Như vậy , cổ phần hoá đã và đang là vấn đề nóng bỏng của nền kinh tế nước ta hiện nay . Sau những thành tựu đạt được từ công cuộc cổ phần hoá bước đầu thì trong thời gian tới Đảng và Nhà nước cần phải có những biện pháp , chính sách rõ ràng để mở rộng và đẩy nhanh công cuộc cổ phần hoá nhằm đưa nền kinh tế nước ta phát triển .
Có thể nói cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước đã giải quyết hàng loạt vấn đề bức xúc đối với nền kinh tế nước ta hiện nay như : vấn đề vốn , lao động , đội ngũ quản lý doanh nghiệp - đó vẫn là những vấn đề cần thiết để cho doanh nghiệp nói riêng cũng như nền kinh tế nói chung đi lên
36 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1401 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam và thực trạng cổ phần hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h lập công ty cổ phần trong trường hợp này là rất thuận lợi , vì mỗi cổ đông đều có chung một mục đích nên họ đến với nhau thông qua điều lệ bầu giám đốc là hoàn toàn tự chủ và tự nguyện . Hầu như không có sự cưỡng bức , mất dân chủ nào ngoại trừ số vốn góp của mỗi người là khác nhau nên tiếng nói của họ và lợi tức của họ hưởng là không giống nhau.
- Xu hướng cổ phần hoá đối với các doanh nghiệp Nhà nước :
Thực tiễn nhiều năm đã chứng minh là kinh tế quốc doanh kém hiệu quả so với kinh tế tập thể và kinh tế tư nhân . Cũng có những trường hợp cá biệt , trong những điều kiện đặc biệt gắn với một thời gian ngắn , kinh tế quốc doanh
vẫn có thể làm ăn có lãi , phát triển . Nhưng nhìn tổng quát lâu dài thì kinh tế quốc doanh kém hiệu quả .
Vì doanh nghiệp Nhà nước làm ăn kém hiệu quả thua lỗ nên Nhà nước buộc phải có chính sách tài trợ bao cấp nhằm đảm bảo cho các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động tốt theo chủ trương phát triển kinh tế - xã hội của Chính phủ .
Để có thể cổ phần hoá một cách thắng lợi chúng ta có các biện pháp cổ phần đối với từng loại doanh nghiệp :
+ Doanh nghiệp loại 1 : doanh nghiệp Nhà nước hoạt động có hiệu quả . Tiêu chí đó đánh giá doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả là tỉ suất lợi nhuận trên số vốn của chủ sở hữu . Tỉ suất này phải ít nhất trên 15% có nghĩa là phải cao hơn lãi suất tiết kiệm thì đồng vốn mới thực sự sinh lời . Đối với doanh nghiệp loại này ta bán 50% giá trị số cổ phần cho người lao động , 50% cổ phần còn lại có thể bán trả chậm . Đối với tài sản cố định thuộc nguồn vốn vay, Nhà nước cho bán cổ phiếu để doanh nghiệp trả nợ . Đối với vốn lưu động thuộc nguồn vốn ngân sách , sau khi đánh giá lại Nhà nước sẽ bán cổ phiếu để thu lại vốn hoặc để cho doanh nghiệp bổ xung vốn lưu động .
+ Doanh nghiệp loại 2: Doanhnghiệp Nhà nước hoạt động kém hiệu quả , Nhà nước có thể cho cán bộ côngnhân 100% giá trị cổ phần tài sản cố định thuộc vốn ngân sách Nhà nước mà cán bộ côngnhân được hưởng tuỳ theo năm công tác .
Sở dĩ các doanh nghiệp đưa các biện pháp như trên là vì :
- Thứ nhất : các doanh ng hiệp Nhà nước được thành lập từ rất lâu . Giá trị tài sản cố định thuộc nguồn vốn khấu hao đã được khấu hao hết . Do đó cho không công nhân thì Nhà nước cũng không thiệt ; dù cho hay không cho thì tài sản vẫn nằm đó tại doanh nghiệp , thuộc Nhà nước cũng chỉ ttrên danh nghĩa .
- Thứ hai : Giai cấp công nhân , giai cấp khổ sở trước đây theo Đảng bao nhiêu năm làm cách mạng nay chuyển sang kinh tế thị trường , tuy đất nước có phát triển nhưng cuộc sống của họ không mấy thay đổi . Hàng ngày vẫn phải bán sức lao động để kiếm sống .Do đó , việc chia cho họ một số cổ phần trên phần tài sản cố định của Nhà nước mà họ đã bao năm giữ gìn thì cũng không có gì là không hợp lý .
- Thứ ba : chính việc chia cổ phần như vậy mới tạo được chủ sở hữu tương đối cụ thể cho doanh nghiệp , tránh tình trạng " của chùa " như hiện nay. Chính những người công nhân gắn bó với doanh nghiệp trong nhiều năm sẽ làm chủ thực sự doanh nghiệp . Đây là điểm mấu chốt để doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả .
2. Kinh nghiệm cổ phần hoá của một số nước .
2.1. Kinh nghiệm cổ phần hoá ở Liên Xô.
2.1.1. Doanh nghiệp Nhà nước làm ăn kém hiệu quả nên phải chuyển nó thành công ty cổ phần nhưng muốn chuyển được và sau khi chuyểncông ty cổ phần hoạt động thuận lợi thì theo kinh nghiệm của Liên Xô là cần phải có một khuôn khổ pháp luật cụ thể , rõ ràng .
Những luật cần thiết nhất là :
+ Luật doanh nghiệp .
+ Luật công ty .
+ Luật phá sản .
+ Luật kế toán .
+ Luật thanh toán .
+ Các luật thuế .
+ Luật thừa kế và thế chấp .
+Luật ngân sách .
+ Luật về phát hành giao dịch , mua bán chứng khoán .
ở nước ta chưa có một hệ thống luật đầy đủ mà đang trong thời kì soạn thảo. Đó là một khó khăn mà ta phải sớm khắc phục .
2.1.2. Kinh nghiệm Liên Xô cho thấy vấn đề cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là một vấn đề khó khăn phức tạp .
Tính phức tạp của cổ phần hoá bắt nguồn từ nhiều lý do :
Một là : Quan niệm thế nào là doanh nghiệp Nhà nước và vai trò của nó trong nền kinh tế quốc dân của mỗi cấp , mỗi ngành , mỗi đảng phái ,thậm chí đến mỗi người dân cũng không giống nhau có lúc khác nhau rất lớn , từ đó nhận thức về hàng loạt các vấn đề cũng không thống nhất như : những doanh nghiệp nào cần để lại hình thức quốc doanh , doanh nghiệp nào cần phải cổ phần hoá , cổ phần hoá nhanh hay từ từ , ai lãnh đạo là tốt nhất ,cổ phần hoá bao nhiêu phần trăm ...
Hai là : Xử lý những vấn đề có tính chất nghiệp vụ trong quá trình cổ phần hoá là không đơn giản nhưng :
+ Xác định giá trị doanh nghiệp như thế nào là chính xác .
+ Đất có tính vào giá trị doanh nghiệp hay không , nếu có thì phải tính như thế nào .
+ Vấn đề lao động phải giải quyết như thế nào khi chuyển sang công ty cổ phần …
Ngoài những khó khăn phức tạp gây ra như đã nói ở trên có một khó khăn khác là một số doanh nghiệp Nhà nước không muốn cổ phần hoá .
Riêng việc đa dạng hoá sở hữu nhất lầ việc chuyển sở hữu Nhà nước cho tư nhân là một quá trình ngược với quá trình trước đây ta đã làm . Trước đây Chính phủ có thể giải tán kinh tế tư nhân bằng một xác lệnh còn ngày nay Nhà nước không thể khôi phục họ bằng một xác lệnh khác .
Vì vậy , cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước là rất cần thiết nhưng không thể nóng vội , lại càng không thể áp đặt những ý muốn chủ quan mà phải kiên trì , từng bước và tạo ra các tiền đề cần thiết . Để giải quyết vấn đề này thì sự nghiệp cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước phải tính đến hàng chục năm .
Quá trình tư nhân hoá ở Liên Xô .
Tư nhân hoá Liên Xô được côi là một khâu trung tâm của quá trình cổ phần hoá nhằm tạo ra một tầng lớp rộng rãi những người chủ sở hữu tư nhân .
Năm 1992 thực hiện bước một là cổ phần hoá các xí nghiệp lớn . Các cổ phiếu hoặc do Nhà nước nắm hoặc do tập thể lao động nắm . Với việc cổ phần hóa này sẽ làm nảy sinh một xu hướng ngược lại với xu hướng đã hình thành trước đây đó là xu hướng giảm cơ cấu độc quyền thiết lập các xí nghiệp nhỏ và vừa .
ở cấp xí nghiệp để tiến hành cổ phần hoá ban giám đốc cùng với tập thể công nhân sẽ soạn thảo ra kế hoạch tư nhân hoá , phương án phân chia quyền lợi cho người lao động , cách thức và tiến trình bán cổ phiếu .
ở cấp Nhà nước : chương trình tư nhân hoá có một số phương án phân chia quyền lợi cho người lao động như sau :
+ Người lao động được chia 25% cổ phiếu ưu đãi và có quyền mua 10% cổ phiếu , có quyền biểu quyết với giá giảm 30% so với giá danh nghĩa .
+ Công nhân có thể mua 51% cổ phiếu , có quyền biểu quyết theo những điều kiện do Nhà nước quy định .
Phiếu tư nhân hoá có thể được sử dụng theo những cách thức sau :
- Đổi trực tiếp lấy cổ phiếu của xí nghiệp . Công nhân của các xí nghiệp có thể đổi lấy cổ phiếu với những điều kiện ưu đãi cũng như được tham gia các cuộc bán đấu giá đặc biệt để mua cổ phiếu như mọi công nhân khác ngoài xí nghiệp .
- Đổi lấy cổ phần của các quỹ đầu tư tư nhân hoặc quốc doanh các quỹ đầu tư sẽ thu phiếu tư nhân hoá và dùng chúng để mua cổ phần của các xí nghiệp. Như vậy , mỗi một quỹ đầu tư sẽ có nhiều cổ phần trong các xí nghiệp khác nhau .
- Bán phiếu tư nhân hoá để lấy tiền .Để tránh mất giá hoặc thiếu lòng tin vào tư nhân hoá Nhà nước quy rằng : tổng số cổ phiếu phát hành trên thị trường sẽ nhiều hơn phiếu tư nhân hoá phát hành cho nhân dân , đồng thời Nhà nước lập ra các cơ quan tài chính đặc biệt để tư vấn cho nhân dân sử dụng phiếu có hiệu quả. Nhà nước cũng bảo đảm mọi mặt về thông tin để nhân dân có thể lựa chọn theo ý mình .
Tóm lại ,quá trình tư nhân hoá ỏ Liên Xô mang lại cho chúng ta một số kinh nghiệm sau :
+ Để tiến hành tư nhân hoá có hiệu quả thì ta phải thiết lập các uỷ ban hoặc cơ quan chuyên trách quốc gia . Cơ quan đó phải gồm những thành viên được giao thực quyền .
+ Hình thức tư nhân hoá là rất phong phú nên có thể áp dụng nhiều cách thức để tiến hành tư nhân hoá .
2.2. Kinh nghiệm cổ phần hoá ở Trung Quốc .
2.2.1. Cải cách cơ chế quản lý các doanh nghiệp Nhà nước trên cơ sở giữ lại nguyên trạng chủ sở hữu Nhà nước .
Theo nội dung này Trung Quốc áp dụng hai hình thức khá phổ biến là thực hiện chế độ hợp đồng và chế độ cho thuê .
Hợp đồng được kí giữa một bên là Nhà nước - người chủ sở - và một bên là xí nghiệp - người quản lý xí nghiệp có hiệu lực trong một thời gian nhất định. Người đại diện cho xínghiệp có thể là một cá nhân hay một tập thể . Đây là một văn bản quy định chặt chẽ trách nhiệm , quyền hạn và lợi ích của mỗi bên . Người giám đốc xí nghiệp ( người quản lý chính ) được giao đầy đủ quyền lực đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của xí nghiệp . Chế độ thưởng , phạt cũng được ghi trong hợp đồng . Chính bằng cách này người ta có thể lựa chọn được người đủ năng lực nhất giám chịu trách nhiệm trước công việc của mình .
Chế độ cho thuê được Chính phủ khuyến khích đối với các xí nghiệp có quy mô nhỏ . Các xí nghiệp này có quyền thuê các chuyên gia về quản lý trong thời gian xác định và trả cho họ tiền thuê mướn do hai bên thoả thuận . Ngoài ra , các xí nghiệp này có quyền cho thuê phần tài sản thuộc quyền quản lý của mình trong một thời gian đã được ấn định .
2.2.2. Cải cách sở hữu .
Vấn đề cơ cấu chế độ sở hữu ở Trung Quốc .
Từ sau ngày cải cách mở cửa với lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc . Trung Quốc đã xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần : kinh tế quốc hữu ,kinh tế tập thể , kinh tư bản tư nhân , kinh tế tư bản nước ngoài …Trong đó kinh tế công hữu ( kinh tế quốc hữu và kinh tế tập thể ) đóng vai trò là "chủ thể " và nền kinh tế quốc hữu ( kinh tế Nhà nước ) đóng vai trò "chủ đạo " đối với nền kinh tế quốc dân .
Trong thời gian cơ cấu sở hữu thay đổi theo chiều hướng tỷ trọng sở hữu Nhà nước trong nền kinh tế quốc dân giảm xuống . Trước cải cách năm 1978, trong GDP của Trung Quốc kinh tế công hữu chiếm tỷ trọng 99% ( trong đó kinh tế quốc hữu chiếm 56% ,kinh tế tập thể chiếm 43% ) trải qua gần 20 năm cải cách mở cửa , tỷ trọng đã thay đổi nhiều ,năm 1990 trong công nghiệp Trung Quốc ,xí nghiệp quốc hữu chiếm 55% , xí nghiệp tập thể chiếm 36% nhưng đến năm 1995 tỷ trọng xí nghiệp quốc hữu chỉ còn 34% , xí nghiệp tập thể hầu như không đổi .
Có ba hình thức trong cải cách chế độ sở hữu các doanhnghiệp Nhà nước ở Trung Quốc là :
Một là : thành lập các công ty cổ phần các cổ đông bao gồm Nhà nước , tập thể và cá nhân . Đối với các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và trung bình Nhà nước vẫn nắm cổ phần không chế .
Hai là : phát triển ở một mức độ nhất định đối với các doanh nghiệp tư nhân. Đối với khu vực này Trung Quốc không chủ trương xây dựng một nền kinh tế tư nhân theo kiểu các nước công nghiệp phát triển mà chỉ đầu tư xây dựng hoặc cho phép phát triển ở một mức độ chừng mực và trong một số ngành nhất định . Sự phát triển trong các doanh nghiệp tư nhân chỉ ở mức độ góp phần thúc đẩy sản xuất hàng hoá , kích thích thị trường , tạo ra việc làm mới nhằm đáp ứng nhu cầu hàng hoá và dịch vụ của nhân dân . Trong nhiều văn kiện chính thức Trung Quốc vẫn nhấn mạnh sự lãnh đạo và chi phối của khu vực doanh nghiệp Nhà nước đối với toàn bộ nền kinh tế .
Ba là : phát triển các doanh nghiệp dựa vào đầu tư nước ngoài .Điều này đã trở thành một nhân tố quan trọng trong nền kinh tế Trung Quốc nhằm giải quyết những vấn đề thiếu hụt về kĩ thuật , về vốn , về công nghệ và quản lý . Đã gần một thập niên qua dựa vào đầu tư nước ngoài nhiều doanh nghiệp ỏ Trung Quốc đã phát triển mạnh dưới các hình thức phổ biến như doanh nghiệp đầu tư hợp tác sản xuất hay buôn bán và các xi nghiệp hoàn toàn do người nước ngoài làm chủ sở hữu .
Từ những kinh nghiệm trong việc chuyển đổi cơ cấu chế độ sở hữu ,người Trung Quốc bắt đầu nhân rộng kết quả cải cách các doanh nghiệp Nhà nước ra toàn bộ miền Duyên hải của họ .
II. Doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam và thực trạng cổ phần hoá .
1. Thực trạng doanh nghiệp Nhà nước chuyển sang kinh tế thị trường
1.1. Thực trạng doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam .
Các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam được hình thành từ nhiều nguồn gốc khác nhau vàđược xây dựng dựa trên cơ sở của nhiều quan điểm vì vậy doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam có nhiều khác biệt so với nhiều nước trong khu vực .
Thực trạng doanh nghiệp Nhà nước trước khi cổ phần hoá được biểu hiện :
+ Quy mô doanh nghiệp phần lớn nhỏ bé , cơ cấu phân tán biểu hiện ở số lượng lao động và mức độ tích luỹ vốn thấp ,chất lượng sản phẩm của nhiều doanh nghiệp Nhà nước thấp và không ổn định ,hệ số sinh lời thấp ,sử dụng vốn kém hiệu quả . Hầu hết các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả ,tỷ lệ doanh nghiệp Nhà nước thua lỗ chiếm tỷ trọng cao . Bộ máy quản lý doanhnghiệp thiếu năng lực , cồng kềnh , kém hiệu quả .
+ Trình độ kĩ thuật - công nghệ lạc hậu .
Sở dĩ, trình độ kĩ thuật - công nghệ lạc hậu một phần vì các doanh nghiệp Nhà nước thành lậptừ rất lâu nên các công nghệ cũ kĩ , hoạt động không có hiệu quả mà doanh nghiệp lại không có khả năng thay thế . Mặt khác, hầu hết các doanh nghiệp Nhà nước được xây dựng bằng kĩ thuật của nhiều nước khác nhau nên tính đồng bộ của các doanh nghiệp thấp ,vì vậy khi chuyển sang kinh tế thị trường các doanh nghiệp Nhà nước khó có khả năng cạnh tranh .
+ Doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam có sự phân bổ còn bất hợp lý cả về ngành lẫn về vùng .
Khi chuyển nền kinh tế từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế kinh tế thị trường thì các doanh nghiệp Nhà nước không còn được bao cấp mọi mặt như trước ,mặt khác lại bị các thành phần kinh tế khác cạnh tranh quyết liệt làm cho doanh nghiệp Nhà nước bị giải thể , phá sản dẫn đến số lượng doanh nghiệp Nhà nước giảm đáng kể từ 12084 doanh nghiệp xuống còn 6264 doanh nghiệp vào năm 1994 .
Tốc độ tăng trưởng nền kinh tế nước ta trong những năm qua tăng nhanh đặc biệt các doanh nghiệp Nhà nước vẫn đóng vai trò chủ yếu trong nhiều ngành kinh tế , nhất là những ngành quan trọng đòi hỏi đầu tư lớn , kĩ thuật công nghệ cao và các ngành sản xuất cung ứng các hàng hoá và dịch vụ công cộng đồng thời doanh nghiệp Nhà nước vẫn là thành phần kinh tế đóng góp chủ yếu cho ngân sách Nhà nước .
Sau hơn 10 năm đổi mới , các doanh nghiệp Nhà nước đã và đang chuyển biến rõ rệt , giảm được gần một nửa số doanh nghiệp chủ yếu là những doanh nghiệp địa phương nhỏ bé , làm ăn không có hiệu quả . Số lớn các doanh nghiệp còn lại được tổ chức lại và từng bước phát huy quyền tự chủ kinh doanh trở nên hoạt động có hiệu quả , năng động với sự biến đổi của thị trường . Song nhìn chung thì các doanh nghiệp Nhà nước vẫn gặp rất nhiều khó khăn , hiệu quả kinh doanh còn thấp , nhiều doanh nghiệp vẫn còn làm ăn thua lỗ triền miên , hoạt động cầm chừng sự đóng góp của doanh nghiệp Nhà nước cho ngân sách chưa tương xứng với phần Nhà nước đầu cho doanh nghiệp , cũng như với tiềm lực của doanh nghiệp Nhà nước. Tình trạng mất và thất thoát lớn về vốn đang diễn ra hết sức nghiêm trọng , việc quản lý doanh nghiệp Nhà nước còn yếu kém , đặc biệt nghiêm trọng là tình trạng buông lỏng quản lý , Nhà nước mất vai trò là người chủ sở hữu .
1.2. Nguyên nhân của thực trạng doanh nghiệp Nhà nước .
* Thứ nhất : Do ảnh hưởng nặng nề của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung cao độ trong điều kiện chiến tranh kéo dài , của tư duy không đúng của mô hình Chủ nghĩa xã hội trước đây .
Tư duy đó đã chi phối đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với cơ cấu chỉ gồm hai thành phần đó là kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể . Tư tưởng muốn xoá bỏ kinh tế tư nhân và kinh tế cá thể , coi kinh tế quốc doanh dựa trên chế độ sở hữu toàn dân là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội . Tư tưởng xem nhẹ qui luật kinh tế khách quan của thị trường , coi kinh tế thị trường là của riêng Tư bản chủ nghĩa .
* Thứ hai : Đó là sự yếu kém của nền kinh tế chủ yếu là lực lượng sản xuất . Mặc dù , nước ta có nhiều nguồn lực để phát triển sản xuất và phát triển kinh tế nhưng chúng còn ở dạng tiềm năng chưa được khai thác để phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế . Để khai thác được các nguồn lực kinh tế đó cần phải có lượng vốn lớn , kĩ thuật công nghệ đồng bộ , hiện đại , đội ngũ cán bộ kĩ thuật ,cán bộ quản lý có năng lực , có trình độ tổ chức và quản lý thích hợp của Nhà nước cũng như của mỗi doanh nghiệp .
Sự yếu kém của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay biểu hiện rõ nhất là sự thấp kém lạc hậu của cơ cấu hạ tầng của toàn bộ nền kinh tế cũng nhe của mỗi doanh nghiệp , đây là lực cản chủ yếu của mỗi doanh nghiệp nói riêng và của nền kinh tế nói chung .
Sự yếu kém của nền kinh tế còn thể hiện ở chỗ chưa có tích luỹ nội bộ , chưa có khả năng chi trả số nợ đến hạn và quá hạn .
* Thứ ba : Trình độ quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế nói chung , đối với doanh nghiệp nói riêng nhìn chung còn nhiều yếu kém .
Hệ thống pháp luật chính sách quản lý chưa hoàn chỉnh . Phần lớn là những văn bản pháp quy dưới luật , có nhiều quy định mâu thuẫn nhau . Chưa tổ chức kịp thời hệ thống toà án kinh tế nhằm đảm bảo nghiêm chỉnh pháp luật kinh tế . Trong hoạt động quản lý Nhà nước ,thủ hành chính quá phiền hà , cửa quyền, quan liêu , hách dịch .
Trong các văn bản pháp luật hiện hành chưa phân định rõ chức năng quản lý Nhà nước với hoạt động quản lý doanh nghiệp .
Trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý nhiều văn bản quản lý cũ đã lỗi thời song chưa được huỷ bỏ , những văn bản mới còn cónhiều sơ hở nhưng không được sửa đổi nên đã bị lợi dụng phục vụ lợi ích trước mắt .
Công tác quản lý đối với doanh nghiệp như quản lý tài chính , kế toán , kiểm toán ,thanh tra giám sát thi hành pháp luật chưa chuyển biến kịp trong môi trường kinh doanh mới có lúc buông lỏng nên Nhà nước không nắm được thực trạng tài chính kinh doanh của doanh nghiệp . Ngược lại , có những lúc lại có những lúc lại có quá nhiều cơ quan thanh tra kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp một cách tuỳ tiện .
* Thứ tư : Quá trình chuyển sang kinh tế thị trường chậm và không cương quyết trong việc cải cách chế độ sở hữu trong các doanh nghiệp Nhà nước .
Mặc dù ,về mặt pháp lý , tài sản , tiền vốn trong các doanh nghiệp Nhà nước thuộc sở hữu toàn dân nhưng trên thực tế tính chất sở hưũ toàn dân chỉ là hình thức . Hầu hết những người lao động trong các doanh nghiệp Nhà nước thờ ơ và xa cách đối với sở hữu toàn dân , tình hình không xác định rõ ai là chủ sở hữu đích thực là nguyên nhân tham nhũng của những kẻ có chức quyền , các nhà quản lý doang nghiệp cửa quyền ,quan liêu ,hách dịch , thiếu trách nhiệm , năng lực quản lý kém , thiếu kỉ luật và kỉ cương của người lao động làm cho năng suất , chất lượng , hiệu quả giảm sút .
Trong nền kinh tế thị trường giám đốc các doanh nghiệp Nhà nước là người làm thuê cho chủ sở hữu là Nhà nước nhưng thường là giám đốc vừa có chức năng là chủ sở hữu và có chức năng điều hành . Mặt khác có nhiều giám đốc không có kiến thức và am hiểu nghề nghiệp do họ chưa được đào tạo đungs mức bởi vậy khi trao quyền cho họ thì tình trạng lãng phí , tham nhũng nghiêm trọng tài sản , tiền vốn của Nhà nước xảy ra .
2. Tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam .
2.1. Chủ trương , chính sách của Đảng và Nhà nước .
Chủ trương cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước được đặt ra sớm từ đầu những năm 1990 . Nghị quyết hội nghị lần hai của ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII đã ghi " Chuyển một số doanh nghiệp quốc doanh có điều kiện thành công ty cổ phần và thành lập một số công ty quốc doanh cổ phần mới , phải làm thí điểm chỉ đạo chặt chẽ , rút kinh nghiệm chu đáo trước khi mở rộng phạm vi thích hợp " . Cổ phần hoá nhằm thu hút thêm vốn cho doanh nghiệp .
Nghị quyết bộ chính trị về tiếp tục đổi mới để phát huy vai trò chủ đạo của doanh nghiệp Nhà nước ( số 10-NQTW ) đã ghi rõ :" … tuỳ tính chất loại hình doanh nghiệp mà tiến hành bán một tỷ lệ cổ phần cho cán bộ công nhân viên và bán cổ phiếu cho tổ chức cá nhân ngoài doanh nghiệp ".
Thông báo số 63 -TB NN ngày 04/04/1997 của bộ chính trị khẳng định tiếp tục triển khai tích cực và vững chắc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước trong thời gian tới .
Nghị quyết kì họp thứ 10 - quốc hội khoá VIII ngày 26/12/1994 về nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội 5 năm 1991-1995 đã ghi " thí điểm cổ phần hoá một số cơ sở kinh tế quốc doanh để rút kinh nghiệm và có thêm nguồn vốn phát triển ".
Thực hiện nghị quyết của Đảng và Quốc hội , Chính phủ đã ban hành văn bản :
- Quyết định số 202/CT ngày 08/06/92 của chủ tịch hội đồng bộ trưởng ( nay là thủ tướng chính phủ ) về tiếp tục thí điểm chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần ; quyết định số 203/CT ngày 08/06/92 chọn bảy doanh nghiệp Nhà nước do Chính phủ chỉ đạo thí điểm và giao nhiệm vụ cho mỗi bộ , UBND tỉnh , thành phố trực thuộc Trung ương chọn từ một đến hai doanh nghiệp thí điểm chuyển thành công ty cổ phần .
- Nghị định 28/CP ngày 07/05/96 của chính phủ về chuyển một số doanh nghiệp thành công ty cổ phần .
- Chỉ thị số 658/TTgngày 20/08/1997 của thủ tướng Chính phủ về thúc đẩy triển khai vững chắc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước .
2.2. Quá trình triển khai thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước từ 1992 đến nay .
2.2.1 Giai đoạn thí điểm ( 1992-1995 ) .
Trong giai đoạn thí điểm (1992-1995) Chủ tịch hội đồng bộ trưởng ( nay là thủ tướng chính phủ ) đã ban hành quyết định số 202/CT ngày 08/06/1992 về tiếp tục thí điểm chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần và chỉ thị 84/TTg về việc xúc tiến thực hiện thí điểm cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước và các giải pháp đa dạng hóa hình thức sở hữu đối với các doanh nghiệp Nhà nước .
Sau 4 năm thực hiện quyết định số 202/CT và chỉ thị 84?TTg của thủ tướng Chính phủ đã chuyển được 5 doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần là :
- Công ty Đại lý liên hợp vận chuyển ( thuộc bộ giao thông vận tải ) ( năm 1993 ).
- Công ty cơ điện lạnh ( thuộc UBND thành phố Hồ Chí Minh ) (năm 1993 ) .
- Xí nghiệp giày Hiệp An ,thuộc bộ công nghiệp (năm 1994 ).
- Xí nghiệp chế biến hàng xuất khẩu ( thuộc UBND tỉnhLong An -năm 1995) .
- Xí nghiệp chế biến thức ăn gia xúc( thuộc bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn -năm 1995 ).
Sau 4 năm thực hiện đã rút được một số kinh nghiệm để bổ sung và sửa đổi về chế độ cổ phần hoá . Ngày 07/05/1996 Chính phủ đã ra nghị định số 28/CP thay cho quyết định số 202/ CT với những quy định rõ ràng hơn .
2.2.2. Giai đoạn mở rộng từ năm 1996 đến năm 1998 .
Trên cơ sở đánh giá các ưu điểm và tồn tại trong giai đoạn triển khai thí điểm cổ phần hoá một số doanh nghiệp Nhà nước . Chính phủ đã ban hành nghị định số 28/CP ngày 07/05/1996 về chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần . Nghị định này đã xác định rõ giá trị doanh nghiệp , chế độ ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp và tổ chức bộ máy giúp thủ tướng Chính phủ chỉ đạo công tác cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ; đồng thời giao nhiệm vụ cho các bộ , các địa phương hướng dẫn và tổ chức thực hiện công tác này .
Thực hiện nghị định số 28/CP , công tác cổ phần hoá đã được quan tâm hơn ,các ngành các cấp đã triển khai một số công việc sau :
- Củng cố tổ chức , bổ sung thành viên vào ban chỉ đạo cổ phần hoá ; kiện toàn và thành lập các ban chỉ đạo cổ phần ở địa phương đến nay đã có :
+ Ban chỉ đạo Trung ương cổ phần hoá do bộ trưởng tài chính làm trưởng ban. Và một số ngành làm thành viên như : bộ kế hoạch và đầu tư , bộ lao động thương binh và xã hội , ban chỉ đạo Trung ương về đổi mới doanh nghiệp , ban kinh tế Trung ương Đảng , ban tổ chức Trung ương Đảng và Tổng liên đoàn lao động Việt Nam .
+ Có 31/61 địa phương thành lập ban chỉ đạo cổ phần hoá chiếm 50% , các địa phương khác do ban đổi mới doanh nghiệp kiêm nhiệm hoặc giao cho một số tổ chức chuyên giúp việc .
- Một số bộ , địa phương đã tổ chức hội nghị truyền đạt chủ trương chính sách về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước cho đội ngũ cán bộ chủ chốt như Bộ Nông Nghiệp và phát triển Nông Thôn , Bộ Thuỷ Sản , Bộ Xây Dựng …, tỉnh Bình Định ,tỉnh Lâm Đồng ,tỉnh Quảng Ninh … Tuy nhiên , còn nhiều địa phương và ngành chưa chú ý đến công tác tuyên truyền ,hướng dẫn giải thích cho cán bộ , người lao động trong doanh nghiệp hiểu chủ trương của Đảng và Nhà nước . Đây là một trong những nguyên nhân gây chậm trễ trong quá trình triển khai thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp .
- Thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước .
Đến nay có 36 tỉnh thành phố , ngành và các tổng công ty 91 đã đăng kí hơn 200 doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá chiếm 3% doanh nghiệp Nhà nước .
Từ khi có nghị định 28/Cp đã thực hiện được 13 doanh nghiệp , cho tới nay có 18 doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá chuyển sang thực hiện theo luật công ty .
- Ngoài các doanh nghiệp cổ phần hoá hiện nay một số bộ địa phương đã thành lập công ty cổ phần theo các hình thức : giữa doanh nghiệp Nhà nước với doanh nghiệp Nhà nước , giữa doanh nghiệp Nhà nước với tư nhân , giữa các tư nhân với nhau .
Như vậy ,việc cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước mới chỉ thực sự bắt đầu vào cuối năm 1992 sau khi có quyết định 202/CT ( ngày 08/06/1992 ) của chủ tịch hội đồng bộ trưởng ( nay là Thủ tướng Chính phủ ). Trong quyết định đó có lựa chọn một số doanh nghiệp cụ thể , tiếp theo là một số văn bản pháp quy khác tạo khung pháp lý cho việc tiến hành cổ phần hoá một soó doanh nghiệp Nhà nước đặc biệt phải kể đến nghị định 28/CP . Hầu hết 18 doanh nghiệp này sau khi chuyển sang công ty cổ phần đều phát triển tốt với một số chỉ tiêu tăng trưởng hàng năm cao . Đó là tín hiệu tốt , khích lệ cán bộ công nhân viên trong các doanh nghiệp Nhà nước chuẩn bị chuyển sang công ty cổ phần tiếp tục ủng hộ chủ trương cổ phần hoá của Đảng và Chính phủ .
* Nguyên nhân thực hiện côt phần hoá chậm :
+ Các ngành các cấp ở Trung ương và địa phương chưa quán triệt các quan điểm chủ trương của Đảng và Nhà nước về cổ phần một số doanh nghiẹp Nhà nước thành công ty cổ phần . Một số lãnh đạo chính quyền lo ngại cổ phần hoá làm mất chủ quyền của Nhà nước , làm mất vai trò kinh tế của quốc doanh , từ đó do dự chần chừ , chưa muốn cổ phần hoá , chờ đợi . Một số cán bộ lãnh đạo của doanh nghiệp chưa thấy được sự cần thiết của việc cổ phần hoá , đa số do ngại mất quyền lợi ,địa vị , người lao động lo lắng về đời sống ,sợ mất việc làm sợ giảm thu nhập , do vậy không hăng hái tiến hành cổ phần hoá .
+ Các doanh nghiệp Nhà nước phần lớn làm ăn kém hiệu quả , người dân chưa có thói quen chịu rủi ro bằng cách đầu tư mua cổ phiếu , chưa có thi trường chứng khoán .
+ Công tác chỉ đạo của Nhà nước còn chậm và lúng túng . Nhà nước chưa có văn bản lớn về mặt pháp lý ( luật ,pháp lệnh về cổ phần hoá ) . Một số nội dung trong văn bản chỉ đạo chưa rõ ràng , thiếu cụ thể , nhiều vấn đề chưa được khẳng định dứt khoát , việc giải quyết một số thủ tục về pháp lý để tạo điều kiện cho một số doanh nghiệp tiến hành cổ phần hoá rất chậm như thủ tục pháp lý về nhà xưởng , đất đai , xác định vốn và chuyển vốn đối với doanh nghiệp sử dụng những tài sản Nhà nước do nhiều cơ quan quản lý . Quy trình cổ phần hoá rườm rà , phức tạp , nhiều thủ tục phiền phức tốn kém .
+ Bộ phận chỉ đạo cổ phần hoá ở cả Trung ương và địa phương đều kiêm nhiệm nên chưa tập trung vào công tác chỉ đạo cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước dẫn đến công việc bị chậm trễ kéo dài .
+ Một số chính sách chế độ cụ thể đối với các doanh nghiệp cổ phần hoá chưa đủ sức hấp dẫn ,chưa lôi cuốn các doanh nghiệp hăng hái tiến hành cổ phần hoá .
2.2.3. Giai đoạn đẩy mạnh cổ phần hoá ( từ tháng 6/1998 ) .
Nghị định 44/CP ngày 29/06/1998 thay thế nghị định 28/CP với tinh thần tạo động lực mạnh mẽ hơn cho doanh nghiệp và người lao động trong doanh nghiệp chuyển thành công ty cổ phần cũng như đơn giản hoá một số thủ tục liên quan . Tính đến cuối năm 1999 cả nước đã chuyển được 370 doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần ( tính từ tháng 6/1998 đến cuối năm 1998 chuyển được 90 doanh nghiệp và năm 1999 chuyển được 250 doanh nghiệp ) .
Trong bước đầu hoạt động của các công ty cổ phần đều phát triển được sản xuất kinh doanh , không những đảm bảo được việc làm mà còn thu hút thêm lao động , thu nhập người lao động được nâng cao .
III . Quan điểm và giải pháp thúc đẩy cổ phần hoá
1. Quan điểm .
1.1. Quan điểm cơ bản để thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước.
1.1.1. Xác định vai trò và cấu trúc khu vực kinh tế Nhà nước .
Sự thay đổi về vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước cũng được đặt ra trong mô hình kinh tế thi trường của sự điều tiết của Nhà nước . Ngay từ hội nghị Trung ương lần thứ VI đã nêu rõ vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước không phải có mặt với tỷ trọng lớn ở tất cả mọi ngành mà chỉ chiếm giữ những vị trí then chốt trong nền kinh tế .
Sở hữu Nhà nước và sở hữu tư nhân là hai bộ phận cấu thành cơ bản của chế độ sở hữu trong nền kinh tế thị trường hỗn hợp và do đó : Sở hữu Nhà nước không đồng nghĩa với hiệu quả và mục đích của sự phát triển mà chỉ là một công cụ quan trọng và hữu hiệu cùng với công cụ tài chính và tiền tệ để Nhà nước thực hành việc điều tiết định hướng nền kinh tế .
Quan điểm này xác lập một luận cứ cơ bản để khẳng định quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước lầ một xu hướng tất yếu khách quan và là một giải pháp cơ bản để điều chỉnh tương quan hợp lý giữa sở hữu Nhà nước và các loại sở hữu khác trong nền kinh tế thị trường hỗn hợp nhằm đạt được các mục tiêu phát triển có hiệu quả ổn định và công bằng xã hội .
Cấu trúc lại sở hữu Nhà nước và khu vực kinh tế Nhà nước ở nước ta hiện nay là một vấn đề hết sức phức tạp và khó khăn nhưng không thể trì hoãn và lảng tránh .Yêu cầu bức xúc của việc chuyển sang nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải xác định rõ quyền sở hữu tài sản , tiền vốn của các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay , khắc phục tình trạng "Quốc doanh vô chủ " đang gây nên lãng phí thất thoát nghiêm trọng tài sản Nhà nước do một số kẻ lợi dụng chức quyền , còn người lao động thì thờ ơ .
Quan điểm cải cách khu vực kinh tế Nhà nước phải đặt trong sự thống nhất với những yêu cầu phát triển một nền kinh tế thi trường có sự điều tiết của Nhà nước , có thể nêu ra một số định hướng cơ bản :
- Khu vực kinh tế Nhà nước chỉ nên thu hẹp một số lĩnh vực có vai trò quyết định đến sự ổn định và phát triển của nền kinh tế . Đó là những ngành thuộc cơ sở hạ tầng xã hội như : giao thông vận tải , bưu điện , năng lượng… Các lĩnh vực như : ngân hàng , bảo hiểm ,y tế , giáo dục , quốc phòng . Các ngành kĩ thuật và công nghệ mũi nhọn có tác dụng hỗ trợ cho các ngành kinh tế khác phát triển , một số ngành hoặc cơ sở có nguồn thu ngân sách lớn mà bước đầu sự quản lý và kiểm soát của Nhà nước có lợi cho việc thực hiện các chính sách xã hội của mình .
- Phạm vi và quy mô của khu vực kinh tế Nhà nước được sử dụng một cách linh hoạt trong các lĩnh vực , các ngành , các doanh nghiệp cụ thể tuỳ theo mục tiêu định hướng của Nhà nước . Trong trường hợp này sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước thông qua phương tiện sở hữu Nhà nước có tác dụng điều chỉnh cơ cấu kinh tế và tỷ trọng các thành phần tham gia trong từng lĩnh vực . Trong nền kinh tế thị trường hiện đại các công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn là hình thái doanh nghiệp phổ biến và điển hình ; và sự tham gia của Nhà nước với tư cách là cổ đông với mức độ khống chế hay không khống chế sẽ tuỳ theo quan điểm điều tiêt cơ cấu của Nhà nước ở từng thời kì khác nhau .
- Sở hữu Nhà nước trong các doanh nghiệp ở những ngành , những lĩnh vực trong từng giai đoạn xét thấy không cần thiết có sự can thiệp của Nhà nước thì được tiến hành chuyển đổi sở hữu bằngviệc đa dạng hoá và cổ phần hoá toàn bộ hay từng phần để nâng cao hiệu quả kinh tế nói chung và Nhà nước có điều kiện thu hồi vốn để đầu tư vào các lĩnh vực khác .Việc đầu tư này có thể bao hàm cả hành động mua lại hay hay góp vôn cổ phần vào một công ty tư nhân để cứu công ty ra khỏi bi phá sản nếu xét thấy có ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế . Như vậy , ở một giai đoạn nhất định trong nền kinh tế thị trường hiện đại quá trình chuyển đổi sở hữu bằng đa dạng hoá cổ phần hoá và quốc doanh diễn ra song song với nhau phản ánh sự đan xen , hoà nhập , chuyển hoá lẫn nhau giữa sở hữu Nhà nước và sở hữu tư nhân . Giữa chúng không có một ranh giới cứng đờ cách biệt và đối kháng như trước đây đã từng quan niệm .
1.1.2. Những yếu tố tác động đến quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta .
* Các yếu tố thuận lợi :
- Điều kiện môi trường pháp lý về cơ bản được xác lập đặt tất cả các doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường , việc thực hiện "thương mại hoá ", các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế là tiền đề cơ bản và cần thiết lập từng bước thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước .
- Chính phủ đã nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề cổ phần hoá các doang nghiệp Nhà nước và quyết tâm thực hiện . Điều nay thể hiện ở việc ban hành các văn bản luật và dưới luật nhằm thực hiện chương trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước như : luật công ty ; ngoài ra còn có các quyết định, thông tư của các bộ và liên bộ cụ thể hoá việc thực hiện vấn đề này . Điều này góp phần xác định rõ quan điểm và phương hướng chỉ đạo thống nhất ở mọi cấp , mọi ngành cho đến từng doanh nghiệp trỏn khai thực hiện .
- Tình hình kinh tế của đất nước đã có nhiều biến đổi theo hướng tích cực . Giá cả thị trường đã được duy trì tương đối ổn định , mức lạm phát đã được kiềm chế , đồng tiền Việt Nam đã giữ được giá , lãi suất đã ở mức khuyến khích các hoạt động đầu tư vào sản xuất kinh doanh ..Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi về tâm lý cho mọi người muốn đầu tư thông qua hình thức mua cổ phiếu trong các doanh nghiệp Nhà nước được cổ phần hoá .
- Nhờ những đổi mới trong chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần của Nhà nước mấy năm qua thu nhập của dân cư được nâng cao . Số lượng người khá giả ở thành thị và nông thôn ngày càng nhiều . Đây là lượng cầu tiềm năng có thể đáp ứng cho các chứng khoán phát hành ở các doanh nghiệp được cổ phần hoá .
- Hoạt động trong cơ chế thị trường với thời gian chưa lâu nhưng đã xuất hiện đội ngũ các nhà quản lý doanhnghiệp có khả năng kinh doanh lớn , người lao động trong các doanh nghiệp đã thích ứng được về ý thức tác phong và hiệu quả công việc trong điều kiện cạnh tranh về năng suất ,chất lượng và hiệu quả . Điều này sẽ làm cho người đầu tư yên tâm bỏ vốn , góp phần thuận lợi cho việc thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước .
- Với luật đầu tư nước ngoài và sự xuất hiện của nhiều chi nhánh ngân hàng kinh doanh của nước ngoài tại Việt Nam đã góp phần tạo môi trường kinh doanh và điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư bằng cổ phiếu vào các doanh nghiệp Nhà nước sẽ được tiến hành cổ phần hoá .
* Các yếu tố khó khăn và cản trở :
- Khó khăn và cản trở lớn nhất trong quá trình tư nhân hoá và cổ phần hoá ở nhiều nước đang phát triển và Đông Âu là khu vực kinh tế tư nhân nhỏ bé và yếu ớt . Điều nay cunngx đúng với Việt Nam , khi hàng chục năm khu vực này được coi là đối tượng của cải tại Xã hội chủ nghĩa . Sự nhỏ bé và yếu ớt của khu vực kinh tế tư nhân phản ánh trình độ chậm phát triển của kinh tế thị trường ; trong đó hình thái doanh nghiệp một chủ tự mình đứng ra kinh doanh là phổ biến . Hình thái công ty cổ phần hầu hết còn xa lạ với mọi người. Điều đó đã gây ra sự bỡ ngỡ , lúng túng cho các nhà đầu tư ,lẫn người sử dụng vốn đầu tư dưới hình thức cổ phiếu và do đó làm cho việc tiến hành chương trình cổ phần hoá ở nước ta phải được thực hiện trong một thời gian dài ,song song với sự hình thành và phát triển hình thái công ty cổ phần cũng như xác lập môi trường pháp lý tương ứng .
- Cùng với sự yếu ớt và nhỏ bé của khu vực kinh tế tư nhân là sự thiếu văng một thị trường tài chính thực sự .
- Sự chưa ổn định trong chính sách vĩ mô của Nhà nước về luật pháp , thuế khoá , tiền tệ … chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro cho những người muốn đầu tư lâu dài , nhiều chính sách kinh tế ra đời chồng chéo , mâu thuẫn lẫn nhau và thay đổi đột ngột , lạm phát chưa kiềm chế một cách chắc chắn và vẫn còn ở mức hai con số , sự đổi mới hệ thống ngân hàng và cơ chế hoạt động tín dụng quá chậm trễ so với đòi hỏi của cơ chế thị trường … là những yếu tô gây bất lợi cho môi trường đầu tư trong nước và do đó gây thất bại cho quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước .
- Các doanh nghiệp Nhà nước hầu hết có trang bị máy móc cũ kĩ , công nghệ lạc hậu , biên chế cồng kềnh , khả năng cạnh tranh thấp do đó khó có thể tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp này . Số doanh nghiệp có mức lợi nhuận đủ hấp dẫn để cổ phần hoá còn quá ít .
- Về tư tưởng và tâm lý của đa số mọi người trong xã hội còn chưa quen với vấn đề mới mẻ này .
- Nhà nước thiếu nguồn tài chính cần thiết để giải quyết hàng loạt các vấn đề liên quan đến chương trình cổ phần hoá như các khoản trợ cấp cho người thất nghiệp , chi phí đào tạo lại nghề mới , chi phí cho chính sách xã hội và bảo hiểm ,các chi phí thực hiện công việc tư vấn quảng cáo , môi giới đầu tư, chi phí phát hành và các dịch vụ buôn bán cổ phiếu ..những khoản phí tổn này là không thể bỏ qua và thường rất lớn .
- Hệ thống kiểm toán chưa trở thành một hoạt động phổ biến và thống nhất, điều này gây ra trở ngại cho việc đánh giá giá trị của doanh nghiệp , tình hình và triển vọng hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp được cổ phần hoá … do đó gây khó khăn cho việc cung cấp thông tin trung thực tin cậy cho những người có nhu cầu đầu tư bằng cổ phiếu đối với những doanh nghiệp này.
1.2. Các quan điểm khác :
* Việc lựa chọn các doanh nghiệp để chuyển thành công ty cổ phần phải được đặt trong chương trình tổng thể đổi mới khu vực kinh tế Nhà nước và sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước .
Xét theo những yêu cầu cấu trúc lại khu vực kinh tế Nhà nước để duy trì được vai trò chủ đạo và định hướng sự phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta như đã được nêu ra , có thể được chia làm ba nhms doanh nghiệp Nhà nước với những giải pháp khác nhau:
Nhóm một : là các doanh nghiệp mà trong điều kiện hiện nay cần phải giữ lại hình thức doanh nghiệp Nhà nước 100% vốn như:
+ Các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực an ninh và quốc phòng như sản xuất vũ khí , thuốc nổ các phương tiện thu phát sóng …
+ Các doanh nghiệp đóng vai trò then chốt của nền kinh tế mà Nhà nước cần phải nắm để thực hiện các chức năng điều tiết vĩ mô nền kinh tế như các lĩnh vực kinh doanh tiền tệ ngân hàng ngoại thương , năng lượng , dầu khí , khai khoáng .
+ Các doanh nghiệp thuộc về cơ sở hạ tầng có tính chất nền tảng giúp cho các ngành khác phát triển , đó là những ngành đòi hỏi vốn đầu tư lớn ,thời gian thu hồi chậm , tỷ suất lợi nhuận thấp nên không hấp dẫn và chưa đủ sức đối với tư nhân .
+ Các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực cần thiết cho đất nước nhưng các thành phần kinh tế khác không đầu tư vì không có lãi , và Nhà nước phải đứng ra tổ chức tài trợ cho các hoạt động này .
Các doanh nghiệp Nhà nước thuộc các lĩnh vực nêu trên thực hiện các giải pháp đổi mới tổ chức và cán bộ quản lý , áp dụng kỉ luật của thị trường vào trong doanh nghiệp , thực hành trao quyền tự chủ trong việc bảo toàn vốn được giao ; đồng thời kiểm soát chặt chẽ theo luật doanh nghiệp Nhà nước . Đối với các doanh nghiệp này trong một số trường hợp và trong những điều kiện nhất định có thể được trợ cấp hoặc bù lỗ .
Với việc ban hành luật doanh nghiệp Nhà nước cần áp dụng một số giải pháp đối với nhóm này là :
- Thực hiện quy chế hội đồng quản trị để tách biệt rõ ràng quyền sở hữu và quyền quản lý kinh doanh trong doanh nghiệp .
- Thực hiện chế độ bảo toàn và phát triển vốn .
- áp dụng hệ thống định mức về chi phí và tiền lương, chịu sự kiểm soát thống nhất của Nhà nước .
Nhóm hai : là các doanh nghiệp thuộc các ngành , các lĩnh vực xét thấy không cần thiết phải duy trì hình thức sở hữu Nhà nước thì nên thu hẹp dần bằng quá trình đa dạng hoá và cổ phần hoá để khuyến khích cạnh tranh và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp này .
Các giải pháp áp dụng cho các doanh nghiệp thuộc nhóm này là :
- Cho tư nhân hoặc tập thể lao động tại doanh nghiệp thuê, nhận khoán hoặc đấu thầu kinh doanh bằng hợp đồng quản lý , Nhà nước vẫn giữ nguyên sở hữu.
- Cổ phần hoá từng phần hay toàn bộ để chuyển thành các công ty trách nhiệm hữu hạn hay công ty cổ phần .
- Bán toàn bộ cổ phần doanh nghiệp Nhà nước cho các nhà đầu tư tư nhân và trong và ngoài nước .
- Phát hành cổ phiếu nhằm huy động nguồn vốn mới của tư nhân vào doanh nghiệp Nhà nước để từng bước chuyển thành công ty cổ phần .
Nhóm ba :Các doanh nghiệp Nhà nước thua lỗ kéo dài , mất khả năng thanh toán , không thuộc diện Nhà nước trợ cấp thì thực hiện các giải pháp : sát nhập, cho thuê , nhượng bán và giải thể .
* Mọi tài sản của doanh nghiệp đều thuộc quyền sở hữu Nhà nước . Điều này là hợp lý khi xét vềmặt pháp lý trong hoạt động sản xuất ,kinh doanh của các doanh nghiệp , khi tất cả các khoản có và nợ của doanh nghiệp đều thuộc về Nhà nước không thể quy kết các khoản nợ của doanh nghiệp cho tập thể . Vì vậy khi tiến hành lập bảng cân đối tài sản trong doanh nghiệp xác lập giá trị tài sản còn lại để cổ phần hoá không thể đưa vốn tự có ra ngoài bảng cân đối tài sản vì nó là của tập thể . Xác định quan điểm này để bảo đảm việc chống lại sự phân tán tài sản của Nhà nước và phân phối không cân bằng trong quá trình chuyển đổi sang hình thức công ty cổ phần .
* Các doanh nghiệp đã được cổ phần hoá sẽ hoạt động trong khuôn khổ luật công ty cả về tổ chức quản lý lẫn hoạt động tài chính . Vì vậy , cần phải có điều lệ và qui chế hoạt động tuân thủ theo các qui định của luật công ty . Như vậy vấn đề đặt ra là ai sẽ là người thay mặt cho chủ sở hữu Nhà nước trong các công ty này ? Vì theo những qui định bổ sung của luật công ty thì viên chức Nhà nước không được làm sáng lập viên hoặc quản trị viên trong công ty . Điều này đòi hỏi cùng với việc chuyển doanh nghiệp Nhà nước sang công ty cổ phần , Nhà nước phải gấp rút xây dựng một đội ngũ các nhà sáng lập viên độc lập không phụ thuộc hàng ngũ công chức ở các bộ chủ quản và địa phương để thay mặt Nhà nước quản lý các nguồn vốn trong các công ty cổ phần có sự tham gia của Nhà nước . Xét về mặt tổ chức , đội ngũ này sẽ thuộc một cơ quan của Nhà nước hoạt động như một công ty tài chính quốc gia ,chuyên trách quản lý và thực hiện các hoạt động đầu tư thông qua hình thức các công ty cổ phần , nhằm bảo toàn và phát triển sở hữu Nhà nước theo các yêu cầu điều tiết định hướng nền kinh tế . Bên cạnh đó , Nhà nước cũng cần xây dựng đội ngũ các nhà quản trị kinh doanh đủ năng lực hoạt động trong điều kiện mới , không phân biệt thuộc khu vực Nhà nước hay tư nhân . Trong nhiều trường hợp có thể thuê các nhà quản trị kinh doanh nước ngoài để học tập kinh nghiệm và kiến thức cũng như keeu gọi các nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phiếu của các doanh nghiệp Việt Nam .
* Các doanh nghiệp được lựa chọn để cổ phần hoá cần phải có sự giải quyết rõ ràng dứt điểm các vấn đề tồn đọng và tài chính và lao động trước khi chuyển sang cổ phần . Các vấn đề tài chính có thể gồm :
+ Các tài sản đang chờ thanh lý .
+ Các tài sản mất mát , thiếu hụt cầ phải truy cứu trách nhiệm rõ ràng và kết luận dứt khoát về cách giai quyết .
+ Các khoản nợ phải đòi ,phải trả . Cần phải xử lý các khoản này theo hướng của của các ban thanh toán nợ Trung ương . Nếu chưa song thì phải báo cáo đầy đủ để bộ chủ quản và cơ quan tài chính có biện pháp cụ thể xử lý trước khi tiến hành cổ phần hoá .
+ Các nguồn vốn liên doanh ,liên kết cần phải được thống kê và báo cáo đầy đủ để bộ chủ quản và cơ quan tài chính xử lý . Hoặc là chuyển thành vốn góp trong các công ty cổ phần ,hoặc sẽ chuyển thành phần nợ để Nhà nước chịu trách nhiệm thanh toán sau . Đối với các liên doanh với nước ngoài cũng có thể giai quyết theo hướng này .
* Các doanh nghiệp thực hiện phương pháp bán cổ phiếu cần thực hiện công khai , rõ ràng , thủ tục đơn giản dễ hiểu đối với mọi người . Về cơ bản có thể vận dụng một hoặc kết hợp ba phương phương pháp cổ phần hoá sau :
+ Bán cho các đối tượng xác định trước , áp dụng cho các doanh nghiệp có bộ máy quản lý yếu kém , các đối tượng được lựa chọn thường đóng vai trò những cổ đông chủ lực để tạo lập cơ sở cho việc tiếp tục cổ phần hoá rộng rãi sau này. Vì vậy , thường là những người có vốn , có trình độ kĩ thuật hoặc có kinh nghiệm về quản lý , áp dụng phương pháp này sẽ được chuyển thành công ty cổ phần tư nhân .
+ Bán rộng rãi cho mọi đối tượng , áp dụng cho các doanh nghiệp có thành tích kinh doanh khả quan , mức độ lợi nhuận cao . Đối với những doanh nghiệp này , mức giá cổ phiếu cần phải được nghiên cứu cụ thể theo quan hệ cung cầu của thị trường của những người mua tiềm năng .
+ Bán cho nội bộ cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp , áp dụng cho các doanh nghiệp quy mô nhỏ và họ có khả năng mua đại bộ phận cổ phiếu của doanh nghiệp . Việc bán cổ phiếu có thể được bán tực tiếp tại trụ sở chính và các chi nhánh của doanh nghiệp hoặc uỷ thác cho các ngân hàng ,các công ty tài chính làm đại lý .
2. Giải pháp thúc đẩy cổ phần hoá .
2.1. Hoàn thiện việc xác định giá trị doanh nghiệp và giải quyết những tồn đọng về tài chính .
Phân loại tài sản của Nhà nước đã đầu tư cho doanh nghiệp để có phương án xử lý thích hợp . Công ty cổ phần tiếp nhận những tài sản phù hợp với phương án kinh doanh mới , Nhà nước sẽ điều chuyển cho doanh nghiệp khác hoặc tổ chức bán đấu giá những tài sản còn lại để thu hồi lại vốn , không ép buộc công ty phải tiếp nhận lại toàn bộ tài sản Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp .
+ Tài sản doanh nghiệp vay vốn đầu tư và đã hoàn trả hết vốn vay nên chia thành hai phần : một phần tính vào vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp , phần còn lại tính cho người lao động trong doanh nghiệp coi đó là phần Nhà nước ưu đãi khuyến khích tích cực , chủ động của tập thể người lao động trong phát triển doanh nghiệp .
+ Đổi mới tổ chức xác định giá trị doanh nghiệp , thu hút các chuyên gia thực sự có năng lực vào đánh giá tài sản và đề cao vai trò của đại diện doanh nghiệp trong việc xác định giá trị doanh nghiệp ,mở rộng phân cấp trong việc quyết định giá trị doanh nghiệp . Theo nguyên tắc" Cơ quan gia quyết định thành lập doanh nghiệp Nhà nước có quyền quyết định giá trị doanh nghiệp khi chuyển đổi hình thức sở hữu , không kể giá trị doanh nghiệp ở mức nào " . Điều này sẽ tạo điều kiện thực tế rút ngắn thời gian chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần .
2.2. Hoàn thiện chính sách ưu đãi với người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hoá .
Xác định phạm vi ưu đãi với người lao động trong doanh nghiệp chuyển thành công ty cổ phần bằng việc cho hẳn người lao động một số cổ phần theo thâm niên và mức độ cống hiến của họ ; điều này khẳng địnhcông lao đóng góp của người lao động trong quá trình xây dựng phát triển doanh nghiệp Nhà nước . Hơn nữa , nó cũng đảm bảo cho những người lao động không đủ năng lực tài chính cũng có thể sở hữu công ty cổ phần .
Tuy nhiên có thể đánh giá đúng công lao đóng góp của mỗi cán bộ , công nhân cần quy định cụ thể mức ưu đãi đối với mỗi loại ngành nghề và lĩnh vực hoạt động . Sự điều chỉnh này nhằm hướng tới sự công bằng hơn , khuyến khích người lao động gắn bó với ngành nghề , đặc biệt là những ngành nghề có yêu cầu kĩ thuật cao , độc hại .
+ Do mức sống và mức giá sinh hoạt của các vùng rất khác nhau vì vậy nên điều chỉnh tiêu chuẩn xác định lao động nghèo trong doanh nghiệp để hướng ưu đãi mua chịu cổ phiếu và trả chậm cho Nhà nước theo hướng phân biệt teo vùng .
+ Sử dụng có hiệu quả quỹ hỗ trợ cổ phần hoá và sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước trong việc giải quyết lao động dôi dư : Hỗ trợ kinh phí để đào tạo lại, trợ cấp cho người lao động tự nguyện thôi việc .
+ Xoá bỏ qui định buộc mức khống chế tối đa cổ phần mà cán bộ chủ chốt được mua nhằm mục tiêu huy động vốn . Để bảo đảm hạn chế chênh lệch về thu nhập , một mặt Nhà nước hỗ trợ người lao động trong việc mua cổ phần; mặt khác Nhà nước cần có chính sách thích hợp để điều tiết thu nhập của những người có thu nhập cao .
2.3. Đổi mới tổ chức chỉ đạo cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước .
+ Xác định doanh nghiệp chuyển thành công ty cổ phần trên cơ sở phương án sắp xếp lại và đổi mới quản lý các doanh nghiệp Nhà nước không chờ đợi sự tự nguyện đăng kí của các doanh nghiệp mà kết hợp giữa chỉ định của cơ quan chủ quản với việc tuyên truyền , vận động cổ phần hóa .
+ Xây dựng và chỉ đạo thực hiện kế hoạch cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước . ở cơ quan chủ quản của doanh nghiệp , kế hoạch này được xây dựng trên cơ sở phương án sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước và xác định rõ danh sáchdoanh nghiệp sẽ chuyển thành công ty cổ phần , các bước công việc và tiến độ thời gian thực hiện , phân công trách nhiệm theo dõi và chỉ đạo . ở doanh nghiệp , kế hoạch này biểu hiện dưới dạng sơ đồ trong đó xác định rõ các công việc phải làm , tiến độ thời gian , phân công trách nhiệm theo dõi thực hiện .
+ Hoàn thiện các văn bản mẫu về hướng dẫn phương án kinh doanh và điều lệ công ty cổ phần .
2.4. Tạo khuôn khổ pháp lý ngày càng đồng bộ hơn cho tổ chức và hoạt động của công ty cổ phần .
+ Chú trọng tới việc hướng dẫn thi hành các điều khoản về công ty cổ phần trong luật doanh nghiệp mới có hiệu lực thi hành từ 1/1/2000 . Trên cơ sở đó giúp các công ty cổ phần điều chỉnh lại điều lệ cho phù hợp với qui định mới .
+ Hình thành và sớm đưa thị trường chứng khoán vào hoạt động . Đây là môi trường quan trọng giúp công ty cổ phần tạo vốn khi thành lập và tăng vốn trong quá trình hoạt động .
Kết luận
Như vậy , cổ phần hoá đã và đang là vấn đề nóng bỏng của nền kinh tế nước ta hiện nay . Sau những thành tựu đạt được từ công cuộc cổ phần hoá bước đầu thì trong thời gian tới Đảng và Nhà nước cần phải có những biện pháp , chính sách rõ ràng để mở rộng và đẩy nhanh công cuộc cổ phần hoá nhằm đưa nền kinh tế nước ta phát triển .
Có thể nói cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước đã giải quyết hàng loạt vấn đề bức xúc đối với nền kinh tế nước ta hiện nay như : vấn đề vốn , lao động , đội ngũ quản lý doanh nghiệp - đó vẫn là những vấn đề cần thiết để cho doanh nghiệp nói riêng cũng như nền kinh tế nói chung đi lên .
Hiện nay , công cuộc cổ phần hoá không chỉ còn là vấn đề của riêng Đảng , Nhà nước mà nó là công cuộc chung của toàn xã hội , toàn thể công nhân lao động , tầng lớp người lao động là động lực thúc đẩy cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước . Vì vậy , Đảng và Nhà nước phải có những chính sách thu hút sự quan tâm của người lao động vào công cuộc cổ phần hoá ; chỉ có như vậy tiến trình cổ phần hoá mới diễn ra nhanh chóng và rộng rãi ./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35008.doc