, cá, gia cầm; vùng sản xuất rau quả, cây cảnh; vùng chế biến nông sản. Tiểu vùng ven sông Hồng bao gồm phần lãnh thổ của các huyện Duy Tiên, Lý Nhân có chức năng chính là vùng sản xuất lúa; trồng cây ăn quả, cây cảnh, trồng rau màu và cây công nghiệp ngắn ngày; chăn nuôi lợn, gia cầm, nuôi cá; phát triển du lịch sinh thái. Thứ hai, cần quy hoạch sử dụng đất. Sử dụng đất một cách hợp lý, có quy hoạch là vấn đề có ý nghĩa chiến lược. Những đối tượng chính phải được quản lý tốt bao gồm đất phát triển đô thị, đất khu công nghiệp, đất thổ cư và xây dựng ở nông thôn, đất giao thông, đất thuỷ lợi, đất nông lâm nghiệp,... Biểu 23 Dự kiến cơ cấu sử dụng đất của tỉnh Hà Nam đến năm 2010. Đơn vị : %. 1996 2000 2010 Tổng diện tích đất tự nhiên 100 100 100 Đất đô thị 2,9 3,1 4,6 Đất thổ cư nông thôn 3,5 5,0 5,1 Đất đường giao thông 3,3 4,6 6,0 Đất nông- lâm nghiệp 70,4 71,2 69,8 Đất không bố trí kinh tế 14,1 14,1 14,1 Đất mục đích khác và chưa sử dụng 5,8 2,0 0,4 Nguồn: Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội Hà nam đến năm 2010. Từ nay đến năm 2010 cần phải tăng cường và mở rộng diện tích đất cho khu đô thị, đất cho giao thông và thu hẹp diện tích đất nông lâm nghiệp, đưa thêm diện tích đất vào sử dụng. Thứ ba, cần quy hoạch phát triển đô thị Trong tương lai, thị xã Phủ Lý sẽ được nâng cấp lên thành cấp thành phố. Là đô thị tỉnh lỵ, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa giáo dục của tỉnh Hà Nam; Là đô thị cửa ngõ phía Nam của thủ đô Hà Nội. Chức năng kinh tế quan trọng của thành phố trong tương lai là vệ tinh của thủ đô Hà Nội về công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ du lịch. Thị xã Phủ Lý cần được mở rộng và được quy hoạch theo các khu chức năng chính như khu trung tâm chính trị, khu trung tâm văn hoá thể dục thể thao, khu trung tâm dịch vụ thương mại, khu trung tâm du lịch và dịch vụ nghỉ ngơi, khu trung tâm giáo dục và đào tạo, khu công nghiệp kho tàng, các khu dân cư phía Đông thị xã rộng 307 ha, khu vực xã Phù Vân ở phía Bắc thị xã rộng 90 ha, khu vực phía Tây thị xã rộng 264 ha. Toàn thị xã sẽ có 2 công viên lớn và 6 công viên nhỏ phân bố đều ở các khu vực. Ngoài ra sẽ phát triển các đô thị trung tâm huyện lỵ và khoảng trên 100 trung tâm xã, cụm kinh tế - kỹ thuật. Thứ tư, cần phát triển khu vực nông thôn Mục tiêu đến năm 2010 sẽ giảm tỷ lệ dân số ở khu vực nông thôn xuống còn 70% so với dân số toàn tỉnh. Mặt khác, chú trọng phát triển nông thôn các xã miền núi thuộc hại huyện Thanh Liêm và Kim Bảng. Ưu tiên cho khu vực này trước hết là xây dựng kết cấu hạ tầng, nâng cao dân trí, giáo dục nghề nghiệp, chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân. b. Về phát triển kết cấu hạ tầng Muốn đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh Hà Nam, phải ưu tiên phát triển kết cấu hạ tầng. Bởi vì kết cấu hạ tầng phát triển nó sẽ tạo nền tảng cho sự phát triển của các ngành và các lĩnh vực khác. Trong điều kiện một tỉnh mới được tái lập như Hà Nam, kết cấu hạ tầng còn rất yếu kém, trong giai đoạn trước mắt cần phải tập trung xây dựng những lĩnh vực chủ yếu như: giao thông, thuỷ lợi, điện, bưu chính viễn thông, công trình công cộng,... để tạo đà cho bước phát triển mới trong giai đoạn tiếp theo. Cụ thể cần phải phát triển những lĩnh vực sau: Phát triển mạng lưới giao thông Phát triển giao thông vận tải tạo thuận lợi cho giao lưu, thu hút đầu tư trong và ngoài tỉnh, thúc đẩy xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển kinh tế- xã hội. Do vậy, mạng lưới giao thông vận tải cần được ưu tiên phát triển và đi trước một bước. Về đường sắt, hệ thống đường sắt đi qua tỉnh Hà Nam có 32km thuộc đường sắt xuyên Bắc- Nam và 10 km đường sắt chuyên dùng; 4 ga hàng hoá- hành khách và một ga chuyên dùng nhưng đều là các ga nhỏ. Trong thời gian tới hệ thống đường sắt trên địa phận tỉnh được sắp xếp theo quy hoạch phát triển chung của ngành đường sắt. Tuy nhiên về lâu dài cần chuyển đường sắt theo đường vành đai phía Đông thị xã, phát triển đường sắt vào khu vực vật liệu xây dựng phía Tây, chuyển ga Phủ Lý thành ga đầu mối hàng hoá và hành khách trên cơ sở xem xét phương án chuyển đến địa điểm mới, tạo điều kiện phát triển kết cấu hạ tầng thị xã. Về đường bộ, hệ thống đường bộ của Hà Nam phát triển rất sớm và khá hoàn chỉnh về mạng lưới. Quốc lộ có 4 tuyến (1A, 21A, 21B, 38A) với chiều dài 95 km. Đường tỉnh có 12 tuyến với chiều dài 170km. Đường giao thông nông thôn có chiều dài hơn 4.000km. Mặc dù mạng lưới đường bộ phát triển nhưng các trục đường chính đều hình thành trong các năm 60,70. Đến nay qua sử dụng lâu dài chưa đầu tư nâng cấp kịp thời nên chất lượng kém, không đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế xã hội. Mặt khác hệ thống đường bộ chưa được khép kín, liên hoàn do một số cầu chưa được xây dựng như Câu Tử, Khả Phong, Bồng Lạng. Hệ thống đường bộ tỉnh phấn đấu đến năm 2010 cần được nhựa hoá toàn bộ, 70% đường tỉnh đạt cấp III đồng bằng, 30% đạt cấp IV đồng bằng. Khép kín mạng lưới đường tỉnh với các trục quốc lộ như cầuYên Lệnh, cầu Ba Đa và của tuyến đường tỉnh như Cầu Từ, Khả Phong, Bồng Lạng,... Phát triển các tuyến giao thông nội thị theo quy hoạch của thị xã Phủ Lý và các khu công nghiệp. Mục tiêu đến năm 2010 là nhựa hoá toàn bộ đường liên huyện và liên xã, bê tông hoá toàn bộ đường làng và ngõ xóm, đường ra đồng được rải đá cấp phối. Về đường sông, hệ thống đường sông của Hà Nam phong phú và trải đều trên địa bàn tỉnh với hơn 200 km, trong đó có gần 100 km thuộc hai sông lớn là sông Hồng và sông Đáy. Các sông khác được phân bố ở hầu hết các địa phương thuộc tỉnh nhưng tác dụng phục vụ vận tải hạn chế bởi vướng các đập, cống,...Đến nay Hà Nam vẫn chưa có cảng sông chính thức, chỉ có cảng chuyên dùng thuộc một số nhà máy, doanh nghiệp quản lý. Hệ thống bến bãi đường sông đa số là phát triển tự nhiên. Vì vậy, trong giai đoạn đến năm 2010 phải đảm bảo thông tất cả các đường sông, đặc biệt là sông Châu để nối với sông Hồng và sông Đáy, tạo thành mạng lưới đường thuỷ khép kín liên hoàn để phát triển nông nghiệp, du lịch, thuỷ sản. Hai hệ thống sông Hồng sông Đáy đảm bảo an toàn cho thuyền có trọng tải 500- 1000 tấn hoạt động. Xây dựng cảng sông để phục vụ yêu cầu vận chuyển, xếp dỡ hàng hoá như cảng Như Trác, cảng Đọ Xá . Phát triển mạng lưới bưu chính viễn thông Từ năm 1990 đến nay, nhất là từ khi tái lập tỉnh, mạng lưới bưu chính viễn thông được phát triển rất nhanh. Năm 1999 số máy điện thoại tăng gấp 3 lần so với năm 1996, đưa số máy bình quân lên 1 chiếc/100 dân. Cơ sở vật chất của ngành bưu chính viễn thông tăng gần 10 lần với thiết bị hiện đại từ khu vực trung tâm đến các bưu cục, chất lượng phục vụ được nâng cao. Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu thông tin nhanh nhạy, kịp thời, chính xác nhất là thông tin về kinh tế và nâng cao dân trí ở mức cao thì mạng bưu chính viễn thông cần tiếp tục được đầu tư phát triển nhanh theo hướng đảm bảo thông tin thông suốt, nhanh từ tỉnh đến các huyện, xã và đến các nơi trong nước và quốc tế. Đến năm 2010, phát triển mạng lưới bưu điện- văn hoá đạt bán kính 2 -3 km. Hiện đại hoá và đa dạng hoá các dịch vụ bưu chính viễn thông, phấn đấu đến năm 2010 đạt mức trung bình của cả nước về số máy điện thoại bình quân đầu người. áp dụng nhanh chóng các thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến để phát triển mạng lưới bưu chính viễn thông. Phát triển mạng lưới điện Để cung cấp đủ điện cho sản xuất và sinh hoạt, đến năm 2010 bình quân điện tiêu thụ đạt khoảng 1300kw/người, thì Hà Nam cần cải tạo khoảng 391 km đường dây từ 6-10 kv thành 20 kv và xây mới khoảng 305 km đường dây 20 kv. Phát triển hệ thống công trình công cộng Trải qua hai cuộc chiến tranh, lại chưa được đầu tư đúng mức qua các năm trước đây nên hệ thống công trình công cộng ở khu trung tâm tỉnh, các huyện đều xuống cấp và gần như phải xây dựng lại từ đầu. Đối với hệ thống giao thông khu trung tâm tỉnh cần phát triển theo hướng kết hợp cải tạo, nâng cấp với xây dựng tuyến mới ở khu đô thị cũ, tạo nên hệ thống liên hoàn theo quy hoạch chung; lấy sông Đáy làm trục để mở các tuyến song song và tuyến Đông Tây ở khu đô thị mới, tạo nên các khu đô thị mới hoàn chỉnh, khang trang. Đối với hệ thống thoát nước, phải tăng cường các biện pháp phòng chống lũ lụt bằng cách nâng cấp hệ thống đê, kè sông; xây dựng một số trạm bơm tiêu cho khu vực thị xã để đảm bảo tiêu thoát nước mưa. Kết hợp xây dựng các hồ điều hoà nước với xây dựng các công trình văn hoá, công viên cây xanh, nâng cấp hệ thống thoát nước thị xã theo quy hoạch chung. Đối với hệ thống cấp nước, hiện nay nhà máy khu vực thị xã Phủ Lý được nâng công suất lên 10.000m3/ ngày đêm, nhưng hệ thống đường ống phân phối nước chưa hoàn chỉnh. Phấn đấu đến năm 2005 xây dựng nhà máy nước phía Tây sông Đáy có công suất 15.000 m3/ ngày đêm, hoàn chỉnh hệ thống đường ống phân phối nước, đảm bảo 100% hộ dân dùng nước máy có chất lượng tốt. Đến năm 2010, cần nâng công suất nhà máy nước lên 35- 40 ngàn m3/ ngày đêm nhằm đảm bảo nhu cầu nước sạch cho sinh hoạt và sản xuất chế biến. Xây dựng hệ thống cấp nước sạch cho khu trung tâm huyện, khu đông dân cư, các xã. c.Về các chính sách. Huy động và sử dụng vốn. Huy động vốn. Để thực hiện chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế giai đoạn 2001- 2010, Hà Nam cần khoảng 14.530 tỷ đồng, khoảng 1.614 tỷ đồng bình quân 1 năm, tức là tỷ lệ đầu tư phát triển trên GDP là 31-32%. Để đáp ứng được yêu cầu đầu tư như trên cần phải có biện pháp huy động vốn một cách tích cực, tập trung vào các nguồn vốn chủ yếu sau: Trước hết là nguồn vốn tại chỗ hay còn gọi là nguồn vốn trong dân của tỉnh Hà Nam. Nguồn vốn này ước tính vào khoảng 20% GDP toàn tỉnh. Để huy động nguồn vốn trôi nổi trong dân chúng không có biện pháp nào hiệu quả hơn là khuyến khích người dân mạnh dạn, tự giác đầu tư vào các cơ sở sản xuất kinh doanh. Đồng thời tỉnh cũng cần có kế hoạch phối hợp nhiều hộ gia đình hình thành những tập đoàn hay tổ hợp sản xuất để tạo ra quy mô lớn về vốn, tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Bên cạnh đó, Hà Nam cũng có thể huy động qua con đường gián tiếp là qua các ngân hàng. Tuy nhiên biện pháp huy động của dân qua các ngân hàng sẽ gây chi phí cao, thủ tục rườm rà. Nguồn vốn quan trọng thứ hai là là nguồn vốn từ Ngân sách. Thực tế hiện nay, ngân sách Hà Nam không có tích luỹ dành cho đầu tư hoặc nếu có thì quá ít vì chi thường xuyên đã vượt quá khả năng nguồn thu ngân sách trên địa bàn, do vậy việc đầu tư xây dựng cơ bản chủ yếu dựa vào ngân sách trung ương cấp. Chính vì thế nguồn vốn đưa vào đầu tư phát triển của tỉnh thời gian qua chủ yếu là nguồn vốn tín dụng. Trong số đó, hơn 50% vốn vay là nguồn vốn ưu đãi, hơn 30% là nguồn vốn tín dụng thương mại. Ngoài các nguồn vốn trên, tỉnh Hà Nam cần hết sức chú trọng đến nguồn vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là nguồn vốn FDI. Hiện nay Hà Nam mới chỉ có 3 dự án đầu tư nước ngoài với tổng số vốn đạt 6.912.000 USD. Các dự án trên hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp nhẹ sản xuất thiết bị chiếu sáng, công nghiệp thực phẩm sản xuất rượu trắng và trong lĩnh vực y tế sản xuất thuốc tân dược. đối tác nước ngoài của cả 3 dự án trên đều là Trung Quốc. So với tình hình thu hút vốn FDI của các tỉnh và cả nước thì Hà Nam nằm trong số các tỉnh thu hút vốn nước ngoài ít nhất, chiếm 1,4% vốn đăng ký và vốn thực hiện. Vì vậy trong thời gian tới để huy động nguồn vốn nước ngoài này, trước tiên cần thống nhất quan điểm của cấp lãnh đạo tỉnh về vai trò và tầm quan trọng của nguồn vốn này trong bối cảnh nguồn vốn của tỉnh và Ngân sách Nhà nước cấp còn quá hạn hẹp. Hà nam cần tích cực nâng cấp và cải tạo kết cấu hạ tầng bằng cách tích cực gọi vốn ODA,BOT,... làm tiền đề cho việc kêu gọi FDI. Chỉ có một môi trường đầu tư hấp dẫn với kết cấu hạ tầng phát triển mới là nền tảng để FDI phát huy hết tác dụng của nó. Riêng đối với khu công nghiệp Đồng Văn, tỉnh Hà Nam phải huy động vốn để xây dựng kết cấu hạ tầng giai đoạn 1. Sử dụng vốn Hà Nam cần điều chỉnh chính sách đầu tư theo hướng đầu tư có trọng điểm,tránh tràn lan. Hướng ưu tiên là đầu tư cho xây dựng kết cấu hạ tầng và đầu tư cho các ngành trọng điểm, mũi nhọn. Đối với công nghiệp, đầu tư cho sản xuất xi măng, khai thác đá, vật liệu xây dựng nung và không nung, gia công may mặc, lắp ráp cơ khí, điện tử , chế biến thực phẩm. Đối với nông nghiệp, đầu tư cho sản xuất lúa ngô, cây ăn quả, con đặc sản, nuôi lợn, gia cầm hàng hóa. Đối với dịch vụ, đầu tư xây dựng khu và trung tâm du lịch, trung tâm thương mại, hiện đại hoá hệ thống ngân hàng tín dụng. Đối với kết cấu hạ tầng, đầu tư xây dựng trục giao thông huyết mạch, cấp nước sạch, hiện đại hoá thông tin liên lạc, hệ thống thuỷ lợi. Hơn nữa cần phải chuyển hướng mạnh mẽ đầu tư theo chiều rộng sang đầu tư theo chiều sâu trong tất cả các ngành kinh tế, đưa nhanh tiến bộ kỹ thuật mới và thiết bị máy móc mới vào sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và nước ngoài. Đẩy mạnh đào tạo, nâng cao chất lượng, điều chỉnh cơ cấu đào tạo nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực của Hà Nam hiện đang bất cập so với yêu cầu phát triển. Tuy có nguồn lao động dồi dào nhưng lao động phổ thông chưa được đào tạo nghề nghiệp là phổ biến và thiếu lao động kỹ thuật, nhất là lao động kỹ thuật cao. Vì vậy, trong thời gian tới, Hà Nam phải nhanh chóng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, sớm có kế hoạch đào tạo lại, đào tạo mới dài hạn đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật , quản lý kinh tế và công nhân kỹ thuật, đủ số lượng, chất lượng để có thể bảo đảm nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội trong từng giai đoạn. Cụ thể nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực của Hà Nam như sau: Biểu 24 -Tổng hợp nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực của tỉnh Hà Nam thời kỳ 1997- 2010 Đơn vị: nghìn người. 1997- 2000 2001-2010 Tổng số Đào tạo lại Cao đẳng, đại học trở lên Trung học chuyên nghiệp, công nhân kỹ thuật Đào tạo mới Cao đẳng, đại học trở lên Trung học chuyên nghiệp, công nhân kỹ thuật 75 20 2,5 17,5 55 7,0 48,0 160 60 9,0 51,0 100 14,0 86,0 Nguồn: Quy hoạch phát triển KT- XH tỉnh Hà Nam đến năm 2010 Mặt khác tỉnh cần phải có kế hoạch lựa chọn và bồi dưỡng nhân tài để tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao. Khuyến khích người lao động tự bỏ tiền để học nghề, học ngoại ngữ, học tin học. Đồng thời tỉnh cũng phải dành một phần ngân sách thích hợp cho đào tạo nguồn nhân lực. Bằng nhiều con đường khác nhau để đào tạo nguồn nhân lực kể cả việc gửi đi học ở nước ngoài. Hơn nữa phải có chính sách thu hút nhân tài giúp tỉnh như các chuyên gia đầu ngành, giám đốc giỏi, nhất là trong khâu hoạch định chính sách, ra quyết định ở giai đoạn đầu phát triển. Đổi mới và phát triển công nghệ. Với mục đích đẩy mạnh công tác nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất kinh doanh, một mặt tỉnh cần xây dựng mục tiêu nghiên cứu phát triển cụ thể đồng thời cần triển khai các chương trình quốc gia về nghiên cứu khoa học công nghệ và môi trường như chương trình thông tin viễn thông, công nghệ vật liệu, tự động hoá,...Mặt khác, Hà Nam cần tăng thêm tỷ lệ chi phí cho công tác R&D lên khoảng 3-5% GDP nội tỉnh. Khoản chi phí này sẽ được hỗ trợ thêm cho các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp công nghiệp có kế hoạch nghiên cứu sản phẩm mới hoặc nâng cấp chất lượng sản phẩm đã có, không phân biệt thành phần kinh tế. Tỉnh nên triển khai ứng dụng hệ thống tiêu chuẩn ISO 9000 cho các sản phẩm công nghiệp. Nhanh chóng chuyển hướng hoạt động khoa học công nghệ gắn với cơ sở sản xuất kinh doanh hướng trọng tâm vào nghiên cứu, ứng dụng, triển khai bằng các dự án chuyển giao công nghệ xuất phát từ nhu cầu thiết thực của từng ngành, từng sản phẩm mũi nhọn. Hà Nam cần liên kết khoa học với đào tạo thành một thể thống nhất. Phương hướng phát triển khoa học công nghệ trong những năm tới của Hà Nam phải gắn chặt và trở thành yếu tố chủ yếu thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Vì vây, Hà Nam cần phối hợp với các cơ quan chức năng nghiên cứu khoa học và các cơ quan có liên quan ở Trung ương và tỉnh bạn ứng dụng nhanh những tiến bộ khoa học công nghệ mới nhất ở trong và ngoài nước vào sản xuất xi măng, khai thác đá, trồng trọt, chăn nuôi... Ưu tiên áp dụng và phát triển công nghệ cao, đặc biệt là hướng vào công nghệ tin học công nghệ sinh học . Phát triển mạnh mẽ thị trường. Thị trường có tác động mạnh mẽ tới chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Trong thời gian tới Hà Nam cần phát triển đồng bộ các loại thị trường như thị trường sản phẩm, thông tin, công nghệ, nguyên vật liệu, lao động, vốn. Hà Nam cần xây dựng một bộ phận có năng lực, có trách nhiệm và đủ điều kiện về cơ sở vật chất cho việc tiếp thị, nghiên cứu thị trường cho các sản phẩm của ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Bộ phận này không đơn giản làm công tác nghiên cứu thị trường tiêu thụ mà còn phải làm công tác định hướng sản xuất, chuẩn bị những mặt hàng mới đáp ứng yêu cầu ngày càng khe khắt của người tiêu dùng. Hà Nam cần củng cố mối quan hệ ngành dọc một cách chặt chẽ với các bộ ngành, Trung ương để tận dụng khả năng tiếp nhận thông tin mới nhất về thị trường trong cũng như ngoài nước. Trong tương lai, Hà Nam cần mở rộng thị trường cho các sản phẩm của tỉnh, củng cố nâng cấp các trung tâm thương mại và dịch vụ, hệ thống chợ ở xã huyện. Mặt khác cần phải tăng cường cung cấp thông tin thương mại cho thị trường một cách nhanh chóng nhất để đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Để làm được điều đó tỉnh Hà Nam cần dành một khoản ngân sách nhất định cho việc nghiên cứu phát triển thị trường của tỉnh. Các chính sách khác. Về tín dụng, tỉnh cần ưu tiên cấp tín dụng với lãi suất thấp hơn bình thường đối với các cơ sở giám bỏ vốn ra đầu tư vào những lĩnh vực ít hấp dẫn lâu thu hồi vốn. Bên cạnh đó cần có chính sách tín dụng ưu đãi đối với nông dân để phát triển sản xuất nông nghiệp. Tỉnh Hà Nam cần tổ chức lại sản xuất, phân loại đánh giá sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước cho hợp lý, sau đó tiến hành đầu tư trang thiết bị vốn liếng, củng cố bộ máy đào tạo cán bộ nhân lực để các doanh nghiệp Nhà nước đủ sức chi phối và chỉ đạo trong nền kinh tế thị trường. Tỉnh cần xác định rõ vai trò của hộ nông dân là chủ thể trong sản xuất, tạo điều kiện để kinh tế hộ phát triển, quy hoạch và phát triển các làng nghề truyền thống để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Trước mắt cần khẩn trương giao quyền sử dụng đất lâu dài cho hộ nông dân, chú ý việc chuyển đổi ruộng đất chống manh mún và ô thửa nhỏ để tạo ra các vùng chuyên canh nông sản thực phẩm có giá trị hàng hoá. Kết luận Trong thời gian qua, quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh Hà Nam tuy diễn ra chậm nhưng cũng đã thu được những kết quả nhất định và cơ bản đã đi đúng hướng. Tuy nhiên những kết quả đó mới chỉ là bước đầu, trong tương lai Hà Nam còn phải đương đầu với nhiều thách thức lớn bởi vì nông nghiệp vẫn còn chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu GDP của tỉnh. Hơn lúc nào hết, lựa chọn được một cơ cấu kinh tế hợp lý có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển kinh tế của tỉnh. Đó cũng chính là mục đích mà đề tài muốn đạt tới. Quá trình nghiên cứu của đề tài nhằm tìm ra hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế cho tỉnh Hà Nam, tiến tới xây dựng một cơ cấu kinh tế linh hoạt mềm dẻo phù hợp với đặc điểm kinh tế xã hội của tỉnh. Trên thực tế, để thực hiện thành công vấn đề này là hết sức khó khăn và phức tạp, đòi hỏi phải có sự liên kết cao giữa các ngành, các cấp và các lĩnh vực sản xuất. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế gắn liền với cơ cấu lãnh thổ làm cơ sở chính cho việc hoạch định kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, hơn nữa chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế quyết định phần lớn đến quy mô và chất lượng cơ cấu thành phần kinh tế và nó phụ thuộc khá lớn vào chính sách kinh tế xã hội của một quốc gia. Mặc dù không tránh khỏi những khiếm khuyết nhưng đề tài không thể thiếu đi những nội dung cần thiết của một công trình nghiên cứu khoa học, nghiên cứu đề tài đã giúp tôi vận dụng nhiều kiến thức đã học vào thực tế. Hy vọng rằng kết quả nghiên cứu đề tài sẽ góp phần đấy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh Hà nam, tiến tới xây dựng một tỉnh giàu mạnh- thành phố vệ tinh của thủ đô Hà nội trong tương lai. Hà nội -Tháng 8 / 2000. Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình kinh tế phát triển. Khoa Kinh tế phát triển - Đại học Kinh tế Quốc dân. 2. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và phát triển các ngành trọng điểm mũi nhọn ở Việt Nam. Chủ biên: Đỗ Hoài Nam - NXB Khoa học xã hội 1996. 3. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá. Chủ biên : Ngô Đình Giao - Đại học Kinh tế Quốc dân. 4. Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Hà Nam đến năm 2010. Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Nam . 5. Quy hoạch tổng thể phát triển Công nghiệp, Nông nghiệp, Thương mại và Dịch vụ của tỉnh Hà nam đến năm 2010. 6. Các báo cáo tình hình kinh tế xã hội của tỉnh Hà Nam năm 1997, 1998, 1999. 7. Các số liệu thống kê kinh tế xã hội của tỉnh Hà nam Cục thống kê tỉnh Hà Nam. 8. Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 12/1998, 4/1996. 9. Tạp chí kinh tế và dự báo số 5/1998. 10. Tạp chí con số và sự kiện số 11/1997. Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docG0003.doc