Trong tình hình hiện nay ở nước ta, vấn đề cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước đang được đặt ra một cách cơ bản và cấp bách đối với lý luận và thực tiễn đổi mới khu vực kinh tế Nhà nước và chuyển nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường có định hướng của Nhà nước. Trong bản đề án này em đã trình bày một số vấn đề lý luận về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước cũng như thực trạng cổ phần hoá và một số giải pháp thúc đẩy cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước trong thời gian tới. Qua đó, em thấy được tầm quan trọng của cổ phần hoá, đặc biệt đối với đất nước ta, một đất nước đang trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước. Việc nghiên cứu cổ phần hoá và tìm ra phương pháp đúng đắn trong việc cổ phần hoá sẽ góp phần giúp đất nước khắc phục tình trạng tụt hậu về nền kinh tế, nâng cao không ngừng đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân lao động, thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh mà Đảng và Nhà nước ta đã vạch ra cho yêu cầu xây dựng nền kinh tế ở nước ta hiện nay. Bên cạnh đó, chúng ta cũng xác định được rằng, cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước nhằm mục đích tăng lợi nhuận cho các công ty nhưng không theo đuổi lợi nhuận một cách đơn thuần. Vì thế, mục đích hoạt động của các công ty cổ phần phải đảm bảo hiệu quả kinh tế của sản xuất kinh doanh nghĩa là sản xuất phải có lãi và kết hợp giải quyết những vấn đề xã hội thì mới tạo ra động lực phát triển vững chắc cho đất nước. Như vậy liệu Việt Nam có theo kịp được thời đại hay không, có vận dụng được các hiểu biết về cổ phần hoá để xây dựng phát triển đất nước hay không, điều đó còn phải phụ thuộc vào tất cả mọi người dân trong nước.
38 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1698 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Doanh nghiệp nhà nước Việt Nam và thực trạng cổ phân hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g thể mua một doanh nghiệp chưa đầy đủ về mặt pháp lý. Đây là một hướng chuyển các doanh nghiệp Nhà nước sang công ty cổ phần tư nhân.
- Thứ hai. Nếu nhằm mục tiêu huy động vốn để Nhà nước tiếp tục kinh doanh thì điều kiện về doanh lợi và nhất là điều kiện kinh doanh cần được nhấn mạnh hơn. Như vậy sẽ có những trường hợp sau đây:
+ Doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường bảng cân đối tài sản thực dương. Việc phát hành thêm cổ phiếu sẽ tạo cơ hội mở rộng sản xuất kinh doanh.
+ Doanh nghiệp bị thâm hụt nặng cán cân thanh toán tài chính nhưng chưa đến mức phát mại, tuy nhiên sản phẩm đã có thị trường ổn định và có khả năng mở rộng ở trong và ngoài nước. Việc cổ phần hoá sẽ góp phần huy động thêm vốn hoặc chuyển nợ thành vốn góp để khai thác thế mạnh về thị trường.
+ Doanh nghiệp mới xây dựng trong vài năm lại đây có công nghệ và trang thiết bị tương đối hiện đại, nhưng thiếu vốn lưu động, bộ máy quản lý yếu kém, kinh doanh kém hiệu quả thì nên tiến hành cổ phần hoá để thay đổi hình thức tổ chức và nhân sự cũng như huy động thêm vốn lưu động cho hoạt động của doanh nghiệp.
- Doanh nghiệp đã có những hợp đồng lớn với nước ngoài, có những quan hệ bạn hàng chặt chẽ với thị trường nước ngoài, đang thiếu vốn để tăng thêm quy mô sản xuất hoặc để đối tác. Việc cổ phần hoá sẽ tạo thêm điều kiện thuận lợi để liên kết, liên doanh với các nhà đầu tư nước ngoài về công nghệ, quản lý kinh doanh và khai thác thị trường.
- Doanh nghiệp có mức lợi nhuận cao, nếu đầu tư thêm công nghệ mới sẽ thu được lợi nhuận siêu ngạch. Việc cổ phần hoá sẽ tạo điều kiện tận dụng các lợi thế này.
Như vậy, dựa vào những điều kiện cụ thể của từng loại doanh nghiệp nêu trên thì tiến hành cổ phần hoá là để chuyển sang một mô hình doanh nghiệp huy động, quản lý và sử dụng vốn đạt hiệu quả cao.
- Thứ ba, nếu nhằm mục tiêu hữu sản hoá công nhân, tạo điều kiện để người lao động thực sự làm chủ doanh nghiệp thì Nhà nước cần chú ý đến điều kiện mức thu nhập của công nhân có khả năng mua cổ phần dưới dạng trả góp cũng như tỷ trọng "vốn tự có" trong tổng số vốn pháp định của doanh nghiệp. Về vấn đề này, Nhà nước đã có chỉ thị 84-TTg của Thủ tướng chính phủ cụ thể hoá thêm về các biện pháp nhằm đẩy mnạh chương trình thí điểm cổ phần hoá, trong đó hỗ trợ cho cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp vay để mua cổ phiếu với điều kiện ưu đãi như: vay không phải trả lãi thời gian 5 năm với mức bình quân không quá 3 triệu đồng và mức cao nhất 5 triệu đồng/người tuỳ theo mức lương và thâm niên công tác. Để giải quyết khó khăn ban đầu về tài chính đối với cán bộ công nhân trong doanh nghiệp, Nhà nước đã cho hép doanh nghiệp có thể dùng số dư quỹ phúc lợi và khen thưởng chia cho cán bộ công nhân viên để mua cổ phiếu. Ngoài ra, Nhà nước cũng nên dùng một phần nguồn "vốn tự có" để trợ giúp thêm với phương châm không lấy lãi và thời gian hoàn trả lâu dài.
- Quan điểm thứ tư. Mọi tài sản của doanh nghiệp đều thuộc sở hữu Nhà nước, trừ quỹ phúc lợi xã hội của tập thể là phần tiền lương không chia để lại cho mọi cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp cùng hưởng. Phần "vốn tự có" của các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay thực chất là phần lợi nhuận và quỹ khấu hao được Nhà nước cho phép giữ lại để tái sản xuất mở rộng, nên đương nhiên là thuộc về Nhà nước và trở thành vốn cổ phần của Nhà nước trong công ty cổ phần sẽ được hình thành. Điều này là hợp lý khi xét về mặt pháp lý trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp khi tất cả các khoản có và nợ cuả doanh nghiệp đều thuộc về Nhà nước. Không thể quy kết các khoản nợ của doanh nghiệp cho tập thể. Vì vậy, lẽ đương nhiên khi tiến hành lập bảng cân đối tài sản trong doanh nghiệp, xác lập giá trị tải sản còn lại để cổ phần hoá thì cũng không thể đưa "vốn tự có" ra ngoài bảng cân đối vì nó là của tập thể. Xác định quan điểm này để bảo đảm việc chốngl ại sự phân tán tài sản của Nhà nước và phân phối không công bằng trong quá trình chuyển đổi sang hình thức công ty cổ phần.
Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận vấn đề này có tính lịch sử và đặc thù trong cơ chế quản lý các doanh nghiệp trước đây của Nhà nước. Cơ chế trích lập "ba quỹ" hết sức đặc thù của Việt Nam là nguồn gốc hình thành "vốn tự có" của doanh nghiệp. Và có không ít doanh nghiệp đã huy động vốn đầu tư vào sản xuất bổ sung lấy từ quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi, mà lẽ ra người lao động trong doanh nghiệp được quyền sử dụng hết. Vì vậy, khi tiến hành cổ phần hoá đối với từng doanh nghiệp cụ thể, cần xem xét kỹ lưỡng để tránh sự đánh động những doanh nghiệp làm ăn tốt do có đầu tư thêm nhiều với những doanh nghiệp chỉ dựa vào đầu tư của Nhà nước. Cách xử lý về nguồn vốn này có rất nhiều ý kiến với nhiều phương án khác nhau. Cách khả thi nhất có lẽ Nhà nước nên dành một số "cổ phần sáng lập" lấy từ nguồn vốn này, vận dụng theo điều 30 khoản 3 của Luật công ty, để tập thể lao động của doanh nghiệp được hưởng chung cổ tức và không chia bình quân cho mọi người. Số cổ phần này không chuyển nhượng và về lâu dài có thể thuộc về phần phúc lợi của công ty cổ phần sau này (36, 31).
- Quan điểm thứ năm. Việc xác định giá trị của doanh nghiệp Nhà nước để cổ phần hoá phải chú ý đến cả hai yếu tố cấu thành: giá trị hữu hình và giá trị vô hình. Trong yếu tố giá trị hữu hình về cơ bản có hai bộ phận giá trị toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp và giá trị đất đai mà doanh nghiệp đang sử dụng làm mặt bằng sản xuất kinh doanh. Trong yếu tố giá trị vô hình như uy tín và nhãn hiệu sản phẩm của doanh nghiệp, ưu thế về thị trường và khả năng cạnh tranh, các điều kiện về địa điểm, quảng cáo, bạn hàng… tựu chung lại, đều biểu thị ở khả năng sinh lợi hay tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp.
Như vậy, xem xét đầy đủ hai yếu tố cấu thành này của giá trị doanh nghiệp để có sự kết hợp hai phương pháp xác định giá trị của doanh nghiệp.
- Phương pháp tính giá trị doanh nghiệp dựa trên cơ sở hệ thống kế toán hiện hành (theo số liệu kiểm kê 1-1-1990 hoặc theo văn bản giao vốn cho các doanh nghiệp). Phương pháp này là cách khả thi để có được một hình dung về đại lượng giá trị tài sản hữu hình của doanh nghiệp.
- Phương pháp tính giá trị doanh nghiệp dựa trên cơ sở tỷ suất lợi nhuận bình quân. Đây là phương pháp cần thiết để bổ sung thêm phần giá trị tài sản vô hình của doanh nghiệp.
Trên thực tế sự kết hợp của hai phương pháp tính giá trị nêu trên hết sức linh hoạt, tuỳ thuộc vào những điều kiện thực tế và quan hệ cung cầu cụ thể đối với từng doanh nghiệp. Về cơ bản, các phương pháp và công thức để tính giá trị doanh nghiệp đã được nêu trong Đề án ban hành kèm theo Quyết định 202- HĐBT và được cụ thể hoá đầy đủ, chi tiết trong các tài liệu hướng dẫn của Bộ tài chính và một số sách, báo đã công bố (70).
Do điều kiện đặc thù của nước ta chưa có thị trường chứng khoán, nên công việc này cần tranh thủ sự trợ giúp của các công ty kiểm toán, các tổ chức tài chính quốc tế. Và điều quan trọng hơn là cần thành lập một cơ quan chuyên trách về vấn đề này để theo dõi, hướng dẫn, điều chỉnh và rút kinh nghiệm trong quá trình làm thí điểm cổ phần hoá một số doanh nghiệp Nhà nước ở giai đoạn này. Công việc xác định giá trị của doanh nghiệp là một vấn đề khó khăn và phức tạp. Tuy nhiên, cũng không nên quá câu nệ vào trở ngại này mà làm chậm trễ quá trình chuyển đổi các doanh nghiệp Nhà nước sang các hình thức công ty cổ phần để thích ứng kịp với quá trình phát triển nền kinh tế thị trường mở cửa ở nước ta.
- Quan điểm thứ sáu. Phương pháp bán cổ phiếu ở những doanh nghiệp được chọn cổ phần hoá cần thực hiện công khai, rõ ràng, thủ tục đơn giản, dễ hiểu đối với mọi người. Về cơ bản có thể vận dụng một hoặc kết hợp ba phương pháp cổ phần hoá sau:
+ Bán cho các đối tượng xác định trước, áp dụng cho các doanh nghiệp có bộ máy quản lý yếu kém. Các đối tượng được lựa chọn thường đóng vai trò những cổ đông chủ lực để tạo lập cơ sở cho việc tiếp tục cổ phần hoá rộng rãi sau này. Vì vậy, thường là những người có vốn, có trình độ kỹ thuật hoặc có kinh nghiệm về quản lý. áp dụng phương pháp này, thường thích hợp cho loại doanh nghiệp Nhà nước sẽ được chuyển thành công ty cổ phần tư nhân.
+ Bán rộng rãi cho mọi đối tượng, áp dụng cho các doanh nghiệp có thành tích kinh doanh khả quan, mức độ lợi nhuận bảo đảm. Đối với những doanh nghiệp này, mức giá cổ phiếu cần phải được nghiên cứu cụ thể theo quan hệ cung cầu của thị trường những người mua tiềm năng.
+ Bán cho nội bộ cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp, áp dụng cho các doanh nghiệp quy mô nhỏ và họ có khả năng mua đại bộ phận cổ phiếu của doanh nghiệp.
Việc bán cổ phiếu có thể được bán trực tiếp tại trụ sở chính và các chi nhánh của doanh nghiệp hoặc uỷ thác cho các ngân hàng, các công ty tài chính làm đại lý.
- Quan điểm thứ bảy. Để thực hiện thành công chương trình cổ phần hoá. Nhà nước không chỉ chú ý đến thu hồi vốn mà cần phải biết chấp nhận một khoản phí tổn nhất định. Đó là những khoản phí tổn cần thiết mà ở nước nào cũng có như những chi phí bảo hiểm, trợ cấp cho người lao động bị mất việc làm và tìm kiếm nghề mới, những chi phí do bán giá thấp nhằm ưu đãi những tầng lớp dân cư nhất định theo những mục tiêu chính trị, xã hội của Chính phủ, những chi phí cho bộ máy thực hiện và các cơ quan môi giới, tư vấn, quảng cáo. ngoài ra, với điều kiện đặc thù ở nước ta cần có thêm những phí tổn khác như vì hiệu quả và lợi ích lâu dài của việc chuyển đổi mô hình kinh doanh có thể chấp nhận bán các doanh nghiệp thấp hơn giá thị trường chút ít để khuyến khích mọi người, mọi thành phần tham gia, hoặc vì các mục tiêu đa dạng hoá sở hữu và tạo điều kiện cho người lao động làm chủ doanh nghiệp. Nhà nước có thể chấp nhận những chi phí về trợ cấp, cho vay với những điều kiện ưu đãi đặc biệt, bán giá thấp cho một số tầng lớp nhân dân và cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp. Thực tiễn của việc làm thí điểm cho thấy khoản phí tổn này là cần thiết cho sự nghiệp cổ phần hoá để mưu cầu lợi ích cơ bản và lâu dài hơn là lợi ích trước mắt của việc thu hồi vốn đối với Nhà nước.
- Quan điểm thứ tám. Theo tinh thần Quyết định 202- HĐBT thì các doanh nghiệp đã được cổ phần hoá đương nhiên sẽ hoạt động trong khuôn khổ luật công ty (có hiệu lực từ ngày 15-4-1991) cả về hình thức tổ chức quản lý lẫn hoạt động tài chính. Vì vậy, cần phải có điều lệ và quy chế hoạt động tuân thủ theo các quy định của Luật công ty. Một vấn đề đặt ra: ai sẽ là người thay mặt cho sở hữu Nhà nước trong các công ty này? Vì theo những quy định bổ sung của Luật công ty thì viên chức Nhà nước không được làm sáng lập viên hoặc quản trị viên trong công ty . Điều này đòi hỏi cùng với việc chuyển doanh nghiệp Nhà nước sang công ty cổ phần, Nhà nước phải gấp rút xây dựng một đội ngũ các nhà sáng lập viên độc lập không phụ thuộc hàng ngũ công chức ỏ các Bộ chủ quản và địa phương để thay mặt Nhà nước quản lý các nguồn vốn trong các công ty cổ phần có sự tham gia của Nhà nước. Xét về mặt tổ chức, đội ngũ này sẽ thuộc một cơ quan của Nhà nước hoạt động như một công ty tài chính quốc gia, chuyên trách quản lý và thực hiện các hoạt động đầu tư thông qua hình thức các công ty cổ phần nhằm bảo toàn và phát triển sở hữu Nhà nước theo các yêu cầu điều tiết định hướng nền kinh tế. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần xây dựng đội ngũ các nhà quản trị kinh doanh đủ năng lực hoạt động trong điều kiện mới, không phân biệt thuộc khu vực Nhà nước hay tư nhân. Trong nhiều trường hợp, có thể thuê các nhà quản trị kinh doanh nước ngoài để học tập kinh nghiệm và kiến thức cũng như kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phiếu của các doanh nghiệp Việt Nam.
- Quan điểm thứ chín. Các doanh nghiệp được lựa chọn để cổ phần hoá cần phải có sự giải quyết rõ ràng, dứt điểm các vấn đề tồn đọng về tài chính và lao động trước khi chuyển sang công ty cổ phần.
Các vấn đề tài chính có thể gồm:
+ Các tài sản đang chờ thanh lý. Cần phải cố gắng giải quyết nhanh theo các quy định của Thông tư 34 TC/CN ngày 31/7/1990 của Bộ tài chính. Nếu xử lý không kịp thì phải để riêng để Bộ chủ quản và cơ quan tài chính tiếp tục xử lý.
+ Các tài sản mất mát, thiếu hụt, cần phải truy cứu trách nhiệm rõ ràng và kết luận dứt khoát về cách giải quyết.
+ Các khoản nợ phải đòi, phải trả. Cần phải xử lý các khoản này theo hướng dẫn của Ban thanh toán nợ Trung ương (giai đoạn 2). Nếu chưa xong thì phải báo cáo đầy đủ để Bộ chủ quản và cơ quan tài chính có biện pháp cụ thể để xử lý trước khi tiến hành cổ phần hoá.
+ Các nguồn vốn liên doanh, liên kết. Cần phải được thống kê và báo cáo đầy đủ để Bộ chủ quản và cơ quan tài chính xử lý. Hoặc là chuyển thành vốn góp trong công ty cổ phần, hoặc là sẽ chuyển thành phần nợ để Nhà nước chịu trách nhiệm thanh toán sau. Đối với các liên doanh với nước ngoài cũng có thể giải quyết theo hướng này.
+ Các vấn đề về lao động thì đã có sự hướng dẫn trong Thông tư 09/LĐTBXH-TT ngày 27/7/1992 của Bộ Lao động thương binh và xã hội. Về cơ bản cần phải giải quyết tốt các v ấn đề về chính sách và chế độ cho những người lao động nghỉ hưu, mất sức, thôi việc, tuyển dụng lại, tìm việc mới, các chế độ bảo hiểm xã hội. Trong quá trình xử lý nếu có vấn đề gì vượt khỏi thẩm quyền của doanh nghiệp thì báo cáo lên Bộ chủ quản giải quyết.
3. các kinh nghiệm cổ phần hoá ở các nước
3.1- Kinh nghiệm CPH ở Liên Xô (cũ)
Thường "chương trình đẩy mạnh hơn nữa công cuộc cải cách kinh tế của Chính phủ liên bang Nga", những nhiệm vụ cơ bản của việc tư nhân hoá cần phải thực hiện trong vòng 3 - 4 năm. Hiện nay các vấn đề về tổ chức, lập pháp, thể chế liên quan đến tư nhân hoá đã được hoàn thành. Thời gian tiếp theo, tư nhân hoá sẽ được thực hiện theo "luật về tư nhân hoá các xí nghiệp quốc doanh và công cộng", đồng thời Liên bang Nga cũng tiến hành hoàn thiện các văn bản dưới luật, cũng như hoàn thiện thêm bản thân luật tư nhân hoá này.
Có phần giống như Ba Lan, liên bang Nga tiến hành tư nhân hoá theo 2 hướng đó là tư nhân hoá "nhỏ": Tư nhân háo ngành thương nghiệp và dịch vụ, các xí nghiệp công nghiệp lớn và những xí nghiệp quốc doanh lớn thuộc các ngành khác.
Hiện nay Liên bang Nga đang bắt đầu tiến hành 2 hướng này với tên gọi là giai đoạn tư nhân hoá hàng loạt. Nhiệm vụ của giai đoạn này là tạo ra một khu vực tư nhân theo tiến trình sau: đến cuối 1993 sẽ chuyển sang khu vực tư nhân trên 30% toàn bộ giá trị tài sản sản xuất của đất nước, đến cuối năm 1994 thêm 20% nữa, và đến cuối năm 1995 phải đạt được 60%. Trong số đó 80 - 85% là chuyển cho không (sử dụng phiếu tư nhân hoá và các ưu đãi cho tập thể lao động).
Năm 1992 thực hiện bước 1 là CPH các xí nghiệp lớn. Các cổ phiếu của chúng hoặc do Nhà nước nắm hoặc do tập thể lao động nắm. Với việc CPH này sẽ này sinh một xu hướng ngược lại, xu hướng đã hình thành trước đây. Đó là xu hướng giảm cơ cấu độc quyền, thiết lập các xí nghiệp nhỏ và vừa.. để thực hiện có hiệu quả tư nhân hoá "nhỏ" người ta dự kiến cho phép thuê thâu mặt bằng và đất canh tác của các xí nghiệp được tư nhân hoá, mở rộng khả năng cấp tín dụng bằng cách đánh thuế bất động sản, tăng kích thích để mua các xí nggiệp cho thuê thầu, không cho phép các cơ quan quản lý tài sản tư nhân hoá có quyền thu nhập nào khác ngoài một phần trích từ thu nhập do bán tài sản, chuyển phần lớn tiền thu được do tư nhân hoá cho ngân sách địa phương.
Quá trình CPH phần lớn các xí nghiệp lớn của Liên bang Nga được tiến hành vào tháng 7 đến tháng 10 năm 1992. Các xí nghiệp này sẽ được cải tạo thành xí nghiệp cổ phần mở. Cổ phiếu của các xí nghiệp này được bán rộng rãi để thu lại phiếu tư nhân hoá đã phát cho nhân dân.
ở cấp xí nghiệp, để thực hiện CPH, ban giám đốc cùng với tập thể công nhân sẽ soạn thảo ra một kế hoạch tư nhân hoá, phương án phân chia quyền lợi cho người lao động, cách thức và tiến trình bán cổ phiếu, có thể bán đấu giá cổ phiếu khống chế hoặc các nhóm cổ phiếu khác.
ở cấp Nhà nước, chương trình tư nhân hoá có nêu một số phương án phân chia quyền lợi cho người lao động như sau:
- Người lao động được chia 25% cổ phiếu ưu đãi không mất tiền mà có quyền mua 10% cỏ phiếu, có quyền biểu quyết với giá giảm 30% so với danh nghĩa. lãnh đạo xí nghiệp có thể mua theo tiêu chuẩn đến 5% tổng số cổ phiếu có quyền biểu quyết.
- Công nhân có thể mua 51% cổ phiếu có quyền biểu quyết theo những điều kiện do Nhà nước quy định.
- Công nhân có quyền mua 20% cổ phiếu có quyền biểu quyết giảm giá 30%, và một nhóm công nhân có quyền mua 20% cổ phiếu có quyền biẻu quyết theo những điều kiện đặc biệt, không giảm giá, nếu họ chịu trách nhiệm không để cho xí nghiệp phá sản và thực hiện đúng kế hoạch tư nhân hoá. Phương án này chỉ áp dụng những xí nghiệp có quy mô trung bình không phải CPH bắt buộc.
Việc phát huy không hay bán theo những điều kiện ưu đãi một phần cổ phiếu của xí nghiệp cho các thành viên tập thể lao động theo những phương án mà họ lựa chọn sẽ được thực hiện ngay trong tiến trình biến xí nghiệp thanh Công ty cổ phần. ở các xí nghiệp sẽ thành một hội đồng giám sát bao gồm đại diện của ban giám đốc, tập thể lao động, cơ quan tư nhân hoá và chính quyền địa phương. Hội đồng giám sát tiến trình tư nhân hoá theo kế hoạch đã định ở xí nghiệp, kể cả việc thực hiện những ưu đãi đối với công nhân viên.
Vừa qua liên bang Nga không kể tuổi tác, địa vị xã hội, mức trhu nhập.v.v... điều được phát phiếu tư nhân hoá như nhau. Với phiếu này họ có quyền đổi lấy cổ phiếu của xí nghiệp tư nhân hoá với giá trị nhất định (do Liên Xô tối cao quyết định). Dự định đến năm 1993 - 1994 sẽ phát bổ sung một đợt mới phiếu tư nhân hoá.
Phiếu tư nhân hoá có thể được sử dụng theo những cách sau:
1- Đổi trực tiếp giấy cổ phiếu của xí nghiệp công nhân của các xí nghiệp có thể đổi lấy cổ phiếu với những điều kiện ưu đãi, cũng như được tham gia giá các cuọc bán đấu giá đặc biệt để mua cổ phiếu như mọi công dân khác ngoài xí nghiệp.
2- Đổi lấy cổ phần của các quỹ đầu tư tư nhân hoặc quốc doanh. Các quỹ đầu tư sẽ thu phiếu tư nhân hoá và và dùng chúng để mua cổ phần của các xí nghiệp. Như vậy mỗi quỹ đầu tư sẽ có nhiều cổ phần trong nhiều xí nghiệp khác nhau. Họ sẽ dùng lãi cổ phần thu được từ các xí ngiệp để trả lãi cho những người mua cổ phiếu của mình.
3- Cách thứ ba là bán phiếu tư nhân hoá để lấy tiền.
Để tránh mất giá hoặc thiếu lòng tin vào phiếu tư nhân hoá, Nhà nước quy định rằng tổng số cổ phiếu phát hành trên thị trường sẽ nhiều hơn phiếu tư nhân hoá phát cho nhân dân (nghĩa là tạo chênh lệch cung vượt cầu để phiếu tư nhân hoá không bị mất giá: các xí nghiệp cần tư nhân hoá phải bán trên 35% cổ phiếu của mình để lấy phiếu tư nhân hoá. Đồng thời Nhà nước lập ra các cơ quan tài chính đặc biệt để tư vấn cho tư nhân xử dụng phiếu có hiệu quả. Nhà nước cũng bảo đảm mọi mặt về thông tin để nhân dân có thể lựa chọn theo ý mình.
Triển vọng tư nhân hoá đến năm 1995
Với tiến trình mở của nền kinh tế của liên bang Nga và với quyết tâm thúc đẩy tư nhân hoá, xây dựng kinh tế thị trường, Chính phủ cho rằng chương trình tư nhân hoá có thể đạt được kết quả khả quan. Tuy nhiên, thực tế sẽ khó đạt được kết quả như vậy, vì như các nước Đông Âu. Nhân dân liên bang Nga không thể lấy đâu ra tiền để mua khối lượng tài sản khổng lồ thuộc sở hữu Nhà nước ước tính khoảng 2500 tỷ rúp vốn cố định và 1100 tỷ rúp vốn lưu động. Việc bán rộng rãi cổ phiếu bao bồ 3 giai đoạn:
- Bán ưu đãi những người đầu tư lớn mua cổ phần khống chế của xí nghiệp. Nếu chọn phương án đâu đãi thứ hai, thì chính tập thể công nhân viên xí nghiệp đó sẽ là những người nắm cổ phần khống chế. Nếu chọn phương án ba, thì chủ một nhóm công nhân của xí nghiệp mới có khả năng khống chế xí nghiệp trong tay. Ngoài ra, khi có được một lượng phiếu tư nhân hoá nhất định, các quỹ đầu tư cũng có thể trở thành người đầu tư chính của xí nghiệp.
- Bán số cổ phiếu phần còn lại thông qua đấu thầu.
Trong năm 1993 sẽ kết thúc về cơ bản quá trình tư nhân hoá nhỏ. Để đẩy nhanh tư nhân hoá, Chính phủ sẽ thực hiện phân phối loạt phiếu tư nhân hoá mới, tiến hành tư nhân hoá nhà ở, điều chỉnh mức lãi cổ phân, tăng trợ cấp ngân sách và tín dụng ưu tiên cho những nơi thực hiện tốt nhiệm vụ tư nhân hoá.
Nhà nước khuyến khích hình thức đấu giá cạnh tranh để tuyển chọn mua xí nghiệp, đồng thời sẽ chú ý giải quyết những hậu quả về mặt xã hội như công ăn việc làm. Nhà nước hứa sẽ mở rộng danh sách các xí nghiệp tư nhân hoá đối với khách hàng nước ngoài, và dựa vào luật đàu tư sẽ có những ưu đãi nhằm thu hút đầu tư nước ngoài nhiều hơn.
Đến cuối năm 1995 giá trị tài sản sản xuất của đất nước thuộc khu vực quốc doanh sẽ còn khoảng 40%. Đây là một bước đi khá lớn, những tiến mạnh vào kinh tế thị trường thì kết quả tư nhân hoá đó chưa đạt tới giới hạn cuối cùng.
3.2- Kinh nghiệm CPH ở Trung Quốc
Trung Quốc bắt đầu thí điểm CPH các doanh nghiệp Nhà nước của họ vào đầu những năm 1980, họ đã gặt hái được những kinh nghiệm đáng chú ý. Từ ngày 22 đến ngày 25/8/1987 tại Hàn Châu (Sơn Tây) Chính phủ tổ chức hội nghị thảo luận về 3 năm thực hiện về CPH.
Chỉ tính riêng trong 5 tỉnh thành phố (Thẩm Dương, Thượng Hải, Bắc Kinh, Quảng Châu, Thiển Tây) đã có trên 1500 xí nghiệp quốc doanh cổ phần hoá với tổng số vốn lên tới hàng chục tỷ nhân dân tệ. Ngày 15/7/1984 thành lập Công ty cổ phần đầu tiên của cả nước với số vốn cổ phần của bên ngoài Công ty lên tới 5318000 nhân dân tệ chiếm 73,6% tổng giá trị doanh nghiệp.
3.3- Những bài học kinh nghiệm có thể rút ra từ việc cổ phần hoá, tư nhân hoá ở các nước trên thế giới
- Cổ phần hoá phải được nghiên cứu toàn diện.
Nó không phải là mục đích tự thân, mà là một bộ phận trong một chương trình cải cách rộng lớn hơn nhằm thúc đẩy bố trí tốt hơn các nguồn lực, khuyến khích cạnh tranh, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế, phát triển thị trường vốn.
- Việc nghiên cứu thiếu thận trọng các phương án lựa chọn trước khi hành động có thể dẫn đến những sai lầm tốn kém.
Nhiều chương trình các xí nghiệp mới chỉ chủ trọng đến hiệu quả thu hồi trước mắt, nhưng lại chưa quan tâm đến tìm cách bảo đảm lợi nhuận tài chính lâu dài.
- Trong trường hợp thị trường vốn chưa phát triển thậm chí còn yếu kém thì việc cổ phần hoá cần phải thận trọng và phải được cụ thể hoá trong chủ trương bán một phần tài sản.
Điều kiện tài chính là kiên quyết, nếu không trong nên kinh tế sẽ xuất hiện những tình trạng bất thường. Nhiều nước đã thu hẹp thị trường tài sản của mình băng cách giới hạn hoặc loại trừ sự tham gia của người nước ngoài.
+ Xây dựng một chiến lược cổ phần hoá và phân loại xí nghiệp quốc doanh là bước cần thiết để làm sáng tỏ mục tiêu và quan điểm của Nhà nước.
+ Việc cổ phần hoá yêu cầu phải có các cán bộ phải có trình độ, quản lý một chương trình CPH là công việc phức tạp trong khi nhiều quan chức Chính phủ chưa có đầy đủ năng lực cần thiết. Mặt khác Nhà nước thường ở thế yếu trong thương lượng: nhiều xí nghiệp không hấp dẫn, lại thiếu thông tin, thiếu kinh nghiệm trong việc bán tài sản. Trong những trường hợp như vậy, kết cục chung thường thấy là tài sản bị đánh giá thấp hơn giá trị thực của nó, và cuối cùng, điều cần phải có là công khai và lòng tin tưởng của quần chúng đối với chương trình cổ phần hoá.
II- Doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam và thực trạng cổ phân hoá
1- Thực trạng của doanh nghiệp Việt Nam và tiến trình cổ phân hoá
Thực tiễn không những năm vừa qua đã khẳng định đường lối đổi mới ở Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn, nhiều nhà kinh tế trên thế giới đánh giá cao thành tự đổi mới của Việt Nam, coi đó là "hiện tượng Việt Nam". Tuy nhiên quá trình cải cách cũng đặt ra nhiều vấn đề bức xúc, trong đó có vấn đề nâng cao vai trò, hiệu quả của doanh nghiệp Nhà nước và quá trình CPH và quá trình CPH loại hình doanh nghiệp này. Trước kia chúng ta có hơn 12000 doanh nghiệp Nhà nước. Sau quyết định 388 cảu Chính phủ, sắp xếp lại khu vực kinh tế Nhà nước, vừa giải thế các doanh nghiệp thua lỗ nhiều năm, vừa sát nhập, đến nay chúng ta còn gần 6000 doanh nghiệp nữa. Bên cạnh những mặt được, hoạt động doanh nghiệp Nhà nước bộ lộ nhiều hạn chế.
- Hầu hết các doanh nghiệp Nhà nước có quy mô nhỏ, vốn ít, kỹ thuật lạc hậu. ở nước ta số doanh nghiệp Nhà nước có vốn dưới 1 tỷ đồng chiếm tới 50%. Năm 1994 doanh nghiệp thu trung bình của các doanh nghiệp Nhà nước do bộ, ngành trung ương quản lý là 64 tỷ đồng/năm. Các doanh nghiệp địa phương quản lý là 16 tỷ đồng/ năm. Trừ một số doanh nghiệp Nhà nước mới xây dựng trong những năm gần đây, hầu hết các doanh nghiệp lại có kỹ thuật lạc hậu so với thế giới tới 2 - 3 thế hệ như ngành đường sắt, đóng tầu, cơ khí... vì vậy sản phẩm của các doanh nghiệp này cung cấp có chi phí sản xuất cao, chất lượng kém.
- Tình trạng chiếm dụng vốn, công nợ dây dưa kéo dài giữa các doanh nghiệp Nhà nước là hiện tượng phổ biến. Tính đến 31/12/1994 tổng số công nợ phải thu chiếm 20% doanh thu khu vực kinh tế này, bằng 54% tổng số vốn của doanh nghiệp và tổng số công nợ phải trả chiếm 26,4% doanh thu. Trừ một số doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ như ngân hàng thương mại, Công ty bảo hiểm, còn lại đại bộ phận của doanh nghiệp Nhà nước đều có số nợ phải trả lớn hơn số nợ phải thu, số nợ không có khả năng thanh toán rất lớn.
- Hệ thống quản lý nặng lề, kém linh hoạt, chưa đáp ứng được yêu cầu của cơ chế thị trường. Các quyết định đầu tư, các phương án sản xuất kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm, các phương án đổi mới kỹ thuật và công nghệ, phân phối tài chính.. có quá nhiều quy định, thủ tục phiền hà, chế độ tập thể quyết định, trên thực tế không ai chịu trách nhiệm, gây thất thoát lớn đối với tài sản của Nhà nước trong các doanh nghiệp.
- Hiệu quả kinh tế trong các doanh nghiệp Nhà nước rất thấp nhiều doanh nghiệp Nhà nước không bảo tồn được vốn, mức sử dụng lao động thấp, tốc độ chu chuyển của vốn chậm, sức cạnh tranh yếu. Đến cuối năm 1994, riêng nó doanh nghiệp Nhà nước do địa phương quản lý thua lỗ lên tới 469 doanh nghiệp, chiếm 12% tổng số doanh nghiệp Nhà nước và 33,2% tổng số lỗ của khu vực kinh tế Nhà nước. Có doanh nghiệp trước khi có quyết định giải thế còn mắc nợ hàng trăm tỷ đồng và hàng triệu đô la. Mặc dù Chính phủ thường xuyên rà soát công nợ của doanh nghiệp Nhà nước và có chính sách phù hợp đối với số nợ tồn đọng từ nhiều năm trước, nhưng nhiều doanh nghiệp Nhà nước vẫn không có khả năng trang trải công nợ bằng lợi nhuận thu được của các doanh nghiệp này. Hiện tượng các doanh nghiệp Nhà nước "ăn vào vốn" vẫn còn khá phổ biến, như vậy sự tồn tại của khu vực kinh tế Nhà nước quá lớn trở thành gánh nặng đối với ngân sách Nhà nước.
Thực trạng sự hoạt động kém hiệu quả, kém năng động của khu vực kinh tế Nhà nước là hiện tượng phổ biến ở các nước. Từ những năm 80 của thế kỷ 20 ở các nước tư bản đã diễn ra quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, tư nhân hoá và cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước.
2- Nguyên nhân của tình trạng trên là:
- Về nhận thức và hành động từ các cơ quan quản lý đến doanh nghiệp chưa đầy đủ hành động chưa thường xuyên, liên tục:
+ Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước: Do đứng trước ba nguy cơ lớn của đất nước là: nguy cơ đi chệch hướng XHCN, nguy cơ tụt hậu so với sự phát triển chung, nguy cơ của quốc nạn tham nhũng của số cán bộ có chức có quyền: Cán bộ các cấp còn rất dè dặt trong việc chỉ đạo công tác CPH. Vì cổ phần doanh nghiệp Nhà nước sẽ chuyển từ hình thức sở hữu Nhà nước sang hình thức sở hữu có một phần của Nhà nước. Nhiều người muốn "cố thủ" tốt nhất là không hăng hái trong công tác nay để trách đi chệch hướng XHCN. Người lãnh đạo (đầu tầu) đã không hăng hái thì không thể chuyển động được các "toa tầu" phía sau.
+ Đối với các doanh nghiệp: người lãnh đạo (tránh, phó giám đốc) hầu hết là do chế độ bổ nhiệm mà có, do vậy khi chuyển sang Công ty cổ phần để gìn giữ được chức vụ đó trước đại hội cổ đông? vì thế họ không muốn CPH và không chịu CPH doanh nghiệp Nhà nước, và khi CPH công nhân và lao động còn được làm việc như cũ hay không? Họ được gì? hình như chưa được gì đáng kể?
Thế là từ trên xuống dưới kêu thành mảng trong nhận thức và hành động. Để đảm bảo "an toàn" và giữ được "ghế" tránh được "nguy cơ đi chệch hướng XHCN" thượng sách là cùng xắn tay áo lao vào công tác này.
- Khung pháp lý chưa đầy đủ và thiếu đồng bộ: Chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước mới chỉ dừng lại ở một quyết định, một chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, các ngành, các cấp thiếu hoặc rất chậm trong triền khai hướng dẫn thực hiện các cơ quan chỉ đạo, nhất là mới chỉ hành động về hành chính trong khi CPH cần đến cả một loạt các quy định của các ngành luật khác như tài chính, lao động... mà đến nay chưa có nên dẫn đến thiếu sự nhất quán trong thi hành. Các điều kiện của cơ chế thị trường dành cho hoạt động này còn thiếu, tạo ra sự lúng túng trong quá trình chỉ đạo thí điểm CPH, đặc biệt là xử lý những vấn đề có tính kỹ thuật, nghiệp vụ ở cơ sở.
- Hình thức CPH ở doanh nghiệp Nhà nước còn quá sơ sài gian đơn chuqa mang tính đa dạng, trong khi đó các loại hình doanh nghiệp ở các vùng, các ngành có tính đặc thù riêng. Dó đó nhièu doanh nghiệp muốn chuyển sang Công ty cổ phần nhưng chưa có hình thức chỉ đạo thích ứng.
- Sự phân biệt giữa doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp ngoài quốc doanh (kể cả Công ty cổ phần) còn nặng nền cả trong nhận thức lẫn thực tế thực hiện.
- Doanh nghiệp Nhà nước được ưu ái (bao cấp) khá đậm nét về địa điểm, vốn, tín dụng... đặc biệt là kết quả quốc doanh: Nếu lỗ, mất vốn... Nhà nước vẫn còn gánh chịu. Cá nhân (tránh phó giám đốc) có mất cũng chỉ mất chức - thậm chí còn được chuyển lên chức vụ cao hơn. Trong khi Nhà nước mất đi bạc tỷ - thì họ cũng chỉ mất (hoặc tăng) chức nhưng đã "ăn đủ" cho cá nhân công nhân viên doanh nghiệp Nhà nước, ngoài lương họ còn được hưởng và các quyền lợi khác mà họ không phải bỏ vốn .
- Chuyển Công ty cổ phần: Nhiều ý kiến chỉ chọn và đưa ra những doanh nghiệp kinh doanh không có hiệu quả hoặc lỗ, những doanh nghiệp lãi, có nguồn thu lớn phải giữ lại cho Nhà nước. Có nghĩa đã đã đưa ra thị trường "các loại" "hàng" thiu thối - vì thế khó có người muốn mua. Đã vậy khi chuyển sang Công ty cổ phần họ tưởng như Nhà nước mất tài sản do đó họ nâng giá trị tài sản doanh nghiệp lên quá mức thị trường có thể chấp nhận thế là tình trạng hàng bán ra đã kém lại có mức giá cao, thành thử ế ẩm. Kết quả là các doanh nghiệp Nhà nước đưa ra CPH sau một thời gian tranh cãi, tốn phí tiền của, nhân lực... nhưng lại bỏ đó.
Mặt khác nếu chuyển sang Công ty cổ phần doanh nghiệp còn chịu khá nhiều những hắt hủi" của doanh nghiệp ngoài quốc doanh mà trong chính sách của Nhà nước không có, nhưng trong thực tế thực hiện lại nảy sinh như tín dụng, thuế, giá trị tài sản...
- Thói quen hùn vốn vào Công ty cồ phần để kinh doanh trong dân ta chưa có, đặc biệt là ở các tỉnh phía bắc, họ thà cất giữ (vàng, ngoại tệ): gửi tiết kiệm sinh lợi hoặc mua bất động sản sẽ an toàn hơn là mua cổ phần doanh nghiệp. Đặc biệt đây là những đồng tiền ky cóp mồ hôi nước mắt dành dụm được.
- Các chính sách khuyến khích công nhân viên chức trong các doanh nghiệp Nhà nước chuyển sang Công ty cổ phần chưa nhiều, chưa có sự hấp dẫn cần thiết để ho hăng hái trong hoạt động này. Nhà nước cũng cần thiết phải có một số chính sách đãi ngộ thích đáng cho các doanh nghiệp Nhà nước chuyển sang Công ty cổ phẩn thì mới tạo ra được động lực bên trong từng doanh nghiệp để thúc đẩy công tác này phát triển đúng hướng. Bên cạnh sự khuyến khích lợi ích vật chất, cũng cần có thái độ dứt khoát với các loại hình doanh nghiệp mà Nhà nước không cần đầu tư 100% vốn để có kế hoạch vụ thể từng bước phát triển doanh nghiệp Nhà nước sang Công ty cổ phân, Công ty trách nhiệm hữu hạn, hoặc doanh nghiệp tư nhân tạo ra sự phát triển nhịp nhàng giữa các thành phần kinh tế trong tổng thể nền kinh tế quốc dân.
- Thủ tục hành chính quá ư rườm rà và tốn kém. Một doanh nghiệp Nhà nước trị giá 2 tỷ bạc chuyển sang Công ty cổ phần mà hàng chục lượt cán bộ đến nghiên cứu, soát, xét, kiểm tra, kiểm toán, thẩm định kiểm toán, ký biên bản, thẩm định biên bản, ra quyết định.v.v... Rồi sau đó mới trình lên, ngành, UBND, tỉnh, thành phố, trình Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn... Biết bao "cửa ải" mà doanh nghiệp phải chịu đựng. Với thủ tục như vậy hỏi sao có thể đẩy mạnh được tiến độ phát triển chủ trương CPH doanh nghiệp Nhà nước theo chương trình đổi mới doanh nghiệp của Chính phủ đề ra.
Thực hiện nghị quyết trung ương VIII về cải cách hành chính, thiết nghĩ đây là một trong những điểm cần thiết phải "cải cách" phải loại bỏ những thủ tục rườm rà xây dựng một quy trình CPH doanh nghiệp Nhà nước gọn nhẹ, quản lý chặt chẽ và tránh được những chi phí do doanh nghiệp phải bỏ ra làm ảnh hưởng đến túi tiền của ngân sách.
- Một nguyên nhân khá quan trọng là tổ chức chỉ đạo chưa tập trung, thiếu thống nhất giữa các bộ, ngành, trung ương, địa phương: cơ quan đại diện chỉ định chủ trì (Bộ tài chính) chưa đủ thẩm quyền giải quyết các vấn đề phát sinh kịp thời, đôi khi gặp khó khăn (đặc biệt là có ý kiến khác nhau vè quyền sở hữu tài sản) thì chùn bước và phó mặc thời gian và sự việc.
3- Một số kết quả đã đạt được
Trong 6 tháng cuối năm 1998 sau khi có nghị định số 44/CP đã có 90 doanh nghiệp được CPH, đưa số doanh nghiệp được lên con số 120 năm 1999, CPH được 250 doanh nghiệp gấp 7 lần so với 6 năm trước đó (1992 - 1997) cộng lại. Như vậy cho đến nay đã CPH được 370 doanh nghiệp. Trong số các địa phương có nhiều doanh nghiệp được CPH phải kể đến Hà Nội. Trong 2 năm 1998 - 1999 Hà Nội CPH 71 doanh nghiệp Nhà nước (năm 1998 CPH 31 doanh nghiệp Nhà nước, năm 1999 CPH 4 doanh nghiệp) Só doanh nghiệp được CPH chiếm 21,6% doanh nghiệp Nhà nước do địa phương quản lý.
Thành phố Hồ Chí Minh đã đi đầu trong việc thực hiện thí điểm CPH nhưng sau đó chững lại. Đến tháng 6 năm 1999 mới có 8 doanh nghiệp được chuyển thành Công ty cổ phần, 12 doanh nghiệp đang thực hiện thẩm tra giá trị doanh nghiệp. Đến nay thành phố đã lấy lại được khí thế ban đầu. Chỉ 4 tháng sau đó đã hoàn thành thủ tục chuyển 35 trong số 44 doanh nghiệp trong kế hoạch theo luật Công ty. Trong số doanh nghiệp đã CPH có 11,9% số Công ty có vốn điều lệ trên 10 tỷ đồng, 52,3% số Công ty có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng. Các Công ty cổ phần có vốn điều lệ lớn là Công ty cổ phần đường Lam Sơn (150 tỷ đồng) Công ty cổ phần SACOM (Công ty bưu chính viễn thông) có 4 điều lệ 120 tỷ đồng, trong đó 49% vốn điều lệ thuộc Nhà nước, Công ty cổ phần vật liệu xây dựng Quảng Xương (Thanh Hoá) có vốn điều lệ thấp nhất 75 triệu đồng.
Báo cáo hoạt động của 50 doanh nghiệp đã CPH hơn 1 năm cho thấy hầu hết có chuyển biết tích cực, toàn diện kể cả những doanh nghiệp trước khi CPH bị thua lỗ, doanh nghiệp thu bình quân tăng trên 25%, có một số tăng trên 50%. Trong 9 tháng đầu năm 1999 có những Công ty cổ phần đạt gấp đôi doanh nghiệp cả năm trước khi CPH. Điển hình là Công ty cổ phần cơ Điện lạnh đạt 353 tỷ đồng so với 78 tỷ đồng. Công ty cổ phần đại lý vận chuyển đạt 163 tỷ đồng so với 16 tỷ đồng.
Số lượng lao động không những không bị giảm mà con tăng bình quân hàng năm là 10% có Công ty tăng trên 20%. Ví dụ Công ty chế biến hàng xuất khẩu Long An từ 900 lao động tăng lên 1280 lao động, Công ty cổ phần cơ Điện lạnh từ 334 người lên 739 người, Công ty cổ phần Đại lý liên hiệp vận chuyển từ 85 người lên 350 người.
Thu nhập của người lao động tăng bình quân hàng năm 20% (chưa kể thu nhập cổ tức) điển hình là Công ty cổ phần Đại lý liên hiệp vận chuyển. Trước khi cổ phần hoá thu nhập là 1,1 triệu đồng/ người/ tháng nay đạt 4,4 triệuđồng/ người/ tháng, Công ty cổ phần Chế biến thức ăn gia xúc từ 524000 sử đồng lên 1,3 triệu đồng...
Lợi nhuận trước thuế hàng năm bình quân trên 26%, có Công ty đạt tổng lợi nhuận gấp 2 - 3 lần so với trước khi CPH. Công ty cổ phần Đại lý liên hiệp vận chuyển lãi tăng 4,1 tỷ đồng lên 37 tỷ đồng, Công ty cổ phần cơ Điện lạnh lãi tăng từ 8,8 tỷ đồng lên 34 tỷ đồng.
Nộp ngân sách tăng bình quân hàng năm 30%, một số Công ty gấp đôi so với trước khi CPH. Năm 1998 Công ty cổ phần cơ điện lạnh nộp ngân sách 68 tỷ đồng so với trước khi CPH là 3,7 tỷ dồng, Công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển nộp ngân sách 40 tỷ đồng so với 5,1 tỷ đồng trước khi CPH. Công ty cổ phần sơn Bạch Tuyết đạt 7,5 tỷ đồng so với trước là 6,8 tỷ đồng...
Vốn điều lệ (bao gồm tích luỹ từ lợi nhuận, phát hành thêm cổ phiếu trong nước và một số Công ty được huy động cổ phần ngoài nước, tăng bình quân trên 25% năm. Có một số Công ty tăng hơn 2 lần.
Lãi cổ tức đạt cao hơn lãi tiết kiệm, bình quân đạt 1,2%/ tháng. Có số Công ty đạt tên 2% tháng như Công ty cổ phần sửa chữa và đóng tầu Bình định đạt 26% trong năm 1998, các Công ty cổ phần khai thác dịch vụ thuỷ sản Đà Nẵng, Sơn Bạch Tuyết, chế biến thức ăn gia súc, chế biến hàng xuất khẩu Long An đầu đạt lãi cổ tức 2%/ tháng.
Tại Hà Nội, theo báo cáo của các doanh nghiệp đã chuyển sang hoạt động luật Công ty và đã hoạt động từ 6 tháng trở lên cho thấy: tổng lợi nhuận thực hiện trong quý I năm 1999 thu được 7,8 tỷ đồng, tăng 32% so với cùng kỳ năm 1998, Công ty cổ phần Phúc Thịnh từ lỗ 350 triệu đồng chuyển sang lãi 425 triệu đồng.
Nộp ngân sách của các DNNN trong quý 1 năm là 7,8 tỷ đồng tăng 34%. Đặc biệt, phần nộp ngân sách của Công ty thương nghiệp tổng hợp Hai Bà Trưng tăng 10 lần, Công ty cổ phần thương mại và dịch vụ tăng 12 lần, thu nhập bình quân của người lao động tăng 10%, Công ty sứ Bát Tràng tăng 45%, Công ty dịch vụ bánh tôm Hồ Tây tăng 29%
III. Những giải pháp thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá trong thời gian tới.
1. Môi trường pháp lý cần thiết cho sự ra đời hoạt động của công ty cổ phần.
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, tất cả mọi hoạt động kinh tế đều phải chịu sự định chế của Nhà nước bằng hệ thống pháp luật. Đó là các bộ luật và văn bản dưới luật có ý nghĩa như là những điều kiện để xác lập và ổn định các mối quan hệ kinh tế ở tầm vĩ mô, tạo ra khung khổ pháp lý cho sự hoạt động của các đơn vị kinh tế phù hợp với lợi ích phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Việc chuyển sang nền kinh tế thị trường và chuyển đổi doanh nghiệp hoạt động theo mô hình công ty cổ phần không thể thực hiện được nếu Nhà nước không tạo lập môi trường pháp lý cần thiết làm điều kiện và cơ sở cho quá trình này.
Nói chung, ở các nước có nền kinh tế thị trường hoặc đang chuyển sang nền kinh tế thị trường đều có một số bộ luật cơ bản như: Luật công ty, Luật đầu tư trong và ngoài nước. Luật thương mại, Luật phá sản, Luật lao động và bảo hiểm, Luật doanh nghiệp Nhà nước, Luật về thị trường chứng khoán và sở giao dịch chứng khoán. Luật thống kê, kế toán và kiểm toán… Một số nước còn bổ sung thêm luật tư nhân hoá để tạo cơ sở pháp lý cho quá trình tư nhân hoá và cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước.
Trong vấn đề này Nhà nước nên có sự nghiên cứu và ban hành một bộ luật đặc biệt để làm cơ sở căn bản cho quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, đó là Luật chuyển đổi sở hữu Nhà nước. Như ở trên chúng ta đã trình bày, trong nền kinh tế thị trường hỗn hợp có sự tham gia và hoà nhập của sở hữu Nhà nước và sở hữu tư nhân dưới hình thức các công ty cổ phần thì quá trình chuyển đổi sở hữu bằng cổ phần hoá và quốc doanh hoá diễn ra song song vơí nhau. Với chế độ tham dự thông qua phát hành và mua bán trái phiếu, cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, cả hai quá trình trên diễn ra liên tục nhằm chu chuyển các nguồn vốn đầu tư và cơ cấu lại mối quan hệ giữa hai khu vực này trong nền kinh tế và không bao giờ có điểm kết thúc. Vì vậy, cần quan niệm quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước không phải chỉ có tính chất tạm thời trong một giai đoạn nhất định cũng như sẽ không còn diễn ra quá trình quốc doanh hoá trở lại các doanh nghiệp cổ phần tư nhân. Luật chuyển đổi sở hữu Nhà nước ban hành sẽ khẳng định sự cam kết của Nhà nước đi theo con đường phát triển nền kinh tế thị trường, tạo những điều kiện pháp lý cần thiết cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước cũng như dân chúng thực hiện một cách yên tâm công cuộc cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước với quy mô rộng lớn, khó khăn và lâu dài của Nhà nước. Đạo luật này cũng sẽ quy định những nguyên tắc chung thể hiện về mặt pháp lý quan điểm nhất quán của Nhà nước trong các vấn đề như doanh nghiệp Nhà nước thuộc ngành và lĩnh vực nào được cổ phần hoá và có sự tham gia của khu vực tư nhân, quy trình định giá doanh nghiệp và phương thức tiến hành cổ phần hoá, hệ thống tổ chức quyết định và thi hành cổ phần hoá, quản lý và sử dụng các nguồn vốn do bán cổ phiếu cũng như xử lý các hành vi lạm dụng, cố ý làm trái nguyên tắc. Bên cạnh Luật công ty và Luật công nghiệp Nhà nước, Luật chuyển đổi sở hữu Nhà nước sẽ đóng vai trò bảo đảm về mặt pháp lý cho bước trung gian chuyển đổi doanh nghiệp Nhà nước sang công ty cổ phần.
2. Từng bước xây dựng thị trường chứng khoán và sở giao dịch chứng khoán
Thị trường chứng khoán là trung tâm phản ánh hoạt động kinh tế của các công ty, là nơi cung ứng các nguồn vốn và phân phối các cơ hội đầu tư cho công ty và công chúng. Trên thực tế, thị trường chứng khoán là điều kiện cho sự ra đời và hoạt động của các công ty cổ phần. Vì vậy, cùng với sự ra đời và hoạt động của các công ty cổ phần theo Luật công ty và quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước, Nhà nước cần phải gấp rút tạo điều kiện để xây dựng thị trường chứng khoán và các sở giao dịch chứng khoán.
Thông thường thị trường chứng khoán bao gồm hai bộ phận.
- Thị trường sơ cấp là thị trường phát hành các chứng khoán mới.
- Thị trường thứ cấp là thị trường mua, bán các chứng khoán đã phát hành.
Hoạt động của thị trường này được thực hiện qua các trung gian tài chính có tác dụng "cầu nối" giữa công chúng và công ty. Các trung gian tài chính thường là các công ty tài chính, các ngân hàng thương mại, công ty bảo hiểm, quỹ tiết kiệm, quỹ hưu trí. Các cơ quan này hoạt động trong hệ thống sở giao dịch chứng khoán theo nguyên tắc phát hành các phiếu ghi nợ ( sổ tiết kiệm, tín phiếu...) hoặc được uỷ quyền phát hành cổ phiếu cho các công ty để thu hút tiền vốn của công chúng, sau đó dùng tiền này đầu tư vào các lĩnh vực để thu lợi nhuận như mua trái phiếu, cổ phiếu của các công ty và Nhà nước, đầu cơ bất động sản. Nhờ hoạt động với quy mô lớn và thành thạo nghiệp vụ đầu tư, các tổ chức này đã góp phần làm cho nguồn vốn trong xã hội được phân phối một cách có hiệu quả, giúp cho công chúng giảm thiểu được các rủi ro trong việc lựa chọn và giữ các loại chứng khoán, đồng thời sự cạnh tranh giữa các tổ chức này sẽ làm cho lãi suất bị hạ thấp xuống, nhưng nguồn vốn thực tế được đầu tư vào kinh doanh đạt được mức cao nhất. Điều đó làm tăng khả năng tích luỹ trong nội bộ nền kinh tế và cho phép đẩy nhanh sự tăng trưởng kinh tế.
ở nước ta, tuy đã có các ngân hàng thương mại và ngân hàng đầu tư phát triển sau khi đã chuyển đổi hệ thống ngân hàng từ một cấp thành hai cấp, nhưng phương thức và phương pháp hoạt động còn chưa đổi mới kịp với những đòi hỏi của thị trường vốn trong xã hội. Hệ thống các quỹ tín dụng và ngân hàng cổ phần mới ra đời và hoạt động trong thời gian ngắn, chưa đủ thực lực và kinh nghiệm để làm điều kiện cho các công ty cổ phần ra đời và hoạt động. Hiện nay, nhận thức được tính cấp bách của vấn đề này, Chính phủ đã cho phép chính quyền ở hai thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội xúc tiến việc nghiên cứu và xây dựng thị trường chứng khoán mà bước đầu là xây dựng thị trường sơ cấp.
Phải chuẩn bị một số điều kiện sau:
- Nhà nước phải gấp rút xây dựng bộ Luật về thị trường chứng khoán và sở giao dịch chứng khoán làm cơ sở pháp lý cho sự ra đời và hoạt động của loại thị trường này bao gồm các quyết định về phát hành, mua bán, chuyển nhượng chứng khoán và các loại văn tự có giá khác, trách nhiệm, quyền hạn và xử lý vi phạm đối với các chủ thể tham gia, vai trò, chức năng, quy chế hoạt động và trách nhiệm của sở giao dịch chứng khoán.
- Xây dựng hệ thống kiểm toán độc lập và có những văn bản luật quy định vai trò chức năng, quyền hạn và trách nhiệm hoạt động của tổ chức này.
- Đẩy mạnh hoạt động bảo hiểm đến mọi đối tượng và thành lập các công ty bảo hiểm như là một tổ chức tài chính quan trọng sẽ tham gia vào hoạt động của thị trường chứng khoán.
- Ngoài việc củng cố và tiếp tục đổi mới hoạt động của các ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư phát triển và các quỹ tín dụng để làm nòng cốt cho việc tổ chức bước đầu phát hành chứng khoán cho các công ty, thực hiện các nghiệp vụ về mua bán chứng khoán, chiết lựa chọn, các cơ hội đầu tư và phân tán rủi ro. Nhà nước cần thành lập một Công ty tài chính quốc gia có trách nhiệm quản lý, sử dụng và kinh doanh nguồn vốn thuộc sở hữu Nhà nước trong các doanh nghiệp được cổ phần hoá. Công ty này sẽ góp phần quan trọng cho sự ra đời và hoạt động của thị trường chứng khoán, đồng thời cũng là một công cụ điều tiết của Nhà nước đối với hoạt động của thị trường này.
Nhà nước cũng cần soạn thảo những quy định cụ thể nhằm chọn lựa, cho phép một số tổ chức tài chính quốc tế tham gia vào thị trường này để tạo môi trường và động lực cạnh tranh đối với các tổ chức tài chính của Việt Nam, qua đó, học tập, rút kinh nghiệm, dần dần nâng cao trình độ ngang tầm với đòi hỏi của hoạt động thị trường chứng khoán trong nước và quốc tế.
3. Thành lập cơ quan Nhà nước có quyền lực để thực hiện chương trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước
Thực tiễn quá trình cổ phần hoá ở các nước, đặc biệt là ở Đông Âu cũng như giai đoạn thí điểm vừa qua ở nước ta đã cho thấy sự cần thiết phải có một cơ quan được Nhà nước thành lập và uỷ quyền để giải quyết các vấn đề đổi mới khu vực kinh tế Nhà nước, trong đó chuyên trách theo dõi, chỉ đạo và có đầy đủ thẩm quyền quyết định các vấn đề liên quan đến công việc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Tên gọi đối với cơ quan này tuy có sự khác nhau ở mỗi nước, như Bộ cải cách sở hữu (hay phủ Hunggari, Hội đồng thác quản ở Đức. Nhưng đều có cơ quan này có nhiệm vụ và quản lý và thực hiện sự chuyển đổi và đa dạng hoá sở hữu đúng với pháp luật trong các doanh nghiệp Nhà nước, chống lại sự trục lợi, tham nhũng, tẩu tán tài sản của Nhà nước. Vì vậy, ở nước ta cần gấp rút thành lập một cơ quan Nhà nước có đủ thẩm quyền với sự tập hợp của các chuyên gia am hiểu về các lĩnh vực như tài chính, ngân hàng, quản trị kinh doanh, luật pháp, để chỉ đạo và điều hành có kết quả chương trình cổ phần hoá đầy khó khăn và phức tạp này. Dựa trên đề án tổng thể đổi mới khu vực kinh tế Nhà nước và các luật có liên quan như Luật doanh nghiệp Nhà nước. Luật công ty, Luật chuyển đổi sở hữu Nhà nước. cơ quan này có đủ quyền hạn để quyết định những vấn đề liên quan đến cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Sự tồn tại và hoạt động của cơ quan này trong thời gian bao lâu là tuỳ thuộc vào mục tiêu và kết quả của quá trình đổi mới khu vực kinh tế Nhà nước, phạm vi mức độ cho phép chuyển đổi các doanh nghiệp Nhà nước sang hình thức công ty cổ phần.
c- Kết luận
Trong tình hình hiện nay ở nước ta, vấn đề cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước đang được đặt ra một cách cơ bản và cấp bách đối với lý luận và thực tiễn đổi mới khu vực kinh tế Nhà nước và chuyển nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường có định hướng của Nhà nước. Trong bản đề án này em đã trình bày một số vấn đề lý luận về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước cũng như thực trạng cổ phần hoá và một số giải pháp thúc đẩy cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước trong thời gian tới. Qua đó, em thấy được tầm quan trọng của cổ phần hoá, đặc biệt đối với đất nước ta, một đất nước đang trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước. Việc nghiên cứu cổ phần hoá và tìm ra phương pháp đúng đắn trong việc cổ phần hoá sẽ góp phần giúp đất nước khắc phục tình trạng tụt hậu về nền kinh tế, nâng cao không ngừng đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân lao động, thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh mà Đảng và Nhà nước ta đã vạch ra cho yêu cầu xây dựng nền kinh tế ở nước ta hiện nay. Bên cạnh đó, chúng ta cũng xác định được rằng, cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước nhằm mục đích tăng lợi nhuận cho các công ty nhưng không theo đuổi lợi nhuận một cách đơn thuần. Vì thế, mục đích hoạt động của các công ty cổ phần phải đảm bảo hiệu quả kinh tế của sản xuất kinh doanh nghĩa là sản xuất phải có lãi và kết hợp giải quyết những vấn đề xã hội thì mới tạo ra động lực phát triển vững chắc cho đất nước. Như vậy liệu Việt Nam có theo kịp được thời đại hay không, có vận dụng được các hiểu biết về cổ phần hoá để xây dựng phát triển đất nước hay không, điều đó còn phải phụ thuộc vào tất cả mọi người dân trong nước.
Bản thân em, hiện đang là sinh viên trường đại học Kinh tế quốc dân, sẽ cố gắng hết sức trau dồi kiến thức để sau này trở thành người công dân có ích, góp phần đưa đất nước phát triển hơn, giàu mạnh hơn.
Một lần nữa, em xin chân thành cám ơn thầy giáo Trần quang huy, người đã cung cấp cho em phần lớn kiến thức và phương pháp luận để giúp em hoàn thành tốt đề án này.
Mục lục
Trang
A. Lời mở đầu
B. Nội dung
I- Các chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước
1- khái niệm về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và quy định về công ty cổ phần
2. Một số quan điểm cơ bản trong quá trình tiến trình cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước
3. các kinh nghiệm cổ phần hoá ở các nước
3.1- Kinh nghiệm CPH ở Liên Xô (cũ)
3.2- Kinh nghiệm CPH ở Trung Quốc
3.3- Những bài học kinh nghiệm có thể rút ra từ việc cổ phần hoá, tư nhân hoá ở các nước trên thế giới
II- Doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam và thực trạng cổ phân hoá
1- Thực trạng của doanh nghiệp Việt Nam và tiến trình cổ phân hoá
2- Nguyên nhân của tình trạng trên là:
3- Một số kết quả đã đạt được
III. Những giải pháp thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá trong thời gian tới.
1. Môi trường pháp lý cần thiết cho sự ra đời hoạt động của công ty cổ phần.
2. Từng bước xây dựng thị trường chứng khoán và sở giao dịch chứng khoán
3. Thành lập cơ quan Nhà nước có quyền lực để thực hiện chương trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nướ
C. Kết luận
Tài liệu sử dụng
Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước- Cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn
Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 12 (6/2000)
Tạp chí Phát triển kinh tế số 13 ( 7-1998)
Cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước
Tạp chí Cộng sản số 17 (9 - 1998)
Tạp chí phát triển kinh tế tháng 3 - 1998
Tình hình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước
Kết quả cổ phần hoá 1999
Tư nhân hoá ở một số nước cụ thể
Nghị định 44 /1998/NĐ - CP ngày 29/06/1998 của chính phủ về chuyển một số doanh nghiệp Nhà nươc thành Công ty cổ phần.
Quyết định số 111/1998/QĐ - TTg ngày 29-06-1998.
- Tư nhân hoá tại các nước châu á - Thái Bình Dương tạp chí nghiên cứu kinh tế số 4-1994.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35540.doc