Đề tài Doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam và thực trạng của nó

Phải làm cho mọi người, mọi doanh nghiệp, mọi tổ chức thấy được kiểm toán là công cụ hết sức quan trọng trong cơ chế kinh tế thị trường nhất là khi công tác cổ phần đã trở nên phổ biến trong cơ chế thị trường nhất là khi công tác cổ phần đã trở nên phổ biến trong nền kinh tế để nhằm đáp ứng lợi ích của nhiều phía. + Của Nhà nước để quản lý và kiểm soát việc sử dụng tài nguyên. + Của các doanh nghiệp, các công ty để kiểm soát vốn liếng doanh thu chi phí, kết quả kinh doanh và hiệu quả hoạt động nhất là việc hoạt động của cổ phần. + Của các nhà đầu tư. qua kiểm soát các nhà đầu tư sẽ biết từng doanh nghiệp làm ăn như thế nào để đầu tư mua và bán cổ phiếu Như vậy, kiểm toán Nhà nước có vị trí vai trò quan trọng trong việc chuyển các doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần, vì phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước đều do vốn đầu tư của ngân sách Nhà nước, nếu kiểm toán xác nhận chính xác, trung thực của các số liệu, tài liệu kế toán, báo cáo quyết toán, chế độ tài chính từ đó đánh số tài sản của doanh nghiệp Nhà nước còn lại bao nhiều để có những bước đi, thích hợp chuyển sang công ty cổ phần.

doc42 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1234 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam và thực trạng của nó, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ớc và tư nhân. Đối với tư nhân, sau khi đã bán cổ phần của mình để thu lợi và không còn trách nhiệm gì đối với doanh nghiệp thì ngược lại Nhà nước vẫn phải quan tâm những vấn đề của doanh nghiệp sau khi đã cổ phần hoá, cũng như những vấn đề nảy sinh như là hậu quả của quá trình này. Khoản phí tổn đó được Chính phủ quan niệm và xử lý khác nhau. Nó có thể là sự ưu đãi cổ phiếu khi bán hoặc những chi phí cho việc bảo hiểm trợ cấp thời gian đào tạo lại nghề và tìm việc mới với những người lao động bị mất việc làm trong các doanh nghiệp được cổ phần hoá hoặc những chi phí cho bọ máy thẹ hiện và cơ quan môi giới, tư vấn, quảng cáo cho việc thực hiện quá trình này…Những khoản chi phí này canà thiết và có tác dụng đảm bảo sự ổn định kinh tế, chính trị, xã hội cho việc thực hiện một chương trình có tầm quan trọng lâu dài trong quá trình cải cách kinh tế ở các nước. Đối với nước ta cũng cần có sự lưỡng định những khoản phí tổn không thể cắt giảm được, nhất là các ấn đề về việc làm mới và đào tạo lại bảo hiểm xã hội đối với người lao động trong các doanh nghiệp được cổ phần hoá, các vấn đề về tư vấn, kiểm toán, quảng cáo, môi giới đầu tư trong và ngoài nước… đối với vấn đề cổ phần hoá. Điều nay là hoàn toàn cần thiết để đảm bảo thực hiện chơơng trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước đạt được kết quả ở nước ta. Doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam và thực trạng của nó Thực trạng doanh nghiệp Nhà nước trong bước chuyển sang nền kinh tế thị trường ở nước ta, cũng giống như các nước xã hội chủ nghĩa trước đây thực hiện mô hình kế hoạc hoá tập trung, lấy việc mở rộngvà phát triển khu vực kinh tế Nhà nước bao trùm toàn bộ nền kinh tế quốc dân làm mục tiêu cho công cuộc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì vậy khu vực kinh tế Nhà nước đã được phát triển một cách nhanh chóng, rộng khắp trong tất cả các lĩnh vực cơ bản với tỷ trọng tuyệt đối trong nền kinh tế bất kể hiệu quả đích thực mang lại, trong đó phải kể đến sự ra đời tràn lan của các doanh nghiệp Nhà nước do địa phương quản lý. Sau đây tôi xin trình bầy một số thực trạng doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta hiện nay. ở Việt Nam, trước dây chúng ta có hơn 12000 doanh nghiệp Nhà nước sau nghị định 388/HĐBT và chỉ thị 500/Ttg số doanh nghiệp Nhà nước đã giảm xuống 6000 doanh nghiệp chiếm hơn 40% GDP. Hầu hết các doanh nghiệp còn nhỏ bé và dàn trải, chồng chéo về ngành nghề. Đến nay cả nước vẫn còn tới 5280 doanh nghiệp Nhà nước vốn bình quân mỗi doanh nghiệp Nhà nước chỉ trên 18 tỷ đồng (khoảng 1,2 triệu USD). Trong đó số doanh nghiệp Nhà nước có vấn 5 tỷ đồng trở xuống chiếm 65,445%, số doanh nghiệp Nhà nước vốn trên 10 tỷ đồng chỉ dưới 21%. Đặc biệt số doanh nghiệp Nhà nước địa phương trực tiếp quản lý quy mô còn nhỏ bé hơn nhiều, số doanh nghiệp Nhà nước có vốn dưới 1 tỷ đồng (khoảng 70 nghìn USD) còn trên 30%. Nhiều doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trong tình trạng chồng chéo về ngành nghề kinh doanh cấp quản lý trên cùng một địa bàn gây cạnh tranh không đáng có trong chính nộibộkhu vực kinh tế Nhà nước. doanh nghiệp Nhà nước còn dàn trải trên tất cả các ngành nghề từ sản xuất đến thương mại, dịch vụ, du lịch gây tình trạng phân tán mạnh về vốn trong khi vốn đầ tư Nhà nước rất hạn chế, không thể tập trung vào được những ngành, lĩnh vực chủ yếu, then chốt. Trình độ kỹ thuật, công nghệ các doanh nghiệp Nhà nước lạc hậu, năng lực cạnh tranh kém, rất hạn chế và thua thiệt trong hội nhập thị trường quốc tế. Hầu hết các doanh nghiệp Nhà nước được trang bị máy móc, thiết bị từ nhiều nước khác nhau thuộc nhiều thế hệ, chủng loại. Theo kết quả khảo sát của bộ khoa học công nghệ tại nhiều doanh nghiệp Nhà nước thuộc 7 ngành thì dây chuyền sản xuất, máy móc thiết bị của ta lạch hậu so với thế giới từ 10-12 năm, trong khi mức kấu hao bình quân của khu vực kinh tế thế giới chỉ từ 7-8 năm. bới nhiều trường hợp khác nhau, không ít trường hợp nhập khẩu thiết bị, công nghệ không đáp ứng nhu cầu hiện đại hoá. Theo số liệu khảo sát của viện khoa học bảo hộ lao động thuộc tổng liên đoàn lao động Việt Nam tiến hành gần đây ở 42 cơ sở thuộc một ngành, trong số 727 thiết bị máy móc và 3 dây chuyền nhập khẩu, có tới 76% thuộc thế hệ những năm 50-60 trên 70% đã hết khấu hao, gần 30% đã tân trang. Báo cáo điều tra ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh cho biết số máy móc có tuổi trung bình trên 10 năm chiếm tới 40% và chỉ có 30% dưới 5 năm. Thiết bị máy móc cũ kỹ, lạc hậu đã ảnh hưởng lớn, trực tiếp đến chất lượng giá cả và hạn chế năng lực cạnh tranh của sản phẩm được tạo ra. Một số mặt hàng sản xuất như sắt thép, phân bón, hoá học xi măng, kính xây dựng.. có mức giá cao hơn hàng cùng loại nhập khẩu từ 20-40% cá biệt như đường thô cao hơn tới 70-80%. Nhiều mặt hàng tồn tại được là do chính sách bảo hộ của Nhà nước thông qua hệ thông thuế nhập khẩu cao. Song các doanh nghiệp Nhà nước vẫn thường xuyên bị đe doạ bởi hàng lậu tràn vào từ nước ngoài và đáng lo ngại là khi hội nhập trong khuôn khổ AFTA từ năm 2006 trở đi. Nhìn chung, chất lượng sản phẩm làm ra ở trong nước còn quá thấp, chỉ khoảng 15% sản phẩm đạt chất lượng xuất khẩu. Đến giữa năm 1999 cả nước mới chỉ có 70 doanh nghiệp Nhà nước được cấp giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn ISO/9000 và 16 đơn vị khác đang đề nghị xem xét. Nợ của các doanh nghiệp quá lớn. Theo báo cáo của ban đổi mới doanh nghiệp Nhà nước trung ương, tổng số nợ của Nhà nước năm 1996 là 174.797 tỷ đồng, năm 1999 là 199.060 tỷ đồng trong đó nợ phải trả là 126.366 tỷ đồng và nợ phải thu là 72.644 tỷ đồng. So với tổng số vốn của doanh nghiệp Nhà nước số nợ phảithu chiếm tới 62% và số nợ phải trả bằng 109% trong khi khả năng thanh toán rất thấp. Nợ quá hạn khó đòi chiếm tỷ lệ không nhỏ đang là gánh nặngđối với doanh nghiệp Nhà nước. các doanh nghiệp Nhà nước vẫn còn phải dựa vào sự bao cấp lớn của Nhà nước. Ngoài phần vốn đầu tư ban đầu thành lập, hàng năm các doanh nghiệp Nhà nước cònphải vay tới 85% vốn từ Nhà nước với lãi suất ưu đãi. Trong khi ngân sách luôn thiếu hụt nhiều nhưng Nhà nước vẫn phải dành một tỷ lệ đáng kể để hỗ trợ cho một số doanh nghiệp Nhà nước. trong ba năm 1997-1999 ngân sách Nhà nước đã đầu tư trực tiếp cho các doanh nghiệp Nhà nước gần 8000 tỷ đồng trong đó 648 tỷ đồng cấp bổ sung vốn, 1464 tỷ đồng bù lỗ, hỗ trợ cho các doanh nghiệp Nhà nước để giảm bớt khó khăn về tài chính. Ngoài ra, từ năm 1996 đến nay Nhà nước vẫn còn miễn giảm thuế 2288 tỷ đồng, xoá nợ 1088,5 tỷ đồng, cho vay tín dụng ưu đãi 8685 tỷ đồng. Mặc dù việc hỗ trợ ở nhiều doanh nghiệp Nhà nước không đem lại hiệu quả tương ứng, số nộp vào ngân sách Nhà nước của các doanh nghiệp Nhà nước này ít hơn phần Nhà nước đã hỗ trợ. Trên thực tế nhiều doanh nghiệp Nhà nước đang là gánh nặng cho ngân sách Nhà nước. Tình trạng thiếu việc làm, số lao động dôi dư lớn. Theo số liệu của bộ lao động- thương binh xã hội thì hiện nay số lao động không có việc làm trong doanh nghiệp Nhà nước tới 6%, nhiều doanh nghiệp Nhà nước có số lao động quá lớn. So với nhu cầu như tổng công ty than Việt Nam, công ty gang thép Thái Nguyên, các nhà máy xi măng địa phương…Số lao động dôi thừa ở tổng công ty Than Việt Nam là 30% ở tổng công ty lương thực miền Bắc là 28% ở tổng công ty thép Việt Nam là 12%. Tỷ lệ này ở nhiều doanh nghiệp Nhà nước địa phương còn cao hơn, tới khoảng 27-33%. Phần lớn người lao động không đượcđào tạo lại, ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Do thửctạng trên cùng với những ảnh hưởng của nền kinh tế trong nước và bối cảnh hội nhập, cạnh tranh không thuận lợi, trong khu vực và quốc tế, những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng và hậu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước có xu hướng giảm dần. Tốc độ tăng trưởng của các doanh nghiệp Nhà nước. Sau thời gian những năm bước vào công cuộc đổi mới liên tục đạt 13%, đến năm 1998 đầu năm 1999 giảm xuống còn 8-9%. Hiệu quả sử dụng vốn giảm, năm 1995 một đồng vốn Nhà nước tạo ra được 3,46 đồng doanh thu và 0,19 đồng lợi nhuận. Năm 1998 các chỉ tiêu tương ứng đạt 2,9 đồng và 0,14 đồng. Thậm chí trong ngành công nghiệp, một đồng vốn chỉ làm là được 0,24 đồng lợi nhuận, số DNNN thực sự có hiệu quả chỉ chiếm khoảng 40% số bị lỗ liến tục chiếm tới 20% (nếu tính đủ khấu hao tài sản cố định thì tỷ lệ này còn lớn hơn); cong lại 40% là những DNNN trong tình trạng bấp bênh, nói chung là chưa có hiệu quả. Thực trạng này đòi hỏi phải tiếp tục sắp xếp và đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp Nhà nước. II. Tiến trình cổ phần hoá DNNN ở Việt Nam 1. Bốn năm đầu thí điểm cổ phần hóa (1992-996) Những mục tiêu đạt được trong thực tế cổ phần hoá Một chủ trương đúng: Từ những năm 80 các DNNN khi phải đối diện với nền Kinh tế thị trường dựa trên quy luật giá trị có sự điều tiết của Nhà nước đã thể hiện là một gánh nặng tài chính hơn là các nhân tố tạo phồn vinh cho đất nước. 4584 doanh nghiệp thua lỗ/12000 doanh nghiệp, các doanh nghiệp thua lỗ này chiến gần 41% giá trị tài sản cố định, 788 ngàn/2,6 triệu lao động của toàn khu vực kinh tế quốc doanh (niên giám thống kê 90) các giải pháp kinh tế vĩ mô đã được nghị quyết đại hội 6 đề cập và cụ thể hoá thêm một bước tại đại 7 cải cách triệt để khu vực kinh tế Nhà nước và đa dạng hoá các hình thức tổ chức và cơ chế hoạt động trong đó hình thức cổ phần hoá chính là một bộ phận mở cửa đa dạng hoá sở hữu chủ trương đúng đắn này được nhân dân ủng hộ, dọn đường cho Chính phủ ban hành các quyết định về cổ phần hoá nhằm đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống với mục tiêu thay đổi về chất của các cổ phần hoá DNNN tạo nên những động lực mới cho nền kinh tế. Từ điều 22 của quyết định 217 ngày 14/1/1987, QD 202/CT ngày 8/6/92 QĐ 145/HĐBT ngày 10/5/1990 và gần đây nghị định 28/Cp ngày 7/5/1996 trong suốt thời gian qua Đảng luôn luôn quan tâm đến tiến trình cổ phần hoá Nghị quyết đại hội 8 chr rõ “triển khai tích cực và vững chắc việc cổ phần hoá DNNN đẻ huy động thêm vốn tạo thêm động lực thúc đẩy doanh nghiệp lamf ăn có hiệu quả làm cho tài sản Nhà nước càng tăng lên…” Như vậy chúng ta đã có gần 10 năm để thực hiện một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước về cổ phần hoá một chủ trương hợp với lòng dân, phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, hoà nhập với su hướng cải cách mở cửa của các quốc gia trong khu vực. Giai đoạn thí điểm (1992-1996): Thực hiện chỉ thị 202/CT.8/6/92 của chủ tịch hội động bộ trưởng về “thí điểm chuyển một số doanh nghiệp thành công ty cổ phần” và chủ thị 84/TTG 4/3/1993 về “xúc tiến thực hiện thí điển cổ phần hoá doanh nghiệp và các giải pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu đối với DNNN ” trong 10 DNNN đã chọn làm thí điểm đến năm 1995 đã có 5 DNNN được chuyển thành công ty cổ phần. Cho đến thời tháng 5/1996 cẩ nước có 7 DNNN chuyển đổi sở hữu thành công chính thức hoạt động theo luật công ty. Trong đó Công ty đại lý liên hiệp vận chuyển thuộc bộ giao thông vận tỉa đóng trên địa bàn TPHCM là DNNN đầu tiên chuyển sang Công ty côt phần từ 15/9/93. Tiếp đó là xí nghiệp cơ điện lạnh thuộc sở công nghiệp TPHCM chuyển hoá sở hữu vào ngày 4/12/93 … Hầu hết các doanh nghiệp chuyển sang Công ty cổ phần đều có vốn dưới 5-7 tỷ đồng (trừ công ty cơ điện lạnh) và hầu hết gặp khó khăn doanh thu thấp công nhân chán nản, thị trường hẹp điển hình như Công ty xe khách Hải Phòng mấp mé bờ vực phá sản khi nền “văn minh xe máy” thì những chiếc xe khách giá mua và thái độ phục vụ baats nhã đã mau chóng bị lãng quên. Các Công ty cổ phần chuyển từ DNNN đang hoạt động theo luật Công ty hiện nay doanh nghiệp sớn nhất là 4 năm, muộn nhấ là gần 2 năm như công ty xe khách Hải Phòng chuển hoá sở hữu từ đầu năm 1996. Tuy mới hoạt động theo luật Công ty một thời gian rất ngắ song các doanh nghiệp đã thể hiện tính hiệu quả cảu cổ phần hoá trên một số các hoạt động của doanh nghiệp. Về kinh tế; Một số các chỉ tiêu cơ bản của các DNNN cổ phần hoá thành công mang tính tiêu biểu tịa TPHCM (nguồn số liệu: cục thuế TPHCM 1996) - Công ty cổ phần cơ điện lạnh (vốn điều lệ sau cổ phần hoá là:16 tỷ đồng ) Chỉ tiêu Đơn vị tính Trước cổ phần hoá Sau cổ phần hoá 1992 1993 1994 1995 1996 Doanh thu Triệu đồng 42000 45000 77000 214000 277.000 Nộp Ngân sách 2570 5437 13126 48.000 61.000 Lãi 6800 73000 11300 21.300 15.000 Thu nhập bình quân Người / tháng 1000đồng 774 1200 1400 1.500 1.800 Công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển (vốn điều lệ sau cổ phần hoá là 6.207.655đồng) Chỉ tiêu Đơn vị tính Trước cổ phần hoá Sau cổ phần hoá 1992 1993 1994 1995 1996 Doanh thu Triệu. đ 11.120 16.530 24.134 47.538 64.046 Nộp Ngân sách 3.336 3750 8.700 16.530 25.117 Lãi 3.400 3.700 8.800 15.200 23.000 Thu nhập bình quân người/tháng 1000đồng 850 900 1200 1.400 2.000 Công ty giầy Hiệp An (vốn điều lệ sau cổ phần hoá là 4.793.026.855 đồng) Chỉ tiêu Đơn vị tính Trước cổ phần hoá Sau cổ phần hoá 1993 1994 1995 1996 Doanh thu Triệu đồng 11.200 13.493 18.624 25.639 Nộp Ngân sách 2.100 2.800 5.200 8.100 Lãi 1000đồng 2.718 3.152 5.412 7.918 Thu nhập bình quân người/tháng 420 470 850 1.200 Các Công ty như xe khách Hải Phòng vốn điều lệ 486 triệu động vào đầu năm 1996 chỉ sau một năm hoạt động theo luật Công ty đã đạt được (trên 2,16 tỷ đồng). Lao động của Công ty chế biến hàng xuất khẩu long an từ 900 công nhân lên 1.610 công nhân, Công ty đại lý liên hiệp vận chuyển từ 60 lên 270 Công ty điện lạnh tăng lên 100%. Hỗu hết đời sống công nhân đảm bảo tổ chức công đoàn phấn khởi. Về phía Nhà nước thu được ở các Công ty cổ phần này trên 20 tỷ đồng từ tiền bán cổ phần, lơn tức cổ phầ của Nhà nước tại các Công ty từ các lãi xuất của tổng số trên cho công nhân vay mua cổ phiếu. Song vấn đề quyết định nhất là Nhà nước vẫn giữ được vai trò chủ đạo điều nhất là Nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo điều tiết ở các Công ty cổ phần này vf toạ điều kiện cho nó phát triển đúng hướng. Về các mặt khác Từ kết quả cổ phần hoá, hàng năm Nhà nước không còn tốn một khoản ngân sách lớn để bù đắp cho các DNNN thua lỗ, cán cân thu chi của Nhà nước được cân bằng hơn nguồn thu của ngân sách Nhà nước từ các DNNN được thay bằng nguồn cổ tức được chia từ các Công ty cổ phần có vốn của Nhà nước. Hệ thống các cơ quan quản lý của Nhà nước được hoàn chỉnh và gắn bó bới mục tiêu nền kinh tế. Chính cơ chế toạ chuyên môn hoá dẫn đến sự thay đổi tất yếu về trình độ quản lý đạt mức cao. Nhà nước có điều kiện quản lý nền kinh tế thiông qua hệ thống thuế cổ phần hoá đã đặt cơ sở cho thị trường vốn ra đời bằng các bằng việc ra mắt uỷ ban chứng khoán quốc gia vừa qua làm cơ sở để Nhà nước kiểm soát lạm phát. lượng tiều lưu thông trong xã hội trong tương lai lại gần sẽ chuyển một phần vào thị trường vốn, thực hiện tái đầu tư trên diện rộng hoặc tập trung vốn giải quyết các công trình trọng điểm. Thông qua cổ phần hoá tổ chức bộ máy của các doanh nghiệp đã được nâng lên mức chuẩn các chức vụ gắn liền với khả năng trình độ, doanh nghiệp có điều kiện áp dụng những điều kiện mới trong quản trị. Đối với người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hoá thì khái niệm là chủ đã gần đúng nghĩa họ vừa là ngườichủ vừa là người thợ (Thợ hưởng phí lao động, chủ hưởng cổ tức hàng năm). Thái độ làm việc gắn liền với những quyền lợi họ được hưởng những hiện tượng và hành vi tiêu cực trước đây đã không còn chỗ để tồn tại Những tồn tại và nguyên nhân của nó trong giai đoạn đầu thí điểm cổ phần hoá Cổ phần hoá một bộ phận DNNN là một chủ trương có từ QĐ 217/HĐBT(11/87). Sau đó là quyết định 202/CT 8/6/92 của chủ tịch hội đồng bộ truởng (nay là thủ tướng chính phủ) “… Tiếp tục thí điểm chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần” và QĐ 203/CT ngày 8/6/1992 của chủ tịch HĐBT quy đinh danh sách 8 doanh nghiệp Nhà nước được chọn để chỉ đạo thí điểm chuyển thành Công ty cổ phần. Chỉ thị 84/TTG ngày 4/3/1993 của thủ tướng chính phủ xúc tiến thực hiện thí điểm cổ phần hoá DNNN và các giải pháp đa dạng hoác hình thức sở hữu đối với DNNN. Các doanh nghiệp được cổ phần hoá đều ó quy mô nhỏ, giá trị doanh nghiệp từ 2-16 tỷ các doanh nghiệp chủ yếu là hàng gia công dịch vụ tập trung ở khu vực TPHCM 8 doanh nghiệp thuộc diện Chính phủ chỉ đạo thí điểm cổ phần hoá chưa được thực hiện đươCông ty, 53 tỉnh thành phố trực thuộc TW và gần 10 bộ vẫn đững ngoài cuộc thực hiện chủ trương cổ phần hoá DNNN. Hiện nay còn trên 6000 DNNN trong đó số cần phải đa dạng hoá sở hữu cổ phần hoá … chiếm một tỷ trong đáng kể. Vì vậy tìm ra các nguyên nhân chủ quan khách quan làm công tác này “dẫm chân tịa chỗ” (báo cáo của Chính phủ trước quốc hội) là điều cần thiết. Những nguyên nhân chủ yếu có thể là Về nhận thức và hành động từ các cơ quan quản lý Nhà nước: do đứng trướng 3 nguy cơ lớn cảu đất nước là nguy cơ di chệch hướng Xã Hội chủ nghĩa nguy cơ tụt hậu so với sự phát triển chung nguy cơ của quốc nạn tham nhũng của số cán bộ có chức có quyền cán bộ các cấp còn rất dè dặt trong việc chỉ đạo công tác cổ phần hoá. Vì cổ phần DNNN sẽ chuyển từ hình thức sỡ hữu Nhà nước sang hình thức sỡ hữu có một phần của Nhà nước nhiều ngưòi muốn “thế thủ” tốt nhất là không hăng hái trong công tác để chánh đi chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Người lãnh đạo (đầu tầu) đã không hăng hái thì không chuyển động được các (toa sau) phía sau. + Đối với các doanh nghiệp người lãnh đạo (chánh, phó giám đốc) hầu hết là do chế độ bổ nhiệm mà có, do vậy khi chuyển sang Công ty cổ phần dễ gf giữ được chức vụ đó trước đại hội cổ đông. Vì thế họ không muốn cổ phần hoá và không chịu cổ phần hoá DNNN; và khi cổ phần hoá lao động còn được làm việc “an toàn” và giữ vững “ghế” tránh được nguy cơ đi chệch hướng Xã Hội chủ nghĩa thượng sách là không sẵn tay áo lao vào công tác này. * Khung pháp lý chưa đầy đủ và thiếu đồng bộ: chủ trương lớn của Đảng Nhà nước mới chỉ dừng lại ở một quyết định một chỉ thị của thủ tướng chính phủ, các ngành các cấp thiếu hoặc rất chậm trọng triển khai hướng dẫn các cơ quan chỉ đạo tức là mới hành động về hành chính, trong khi cổ phần hoá cần một loạt các quy địn của các ngành luật như luật hành chính, lao động màđến nay chưa có nên dẫn đến sự nhất quán trong thi hành, các điều của cơ chế thị trường dành cho hoạt động này còn thiếu tạo ra sự lúng túng trong quá trình chỉ đạo thí điểm cổ phần hoá, đặc biệt là sử lý các vấn đề có tính kỹ thuật nghiệp vụ ở cơ sở. * Hình thức cổ phần hoá DNNN còn sơ sài đơn giản chưa mang tính đa dạng trong khi đó các loại hinh doanh nghiệp ở các vùng, các ngành có tính đặc thù riêng. Do đó nhiều doanh nghiệp ở các vùng các ngành có tính đặc thù riêng. Do đó nhiều doanh nghiệp muốn chuyển sang Công ty cổ phần nhưng chưa có hình thức chỉ đạo thiết ứng Sự phân biệt giữa DNNN và doanh nghiệp ngoài quốc doanh (kể cả Công ty cổ phần) còn nặng nề trong nhận thức lẫn thực tế thực hiện. DNNN được ưu ái (bao cấp) khá đậm nét về địa điểm, vốn, tín dụng… đặc biệt là kết quả kinh doanh nếu lỗ mất vốn… Nhà nước vẫn còn gánh chịu. Cá nhân (chính phó giám đốc) có mất cúng chỉ bị mất chức thậm chí còn được chuyển lên chức vụ cao hơn. Trong khi Nhà nước mất bạc tỷ thì họ cũng chỉ mất (hoặc tăng) chức nhưng đã “ăn đủ” cho cá nhân, công nhân viên DNNN, ngoài lương họ còn được thưởng và các quyền lợi khác mà họ không phải bỏ vốn. Chuyển Công ty cổ phần; nhiều ý kiến chỉ chọn và đưa ra những doanh nghiệp không có hiệu quả hoặc lỗ những doanh nghiệp lãi có nguồn thu lớn phải giữ cho Nhà nước. có nghĩa là đã đưa ra thị trường “bán” các loại “hàng” thiu thối. Vì thế khó có người mua. Đã vậy khi chuyển sang Công ty cổ phần, họ tưởng như Nhà nước mất tài sản do đó họ nâng tìa sản lên quá mức thị trường kết quả là các DNNN đưa ra cổ phần hoá sau một thời gian tranh cãi tốn phí tiền của, nhân lực… nhưng lại bỏ đó. Mặt khác nếu chuyển sang Công ty cổ phần doanh nghiệp còn chịu khá nhiều những “hắt hủi ” của doanh nghiệp ngoài quốc doanh mà trong chính sách của Nhà nước khôngcó, nhưng trong thực tế lại này sinh như tín dụn, thuế, giá trị tài sản… * Thói quen hùn vốn vào Công ty cổ phần để kinh doanh trong nhân dân ta chưa có đặc biệt là ở các tỉnh phía Bắc họ thà cất (vàng, ngoại tệ) gửi tiền tiết kiểm sinh lời hoặc mua bất động sản sẽ an toàn hơn là mua cổ phần doanh nghiệp. Đặc biệt đây là những đồng tiền gom góp mồ hôi nước mắt mới dành được. Các chính sách khuyến khích công nhân viên chức trong các DNNN chuyển sang Công ty cổ phần chưa nhiều, chưa có sự hấp dẫn cần thiết đẻ họ hăng hái trong hoạt động này. Nhà nước cũng phải có chính sách đãi ngộ thích đáng cho các doanh nghiệp Nhà nước chuyển sang Công ty cổ phần thì mới tạo ra động lực trong từng doanh nghiệp để thúc đẩy công tác này phát triển đúng hướng. Bên cạnh sự khuyến khích lợi ích vật chât cũng cần có thái độ rứt khoát các với các loại hình doanh nghiệp mà Nhà nước không cần đầu tư 100% vốn để có kế hoạch cụ thể từng bước chuyển DNNN sang Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc doanh nghiệp tư nhân tạo ra sự phát triển nhịp nhàng giữa các thành phần kinh tế trong tổng thể nền kinh tế quốc dân Thủ tục hành chính quá ư rườm rà và tốn kém. Một phần DNNN trị giá 2 tỷ bạc chuyển sang Công ty cổ phần mà hàng chucj đoàn cán bộ đến nghiên cứu soát xét, kiểm tra, kiểm toán, thẩm định kiểm toán, ký biên bản, thẩm định biên bản, ra quyết định…rồi sau đó mới trình bộ ngành, UBND tỉnh, thành phố, trình thủ tục như vậy hỏi sao có thể đẩy mạnh được tiền trình phát triển chủ trương cổ phần hoá DNNN theo chương trình đổi mới doanh nghiệp của chính phủ đề ra. Thực hiện nghị quyết TW 8 về cải cách hành chính, thiết nghĩ đây là một trong những đểm cần thiết phải “cải cách” phải loại bỏ những thủ tục rườm rà, xây dựng một quy trình cổ phần hoá DNNN gọn nhẹ, quản lý chặt chẽ và tránh được những chi phí doanh nghiệp phải bỏ ra làm ảnh hưởng đến túi tiền của ngân sách. * Một nguyên nhân khá quan trọng là tổ chức chỉ đạo chưa tập trung, thiếu thống nhất giữa các bộ ngành, TW, địa phương; cơ quan đại diện chỉ định chủ trì (Bộ tài chính) chưab đủ thẩm quyền gảin quyết các vấn đề phát sinh kịp thời đôi khi gặp khó khăn (đặc biệt loà có ý kiến khác nhau về quyền sở hữu tài sản) thì chùn bước và phó mặc thời gian và sự việc… Trên đây là một nguyên nhân mà qua khảo sát thực tế ở các doanh nghiệp qua theo dõi sự việc để mạnh rạn tìm thấy và nêu ra, nhằm góp một tiếng nói cần thiết, giúp chuỷen động công tác cổ phần hoá DNNN trong thời gian tời, nhằ thực hiện cho được những chủ trương đúng của Đảng và Nhà nước đã đề ra là phát triển nền kinh tế đa thành phần tăng nhânh thu nhập quốc dân, hiện đại hóa đất nước. Những vấn đề cần tháo gỡ trong quá trình cổ phần hoá DNNN. Trừ các doanh nghiệp thực hiện thí điểm cổ phần hoá teo quyết định 202 thì cho tới thời điểm 10/1997 có khá nhiều doanh nghiệp đăng ký cổ phần hoá song đăg ký mới chỉ là đăng ký còn thực hiện chuyển hoá cỏ nước mới thêm được vài doanh nghiệp như Đa Đồng Giao (Ninh Bình) Công ty mật ong, khách sạn sì gòn (TPHCM) … quả thật đây là tốc độ làm nản lòng những người quan tâm đến cổ phần hoá nếu đặt nó trong việc thực thi nghị định 217 năm 1987. Nhưng nếu triển khai nhanh chóng cũng thật khó bởi Chính phủ chưa có mục tiêu Công ty chế độ cụ thể của chương trình cổ phần hoá tổng thể bao quát toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Chính phủ cũng dễ dàng lý giải vì cơ quan luật pháp chưa ban hành luật, pháp lệnh chuyển đổi sở hữu và chưa có thf lấy chuẩ mực gì để cụ thể hoá. Nhưng tốc độ cổ phần hoá nhanh hay chậm không phải là một câu hỏi lớn, điều nhân dân quan tâm nhất đó là chất lượng cổ phần hoá và những boaiì học kinh nghiệm chắt lọc từ thưCông ty tế cổ phần hoá trong vài năm qua. Tại hội thảo bàn tròn doanh nghiệp do thời báo kinh tế Sài Gòn tổ chức về chuyên đề cổ phần hoá, các chủ toạ dễ dàng đồng ý với phát biểu của giám đốc doanh nghiệp cổ phần hoá là “chính chúng ta tự đặt khõ khăn cho mình…” đó là ‘một sự thật. Khi Chính phủ chưa có mục tiêu tiến độ cụ thể chương trình cổ phần hoá tổng thể bao quát toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Để tiến độ cụ thể chương trình cổ phần hoá DNNN đạt hiệu quả cần phải tháo gỡ, bổ sung hoặc sữa đổi các vấn đề sau: Việc phân loại chọn doanh nghiệp để cổ phần hoá còn nhiều ý kiến khác nhau, về phân loại có ý kién cho rằg: những doanh nghiệp phục vụ an ninh quốc phòng, doanh nghiệp có vai trò điều tiết nền kinh tế không cổ phần hoá 100%. Những doanh nghiệp thua lỗ liên tục từ 2-3 năm sẽ sử lý theo hướng giải thể hoặc bán 100% giá trị tài sản cho tư nhân về chọn doanh nghiệp cổ phần hoá có ý kiến chỉ cổ phần hoá những doanh nghiệp thua lỗ hoặc cổ phần hoá doanh nghiệp đang có lãi… Nhìn chung những quan điểm đưa ra xung quanh vấn đề chọn doanh nghiệp để Cổ phần hoá chưa được giải quyết hài hoà giữa lợi ích Nhà nước và lợi ích người mua cổ phiếu, ngiêng về bên nào thì cũng là biểu hiện cực đoan. Trên thực tế nhiều doanh nghiệp mà Nhà nước sẵn sàng bán nhưng người mua chưa muốn mua hoặc không mua. Ví dụ: Công ty nhựa Đo thành, Công ty gạch ngói Long Bình…. Những doanh nghiệp, người mua sẵn sàng mua nhưng Nhà nước chưa bán như Công ty sữa Việt Nam, Công ty bia Sài Gòn, nhà máy thuốc lá Sài Gòn, Công ty vận tỉa biển… Vì chưa có một phương án cụ thể để có thể kết hơp hài hoà quyền lợi mỗi bên nên người mua và bán không có một tiếng nói chung thì việc mua bán không thể diển ra và tiền trình cổ phần hoá sẽ bị chậm lại. Như vậy cổ phần hoá với mục tiêu số một nhằm huy động vốn nhàn rỗi trong dân chưa được quan tâm đúng mức và đương nhiên chủ trương cải cách triệt để DNNN sẽ trở nên khó thực hiện Cả nước với hàng 6.000 DNNN theo báo cáo của các bộ ngành, địa phương đến thời điểm tháng 10 năm 1997 có khoảng 120 DNNN đăng ký cổ phần hoá (2% ) là một tỷ lệ làm nản lòng những người quan tâm đến cổ phần hoá. Nguyên nhân nào làm tuyệt đại đa số DNNN dửng dưng với việc cổ phần hoá? Chính sách chưa thoả đán, người lao động hay chính doanh nghiệp không ủng hộ cổ phần hoá. Quy trình cổ phần hoá nhiều khi sự phân biệt đối sử của cac cơ quan chức năng. Nguyên nhân nào cũng có cội nguồn lý giải ở đây chỉ xin được đề cập đến một vài nguyên nhân cơ ban sau. Chính sách với doanh nghiệp cổ phần hoá tại nghị định 28/Chính phủ khi một DNNN chuyển sang Công ty ưu đãi là đương nhiên dù doanh nghiệp này là DNNN hay doanh nghiệp cổ phần hoá. Như vậy những ưu đãi này không đủ bù đáp cho doanh nghiệp khi chuyển sang Công ty cổ phần phải chéo lái và mạo hiểm trên thương trường nên giải pháp họ chọn là giữ nguyên DNNN. Chính sách đối với người lãi suất khi cổ phần hoá thật khó lý giải được rõ tàng khi Nhà nước cấp cổ phiếu cho người lao động mà cổ phiếu đó trở thành đa sở hữu ở chỗ người lao động chỉ được hưởng cổ tức hàng năm còn quyền sở hưũ mệnh giá là của Nhà nước Thực tế quá trình chuyển đổi sở hữu của một số DNNN vừa qua, các bộ ngành địa phương qua chú trọng vào việc bán tài sản hơn là chú ý huớng dẫn doanh nghiệp xây dựng một phương án tài chính khả thi một kế hoạch sản xuất kinh doanh cụ thể. Giá trị đất không đưa vào giá trị doanh nghiệp để bán mà hàng năm doanh nghiệp chỉ phải nộp tiền sử dụng đất theo luật đất đai. Như vậy Nhà nước bỏ qua cho doanh nghiệp giá trị thương quyền và cũng không tính đến giá trị bảng hiệu và danh mục các sản phẩm chủ yếu nhưng những cái mất đó của Nhà nước không là vấn đề cốt lõi, chính việc tính toán giữa các doanh nghiệp không đầy đủ Nhà nước đã toạ nên sự bất bình đẳng trên thương trương giữa các doanh nghiệp cổ phần hoá hoặc giữa các doanh nghiệp cùng sản phẩm. Điều đó lý giải tại sao một DNNN khi cổ phần hoá ngoài mua đăng ký rất đông và một số DNNN khi cổ phần hoá lại không bán được cổ phiếu. Nguyên nhân dẫn đến tiến trình cổ phần hoá chêm trễ Hàng loạt chủ trương của Đảng và Nhà nước trong việc thúc đẩy tiến trình này đề hầu hư không được thực henj triệt để. Qua nghiên cứu thằm dò ý kiến của các nhà khoa học, các nhà quản lý, các doanh nghiệp tôi thấy nguyến nhân của tình trạng này có nhiều song tựu trung lại có năm nguyên nhân cơ bản sau đây Thứ nhất: Do quyết tâm của Chính phủ chưa cao, cổ phần hoá là chủ trương đúng, song việc điều hành còn yếu nên chưa có tác dụng thúc đẩy các bộ, ngành, địa phương làm nhanh hơn. một số việc đã được các bộ, ngành đề nghị từ rất lâu nhưng đến nay vẫn chưa được xử lý, dầu rằng công việc đó trong tầm tay và thuộc chức năng của Chính phủ. Đó là những việc có ý nghĩa mở co cổ phần hoá như dự thoả trình ban hành luật hay pháp lệnh về cổ phần hoá, phân loại DNNN… không phân loại những doanh nghiệp thì không xắp xếp được và cũng không xác định được những doanh nghiệp nào cần hay không cần cổ phần hoá Thứ 2.: do quyết tâm của các bộ, tỉnh ngành chưa cao, thể hiện ở việc các địa phương, cơ sở không sốt sắng làm hết trách nhiệm được giao. Rõ nhất là việc thành lập và đôn đốc các ban cổ phần hoá đã không được cú ý đúng mức. Mặc dù có ý kiến chính thức của Trung ương đến nay chỉ có 31 tỉnh thành phố lập ban cổ phần hoá. Hơn nữa một mặt đicạ phương chưa rõ phải cổ phần hoá doanh nghiệp nào (như đã trình bày). chưa được chnhr phủ thức dục, các cơ quan phụ trách cổ phần hoá tại trung ương chưa đôn đốc hướng dẫn cụ thể. Mặc khác còn có những nguyên nhân xuất phát từ lợi ích cục bộ, cản trở tiến trình cổ phần hoá (theo số liệu thống kê thời gian cổ phần hoá trung bình là 27 tháng nhanh nhấ là 9 tháng, chậm nhất là 79 tháng). Các bộ tỉnh, thành phố vẫn muốn có trong tay mìnhmột số DNNN đáng kể để chi phối nữa tức mất “quyền” mất “lợi ích” kiều tư duy đó nhất thiết phải được xoá bỏ. đương nhiên cổ phần hoá phải theo nguyên tắc “tự nguyện” nhưng nếu không có sự tác động mạnh từ phía lãnh đạo nếu cứ để tình trạng làm được đến đâu hay đéen đó thì khó có thể đạt kế hoạch cổ phần hoá 150 DNNN đã đề ra cho năm 1998 trong có chế thị trường Nhà nước có vai trò rất quan trọng. Cần sử dụng đồng bộ các chính sách vĩ mô, có phối hợp chặt chẽ hai biện pháp kinh tế và hành chính (pháp lệnh) để đièu hành. Nếu chỉ chú trọng một trong hai biện pháp đó thì khó mà nghĩ đến thành công. Thứ 3: Do quyết tâm của các DNNN chưa cao, điều này thể hiện ngay trong lãnh đạo từng doanh nghiệp còn nhiều tâm tư. thực tế cho thấy nhiều giám đốc Đảng uỷ đều tỏ ra lo ngại về cổ phần hoá. Tâm lý lo nếu bcph doanh nghiệp bản thân có thể mất quyền chức, và lợi ích. Từ đó dẫn đến việc chỉ đạo phối hợp với các cấp và chính quyền, đoàn thể không đồng bộ, không thống nhất chính vì vậy cổ phần hoá bị chậm trễ ngay từ khâu xây dựng phương án tại cơ sở. Thứ 4: công tác cổ phần hoá chưa được hưởng ứng rộng rãi trong quần chúng lao động; các ưu đãi khuyến khích mua cổ phiếu (cho công nhân mua chịu, trả lãi thấp, thời hạn lâu phát hành cổ phiếu hưởng lợi tức suốt đời… hiện mới chỉ dùng ở mức các giải pháp mang tính một chiều xuất phát từ các đánh giá chủ quan của các nhà làm chính sách mà chưa tính đến lo lắng thực tế của ngưòi lãi suất, đối với họ nếu đồng ý cổ phần hoá. Nghĩa là đồng ý để Công ty tự xoay sở trước bảo táp cạnh tranh. Mua cổ phiếu Công ty có nghĩa là bỏ phiếu thuận cho việc xoá bỏ bảo hộ của Nhà nước dưới mọi hình thức đồng thời chưa biết lỗ lãi ra sao, đã phải đăng ký nhận nợ về số cổ phiếu đã nhận. Nếu doanh nghiệp vẫn tiếp tục làm ăn không hiệu quản, nguy cơ mất việc làm sẽ không còn xa, thu nhập dù thấp cũng chẵng được đảm bảo. Trường hợp xấu, khi doanh nghiệp phá sản số tiền đã bỏ ra thanh toán cổ phiếu sẽ mất và gánh nặng nợ về cổ phiếu vẫn còn đó. Những nỗi lo này có thật, nhiệm vụ của chúng ta cần tuyên truyền rộng rãi về tiến trình, kết quả kinh nghiệm cổ phần hoá. Mặt khác cần xây dựng một hệ thống cơ chế chính sách, quy trình cổ phần hoá rõ ràng, đơn giản bảo vệ hữu hiệu lợi ích của người lao động, chúng ta không thể lơ là nhiệm vụ này, cho dù thực tế kết quả kinh doanh của 18 doanh nghiệp đã cổ phần hoá đều chứng minh rằng lợi ích của người lao động đều tăng lên sau khi cổ phần hoá không mất việc làm, được dào tạo lại nâng cao tay nghề, thu nhập tăng… Thứ 5: Những tồn tại về mặt kỹ thuật: việc xây dựng quy trình cổ phần hoá, tuy đã có hướng dẫn triển khai có thể cổ phần hoá, song các hướng dẫn của ta còn thiếu tính thực tế, không bao quát hết vướng mắc muôn hình muôn vẽ tạicơ sở. Nên khi gặp các trường hợp cụ thể địa phương không biết nên xử lý thế nào cho đúng, khá nhiều lúng túng đã xãy ra. Mặt khác, quy trình cổ phần hoá đối với địa phương còn khã phức tạp nên cũng dễ gây nản chí cho cơ sở. Trong thực tế ở một doanh nghiệp sẽ có nhiều khó khăn phát sinh khi tiến hành cổ phần hoá. Ngay từ giai đoạn chuẩn bị đã xuất hiện nhiều tồn đọng cần xử lý như các vấn đề tranh chấp sở hữu thuê mua tài sản, các vấn đề tài chính, nợ nần, đến các vấn đề về nhân sự… việc xác định giá trị doanh nghiệp vẫn đang còn nhiều tranh cãi, cái nào tính, cái nào không tính vào giá trị doanh nghiệp (giá trị hữu hình và vô hình). Hơn nữa giá trị doanh nghiệp mới chỉ là tính toán một chiều của các cơ quan cổ phần hoá, giá trị đó chưa được thị trường kiểm nghiệm. Mặt khác việc xây dựng phương án đầu tư, sản xuất kinh doanh trong 3 năm hoặc 5 năm tới cũng như các cam kết thực hiện phương án đó của các “đại diện mới của doanh nghiệp cổ phần hoá trong tương lai” sẽ chiếm vị trí then chốt, quyết định thành công hay thất bại của cổ phần hoá. Người mua cổ phiếu sẽ “rất lưu ý “ tới điều đó vì nó liên quan đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đến vấn đề giải quyết việc làm cũng như uy tín cổ phần hoá. Những khó khăn hiện nay không thành công, bên cạnh những nỗ lực của các cơ quan chức năng và quyết tâm cao của tất cả các đối tượng có liên quan, chúng ta cần tham khảo kinh nghiệm của nước ngoài để có cách làm hợp lý, khoa học. c. Giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác cổ phần hoá DNNN đến năm 2000 I. Tạo môi trường pháp đầy đủ, đồng bộ về cổ phần hoá DNNN. Cổ phần hoá DNNN cũng có nghĩa là bán đi một phần tài sản Nhà nước có giá trị lớn, hàng chục năm, hàng ngàn tỷ đồng và là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, như vậy liệu nghị định 44/1998/NĐ và các văn bản hướng dẫn của Bộ tài chính, của bản đổi mới đầu tư doanh nghiệp trung ương có đủ tầm cỡ và sức mạnh để điều chỉnh, hay phải cơ bản pháp luật cao hơn (luật kinh tế cổ phần chẳng hạn…) trong khi chưa có luật Nhà nước giao nhiệm vụ cho ban chỉ đạo cổ phần hoá trung ương tập trung chỉ đạo các tỉnh, thành phố và các bộ phải thường xuyên theo dõi sát, nắm chắc tình hình, giúp các doanh nghiệp tiến hành cổ phần hoá và hoạt động thuận lợi. Rà soát lại để bổ sung, sữa đổi kịp thời các quy định về cổ phần hoá, hoàn chỉnh dần các chính sách nhằm bảo đảm số cổ phần hoá DNNN một cách vững chắc, đạt mục tiêu đã đề ra, không để xãy ra tiêu cực thất thoát tài sản Nhà nước. Qua thực tiễn cổ phần hoá sẽ đặt ra các yêu cầm không những cần phải thể chế hoá thành luật mà còn phải sưã đổi bổ sung những văn bản luật có liên quan. Chẳng hạn, luật DNNN, luật Công ty, luật doanh nghiệp số 13/1999/QH.10 xác định cơ chế tổ chức và quản lý phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp cổ phần hoá; phương án mẫu về doanh nghiệp cổ phần hoá, quy chế về vbán, khoán, cho thuê doanh nghiệp, điều lệ mẫu của Công ty cổ phần và các văn bản có liên quan để hướng dẫn nghiệp vụ rõ ràng, dễ hiểu giúp các doanh nghiệp rút ngắn thời gian xây dựng phương án cổ phần hoá. Chúng tôi đề nghị nên thành lập uỷ ban quốc gia về cổ phần hoá DNNN do một phó thủ tướng làm chủ tịch, Bộ tài chính làm phó chủ tịch thường trưc, cán bộ liên ngành là uỷ viên, uỷ ban quốc gia cổ phần được quyền giải quyết mọi vấn đề có liên quan theo luật kinh tế cổ phần, luật này quyết định chuyển đổi sỏ hữu DNNN sang công ty cổ phần. Đối với những doanh nghiệp được xác định sau kiểm toán có giá trị là 15 tỷ (đồng tương đương 1. Triệu USD). Đối với các bộ ngành địa phương, tổng công ty Nhà nước thành lập các uỷ ban cổ phần hoá DNNN do một phó chủ tịch UBND làm chủ tịch uỷ ban, các cơ qua tài chính cùng cấp là uỷ viên thường trực. Uỷ ban này được phép giải quyết các vấn đề lien quan đến cổ phần hoá trong phạm vi quản lý. Quyết định chuyển sở hữu các DNNN được xác định như sau kiểm toán có giá trị dưới 15 tỷ đồng. Từ ban đổi thành viên uỷ ban đồng nghĩa với các chức năng nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy…. để tương ứng với hai nhiệm vụ cơ bản là: - Tổ chức thực hiện các nghị định trên cơ sở luật cổ phần hoá - Nghiên cứu, đề suất sữa đổi, bổ sung kịp thời các chế độ chính sách có liên quan đến cổ phần hoá. Uỷ ban sẽ tự giải quyết cụ thể sau khi hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của nó. Báo cáo chinh trị của ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam tại đại hội toàn quốc lần thứ VIII có ghi “coi trọng tổng kết thực tiễn Việt Nam, nâng cao chất lượng xây dựng pháp luật ban hành các văn bản pháp luật với những quy định cụ thể, dễ hiểu, dễ thực hiện. Giảm dần các luật pháp luật chỉ dừng lại ở những nguyên tắc chung, muốn thực hiện được đặt trong những chương trình tổng thể đổi mới khu vực kinh tế Nhà nước và sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước.” Xây dựng tiến trình cổ phần hoá 1. Lựa chọn doanh nghiệp cổ phần hoá: Việc lựa chọn những doanh nghiệp để chuyển thành công ty cổ phần được đặt trong những chương trình tổng thể đối với khu vực kinh tế Nhà nước và sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước. Xét theo những yêu cầu cấu trúc lại khu vực kinh tế Nhà nước để duy trì được vai trò chủ đạo và định hướng và phát triển nền kinh tế thị trưòng ở nươc ta, có thể chia làm 3 nhóm DNNN với những giải pháp đổi mới khác nhau. Nhóm thứ nhất: là các doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay cần phải giữ lại hình thức DNNN 100% vốn. Thuộc vào nhóm này là những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sau: + các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực an ninh và quốc phòng như sản xuất vũ khí, thuốc nổ, các phương tiện thu phát sóng… Tuy nhiên, trong lĩnh vực này có rất nhiều doanh nghiệp được thành lập theo quyết định 268/HĐBT thì không nằm trong diện nêu trên và phải được xử lý theo tinh thần quyết định 315/HĐBT và quyết định 196/CT + Các doanh nghiệp đóng vai trò then chốt của nền kinh tế mà Nhà nước cần phải nắm để thực hiện chức năng điều tiết vĩ mô nền kinh tế như các lĩnh vực kinh doanh tiền tệ Ngân hàng, ngoại thương, năng lượng, dầu khí, khai khoáng. + Các doanh nghiệp thuộc về cơ sở hạ tầng có tính chất nền tảng giúp cho các ngành khác phát triển. Đó là những ngành đòi hởi vốn đầu tư lớn thời gian thu hồi vốn chậm tỷ suất lợi nhuận thấp như đuường sá, cầu cống, bến cảng, sân bay, các ngành văn hóa giáo dục, y tế, thuỷ lợi… Nói chung là những ngành không hấp dẫn và cũng chưa đủ sức đối với tư nhân +Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực cần thiết cho quốc tế dân sinh nhưng phần kinh tế khác không đầu tư vì không có lãi và Nhà nước phải đứng ra tổ chức và tìa trợ cho các hoạt độg này. Các doanh nghiệp Nhà nước thuộc các lĩnh vực trên thực hiện những giải pháp đổi mới tổ chức và cán bộ qủan lý , áp dụng kỹ luật cảu thị trường vào trong doanh nghiệp thực hành trao quyền tự chủ trong việc bảo toàn vốn được giao đồng thời kiểm soát chặt chẽ theo luật DNNN. Đối với các doanh nghiệp này trong một số trường hợp và trong những điều kiện nhất định có thể được Nhà nước trợ cấp hoặc bù lỗ. Với việc ban hành luật doanh nghiệp Nhà nước cần được một số giải pháp với nhóm này như sau: - Thực hiện quy chế hội đồng qủan trị để tách biệt rõ ràng quyền sở hữu và quyền quản lý kinh doanh trong doanh nghiệp - Thực hiện chế độ bảo toàn và phát triển nguồn vốn được giao - Bỏ chế độ trích lập quỹ, chỉ khống chế tỷ lệ quỹ tích luỹ và quỹ sự phòng, còn phần lợi nhuận sau khi đã làm đầy đủ nghĩa vụ đối với ngân sách Nhà nước thì hội đồng quản trị và tập thể lao động doanh nghiệp tự quyết định mục đích và mức độ sử dụng cho khen thưởng phúc lợi. - áp dụng hệ thống định mức về chi phí và tiền lương, chịu sự kiểm toán thống nhất của Nhà nước. Nhóm thứ hai: Là các doanh nghiệp thuộc các ngành, các lĩnh vực xét thấy không cần thiết phải duy trì hình thức sở hữu thì nên thu hẹp dần bằng quá trình đa dạng hoá và cổ phần hoá để khuyến khích cạnh tranh và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp này. Có thể nêu ra một số giải pháp phù hợp áp dụng cho các doanh nghiệp thuộc nhòm này - Cho tư nhân hoặc tập thể lao động tại doanh nghiệp thuê nhận khoán và đấu thầu kinh doanh bằng các hợp đồng qủan lý, Nhà nước vẫn giữ quyền sở hữu. Cổ phần hoá từng phần hay toàn bộ doanh nghiệp để chuyển thành Công ty trách nhiệm hữu hạn hay chúng tôi cổ phần Bán toàn bộ cổ phần doanh nghiệp nnn cho tập thể cán bộ quản lý và công nhân viên trong doanh nghiệp. Thanh lý tài sản từng phần doanh nghiệp Nhà nước để giảm phần vốn cố định không hiệu quả. Phát hành cổ phiếu nhằm huy động nguồn vốn mới của tư nhân vào doanh nghiệp Nhà nước đẻ từng bước chuyển thành Công ty cổ phần. Nhóm thứ ba: là doanh nghiệp Nhà nước thua lỗ kéo dài, mất khả năng thanh toán không thuộc diện Nhà nước trợ cấp như nhóm thứ nhất, và không thể tiến hành cổ phần hoá như ở nhóm thứ hai thì được xử lý theo luật phá sản doanh nghiệp hoặc theo quyết định 315/HĐBT với 4 giải pháp sáp nhập cho thuê, nhượng bá và giải thể. Kiên quyết không duy trì trợ cấp dưói mọi hình thức làm tăng thêm gành nặng cho ngân sách và cho xã hội. Như vậy Nhà nước phải tiến hành đồng thời hệthống giải pháp với 3 nhóm doanh nghiệp khác nhau để đổi mới khu vực kinh tế Nhà nước. Tuy vậy, nhóm doanh nghiệp thứ hai với khoảng 60-70% tổng số doanh nghiệp Nhà nước hiện nay chiếm vị trí hàng đầu trong các giải pháp vì khôí lượng công việc là tiến hành cổ phần hoá để từng bước tạo ra loại hình doanh nghiệp cổ phần trong cơ chế thị trường ngày càng được xác lập và cũng cố. 2. Phân loại doanh nghiệp Nhà nước nhằm mục tiêu cổ phần hoá. Nguyên tắc này được nêu ra để làm cơ sở cho các cơ quan chủ quan của Nhà nước phân loại các doanh nghiệp do mình quản lý để thưc hiện cổ phần hoá. Về cơ bản có thể sắp xếp các doanh nghiệp thành 3 loại. Loại doanh nghiệp không chuyển thành Công ty cổ phần vì ở những ngành, lĩnh vực Nhà nước cần có sự kiểm soát và đặc quyền Loại doanh nghiệp có thể chuyển thành Công ty cổ phần nhưng trong vài năm tới các điều kiện chủ quan và khách quan chưa thuận lợi. Chẳng hạn những doanh nghiệp quy mô quá lớn, lợi nhuận chưa đủ hấp dẫn để có thể bán được cổ phiếu hoặc những doanh nghiệp đang lad nuồn thu ngân sách chủ yếu của Nhà nước. Loại doanh nghiệp ưu tiên chuyển thành Công ty cổ phần. Loại này được sắp xếp theo thứ tự ưu tiên trong vòng một vài năm tới. Về đại thể trong giai đoạn đầu của thử nghiệm các doanh nghiệp được tiến hanhcf cổ phần hoá cần phải thoã mãn một số yêu cầu sau: Trước hết, nên thực hiện ở những doanh nghiệp có quy mô vừa và phải vì phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta có quy mô vừa và nhỏ. Nên làm ở những doanh nghiệp có quy mô nhỏ thì chi phí làm thí điểm quá tốn kém so với khả năng thu hồi vốn, nếu làm ở doanh nghiệp có quy mô lớn thì không rút ra được những bài học có tính phổ biến cho việc tiếp tục triển khai trương trình, vì những doanh nghiệp lớn thường sống trong môi trường độc quyền được Nhà nước bảo hộ hơn là trong môi trường cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp khác. Theo cách phân loại trên, vốn pháp định được ban hành cùng với nghị định 222/HĐBT ngày 23/7/1991 để cụ thể hoá một số điều quy định trong Công ty thì doanh nghiệp quy mô lớn có vốn pháp định tối thiều 1000-1500 triệu đồng quy mô nhỏ 50-500 triệu động. Như vậy lấy các doanh nghiệp có quy mô vốn pháp định từ 500 triệu đồng trở lên là thích hợp. III.Tạo sân chơi bình đẳng giữa DNNN và Công ty cổ phần (về những điều kiện hoạt động kinh doanh). Bởi vì chính sách đối với DNNN khấu hao thấp, vay vốn Ngân hàng Nhà nước dễ hơn. Ví dụ: Công ty nhựa Bình Minh vừa được Nhà nước xét cho vay 68 tỷ đồng để đầu tư một dây truyền sản xuất mới. Nhăm tăng năng lực cạnh tranh với hơn 20 đơn vị sản xuất không vay được vốn chỉ và khi ấy Bình Minh định chuyển thành Công ty cổ phần thì liệu Bình Minh có được vay số tiền lớn đến thế khôgn? Sở dĩ Ngân hàng cho doanh nghiệp Nhà nước dễ vay hơn vì những doanh nghiệp đó còn là trách nhiệm vô hạn có gì Nhà nước chịu. Mặc dù nghị định 28/Chính phủ của Chính phủ ban hành ngày 7/5/1996 vừa qua quy định doanh nghiệp thành Công ty cổ phần vẫn tiếp tục được vay vốn tại Ngân hàng thương mại của Nhà nước như các doanh nghiệp Nhà nước. một số giám đôc doanh nghiệp Nhà nước cho rằng quy định hâu như không khả thi nó chỉ để khích lệ tinh thần các doanh nghiệp cổ phần hoá thôi. Còn Ngân hàng có quyền từ chối cho vay. Những người lao động và kể cả giàm đốc các doanh nghiệp Nhà nước cho rằng làm trong các doanh nghiệp này việyc làm ổn định so với Công ty cổ phần. Giám đốc quốc doanh không bao giờ sợ lỗ, nếu cuối năm hạch toán có lỗ thì xin cơ quan tài chính giảm chokhoản này, giam cho khoản kia, hoặc lỗ mà không phạm pháp thì cũng không bị cánh chức. Còn làm giám đốc Công ty cổ phần phải tính toán chi ly từng đồng, “đồng tiền liền với khúc ruột” do đó đòi hỏi người giảm đốc phải năng động, phải có tinh thần trách nhiệm cao, nếu xí nghiệp lỗ phải chịu một phần trách nhiệm và nếu một thời gian nữa sản xuất kinh doanh không phát triển và vẫn tiếp tục lỗ thì phải bãi miễn chức. Đối với công nhân khi chuyển sang Công ty cổ phần thì họ lo lắng liệu rồi đời sống của bản thân họ, của gia định có được đảm bảo không, và nhất là họ sợ mất việc làm. Hơn nữa toàn bộ lợi nhuận sau thuế doanh nghiệp Nhà nước làm ra đều được khen thưởng và phúc lợi, rõ ràng là không cần phải góp vốn mua cổ phần, người công nhân vẫn được chia 65% lãi ròng. Do đó để thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá Nhà nước cần phải tạo sự bình đẳng giữa các khu vực kinh tế giữa đầu tư nước ngoài; đồng thời cần tiếp tục xoá bỏ bao cấp cho kinh tế quốc doanh. một số biện pháp tạo lập môi trường thuận lợi cho việc hình thành và phát triển công ty cổ phần Hình thành công ty đầu tư Theo kế hoạc từ nay đến năm 2000 tổng số 6000 doanh nghiệp Nhà nước trong cả nước mỗi năm phải tiến hành cổ phần hoá khoảng 150 doanh nghiệp và chính phủ cũng đã chỉ đạo mỗi bộ ngành phải xây dựng chỉ tiêu cụ thể hàng năm về sản lượng các doanh nghiệp cổ phần hoá. Do đó việc tiến hành cổ phần hoá bây giờ không sẽ chỉ là sự tự nguyện đăng ký trước đây nữa. Thiết nghĩ để đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá theo đúng mục tiêu nhất thiết phải hình thành một tổ chức chuyên môn để cơ thể thực hiện các nghiệp vụ tư vấn và đất tư cổ phần hoá có hệ thống và hoản hảo hơn. ổn định tiền tệ, giảm tốc độ lạm phát Là điều kiện quan trọng nhất tiều tệ ổn định là một điều kiện quan trọng cho sự ra đời công ty cổ phần. Sự ổn định tiền tệ sẽ thúc đẩy sự ra đời các doanh nghiệp mới trong đó có công ty cổ phần một khi các doanh nghiệp mới ra đời nó sẽ tác động tích cực trở lại đối với nền kinh tế nói chúng cũng như tiền tệ nói riêng. Việc huy động tiết kiệm của hệ thống ngân hàng cũng gặp khó khăn tương tự như huy động vốn dài hạn của kho bạc. Nếu tăng lãi suất tiết kiệm thì ngân hàng phải tăng lãi suất cho vay, nghĩa là các doanh nghiệp phải vay ngân hàng lãi suất cao. Nếu vậy thì các doanh nghiệp không chịu được. Như vậy là mức lạm phát là cơ sở tối quan trọng, là chỉ tiêu quyết định mức lãi suất cho vay. Lạm phát cao còn hạn chế khả năng phát hành cổ phiếu, trái phiếu cao, doanh nghiệp không chịu nổi, do đó lạm phát thấp sẽ thúc đẩy nhanh sự ra đời và phát triển thị trường vốn trong nước. Chính sách tài chính Thể hiện chủ yếu nội dung thu chi của Chính phủ. Kinh tế thị trường đòi hỏi phải xây dựng ngân sách theo tinh thần: bội chi để chống suy thoái kinh tế; bội thu để chống lạm phát. Ngoài ra chính sách thuế của Nhà nước có tác động rất lớn đến hoạt động của công ty cổ phần. Thông qua thế Nhà nước điều chỉnh cơ cấu kinh tế, kích thích hoặc hạn chế sản xuất kinh doanh của từng ngành, từng lĩnh vực. Vậy để đẩy mạnh việc hình thành công ty cổ phần, Nhà nước nên có những chính sách thuế để khuyến khích các nhà đầu tư hình thành và phát triển. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện vai trò điều tiết quản lý vĩ mô về mặt tiền tệ Những sự can thiệp của ngân hàng Nhà nước trên thị trường sẽ quyết định việc gia tăng hay thu hẹp khối lượng tiền tệ cung ứng cho nền kinh tế, tuỳ theo yêu cầu của nền kinh tế, tuỳ theo yêu cầu của nền kinh tế vào các thời điểm nhất định. Các chính sách của NHTW tác động đến sự hình thành và phát triển thị trường vốn. Ngoài ra các ngân hàng thương mại có thể hành động với tư cách trung gian mua bán chứng khoán. Như vậy, ngân hàng có vị trí quan trọng trong việc hình thành và phát triển công ty cổ phần. Ngoài ra tăng cường và hoàn thiện công tác kiểm toán trong nền kinh tế. Tăng cường và hoàn thiện công tác kiểm tra Phải làm cho mọi người, mọi doanh nghiệp, mọi tổ chức thấy được kiểm toán là công cụ hết sức quan trọng trong cơ chế kinh tế thị trường nhất là khi công tác cổ phần đã trở nên phổ biến trong cơ chế thị trường nhất là khi công tác cổ phần đã trở nên phổ biến trong nền kinh tế để nhằm đáp ứng lợi ích của nhiều phía. + Của Nhà nước để quản lý và kiểm soát việc sử dụng tài nguyên. + Của các doanh nghiệp, các công ty để kiểm soát vốn liếng doanh thu chi phí, kết quả kinh doanh và hiệu quả hoạt động nhất là việc hoạt động của cổ phần. + Của các nhà đầu tư. qua kiểm soát các nhà đầu tư sẽ biết từng doanh nghiệp làm ăn như thế nào để đầu tư mua và bán cổ phiếu Như vậy, kiểm toán Nhà nước có vị trí vai trò quan trọng trong việc chuyển các doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần, vì phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước đều do vốn đầu tư của ngân sách Nhà nước, nếu kiểm toán xác nhận chính xác, trung thực của các số liệu, tài liệu kế toán, báo cáo quyết toán, chế độ tài chính từ đó đánh số tài sản của doanh nghiệp Nhà nước còn lại bao nhiều để có những bước đi, thích hợp chuyển sang công ty cổ phần. Phần III. Tài liệu tham khảo Tiến trình và triển vọng cổ phần hoá ở Việt Nam (Trần CôngBẩy 3/1998) Cơ sở khoa học của việc chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành công ty quốc phòng ở Việt Nam ( Chương trình kế hoạch các Nhà nước KX 03-07-05 Bộ tài chính 1993) Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước (các văn bản hiện hành) (nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội 1998) Ngô Xuân Lộc (cổ phần hoá một yêu cầu bức thiết của cải cách doanh nghiệp Nhà nước, tạp chí Cộng sản số 17 tháng 9/98) Tào Hữu Phùng ( cổ phần hoá - nhiệm vụ quan trọng và bức bách. Tạp chí cộng sản số 13-tháng 7/1998. Nguyễn Ngọc Quang (cổ phần hoá - doanh nghiệp Nhà nước. cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiến) NXB khoa học Hà Nội năm 1996 Đỗ Huỳnh Trọng ( một số suy nghĩ về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước) tạp chí nghiên cứu kinh tế. Số 11/1998. Văn kiện Đại Hội Đại biểu lần thứ 7. Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0585.doc
Tài liệu liên quan