Đề tài Doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần

- Các doanh nghiệp thuộc nhóm 1, một số doanh nghiệp nhóm 2 không có khả năng sinh lãi và những doanh nghiệp lớn quan trọng, Nhà nước quản lý thông qua hội đồng quản trị quốc gia. Đối với số doanh nghiệp này sẽ không có cơ quan quản lý Nhà nước cấp trên trực tiếp. Hội đồng quản trị quốc gia được Chính phủ bổ nhiệm hoặc uỷ quyền cho một cơ quan của Chính phủ bổ nhiệm làm đại diện chủ sở hữu Nhà nước đối với doanh nghiệp. Hội đồng quản trị trong khuôn khổ pháp luật, theo định hướng phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước để quản lý doanh nghiệp bằng cách giao nhiệm vụ cụ thể, bổ nhiệm giám đốc điều hành kinh doanh của doanh nghiệp để thực hiện được mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra. - Doanh nghiệp còn lại thuộc nhóm 2 và nhóm 3 có khả năng sinh lãi thì áp dụng hình thức Công ty hoá. Các cổ đông của Công ty là mọt số tổ chức cơ quan Nhà nước, được Chính phủ giao thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu một phần vốn trong doanh nghiệp lớn hơn các cổ đông khác. Các doanh nghiệp Nhà nước được Công ty hoá sẽ áp dụng hoàn toàn mô hình tổ chức, cơ chế quản lý theo luật Công ty. Vấn đề khác biệt của doanh nghiệp Nhà nước Công ty hoá với các Công ty thuộc các thành phần kinh tế khác là lãi ròng là của Nhà nước, các cổ đông Nhà nước tham gia quản lý Công ty có nhiệm vụ nộp lãi vào ngân sách Nhà nước. Với cách làm như vậy, doanh nghiệp vẫn là của Nhà nước, nhưng thay vì một cơ quan độc quyền quản lý sẽ là một số cơ quan tham gia quản lý, giám sát lẫn nhau, bàn bạc với nhau, tránh độc quyền dẫn đến các tiêu cực ảnh hưởng đến lợi ích quốc g ia.

doc47 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1541 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hua lỗ và 12% không có loại nhuận tức là 1/4 doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh không có lãi và năm1992 còn bị thua lỗ 451 tỷ đồng trong số này có 1142 doanh nghiệp đã thành lập lại theo nghị định 388 cổ phần. Theo ban thanh toán công nợ, hiện còn 3000 tỷ đồng vốn tín dụng của các doanh nghiệp Nhà nước đã giải thế, không đòi được về ngân sách phải gánh chịu. Nếu tính cả giá trị tài nguyên, đất đai nhà xưởng được sử dụng mà hiện nay chưa tính hoặc chưa đủ mức hiệu quả sản xuất kinh doanh còn thấp nữa. Nhiều nguyên nhân làm cho hiệu quả của các doanh nghiệp Nhà nước thấp song trong đó có một nguyên nhân hết sức quan trọng là tiêu hao vật chất quá cao. Năm 1990 Năm 1991 Năm 1992 - Tiêu hao vật chất trong tổng sản phẩm xã hội toàn nền kinh tế 48,68 49,55 51,69 - Doanh nghiệp Nhà nước 60,06 60,86 61,34 Ngoài doanh nghiệp Nhà nước 43,07 42,97 44,81 * Sự đóng góp của doanh nghiệp Nhà nước cho ngân sách chưa tương xứng với phần đầu tư của Nhà nước cho nó, cũng như với tiền lực của doanh nghiệp Nhà nước Doanh nghiệp Nhà nước sử dụng phần lớn trang thiết bị hiện đại của nền kinh tế quốc dân, hầu hết cán bộ được đào tạo được vay 80% tổng số vốn tín dụng và đã vay nước ngoài không kể trong đó nguồn thu trong nước như sau: Năm 1990 Năm 1991 Năm 1992 - Nộp thuế 18,23 37,86 26,28 - Bán dầu thô 17,58 19,26 26,92 - Khấu hao cơ bản 4,01 2,36 10,33 Như + KHCB 22,24 40,22 36,61 Thuế + dầu thô + KHCB 39,82 39,48 57,53 Đóng góp cho ngân sách Nhà nước của doanh nghiệp gồm thuế bán dầu thô và KHCB. Thoạt nhìn ta thấy tỷ lệ khá cao nhưng nếu từ phần thuế tài nguyên và dầu thô ra chỉ thuế và KHCB băm 1999 các doanh nghiệp chỉ nội có 36,61% và nếu tính phần KHCB nửa thu phần nộp thuế của doanh nghiệp Nhà nước còn 26,28%. Con số này nếu so với tỷ lệ tổng sản phẩm xã hội của doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế là 41,61% thì không phải là cao. Nếu trong thuế ta trừ đi phần thuế tiêu thụ đặc biệt thu thông qua doanh nghiệp Nhà nước chứ không phải doanh nghiệp Nhà nước gánh chịu mà do người tiêu dùng trả trừ phần của doanh nghiệp Nhà nước thực tế nộp ngân sách còn nhỏ nữa. Nếu chúng ta lấy phần đóng góp của doanh nghiệp Nhà nước cho ngân sách Nhà nước trở đi phần ngân sách đã đầu tư trở lại cho doanh nghiệp Nhà nước thì tỷ lệ còn thấp hơn nhiều nữa. * Tình trạng mất và thất thoát lớn đang diễn ra hết sức nghiêm trọng. Tổng vốn kinh doanh của tất cả các doanh nghiệp Nhà nước năm 1992 so với năm 1991 tăng 15,66% nếu tính tỷ lệ phạm phát năm 1992 là 17,6% thì vốn của doanh nghiệp đã giảm đi một cách tương đối so với năm1991 Trong tổng số vốn mà doanh nghiệp Nhà nước có được tính đến 31.12.92 còn bao gồm 1 phần vốn vay tín dụng trong năm 92. Nếu trừ đi số vốn tín dụng này thì số vốn của các doanh nghiệp chỉ còn bằng 91,43% so với 91. Theo điều tra ngày 1.6.1993 của tổng cục thống kê khả năng bảo toàn vốn và phát triển vốn không thực hiện được số tăng thấp hơn tỷ lệ trượt giá. Nếu tránh sự giảm giá của đồng vốn do lạm phát thì tổng số vốn của doanh nghiệp Nhà nước thật sự mất đi là 22,26% * Việc quản lý đối với hệ thống doanh nghiệp Nhà nước còn quá yếu ở tầm vĩ mô, thiếu quy hoạh, hướng dẫn và trợ giúp đắc lực, nhiều chính sách còn gò bó không thích hợp và thay đổi đột ngột, thủ tục phiền hà, cách giải quyết tuỳ tiện chưa tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp Nhà nước. Việc đào tạo, bồi dưỡng cho giám đốc bỏ đội ngũ quản lý về kinh tế thị trường, về các chính sách mới hầu như bị lãng quên và không có cơ quan nào đúng ra tổ chức, điều hoà phối hợp, việc phân công phân nhiệm giữa bộ quản lý ngành và bộ tài chính không đủ rõ ràng và cụ thể. Đặc biệt nghiêm trọng là tình hình buông lỏng quản lý tài chính của Nhà nước mất vai trò thực sự là người chủ sở hữu. - Đất đai, TP, nhà xưởng và một phần trang thiết bị không được hạch toán, hạch toán không đủ. - Việc chuyển giao vốn, liên doanh, liên kết vay nợ trong nước và ngoài nước diễn ra khá tuỳ tiện - Không có chế độ giám sát giá hợp đồng, quản lý phi lợi nhuận bình quân, chưa có chế độ kiểm toán, báo cáo tài chính công khai. - Động lực để doanh nghiệp Nhà nước đóng góp cho Nhà nước thấp hoặc không có, động lực vật chất theo chất độ cho giám đốc thấp. Hiện nay ở các doanh nghiệp Nhà nước còn tồn tại ít nhất 2 sổ sách chế độ chứng từ, biên lai hach toán, thống kê có tính hình thức và đối phó, thu nhập của người lao động và giám đốc kiểm soát được và không báo cáo trung thực quản lý phí, chi phí đi nước ngoài, trong nước, tiếp dân quà cáp quá cao so với thu thu nhập người lao động và hiệu quả. Nhiều giám đốc tham gia vào những hoạt động kinh doanh ngoài sự kiểm soát của doanh nghiệp, ngày càng phát hiện được nhiều sự lạm dụng, chiếm đoạt tài sản làm giầu cá nhân, buôn lậu, kinh doanh bất hợp pháp của doanh nghiệp. 4- Những nguyên nhân a- Tình trạng kém hiệu quả của các doanh nghiệp Nhà nước hậu quả tất yếu của những khuyết điểm trong việc hoạch định các chính sách phát triển kinh tế, công nghiệp hoá của những sai lầm trầm trọng trong bố trí cơ cấu kinh tế và áp dụng cơ chế quản lý kinh tế nhằm phát triển nền kinh tế tập trung, hiện vật, bao cấp, khép kín và hướng nội thay thế nhập khẩu. Trong hơn 40 năm qua, ở nước ta phát triển kinh tế quốc doanh đã được xem là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội và các doanh nghiệp Nhà nước đã được coi là cơ sở kỹ thuật của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Vì đồng nhất xã hội chủ nghĩa với công hữu và kinh tế quốc doanh, lẫn lộn gữa mục tiêu và phương tiện nên chúng ta đã phát triển tràn lan các doanh nghiệp Nhà nước và sự đóng góp của chúng đã không tương xứng với sự đầu tư của Nhà nước. Trong một thời gian dài, chúng ta đã mắc sai lầm định giải 1 bài toán quốc doanh trên nền tảng của hệ lý luận cũ, không hiện thực, chủ quan và duy ý chí về mô hình chủ nghĩa xã hội, mô hình phát triển và quản lý nền kinh tế xã hội chủ nghĩa theo quan điểm truyền thống, không thể tạo ra sự chuyển biến căn bản về năng suất, chất lượng và hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước nếu hệ quan điểm nước này vẫn làm cơ sở lý luận và thực tiễn cho những chính sách và chế độ quản lý doanh nghiệp Nhà nước. b- Chúng ta chậm và không cương quyết trong việc cải cách chế độ sở hữu trong doanh nghiệp Nhà nước Về mặt pháp, lý tài sản, tiền vốn trong các doanh nghiệp Nhà nước thuộc sở hữu toàn dân nhưng trên thực tế tính chất toàn dân của sở hữu trong doanh nghiệp Nhà nước bị hao mòn 1 cách nghiêm trọng. Do các hình thức cụ thể của sở hữu toàn dân về mặt kinh tế không được xác định nên hầu hết những người lao động trong các doanh nghiệp Nhà nước thờ ơ và xa cách vốn sở hữu toàn dân. Quan điểm sở hữu toàn dân là không phải của ai cả đã bén rễ ngày càng sâu sắc trong suy nghĩ và hành động của họ. Tình trạng không có ai là chủ sở hữu đích thực là nguyên nhân của sự tham nhũng của những nguyên nhân của sự tham nhũng của những người có chức có quyền và sự lãnh đạo thiếu trách nhiệm, thiếu kỷ cương, kỷ luật của người lao động là sự sút kém về năng suất chất lượng và hiệu quả, không trung thực trong công tác kế toán, thống kê, thiếu minh bạch trong phân phối thu nhập... trong doanh nghiệp Nhà nước c- Thiếu mô hình tổ chức và quản lý doanh nghiệp Nhà nước hữu hiệu theo những yêu cầu của nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Mô hình tổ chức của các xí nghiệp, liên hiệp các xí nghiệp, tổng Công ty mà chúng ta đã áp dụng từ hơn bốn thập niên qua là con đẻ của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, hiện vật, bao cấp và được nền kinh tế này nuôi dưỡng. Nó đã không đáp ứng với những đòi hỏi của nền kinh tế thị trường và đã bộc nộ rõ những khuyết tật của nó. - Nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải xác định về xác nhận rõ quyền sở hữu tài sản, tiền vốn trong doanh nghiệp nhưng ở tất cả các mô hình tổ chức và quản lý doanh nghiệp Nhà nước kể trên sở hữu đã trở thành vô chủ. - Trong nền kinh tế thị trường người có quyền quyết định mọi vấn đề chiến lược phát triển của doanh nghiệp Nhà nước là chủ sở hữu Nhà nước chứ không phải người lao động và đại diện công nhân viên chức của doanh nghiệp. - Người lao động trong các doanh nghiệp Nhà nước chỉ là người "làm công ăn lương" cho Nhà nước. Không thể trao cho người lao động và đại hội công nhân viên chức trong doanh nghiệp Nhà nước những quyết định của chủ sở hữu. Muốn trở thành một chủ sở hữu đích thực người lao động phải bỏ tiền mua cổ phần. Đã có một thời gian chúng ta có sai lầm là trao cho người lao động và đại hội công nhân viên chức nhưng thẩm quyền của người chủ sở hữu là Nhà nước. Trong nền kinh tế thị trường giám đốc doanh nghiệp Nhà nước là người làm thuê cho chủ sở hữu là Nhà nước. Nhưng trong các doanh nghiệp của ta, Giám đốc vừa có chức năng là giám đốc chủ vừa có chức năng là giám đốc điều hành. Hơn thế nữa, họ là một quan chức hành chính hơn là nhà kinh doanh thực thụ. Rất nhiều giám đốc doanh nghiệp Nhà nước không có kiến thức và không am hiểu nghề giám đốc bởi lẽ họ chưa bao giờ được đào tạo một cách có hệ thống. Việc trao cho giám đốc nhiều quyền lực trong đó đặc biệt là quyền lực của chủ sở hữu trong lúc không có cơ chế kiểm tra, giám sát hữu hiệu những hoạt động đã có một trong những nguyên nhân cơ bản của tình trạng lãng phí, tham nhũng nghiêm trọng tài sản tiền vốn của Nhà nước d- Không đồng thời tiến hành của cách hành chính, tạo ra bộ máy và thể chế của Nhà nước pháp quyền nhằm tạo môi trường hành chính và luật pháp thuận lợi của cách doanh nghiệp Nhà nước. 5- Doanh nghiệp Nhà nước trong tương lai: trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung và trong nền kinh tế thị trường ở đầu thập niên 90 chúng ta thấy rằng doanh nghiệp Nhà nước còn rất nhiều những tổn tại của sự phát triển của nó, vì vậy chúng ta phải đổi mới doanh nghiệp Nhà nước Để có quan điểm và các giải pháp hợp lý đối với doanh nghiệp Nhà nước cần nhận thức rõ bối cảnh hướng tới quá trình đổi mới và doanh nghiệp Nhà nước đó là: Nước ta phát triển nền kinh tế nhiều thành phần chưa được bao lâu do đó các thành phần kinh tế chưa chiếm lĩnh và giữ đúng vai trò của mình. Do đó việc đối với doanh nghiệp Nhà nước cũng có nghĩa là xác định tương quan hợp lý giữa doanh nghiệp Nhà nước và các thành phần kinh tế khác sao cho mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội lớn nhất cho đất nước. Các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh nói chung còn nhỏ lẻ, đang ở giai đoạn ban đầu của sự phát triển, chưa phát huy được tiềm năng để trở thành đối tượng và đối tác của doanh nghiệp Nhà nước. Doanh nghiệp Nhà nước chi kém hiệu quả, song do yếu tố lịch sử để lại nó đang buộc phải đóng vai trò lớn trong nền kinh tế quốc dân. Thực tiễn lao động đòi hỏi phải đổi mới doanh nghiệp Nhà nước căn bản nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội. Đó là một mâu thuẫn lớn song bắt buộc phải có giải pháp. Nói chung các quan hệ kinh tế quốc tế còn hạn hẹp kinh nghiệm chưa nhiều, do đó quan niệm cũ còn khá nặng nề trên thực tế còn tồn tại 2 khuynh hướng. Một mặt không muốn mạo hiểm tiếp tục duy trì từ cơ chế cũ để được bao cấp mặt khác tìm cách thoát khỏi cơ chế quản lý của Nhà nước. Cả 2 khuynh hướng đang làm trầm trọng thêm hơn trong nền doanh nghiệp Nhà nước Các thể chế pháp lý làm cơ sở cho chuyển nền kinh tế sang cơ chế thị trường nói chung và đổi mới doanh nghiệp Nhà nước nói riêng còn thiếu và kém hiệu lực, làm cho các doanh nghiệp thoát khỏi cơ chế cũ rất khó khăn. Quá trình đổi cùng một lúc phải giải quyết các vấn đề sau: Vốn, công nghệ, thị trường, lao động trình độ kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, riêng doanh nghiệp Nhà nước không thể nào đảm đương nổi. Bối cảnh trên đặt ra những mâu thuẫn, những khó khăn rất lớn trong việc đổi mới doanh nghiệp Nhà nước, một mặt phải cương quyết đổi mới, mặt khác phải có giải pháp và bước đi phù hợp với trình độ và thực tế lịch sử. Để thấy được rõ sự phát triển của doanh nghiệp Nhà nước trong tương lai thông qua sự đổi mới của nó chúng ta có những quan điểm cơ bản sau: a- Trước hết là quan điểm về vai trò chỉ đạo của doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế quốc dân. Doanh nghiệp Nhà nước là một hệ thống của kinh tế Nhà nước, do Nhà nước trực tiếp quản lý với tư cách vừa thực hiện chức năng quản lý của Nhà nước vừa là đại diện chủ sở hữu. Sức mạnh và vai trò chủ đạo chi phối của doanh nghiệp Nhà nước được tạo bởi sự hoạt động có hiệu quả, vai trò đó có sự điều chỉnh tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của nền kinh tế. Doanh nghiệp Nhà nước có vai trò chủ đạo theo nghĩa là công cụ vật chất của Nhà nước để chi phối và điều tiết sự phát triển cuả toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Vai trò chủ đạo của doanh nghiệp Nhà nước gắn với vai trò quản lý của nó đối với nền kinh tế thị trường. Về bản chất doanh nghiệp Nhà nước là một bộ phận quan trọng cấu thành hệ thống kinh tế Nhà nước, một mặt nó phải hoạt động bình đẳng cơ chế thị trường, mặt khác tuỳ thuộc vào từng ngành từng lĩnh vực cụ thể mà doanh nghiệp Nhà nước chiếm lĩnh các vị trí then chốt hoặc đóng vai trò chủ chốt thực hiện chức năng kinh tế xã hội, góp phần đảm bảo cho kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo và định hướng về mặt xã hội vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước trong đó doanh nghiệp Nhà nước là một bộ phận quan trọng không phải là vấn đề riêng có ở chủ nghĩa xã hội đặc biệt là trong cơ chế thị trường. Nhà nước sử dụng hệ thống doanh nghiệp Nhà nước như một công cụ vật chất quan trọng để chi phối điều tiết sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế theo định hướng chiến lược. Định hướng xã hội chủ nghĩa được quyết định thông qua hiến pháp, đường lối và chiến lược phát triển chung cho toàn bộ nền kinh tế nó chế định cơ chế hoạt động và nghĩa vụ xã hội của tất cả các thành phần kinh tế, bao gồm hệ thống kinh tế Nhà nước nói chung doanh nghiệp Nhà nước nói riêng cũng phải được xây dựng theo định hướng đó và là công cụ vật chất cùng với hệ thống các chính sách tài chính nói chung, thuế, giá đầu tư và các công cụ đòn bẩy khác của Nhà nước để chi phối, điều tiết nó phát triển của tất cả các thành phần kinh tế theo hướng nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội của toàn bộ nền kinh tế. Nếu quan niệm về vai trò chủ đạo của doanh nghiệp Nhà nước đồng nhất với vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước, coi quy mô và tỷ trọng của nó là một tiêu thức hàng đầu, thoát lý với hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế thì tất yếu dẫn đến sự phát triển tràn lan, tuỳ tiện ở bộ phận kinh tế nào tự tạo ra một gánh nặng cho doanh nghiệp, làm suy yếu chính vai trò chủ đạo của nó. Như vậy doanh nghiệp Nhà nước sẽ góp phần làm cho kinh tế Nhà nước thực hiện tất cả vai trò chủ đạo, vai trò điều tiết đối với với nền kinh tế theo quan điểm phát triển chỉ khi: - Doanh nghiệp Nhà nước hoạt động thực sự có hiệu quả góp phần tăng ngân sách Nhà nước hoặc giảm tối đa phần bù lỗ - Doanh nghiệp Nhà nước hoạt động có hiệu quả trong lĩnh vực then chốt chi phối nền kinh tế quốc dân. - Doanh nghiệp Nhà nước nắm vai trò chủ chốt trong công nghệ tiến tiến cao cấp - Doanh nghiệp Nhà nước đóng vai trò liên kết được các thành phần kinh tế - xã hội của toàn nền kinh tế quốc dân. Đồng thời làm gương lá chắn cho việc thực hiện nghiêm chỉnh luật pháp và các chế độ chính sách của Nhà nước - Doanh nghiệp Nhà nước thực hiện có hiệu quả kinh tế đối ngoại tạo chỗ dựa vững chức cho việc thực hiện chiến lược mở cửa. Theo những tiêu chức tên những doanh nghiệp Nhà nước không có khả năng góp phần làm cho kinh tế Nhà nước mạnh lên thì cũng có nghĩa là nó không tham gia thực hiện vai trò chủ đạo điều tiết kinh tế mà ngược lại b- Quan diểm về mục tiêu và phương hướng trọng tâm hòng đổi mới doanh nghiệp Nhà nước. Mục tiêu của quá trình đổi mới doanh nghiệp Nhà nước là từng bước phát huy có hiệu quả vai trò của các doanh nghiệp Nhà nước như một công cụ vật chất quan trọng của Nhà nước để chi phối, điều tiết sự phát triển của nền kinh tế theo định hướng chiến lược. Do đó đòi hỏi doanh nghiệp Nhà nước phải trên cơ sở hiệu quả tổng thể về kinh tế xã hội đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân phương hướng trọng tâm. Nhất là, về cơ cấu ngành của doanh nghiệp Nhà nước, lên phát triển tồn tại 2 loại doanh nghiệp Nhà nước, nhóm phục vụ các nhu cầu công cộng hoặc một số lĩnh vực Nhà nước phải độc quyền cần vốn lớn công nghệ cao, hiệu quả đồng vốn thấp các ngành kinh tế khác không muốn làm hoặc không có điều kiện Nhóm sản xuất kinh doanh, với nhóm này trong vài năm trước mắt cần cương quyết xử lý ngay những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước đang tồn tại để từng bước đa dạng hoá sở hữu và chuyên sở hữu. Cần có chính sánh khuyến khích nhân dân đầu tư vào sản xuất kinh doanh các mặt hàng nhóm này để thay thế cho doanh nghiệp Nhà nước đồng thời có thể chặt chẽ khi cho ra đời doanh nghiệp Nhà nước mới. Cơ cấu ngành của bộ phận doanh nghiệp Nhà nước không bất biến mà có sự thay đổi phụ thuộc vào các yêu cầu chi phối, điều tiết của Nhà nước đối với nền kinh tế trong từng thời kỳ. Vì vậy cần định kỳ rà xoát lại bộ phận doanh nghiệp Nhà nước hoạt động công ích để đầu tư của Nhà nước ngày càng tập trung vào những bộ phận chủ chốt, trọng yếu nhất. Hai là về đổi mới quan hệ sở hữu. Đối với quan hệ sở hữu trong các doanh nghiệp Nhà nước phải nhằm 3 mục tiêu sau: - Khắc phục trạng thái vô chủ cũng như nhiều chủ cho doanh nghiệp Nhà nước. Phát huy cao nhất nhân tố con người - Sử dụng có hiêu quả nhất cả tiềm lực vật chất và tiềm lực con người. - Tạo ra cơ chế năng động thích ứng với cơ chế thị trường để doanh nghiệp Nhà nước hoạt động thực sự có hiệu quả. Do đó phải xác định người đại diện của chủ sở hữu của doanh nghiệp Nhà nước, tách biệt một cách rõ ràng quyền sở hữu với quyền quản lý - kinh doanh, thực hiện đa dạng các hình thức, cấp độ sở hữu tuỳ thuộc vào từng lĩnh vực và tùng quy mô, trình độ cụ thể của các doanh nghiệp Nhà nước nhằm thu hút và tạo động viên nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Ba là, về cơ chế kinh tế, phải đồng thời đổi mới các chính sách, tổ chức quản lý vĩ mô của Nhà nước và cơ chế vận hành, tổ chức quản lý nội bộ của ccá doanh nghiệp Nhà nước nhằm vào một số yêu cầu sau: - Doanh nghiệp Nhà nước nhất thiết phải hoạt động theo cơ chế thị trường, sự tăng trưởng hay phá sản do hiệu quả kinh tế quyết định. Đầu tư của Nhà nước cho các doanh nghiệp Nhà nước cũng phải theo phương thức đầu tư kinh doanh Nhà nước cần có chính sách giúp dỡ, tài trợ cho một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trong một số ngành nghề và mục tiêu chung của xã hội nhưng phải gắn với kết quả hoạt động cụ thể, không bao cấp. - Doanh nghiệp Nhà nước cũng phải hoạt động theo một luật pháp chung khác thành phần kinh tế, bình đẳng với các thành phần kinh tế khác, phát triển cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, kiên quyết chống độc quyền trong kinh doanh trừ những trường hợp đặc biệt liên quan đến an ninh quốc phòng chính trị xã hội, phải tạo lập cho được cơ sở pháp lý cho sự cạnh tranh trung thực để đứng vững và phát triển cơ sở hiệu quả giữa các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế. Phải tạo ra một cơ chế về trách nhiệm và quyền lợi rõ ràng bảo đảm doanh nghiệp Nhà nước thực sự là có chủ. Xác định rõ quyền hạn và trách nhiệm và đại diện chủ sở hữu của Nhà nước đối với quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời tạo cơ chế bảo đảm sự năng động, tự chủ của doanh nghiệp trên nguyên tắc bảo đảm và phát triển vốn do Nhà nước giao, tuân thủ pháp luật, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước và không ngừng cải thiện đời sống của người lao động trong các doanh nghiệp Nhà nước, người lao động có vai trò làm chủ xã hội của một công dân như mọi công dân khác đồng thời, lao động, hưởng thụ, theo đóng góp của mình. - Phải tiến hành đồng bộ việc đổi mới doanh nghiệp Nhà nước với cải cách hệ thống tài chính, ngân hàng, thuế ... và cải cách nền hành chính quốc gia. xoá bỏ sự phân biệt kinh tế trung ương, địa phương về lợi ích và nghĩa vụ kinh tế, sớm xoá bỏ chức năng chủ quản của các bộ ngành. Giao cho Bộ tài chính chức năng chủ quản về vốn đối với toàn bộ phần vốn của Nhà nước và các Công ty cổ phần. Tổ chức các Công ty tài chính để tiến hành các hoạt động đầu tư theo nguyên tắc kinh doanh. Những cải cách này nhằm xác định một cách rõ ràng nghĩa vụ và quyền lợi của doanh nghiệp Nhà nước đối với Nhà nước và xã hội, đồng thời xác lập mặt trận pháp lý cần thiết cho các doanh nghiệp Nhà nước thực sự làm chủ kinh doanh. c : Quan điểm gắn mục tiêu kinh tế với xã hội đảm bảo lợi ích chính đáng của người lao động và lợi ích Nhà nước. Chủ trương đổi mới doanh nghiệp Nhà nước là nhằm nâng cao vai trò hiệu quả kinh tế các khu vực kinh tế Nhà nước, hỗ trợ tích cực cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển theo định hướng của Đảng và Nhà nước, trong đó mục tiêu cao nhất là lợi ích của người lao động. Các giải pháp đổi mới doanh nghiệp Nhà nước phải đảm bảo phát huy tính tích cực sáng tạo của người lao động trong doanh nghiệp Nhà nước gắn bó chặt chẽ giữa quyền lợi với nghĩa vụ, Đấu tranh với những lệch lạc coi lao động là những kẻ làm thuê đơn thuần, hình thành những lợi ích phương hại xa lạ với sở hữu xã hội chủ nghĩa về TLSX. d: Quan điểm về bước đi trong đổi mới doanh nghiệp Nhà nước: Do đặc diểm lịch sử của quá trình hình thành phát triển và những khó khăn trong bước chuyển sang cơ chế thị trường, việc đổi mới doanh nghiệp Nhà nước không đơn thuần là vấn đề kinh tế mà còn có tác động về Công ty xã hội và uy tín của đảng trước dân. Đổi mới doanh nghiệp Nhà nước phải tiến hành một cách cương quyết nhưng phải có một giải pháp đồng bộ và bước đi hợp lý, chắc chắc phù hợp với quy luật khách quan về điều kiện cụ thể của đất nước. ở nước ta, các doanh nghiệp Nhà nước hình thành và phát triển từ sau cách mạng tháng 8 nhất là sau 1954. Bộ phận kinh tế này đã có đóng góp to lớn về kinh tế, chính trị xã hội. Mặc dù kém hiệu quả vì nó phát triển tràn nan nhưng do yếu tố lịch sử để lại trên thực tế các doanh nghiệp Nhà nước đang giữ vị trí then chốt tạo ra tổng sản phẩm xã hội và đóng góp cho ngân sách Nhà nước lớn. Hoạt động trong hệ thống này gồm đông đảo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật công nhân lành nghề được đào tạo có hệ thống, đó là thực tế khách quan cần được nhìn nhận và xử lý một cách đúng đắn, phù hợp với tình hình đất nước, không thể đánh giá đơn giản theo một chiều, xử lý hoặc dập khuôn máy móc theo kinh nghiệm của nước khác. Việc đổi mới doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta gắn liền với yêu cầu đổi mới kinh tế xã hội nói chung, trong đó đặc biệt là thực hiện chủ trương phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN và nhận thức mới về vai trò của doanh nghiệp Nhà nước trong cơ chế thị trường. Trên thị trường hiện nay ở nước ta cũng không thể đổi mới doanh nghiệp Nhà nước một cách ồ ạt vì đang còn thiếu nhiều điều kiện và tiền đề quan trọng như: Chúng ta mới bắt đầu thực hiện chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, các thành phần kinh tế còn nhỏ bé, khi có nhiều tiềm năng trên từng lĩnh vực. Các thể chế pháp lý còn chưa đủ để giải quyết đồng bộ các vấn đề về vốn, công nghệ lao động, thị trường, nên đổi mới doanh nghiệp Nhà nước còn nhiều khó khăn, do vậy nếu không có bước đi hợp lý thì không đạt hiệu quả như mong muốn và ngược lại sẽ dẫn đến sáo trộn rối ren, tự gây thêm khó khăn và nguy cơ đổ vỡ. Do đó muốn đôi mới doanh nghiệp Nhà nước phải thực hiện song song hai hướng: Một là, tìm mọi giải pháp để nâng cao các doanh nghiệp Nhà nước đang hoạt động Hai là, cơ cấu lại doanh nghiệp Nhà nước một cách vững chắc. Việc đổi mới doanh nghiệp Nhà nước phải tiến hành kiên trì và bước đivững chắc trong khoảng thời gian 5 đến 10 năm. ở một số năm đầu tỏng sản phẩm quốc nội của bộ phận doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế quốc dân không những không giảm mà còn có thể tăng lên do Nhà nước đầu tư vào những ngành nghề mới, kết quả đối mới doanh nghiệp Nhà nước và do các thành phần kinh tế khác còn chiếm tỷ trọng ít trừ một số doanh nghiệp Nhà nước kém hiệu quả, rõ ràng là gánh nặng cho ngân sách buộc phải xử lý ngay. Đi liền với nó là biện pháp các chính sách xã hội cho người lao động không phải là đơn giản vì vậy không thể chuyển ngay doanh nghiệp Nhà nước sang các thành phần kinh tế khác khi nó đang làm ăn kém hiệu quả mà cần có thời gian vừa đổi mới vừa củng cố, nâng cao hiệu quả kinh tế, tạo cho các doanh nghiệp đó cơ sức hấp dẫn để từ chuyển đổi, đa dạng hoá sử hữu trong cơ chế thị trường. Đối với từng loại doanh nghiệp, từng ngàng cụ thể vừa căn cứ vào vị trí kinh tế - xã hội và hiệu quả thực tế đồng thời căncứ vào mục tiêu cụ thể đặt ra cho từng loại doanh nghiệp Nhà nước trong thời kỳ đổi mới mà lựa chọn các giải pháp, hình thức và bước đi thích hợp. Với tư cách là đại diện chủ sở hữu tài sản, vốn giao cho các doanh nghiệp Nhà nước để sản xuất xây dựng, Nhà nước phải có vai trò quyết định trong việc đổi mới, chỉnh đốn bộ phận kinh tế đó nhưng không áp đặt bằng mệnh lệnh hành chính mà chủ yếu thông qua chính sách, pháp luật nhất là chính sách đối với người sản xuất kinh doanh, người lao động giỏi tạo động lực kinh tế - xã hội cho quá trình đó được tiến hành tự giác ngay tại từng đơn vị cơ sở. C- kết luận Giải pháp, bước đi và tổ chức thực hiện Từ những phân tích tình hình thực trạng và quan điểm về doanh nghiệp Nhà nước, trên đây, các giải pháp đối với doanh nghiệp bao gồm: - Cơ cấu lại doanh nghiệp Nhà nước, xác định cơ cấu hợp lý và có hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước trong thời gian tới trong tổng thể nền kinh tế nhiều thành phần dang mở rộng hợp tác quốc tế. - Kiện toàn và tiếp tục đổi mới quản lý doanh nghiệp Nhà nước đối với những doanh nghiệp Nhà nước cần tiếp tục được duy trì. - Đa dạng hoá sở hữu những doanh nghiệp Nhà nước không cần duy trì 100% sở hữu Nhà nước bằng các hình thức và bước đi thích hợp. - Đổi mới các chính sách vĩ mô, tạo môi trường kinh tế thuận lợi cho các doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp Nhà nước hoạt động. - Cải cách hành chính, đổi mới quan hệ giữa cơ quan Nhà nước và doanh nghiệp Nhà nước. - Các bảo đảm xã hội cho người lao động - Công tác bồi dưỡng và đào tạo cán bộ quản lý doanh nghiệp Nhà nước Một số giải pháp phải được xây dựng thành một chương trình mục tiêu cụ thể, có cơ quan chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện. I- Cơ cấu lại doanh nghiệp Nhà nước Đối với tất cả các nước, việc cơ cấu lại nền kinh tế luôn được đặt ra sau những giai đoạn phát triển nhất định hay do những biến đọng của kinh tế thế giới, kể cả đối với một nền kinh tế có thị trường hoàn chỉnh. Yêu cầu cơ cấu lại doanh nghiệp Nhà nước cảng trở nên cấp bách do: - Chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước - Do mở rộng hợp tác quốc tế. - Do những tồn tại của bản thân doanh nghiệp Nhà nước về cơ cấu và cơ chế quản lý Việc cơ cấu lại nền kinh tế quốc dân nói chung, cơ cấu khu vực doanh nghiệp Nhà nước nói riêng nhằm tạo ra một nền kinh tế quốc dân có cơ cấu hợp lý, có hiệu quả kinh tế - xã hội cao, đòi hỏi phải có những giải pháp, bước đi phù hợp với điều kiện của Việt Nam và giai đoạn hiện nay phát triển của nền kinh tế. Trước hết cần xác định nội dung cụ thể của vai trò chủ đạo và chi phối của doanh nghiệp Nhà nước trong những ngành và lĩnh vực cần thiết. Có thể phân loại doanh nghiệp Nhà nước thành các nhóm theo tiêu thức tỷ lệ vốn của Nhà nước có trong từng doanh nghiệp (tỷ lệ vốn sẽ quyết định mức độ can thiệp vào quản lý, điều hành doanh nghiệp của chủ vốn). Cụ thể là: 1- Những doanh nghiệp không cho tư nhân đầu tư dù ở mức góp vốn thấp. Đó là những doanh nghiệp về an ninh, quốc phòng, những doanh nghiệp có tính năng đặc biệt quan trọng cần thiết phải giữ bí mật quốc gia. Đối với số doanh nghiệp Nhà nước luôn luôn duy trì 100% vốn của mình. Những doanh nghiệp khác, việc Nhà nước giữ 100% vốn không có tính nguyên tắc mà tuỳ thuộc vào khả năng đầu tư của kinh tế tư nhân. 2- Những doanh nghiệp sản xuất và cung ứng những hàng hoá và dịch vụ công cộng. Trong loại này, một số doanh nghiệp ít có khả năng sinh lãi, vốn đầu tư lớn, như thuỷ lợi, cấp thoát nước, vệ sinh môi trường, cây, con giống... ngoài Nhà nước, các thành phần kinh tế ít có khả năng đầu tư. Vì lợi ích của nền kinh tế quốc dân, Nhà nước vẫn phải duy trì, phát triển và đầu tư 100% vốn. Một số doanh nghiệp khác, chủ yếu thuộc lĩnh vực đầu tư cơ sở hạ tầng, đòi hỏi vốn lớn, tuy trong giai đoạn hiện nay chưa sinh lãi, song với sự phát triển của nền kinh tế; khả năng sinh lãi sẽ xuất hiện. Do vậy trước mắt Nhà nước vẫn phải đầu tư 100% vốn; sau này nếu các thành phần kinh tế khác có khả năng đầu tư, thù tuỳ thuộc vào vị trí của từng doanh nghiệp cụ thể; tuỳ thuộc vào mức độ cần thiết phải có sự can thiệp của Nhà nước nhiều hay ít mà ấn định tỷ lệ vốn của doanh nghiệp có trong doanh nghiệp. Một số doanh nghiệp cũng sản xuất và cung ứng hàng hoá và dịch vụ công cộng, tuy cũng đòi hỏi vốn lớn, có khả năng sinh lãi. Như sản xuất và cung ứng điện, dầu, hoá dầu..., song số lượng, chất lượng, giá cả của chúng ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất và sinh hoạt của các tầng lớp dân cư, thì trước mắt dù các thành phần kinh tế khác muốn đầu tư, Nhà nước vẫn phải nắm giữ phần vốn chi phối. 3- Những doanh nghiệp có khả năng sinh lãi lớn, là nguồn thu chủ lực của ngân sách Nhà nước, trong khi các luật thuế chưa hoàn chỉnh, kỷ luật thu, nộp thuế chưa nghiêm thì Nhà nước vẫn phải đầu tư phát triển và nắm giữ phần vốn có thể chi phối các thành phần kinh tế khác. 4- Các doanh nghiệp còn lại không thuộc ba loại nói trên, xét trước mắt cũng như lâu dài, không nhất thiết phải duy trì dưới dạng doanh nghiệp Nhà nước, thì tuỳ khả năng của các thành phần kinh tế khác (kể cả ngoài nước) Nhà nước có thể đa dạng hoá sở hữu, cổ phần hoá hoặc bán toàn bộ doanh nghiệp. Cách phân loại doanh nghiệp thành hai nhóm lớn, nhóm hai chia thành ba nhóm nhỏ như vật xuất phát từ xác định vị trí, tầm quan trọng của từng loại doanh nghiệp đối với nền kinh tế quốc dân cho từng thời kỳ phát triển. Trên cơ sở do hình thành bốn giải pháp cơ bản cơ cấu lại doanh nghiệp Nhà nước như sau: a- Sớm sơ kết rút kinh nghiệm việc thực hiện các biện pháp cơ cấu lại doanh nghiệp Nhà nước như Nghị định 388 - HĐBT, quyết định 315, 330 về chấn chỉnh, sắp xếp lại khu vực doanh nghiệp Nhà nước trong thời gian qua. Trên cơ sở đó, xâyd ựng phương án cho bộ và tỉnh mình. Kể cả đối với doanh nghiệp thuộc nhóm 1, 2, 3 theo cách ohân loại trên đây, nếu kinh doanh không có hiệu quả kinh tế - xã hội cao, nếu không thực hiện được mục tiêu nhiệm vụ Nhà nước giao cho, sau khi đã áp dụng mọi biện pháp để củng cố vẫn không cải thiện được tình hình, Nhà nước phải cương quyết giải thể để thành lập doanh nghiệp mới. b - áp dụng cơ chế thị trường đầy đủ cho tất cả những doanh nghiệp mà sản phẩm dịch vụ của chúng tham gia vào quá trình lưu thông để sinh lãi Giao đầy đủ quyền hạn, trách nhiệm, tự chủ về vốn, về điều hành kinh doanh cho số doanh nghiệp này. Trên cơ sở đó các doanh nghiệp làm ăn có lãi, cạnh tranh tốt sẽ tồn tại; những doanh nghiệp thua lỗ, tuỳ từng loại Nhà nước sẽ có chính sách cụ thể kể cả giải thể và cho phá sản. c- Thực hiện hình thức chuyển đổi sở hữu dưới dạng đa dạng hoá sở hữu, cổ phần hoá hạc bán trọng gói doanh nghiệp cho các thành phần kinh tế khác. Giải pháp này có thể áp dụng ngay cho số doanh nghiệp thuộc nhóm 4. Các doanh nghiệp thuộc nhóm 2, 3 với mục tiêu thu hút vốn vẫn có thể áp dụng, nhưng thuỳ thuộc vào vị trí các doanh nghiệp mà Nhà nước ấn định tỷ lệ vốn cần thiết của mình, nhằm giữ được khả năng quản lý, điều tiết các doanh nghiệp đó. Đây là giải pháp chiếm vị trí quan trọng và được nhiều nước trên thế giới áp dụng có kết quả tốt. Trong điều kiện cụ thể của ta để áp dụng biện pháp này có hiệu quả, cần thiết phải ban hành luật chuyển đổi. Đây là thể hiện sự nhất trí cao trong Đảng, Quốc hội, Chính phủ và đặc biệt là trong dân. Đồng thời cũng nhằm quy định quyền hạn, trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước, cơ chế xử lý, quy trình thực hiện sao cho trong quá trình thực hiện đạt được hiệu quả cao, không gây thất thoát lớn tài sản quốc dia, không gây sự dảo lộn lớn trpng xã hội. d- Trên cơ sở quy hoạch, phân nhóm doanh nghiệp trên đây, hình thành chính sách đầu tư đúng. Ban hành quy chế chặt chẽ quy định các thủ tục cần thiết thành lập doanh nghiệp mới. Tránh việc đầu tư tràn lan, hiệu quả không cao, gây lãng phí lớn. Từ nay Nhà nước chỉ đầu tư thành lập những doanh nghiệp quan trọng cho nền kinh tế quốc dân mà các thành phần kinh tế khác chưa có khả năng hoặc không đầu tư. Đối với số doanh nghiệp hiện đang hoạt động, áp dụng biện pháp điều chỉnh vốn linh hoạt để thúc đẩy hình thành nhanh khu vực doanh nghiệp Nhà nước trong một nền kinh tế quốc dân có cơ cấu thích hợp. Bốn giải pháp cơ bản trên đây có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động và hỗ trợ lẫn nhau. Việc áp dụng một cách đồng bộ, kết hợp các giải pháp ở tàm vĩ mô hoặc vi mô đối với từng doanh nghiệp cụ thể phụ thuộc vào điều kiện thực tế của chúng. Vốn giải pháp trên đây nặng nền giải pháp hành chính hơn là giải pháp thị trường, giải pháp kinh tế. Điều đó xuất phát từ thực tiễn ở nước ta, nơi mới chỉ bắt đầu xuất hiện thị trường; thị trường chưa có khả năng, chưa có điều kiện thúc đẩy nhanh để hình thành một nền kinh tế có cơ cấu hợp lý. Mặt khác việc cơ cấu lại khu vực doanh nghiệp Nhà nước là nhiệm vụ của Nhà nước - chủ sở hữu; Nhà nước trước hết phải sử dụng quyền lực của người có vốn thành lập ra doanh nghiệp Nhà nước để cơ cấu lại nhằm thực hiện mục tiêu của mình. II- Kiện toàn và tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp Nhà nước. Theo tinh thần đó hệ thống các giải pháp về kiện toàn và tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp Nhà nước là: 1- Xác định đúng quyền hạn, trách nhiệm chủ sở hữu của Nhà nước. Nhà nước đói với doanh nghiệp Nhà nước có hai chức năng; một mặt với chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế, Nhà nước xây dựng và ban hành hệ thống pháp luật, quản lý và điều hành nền kinh tế bằng pháp luật. Trong môi trường pháp lý chung đó, mọi pháp nhân kinh tế, kể cả doanh nghiệp Nhà nước đều bình đẳng. Mặt khác, đối với doanh nghiệp Nhà nước, Nhà nước là người đầu tư vốn thành lập nên, do dó Nhà nước là chủ sở hữu các doanh nghiệp Nhà nước. Là chủ sở hữu, Nhà nước cũng như các nhà đầu tư tư nhân, có quyền chiếm hữu, quyền định đoạt và quyền sử dụng thành quả do doanh nghiệp của mình làm ra. Cụ thể, Chính phủ trực tiếp thực hiện các quyền sau đây thông qua việc phân cấp cho các cơ quan chức năng của mình. a- Quyền thành lập tổ chức lại, chuyển hình thức sở hữu, sát nhập, giải thể các doanh nghiệp Nhà nước. Xác định và giao nhiệm vụ kinh doanh cho từng doanh nghiệp cụ thể. b- Ban hành luật và các văn bản pháp quy để quản lý doanh nghiệp Nhà nước. Trong các văn bản đó quy định rõ mối quan hệ giữa Nhà nước với doanh nghiệp trong từng lĩnh vực cụ thể. c- Thực hiện chế độ phân cấp, phân quyền cho các cơ quan chức năng, các tổ chức để thực hiện quyền sở hữu của Nhà nước. Việc phân cấp quản lý phải đảm bảo quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn, lợi ích của các cơ quan được phân cấp. Đồng thời phải có cơ chế kiểm tra, giám sát lẫn nhau. d- Trực tiếp bổ nhiệm người đứng đầu doanh nghiệp Nhà nước để điều hành kinh doanh cuả doanh nghiệp. đ- Tổ chức kiểm tra, giám sát hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bằng các cơ quan chức năng của Nhà nước. e- Quyết định việc sử dụng, phân phối lại thành quả do doanh nghiệp Nhà nước làm ra. 2- Từng bước xoá bỏ cơ quan chủ quản đối với doanh nghiệp Nhà nước khi đã có hệ thống luật pháp hoàn chỉnh. Các bộ quản lý ngành tiến tới quản lý Nhà nước về ngành kinh tế kỹ thuật, ban hành các văn bản pháp quy thuộc lĩnh vực được phân công và giám sát thực hiẹn các quy định đó đối với tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Nhà nước thực hiện quyền sở hữu của mình thông qua quản lý vốn có trong doanh nghiệp. Trong thời gian trước mắt nên phân cấp cho các cơ quan Nhà nước quản lý các doanh nghiệp Nhà nước theo hình thức sau đây: a- Đối với các doanh nghiệp đã có vốn góp của các thành phần kinh tế khác dưới dạng cổ phần (dù phần vốn của Nhà nước vẫn giữ vị trí chi phối) thì áp dụng hình thức tổ chức quản lý, cơ chế quản lý, cơ chế phân phối theo luật Công ty hoặc luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Bộ tài chính được Nhà nước giao trực tiếp quản lý số vốn của Nhà nước có trong doanh nghiệp. Người được Bộ tài chính cử tham gia quản lý doanh nghiệp với tư cách là một cổ đông, có đầy đủ quyền hạn tương ứng với tỷ lệ vốn của Nhà nước, đồng thời chịu trách nhiệm trước Bộ tài chính, trước pháp luật về quyền hạn và nhiệm vụ được giao. Trong thực tế cũng như kinh nghiệm của các nước, đối với một doanh nghiệp cụ thể nếu tỷ lệ vốn của Nhà nước vẫn chiếm vị trí chi phối đối với các cổ đông khác thì vẫn là doanh nghiệp Nhà nước. Song việc kiến nghị loại doanh nghiệp này áp dụng luật Công ty là nhằm khuyến khích thu hút vốn và áp dụng hình thức quản lý có hiệu quả hơn. b- Đối với những doanh nghiệp còn 100% vốn của Nhà nước thuộc cả bốn nhóm, được tổ chức quản lý như sau: - Các doanh nghiệp thuộc nhóm 1, một số doanh nghiệp nhóm 2 không có khả năng sinh lãi và những doanh nghiệp lớn quan trọng, Nhà nước quản lý thông qua hội đồng quản trị quốc gia. Đối với số doanh nghiệp này sẽ không có cơ quan quản lý Nhà nước cấp trên trực tiếp. Hội đồng quản trị quốc gia được Chính phủ bổ nhiệm hoặc uỷ quyền cho một cơ quan của Chính phủ bổ nhiệm làm đại diện chủ sở hữu Nhà nước đối với doanh nghiệp. Hội đồng quản trị trong khuôn khổ pháp luật, theo định hướng phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước để quản lý doanh nghiệp bằng cách giao nhiệm vụ cụ thể, bổ nhiệm giám đốc điều hành kinh doanh của doanh nghiệp để thực hiện được mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra. - Doanh nghiệp còn lại thuộc nhóm 2 và nhóm 3 có khả năng sinh lãi thì áp dụng hình thức Công ty hoá. Các cổ đông của Công ty là mọt số tổ chức cơ quan Nhà nước, được Chính phủ giao thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu một phần vốn trong doanh nghiệp lớn hơn các cổ đông khác. Các doanh nghiệp Nhà nước được Công ty hoá sẽ áp dụng hoàn toàn mô hình tổ chức, cơ chế quản lý theo luật Công ty. Vấn đề khác biệt của doanh nghiệp Nhà nước Công ty hoá với các Công ty thuộc các thành phần kinh tế khác là lãi ròng là của Nhà nước, các cổ đông Nhà nước tham gia quản lý Công ty có nhiệm vụ nộp lãi vào ngân sách Nhà nước. Với cách làm như vậy, doanh nghiệp vẫn là của Nhà nước, nhưng thay vì một cơ quan độc quyền quản lý sẽ là một số cơ quan tham gia quản lý, giám sát lẫn nhau, bàn bạc với nhau, tránh độc quyền dẫn đến các tiêu cực ảnh hưởng đến lợi ích quốc g ia. - Các doanh nghiệp còn lại thuộc nhóm 4, khi chưa có cổ đông thuộc các thành phần kinh tế khác tham gia, tạm thời giao cho Bộ trưởng các bộ quản lý ngành, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh thành trực thuộc Trung ương thực hiện chức năng của địa diện chủ sỏ hữu. Đồng thời thực hiện triệt để các hình thức: thuê quản lý, khoán quản lý để thực hiện được mục tiêu của đại diện chủ sở hữu đề ra. Việc thuê quản lý, khoán quản lý phải thông qua hợp đồng kinh tế, trong đó thể hiện quyền, trách nhiệm, lợi ích và các điều kiện khác như thế chấp... dã được thoả thuận, giữa đại diện chủ sở hữu và người thuê, khoán. Đối tượng được tham gia đấu thầu để thuê, khoán quản lý là những cá nhân, một nhóm người, tập thể công nhân viên chức, kể cả cá nhân hoặc tổ chức, nước ngoài có nhu cầu nếu có đầy đủ các điều kiện mà pháp luật Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định. Cần chuẩn bị và sớm ban hành Luật về đa dạng hoá sở hữu đối với doanh nghiệp Nhà nước, ban hành các văn bản pháp quy dưới luật, quy định chế độ, thể hiện quy trình cho quá trình này. Với các giải pháp về tổ chức quản lý như vậy sẽ dần dần xoá bỏ cơ quan quản lý Nhà nước cấp trên trực tiếp như hiện nay, xác lập một hình thức tổ chức có chức năng của đại diện chủ sở hữu phù hợp với tình hình doanh nghiệp Nhà nước của ta, phù hợp với trình độ quản lý hiện nay. Cơ cấu tổ chức đó khi có một cơ chế khuyến khích vật chất thích hợp sẽ ràng buộc; giám sát lẫn nhau, bổ sung cho nhau để quản lý doanh nghiệp Nhà nước theo xu hướng nâng cao hiệu quả kinh doanh vì lợi ích của chủ sở hữu - Nhà nước. 3- Một vấn đề hết sức quan trọng và bức xúc trong kiện toàn và tiếp tục đổi mới quản lý doanh nghiệp Nhà nước là cùng với việc xác định chức năng, tổ chức thực hiện quyền của đại diện chủ sở hữu, phải đồng thời chấn chỉnh, hoàn thiện các công cụ và cơ chế thực hiện quyền của chủ sở hữu. Cụ thể: - Chấn chỉnh ngay chế độ kế toán thống kê. Các cơ quan chức năng có liên quan nghiên cứu để xây dựng hệ thóng kế toán, thống kê, theo cơ chế thị trường they thế cho hệ thống cũ theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung không thích hợp. Sớm quy định hình thức và tăng cường kỷ luật ghi chép chứng từ ban đầu. Đây là khâu trong yếu, là cơ sở cho công tác kế toán, thống kê chính xác , là căn cứ cơ bản cho công tác thanh tra, giám sát của đại diện chủ sở hữu. Cương quyết sử lý nghiêm những hiện tượng sử dụng nhiều hệ thống sổ sách. Nhà nước sớm ban hành một hệ thống khung mức chi phí phù hợp với trình độ công nghệ của từng loại doanh nghiệp, phù hợp với trình độ quản lý của ta. Việc không áp dụng hệ thóng định mức cụ thể, quá chi tiết, không còn phù hợp, gò bó quyền chủ động kinh doanh của cơ sở như trước đây là đúng. Nhưng thả nổi đến mức thiếu căn cứ để thực hiện quyền kiểm tra của chủ sở hữu, các đơn vị cơ sở hạch toán tuỳ tiện như hiện nay là không thể chấp nhận được. - Tăng cường thanh tra tài chính trên cơ sở kiện toàn lại hệ thống tổ chức tài chính hiện nay. Hình thành, hoàn thiện chế độ quyền hạn, trách nhiệm, lợi ích thích hợp để cán bộ tổ chức tài chính đích thực của Nhà nước, lấy lợi ích của quốc gia làm mục tiêu hoạt động. - Bên cạnh tổ chức kiểm toán của Nhà nước sớm ban hành quy định để hoàn thành các tổ chức kiểm toán độc lập hoạt động theo pháp luật. Đây là một công cụ quan trọng của Nhà nước trong cơ chế thị trường, đảm bảo cho Nhà nước các cơ quan pháp luật, các nhà đầu tư nắm đúng thông tin, tình hình tài chính của từng doanh nghiệp. - Thực hiện cơ chế báo cáo tài chính công khai trong nội bộ doanh nghiệp, trong xã hội thông qua toà án kinh tế, tổ chức kiểm toán, các tổ chức khác theo quy định của pháp luật. trên cơ sở đó, mọi công dân, các đại biểu quốc hội, các cơ quan hành pháp có quyền chất vấn những vấn đề quan tâm. - Xây dựng chính sách đầu tư thích hợp, có hiệu quả để mở rộng, hiện đại hoá công nghệ DNNN theo định hướng phát triển được Nhà nước đặt ra. thực hiện chính sách không thu khấu hao cơ bản như hiện nay, mà trong trường hợp cần thiết Nhà nước thu hồi một phần hoặc toàn bộ vốn của doanh nghiệp. - Thống nhất quan điểm rằng thành quả do DNNN làm ra là của Nhà nước. Nhà nước quyết định việc sử dụng toàn bộ lãi dòng do DNNN làm ra, kể cả để trả nợ vốn vay đầu tư để thành lập doanh nghiệp. 4. Quản lý trong nội bộ DNNN: Như dã trình bày trên đây về tổ chức hội đồng quản trị, các doanh nghiệp nhóm 4 còn 100% vốn Nhà nước giao cho bộ trưởng, Chủ tịch UBND tỉnh, thành phó thực hiện chức năng của đại diện chủ sở hữu. Do vậy tổ chức trong nội bộ DNNN theo hướng như sau: - Hội đồng quản trị, Bộ trưởng, chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, lựa chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật giám đốc doanh nghiệp theo chế độ công khai và đúng tiêu chuẩn do Nhà nước quy định; thông qua hợp đồng bổ nhiệm thoả thuận với người được bổ nhiệm về quyền, trách nhiệm, lợi ích và các mục tiêu cụ thể phải thực hiện. Người bổ nhiệm giám đốc điều hành chịu trách nhiệm trước chính phủ, trước pháp luật về kết quả điều hành kinh doanh của giám đốc. Trong khuôn khổ pháp luật giám đốc điều hành chỉ chịu trách nhiệm trước người bổ nhiệm mình. - Giám đốc là người đại diện của doanh nghiệp, điều hành kinh doanh của doanh nghiệp theo chế độ một thủ trưởng. Có quyền và trách nhiệm tổ chức bộ máy, bố trí, nâng lương, nâng cấp bậc cho lao động chung của Nhà nước để thực hiện được mục tiêu mà người bổ nhiệm mình giao phó. - Tổ chức Đảng cộng sản Việt Nam tổ chức trong doanh nghiệp và hoạt động theo hiến pháp, điều lệ Đảng và quy định của Ban bí thư. - Người lao động trong các doanh nghiệp cũng như các doanh nghiệp khác có quyền hình thành tổ chức đại diện quyền lợi của mình theo pháp luật quy định. Đồng thời xây dựng doanh nghiệp, tham gia quản lý doanh nghiệp thông qua tổ chức đó. Người lao động là chủ sở hữu sức lao động của mình. Họ có quyền lựa chọn công việc thích hợp và có quyền thoả thuận với người sử dụng sức lao động về thu nhập tương xứng với kết quả lao động, có khả năng tái sản xuất sức lao động và đảm bảo nhu cầu sinh hoạt của gia đình họ. Đây là nội dung cốt lõi của khái niệm chủ sở hữu sức lao động. Theo cơ chế hiện nay, lãi ròng được trích theo một tỷ lệ quy định để hình thành quỹ phúc lợi, quỹ phát triển sản xuất. Trong thực tế việc sử dụng quỹ này được phân phối thẳng những không theo kết quả lao động của người lao động. Xét về bản chất việc phân phối như vậy, nghiễm nhiên Nhà nước công nhận lao động như là những cổ đông được hưởng lãi nhưng không góp vốn. Cơ chế phân phối đó đã không đảm bảo công bằng giữa lao động trong doanh nghiệp Nhà nước và người lao động không làm việc trong doanh nghiệp Nhà nước, và sẽ càng không chỉ có hợp tác xã và doanh nghiệp Nhà nước mà ngày càng xuất hiện nhiều các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác cũng sử dụng sức lao động của người lao động là công dân Việt Nam. 5- Về tổ chức Liên hiệp các xí nghiệp và tập đoàn lớn. Đây là vấn đề lớn, sẽ có đề án riêng. Trong đề án này xin nêu một số nội dung chủ yếu về tổ chức này: - Những doanh nghiệp đã nói trên đây là những tổ chức có công nghệ hoàn chỉnh, sản phẩm và dịch vụ của các doanh nghiệp là hàng hoá có đủ điều kiện lưu thông trên thị trường dưới các hình thức khác nhau. Doanh nghiệp có thể thu tiền và có đầy đủ điều kiện hạch toán kinh tế - theo đúng nghĩa của khái niệm này. Do đó doanh nghiệp là một pháp nhân kinh tế, có đủ quyền điều hành kinh doanh và pháp nhân đó phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Việc tôn trrọng và gao đầy đủ quyền hạn, trách nhiệm điều hành kinh doanh cho doanh nghiệp để phát huy tính năng động, huy động các tiềm năng là yếu tố quan trọng nâng cao hiệu quả kinh doanh. Đây cũng là kinh nghiệm của nhiều năm thực hiện đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp Nhà nước. - Việc thành lập một tổ chức Liên hiệp, Tổng Công ty, tập đoàn... phải đảm bảo để doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả hơn thúc đẩy nhanh quá trình tích tục tập trung vốn nhân công chuyên môn hoá và hiệp tác sản xuất, giúp Nhà nước quản lý doanh nghiệp tốt hơn. Tránh hình thành một cấp trung gian không cần thiết, gây cản trở việc hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. - Trên cơ sở đó đề án này kiến nghị: có thể hình thành hai mô hình tổ chức sau đây: Một là: Củng cố và phát triển mô hình hiệp hội kinh doanh theo từng ngành nghề. Hiệp hội được tổ chức theo hình thức tự nguyện của các doanh nghiệp trong ngành, nghề đó. Hiệp hội được lãnh đạo bởi hội đòng quản trị do các thành viên hiệp hội bầu, và điều hành hiệp hội theo điều lệ riêng của mình. Hiệp hội thực hiện các dịch vụ cho các thành viên hiệp hội về thông tin, thị trường, giá cả, đào tạo... Hiệp hội bảo vệ lợi ích của từng thành viên theo mục tiêu phát triển ngày càng mạnh ngành của mình. Đồng thời thựchiện phân cấp chuyên môn hoá và hợp tác sản xuất để nâng cao hiệu quả kinh doanh. Các thành viên hiệp hội tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau thông qua việc hình thành, hội tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau thông qua việc hình thành hội, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau thông qua việc hình thành "quỹ rủi ro" do các thành viên đóng góp và Hiệp hội quản lý. Tổ chức Hiệp hội thay mặt các thành viên Hiệp hội tham gia các Hiệp hội tương ứng của quốc tế vì lợi ích phát triển chung của đất nước Hai là: Nghiên cứu để xây dựng các mô hình tập đoàn kinh doanh phù hợp với điều kiện của nước ta. Trước mắt cho làm thí điểm các tập đoàn theo từng ngành, hàng trong phạm vi các doanh nghiệp Nhà nước. Sau một thời gian khi có thị trường vốn, việc luân chuyển vốn kinh doanh của các doanh nghiệp phát triển, sự xâm nhập vốn của các thành phần kinh tế trong một doanh nghiệp ngoài quốc doanh, thuộc các ngành nghề khác nhau. Tập đoàn kinh tế dạng này là một mô hình Công ty mẹ, nắm phần vốn nhất định có thể thực hiện được ý đồ của mình đói với các doanh nghiệp thành viên. Tâp đoàn mà một mô hình nhằm tích tụ vốn, có khả năng thực hiện phân chuyên môn hoá và hợp tác sản xuất tạo ra sức mạnh cần thiết để cạnh tranh trên thị trường quốc tế. III- Cổ phần, đa dạng hoá sở hữu doanh nghiệp Nhà nước: Cho đến nay các quy định về cổ phần hoá trong các văn bản của Nhà nước chỉ dừng lại ở chủ trương, quan điểm và những nguyên tác chung cần có những nguyên tắc đồng bộ, cụ thể để đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Trong thực tế, đã có một số Công ty liên doanh giữa các doanh nghiệp Nhà nước, các ngân hàng hoặc một Công ty nhỏ sở hữu tư nhân tham gia nhưng uỷ thác cho đại diện Nhà nước. Mô hình tổ chức này về cơ bản là sở hữu Nhà nước nhưng huy động được nhiều ngồn khác nhau. Chính sự gắn bó lợi ích trực tiếp của đơn vị góp vốn vào sự tham gia quản lý của họ sẽ tránh được tình trạng tùy tiện của cá nhân giám đốc và doanh nghiệp chủ động hơn trong sản xuất kinh doanh Nhà nước sớm ban hành văn bản pháp quy thích hợp để hướng dẫn sự phát triển của mô hình này IV- Tạo lập môi trường vĩ mô thuận lợi cho doanh nghiệp Nhà nước hoạt động. Chính quyền Nhà nước các cấp từ Trung ương đến địa phương đều phải có trách nhiệm chăm lo, xây dựng môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp Nhà nước nói riêng, các doanh nghiệp nói chung hoạt động có hiệu quả. Đây là vấn đề lớn phức tạp đòi hỏi phải thực hiện từng bước, có những biện pháp thích hợp cụ thể như ổn định tiền tệ, xử lý lãi suất theo hướng kích thích đầu tư, xây dựng chiến lược quy hoạch phát triển các ngành kinh tế kỹ thuật, thực thi chính sách thuế khuyến khích tái đầu tư, chính sách tỷ giá hối đoái, khuyến khích xuất khẩu có lợi cho nhập khẩu. Bên cạnh những giải pháp kinh tế - tổ chức nêu trên cần phải áp dụng những giải pháp chính trị xã hội, nhất là đổi mới, tăng cường và nâng cao chất lượng công tác Đảng trong doanh nghiệp Nhà nước, sửa đổi luật doanh nghiệp Nhà nước cho phù hợp với thực tế. Chỉ có vậy doanh nghiệp Nhà nước mới phát huy được vai trò chủ đạo trong đời sống kinh tế xã hội của nước nhà.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10230.doc
Tài liệu liên quan