- Tình hình quốc phòng - an ninh đòi hỏi vẫn phải luôn luôn đề cao cảnh giác, chăm lo đúng mức.
Việc tham gia AFTA sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến thương mại. Thương mại sẽ lại gây ảnh hưởng đến sản xuất. Như vậy, thực chất của việc xem xét tác động của AFTA đối với các ngành sản xuất trong nước là đánh giá khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam so với hàng hoá của các nước ASEAN khác trên thị trường trong nước, thị trường ASEAN và thị trường ngoài ASEAN. Khả năng cạnh tranh của hàng hoá phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó quan trọng nhất là chất lượng, chủng loại, mẫu mã và giá cả. Tham gia AFTA sẽ có tác động trực tiếp nhất tới yếu tố giá cả của hàng hoá, bởi vì với việc cắt giảm thuế, đơn giản hoá các thủ tục buôn bán, thì giá bán của hàng hoá sẽ hạ hơn. Các yếu tố khác như chất lượng, mẫu mã cũng sẽ thay đổi so sức ép của cạnh tranh trong nội bộ khu vực.
Việc hình thành AFTA sẽ hầu như dẫn đến xoá bỏ thuế nhập khẩu trong nội bộ các nước ASEAN, nhưng giữ nguyên thuế nhập khẩu đối với thế giới bên ngoài. Vì vậy, nó sẽ có thể dẫn đến những hậu quả:
ã Phân bố lại các luồng buôn bán giữa các nước ASEAN.
ã Do các luồng buôn bán nội bộ khu vực thay đổi nên buôn bán với bên ngoài khu vực cũng sẽ có những thay đổi.
150 trang |
Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1220 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Doanh nghiệp Việt nam trong tiến trình hội nhập AFTA - Vấn đề và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u kiện thúc đẩy sự hình thành và phát triển các loại thị trường: vốn, chứng khoán, bảo hiểm, bất động sản, lao động, dịch vụ, khoa học - công nghệ, tư vấn hỗ trợ thông tin cho các doanh nghiệp… Mở rộng thêm thị trường mới ở nước ngoài; xác định thời hạn bảo hộ hợp lý và có điều kiện với một số sản phẩm quan trọng, tích cực chuẩn bị để hội nhập thị trường quốc tế. Mở rộng thị trường lao động trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu lao động, hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách để tạo cơ hội bình đẳng về việc làm cho người lao động, nâng cao trình độ, đào tạo lại và học nghề mới. Tổ chức thị trường khoa học - công nghệ và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; đẩy mạnh phát triển các dịch vụ về thông tin, chuyển giao công nghệ.
Cải cách đồng bộ cơ chế quản lý nền kinh tế thị trường theo hướng nâng cao hiệu quả quản lý, khắc phục những yếu kém hiện nay, gỡ bỏ những vướng mắc cản trở sự phát triển. Nhà nước tôn trọng các nguyên tắc của thị trường, tập trung làm tốt chức năng hoạch định chính sách, quy hoạch định hướng phát triển, thực hiện những dự án trọng điểm, cải thiện môi trường đầu tư, điều tiết thu nhập hợp lý. Về quản lý vĩ mô, cần làm tốt các công việc cụ thể sau:
- Công khai hóa và luật pháp hóa là việc đầu tiên cần làm trong tiến trình đổi mới công tác quản lý. Hiện nay các doanh nghiệp rất thiếu thông tin về các quy định của Nhà nước có liên quan đến công việc kinh doanh của họ.
- Cần gấp rút ban hành các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh những mảng trống trong kinh doanh xuất nhập khẩu để các doanh nghiệp không bị trở ngại trong kinh doanh.
- Hoàn thiện cơ chế quản lý xuất nhập khẩu. Việc bãi bỏ các hàng rào thuế và phi quan thuế là một trong những giải pháp lớn để khuyến khích phát triển xuất khẩu và cần tuân thủ một số nguyên tắc và trình tự thời gian nhất định.
- Về các thủ tục hành chính và hải quan: để tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho hoạt động xuất khẩu, nên bãi bỏ việc kiểm tra bắt buộc xuất xứ hàng hoá (C/O) nếu Việt Nam không có nghĩa vụ thực hiện theo các thỏa thuận song phương, đa phương đã ký kết.
Tiếp tục cải cách hệ thống ngân hàng, trong đó, cải tổ các ngân hàng thương mại quốc doanh thành những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, có sức cạnh tranh, tập trung vào cải cách thủ tục thẩm định tín dụng, cải tiến dịch vụ ngân hàng, tự do hóa lãi suất đi đôi với việc hình thành thị trường tiền tệ hoạt động theo quy luật cung - cầu. Thực hiện chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt theo cung cầu ngoại tệ, từng bước tự do hóa tỷ giá hối đoái, nâng cao năng lực giám sát của ngân hàng Nhà nước.
3.3.1.3. Đẩy nhanh chương trình cải cách các doanh nghiệp Nhà nước.
Việc đẩy nhanh cải cách các doanh nghiệp Nhà nước có một ý nghĩa rất quan trọng đối với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và việc nâng cao khả năng cạnh tranh hội nhập của bản thân doanh nghiệp Nhà nước nói riêng. Trong quá trình hội nhập, một trong những nguyên tắc nền tảng khi gia nhập các tổ chức và liên kết quốc tế là đối xử bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Vì vậy, việc cải cách các doanh nghiệp Nhà nước vừa để đảm bảo các điều kiện tham gia hội nhập, vừa giúp các doanh nghiệp Nhà nước nâng cao năng lực thông qua quyền tự chủ kinh doanh và tự chủ hạch toán kinh tế, đồng thời là một tất yếu khách quan trong quá trình hội nhập:
- Nhà nước cần phải kiên quyết giải thể những doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả, hình thành công ty đầu tư tài chính Nhà nước, các công ty mua bán nợ để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp lành mạnh hoá tài chính.
- Phải tiến hành đẩy mạnh cổ phần hoá các doanh nghiệp.
- Giới hạn về số lượng doanh nghiệp Nhà nước, các doanh nghiệp Nhà nước chỉ nên hoạt động trong các lĩnh vực,ngành then chốt mà Nhà nước cần nắm hoặc tư nhân không có khả năng làm.
- Xây dựng hệ thống chính sách để hoàn thiện, nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp có 100% vốn Nhà nước, từng bước tạo khung pháp lý bình đẳng giữa doanh nghiệp Nhà nước với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.
- Cần thẩm định, kiểm tra thật chặt chẽ, nghiêm ngặt việc thành lập mới các doanh nghiệp Nhà nước.
- Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực hoạt động trong doanh nghiệp Nhà nước.
3.3.1.4. Đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu quả.
Các tổ chức Đảng các cấp từ Trung ương đến địa phương cần coi hội nhập là một trong lĩnh vực then chốt trong quan hệ kinh tế để từ đó có chương trình hành động thống nhất. Cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành địa phương, kết hợp các Ban của Đảng với cơ quan Nhà nước và các đoàn thể quần chúng trong việc quán triệt chủ trương và triển khai thực hiện các nội dung, bước đi của quá trình hội nhập.
Cải cách hành chính là một công việc quan trọng quyết định thành công của việc thực hiện chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế. Do vậy, tổ chức và cải cách bộ máy Nhà nước cần theo hướng tinh gọn, có chuyên môn, năng lực, phẩm chất phục vụ đắc lực nhân dâ, các doanh nghiệp và các nhà đầu tư. Cần tách hệ thống cơ quan hành chính công quyền với hệ thống cơ quan sự nghiệp, áp dụng các cơ chế tài chính thích hợp.
Tiến hành việc phân công, phân cấp mạnh mẽ hơn nhằm tăng cường sự chủ động của các ngành các cấp trong phạm vi kiểm soát và chỉ đạo của Trung ương. Đảm bảo thực sự việc giám sát có hiệu quả của công dân đối với hoạt động của các cơ quan quyền lực Nhà nước. Nâng cao năng lực của các cơ quan Nhà nước trong việc xây dựng hệ thống cơ chế chính sách kinh tế theo hướng công khai hoá, minh bạch hoá phù hợp với thông lệ quốc tế.
3.3.1.5. Chính sách phát triển nguồn nhân lực, giáo dục đào tạo.
Tăng cường đầu tư vào phát triển con người thông qua phát triển mạnh giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ. Đổi mới cơ chế, chính sách tài chính đối với giáo dục và đào tạo, thu hút các nguồn lực trong nước và ngoài nước, đặt giáo dục hoạt động trong môi trường sư phạm lành mạnh, nhanh chóng tiếp cận trình độ khu vực và quốc tế. Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển giáo dục ở các bậc học.
3.3.2. Giải pháp ở tầm vi mô [4], [17], [20], [25], [34], [37], [53], [61]
3.3.2.1. Nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp
Thực trạng các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay cho thấy, phần lớn các doanh nghiệp chưa có nỗ lực hướng tới việc nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của mình. Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động doanh nghiệp là giải pháp quan trọng để doanh nghiệp đạt được mức tăng trưởng cao - mục tiêu hàng đầu, là sự phản ánh lý do tồn tại của chính các doanh nghiệp trên thị trường cạnh tranh.
Thực tế trên thế giới chỉ ra thiết bị và công nghệ mới không phải là cản trở chính cho doanh nghiệp đạt được hiệu quả hoạt động cao. Bởi vì, thiết bị hiện đại có hiệu quả chủ yếu xét trên góc độ kỹ thuật, nhưng để có hiệu quả hơn trên góc độ kinh tế thì phương thức hoạt động quản lý mới và tốt hơn sẽ giữ vai trò then chốt. Xuất phát từ thực trạng hoạt động của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, để đạt lợi thế tổng hợp, các doanh nghiệp cần phải chú trọng đến các khía cạnh sau:
Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp
- Khai thác có hiệu quả hơn các lợi thế so sánh quốc gia trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Chú trọng đến khâu nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới, hiện đại hoá khâu thiết kế sản phẩm, gia tăng giá trị sử dụng của sản phẩm dựa vào đổi mới thiết kế.
- Tìm kiếm các nguồn nhập khẩu các yếu tố đầu vào trung gian thực sự cần thiết để sản xuất sản phẩm có chi phí thấp hoặc nâng cao chất lượng sản phẩm.
- Nghiên cứu và triển khai áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng hiện đại trong hoạt động của doanh nghiệp.
- Chú trọng đến việc nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống phân phối, kể cả dịch vụ phục vụ trước, trong và sau khi bán hàng phù hợp với đặc điểm văn hoá, tiêu dùng ở những thị trường tiêu thụ khác nhau.
- Lựa chọn các khâu quan trọng trong dây chuyền sản xuất có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng và giá thành sản phẩm để tiến hành hiện đại hoá sớm.
- Xây dựng năng lực nắm bắt và phản ứng nhanh của doanh nghiệp trước những thay đổi của đối thủ cạnh tranh trên thị trường.
Đổi mới và hiện đại hoá công nghệ với chi phí thấp
- Nhập các thiết bị nước ngoài, học tập nguyên tắc thiết kế, tự thiết kế lại, cải tiến cho phù hợp với điều kiện sản xuất và chế tạo tại Việt Nam.
- Mua thiết bị có công nghệ tương đối hiện đại nhưng mức tự động hoá còn thấp, sau đó tự nâng cấp trình độ tự động hoá bằng thiết kế của Việt Nam.
- Đối với những công nghệ hoặc thiết bị khó nhập khẩu hoặc nhập khẩu quá đắt, các doanh nghiệp cần hợp tác với các cơ quan nghiên cứu khoa học, kỹ thuật của Nhà nước cùng đầu tư nghiên cứu để thiết kế và chế tạo.
- Các doanh nghiệp cần khai thác thông tin qua mạng để tham gia các hướng công nghệ mới và tìm kiếm sự trợ giúp kỹ thuật từ bên ngoài doanh nghiệp.
- Tận dụng khả năng đóng góp của các chuyên gia kỹ thuật, công nghệ Việt Nam ở nước ngoài.
- Dựa vào sự hỗ trợ của các cơ quan Nhà nước, các trường Đại học, Viện nghiên cứu để hiện đại hoá công nghệ của mình.
- Tìm kiếm cơ hội liên doanh với những công ty nước ngoài có khả năng công nghệ hiện đại.
Nâng cao chất lượng con người trong hoạt động doanh nghiệp
- Tạo sự gắn bó về quyền lợi và trách nhiệm của người lao động với doanh nghiệp thông qua các chính sách như đầu tư cho các hoạt động đào tạo nâng cao trình độ, bảo đảm công ăn việc làm ổn định, lâu dài cho người lao động kể cả khi có những biến động.
- Nâng cao trình độ, năng lực kinh doanh, điều hành, quản lý doanh nghiệp nhất là nâng cao trình độ và kinh nghiệm kinh doanh của Giám đốc. Các cán bộ ở doanh nghiệp trực tiếp làm công tác hội nhập phải có trình độ ngoại ngữ tốt, am hiểu về luật pháp quốc tế, năm vững các nguyên tắc thương mại quốc tế cũng như có kỹ năng đàm phán.
- Đa dạng hoá kỹ năng cho người lao động và đảm bảo khả năng thích ứng của người lao động với các khâu hoạt động của doanh nghiệp khi cần có sự điều chỉnh lao động trong nội bộ doanh nghiệp.
- Tổ chức hoạt động đào tạo lao động tại chỗ, qua đó nâng cao khả năng thích ứng của lao động với tính chuyên biệt về công nghệ của doanh nghiệp, đồng thời giảm được khâu tuyển dụng và thử tay nghề của lao động từ nơi khác đến.
- Nâng cao vai trò của tổ chức công đoàn trong doanh nghiệp trong việc tìm hiểu, đáp ứng nguyện vọng của người lao động, cũng như phát huy được khả năng sáng tạo của người lao động.
3.3.2.2. Các giải pháp mở rộng thị trường
Các doanh nghiệp Việt Nam có khả năng cạnh tranh kém hơn các doanh nghiệp ASEAN khác, vì vậy, trong chiến lược kinh doanh, không nên quá chú trọng đến mục tiêu lợi nhuận trước mắt mà nên chọn những sản phẩm mà doanh nghiệp có thế mạnh, không ngừng cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá sản phẩm theo nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của xã hội. Khai thác có hiệu quả các lợi thế so sánh của quốc gia trong việc lựa chọn sản phẩm kinh doanh, chú trọng đến khâu nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới, hiện đại hoá khâu thiết kế sản phẩm, chọn lựa hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến trên thế giới phù hợp với doanh nghiệp để nâng cao chất lượng sản phẩm. Điều này, trước mắt có thể làm giảm lợi nhuận của các doanh nghiệp do chi phí quá lớn cho việc nâng cao chất lượng sản phẩm. Điều này, trước mắt có thể làm giảm lợi nhuận của các doanh nghiệp do chi phí quá lớn cho việc nâng cao chất lượng sản phẩm. Song nó sẽ đảm bảo cho các doanh nghiệp trong những chu kỳ kinh doanh tiếp theo khi thị trường trở nên bão hoà về mặt hàng mà doanh nghiệp đang kinh doanh. Bởi lúc này, các yếu tố kỹ thuật tích luỹ được sẽ giúp doanh nghiệp trụ vững trong môi trường cạnh tranh khốc liệt. Để thực hiện điều đó, ngay từ bây giờ, các doanh nghiệp nên chú trọng một số vấn đề sau:
Chiến lược chuyên biệt hoá sản phẩm: luôn luôn tìm mọi cách để sản phẩm của doanh nghiệp có tính khác biệt, độc đáo ở một điểm nào đó, so với sản phẩm cùng loại của các doanh nghiệp khác, đặc biệt nó phải mang một nét độc đáo nhất định dựa trên các thế mạnh sẵn có của Việt Nam.
Chiến lược tiêu điểm: cũng có thể doanh nghiệp chỉ tập trung vào một vài phân khúc của thị trường trọng điểm, trực tiếp phục vụ nhu cầu của một nhóm khách hàng hạn chế có thể phân theo khu vực địa lý hoặc theo mức độ giầu nghèo, tuổi tác, nghề nghiệp hoặc phân theo khúc nhỏ của thị trường trên một tuyến sản phẩm đặc thù theo khả năng và ưu thế của doanh nghiệp. Điều này là rất cần thiết với hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam, khi mà tiềm lực tài chính còn eo hẹp.
Làm tốt công tác nghiên cứu thị trường, tạo được một đội ngũ những người tiếp thị, phát triển mạng lưới những người tiếp thị nhanh nhạy, rộng khắp, luôn có kế hoạch mở rộng thị trường. Phát triển mạng lưới tiêu thụ, thường xuyên đưa ra các hình thức khuyến mại phù hợp với từng lúc, từng nơi, cải tiến phương thức phục vụ khách hàng. Nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống phân phối, kể cả dịch vụ trước và sau khi bán hàng phù hợp với đặc điểm văn hoá tiêu dùng ở những thị trường tiêu thụ khác. Cần nằm bắt và phản ứng nhanh trước các thay đổi của đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Việc nghiên cứu thị trường cần tập trung vào việc xác định đặc tính của các sản phẩm, dịch vụ theo nhu cầu thị hiếu của từng nước trong khu vực. Đánh giá khả năng thị trường về các mặt hàng có lợi thế so sánh cảu Việt Nam so với các nước trong AFTA và làm tốt công tác thị trường. Để làm tốt công việc này cần xây dựng hệ thống thông tin hữu hiệu về thị trường các nước trong khu vực. Hệ thống thông tin này có thể được cập nhất qua các phương tiện thông tin đại chúng của ASEAN, qua hệ thống thương mại điện tử. Đồng thời theo sát các thông tin của thương vụ Việt Nam tại các quốc gia này… Ngoài ra các doanh nghiệp có thể nhận được sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế, của các phòng thương mại, hoặc cử người trực tiếp đi nghiên cứu thị trường tại các nước trong khu vực.
3.3.2.3. Thành lập hiệp hội các doanh nghiệp
Các doanh nghiệp Việt Nam có thể tập hợp lại thành các hiệp hội nhằm phối hợp và phát huy thế mạnh của nhau trong việc khảo sát thị trường, sản xuất và cung cấp hàng hoá với số lượng lớn và chất lượng cao. Có nghĩa là cần tiếp tục cải tổ để tăng cường năng lực cho hệ thống doanh nghiệp:
Một là, đẩy nhanh việc thực hiện chương trình chi tiết về cải cách doanh nghiệp nhà nước để thúc đẩy các doanh nghiệp này chuyển hướng sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn. Chương trình chi tiết cải cách doanh nghiệp nhà nước đã được xây dựng từ năm 1998. Trong đó, các biện pháp cần được chú trọng như đa dạng hoá và chuyển đổi sở hữu các doanh nghiệp nhà nước, cải thiện khung pháp lý cho phép thực hiện nhanh việc giải thể các doanh nghiệp nhà nước không còn khả năng tồn tại, cơ cấu lại các doanh nghiệp được Nhà nước giữ lại bằng các biện pháp như định mức trần với mức tăng tín dụng của tất cả các doanh nghiệp nhà nước, tăng thêm quyền và trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của ban giám đốc.
Hai là, tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của các doanh nghiệp tư nhân. Trong giai đoạn 2001 – 2005, để phát triển mạnh hơn khu vực doanh nghiệp tư nhân, trước hết cần có sự nhìn nhận đúng thực tế và khả năng về vị trí, vai trò của khu vực tư nhân đối với nền kinh tế, từ đó, tạo môi trường tâm lý xã hội ủng hộ rộng rãi cho khu vực này phát triển, hoàn thiện các cơ chế chính sách theo hướng đảm bảo sự bình đẳng cho sự phát triển kinh tế tư nhân như chính sách thuế, đầu tư, điều kiện và cơ hội tiếp cận nguồn vốn ngân hàng, chính sách thu nhập và tham gia đóng bảo hiểm xã hội, chính sách đào tạo và khoa học công nghệ, sớm đổi mới công tác quản lý hành chính, xây dựng khung pháp lý nhất quán và hoàn chỉnh, tránh tình trạng thường xuyên thay đổi làm tăng rủi ro và chi phí kinh doanh.
3.3.2.4. Một số giải pháp khác.
Những nội dung nói trên, khi đối chiếu với một số lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam trong điều kiện hội nhập AFTA, có thể thấy nổi bật một số vấn đề cơ bản sau:
Đối với lĩnh vực nông nghiệp: Các doanh nghiệp cần tập trung cải tạo giống, cải tiến công nghệ chế biến để nâng cao chất lượng sản phẩm. Đối với một số mặt hàng cần khắc phục sớm tình trạng cạnh tranh thiếu điều tiết dẫn đến giảm giá xuất khẩu, gây bắt lợi khi thị trường được mở cửa cho các doanh nghiệp ASEAN. Cần chú trọng cải tiến mẫu mã, bao bì, đa dạng hoá sản phẩm qua chế biến, nâng cao tỷ trọng xuất khẩu thành phẩm để từng bước nâng dần khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế, tăng giá trị nông sản xuất khẩu.
Đối với ngành rau quả: Đối với mặt hàng rau quả tươi, Việt Nam hàng năm đang xuất khẩu một lượng lớn rau quả tươi sang các nước ASEAN, lượng nhập khẩu không đáng kể. Các nước ASEAN khác hiện đã đưa nhiều mặt hàng rau quả tươi vào danh mục cắt giảm để thực hiện cắt giảm thuế ngay, mặc dù các mặt hàng hiện đang có thuế suất cao. Để tận dụng ưu đãi CEPT, hầu hết cả mặt hàng rau quả tươi Việt Nam đều đã được đưa vào danh mục cắt giảm. Tuy nhiên, điều căn bản vẫn phải là nâng cao trình độ ở khâu chế biến, nếu không Việt Nam sẽ khó đạt hiệu quả xuất khẩu trong lĩnh vực này. Cụ thể: giai đoạn đầu, các doanh nghiệp cần có chính sách thích hợp cho việc phát triển các vùng chuyên ngành nguyên liệu phục vụ cho chế biến công nghiệp. Các doanh nghiệp nên phát triển các nhà máy chế biến công suất vừa và nhỏ để phù hợp với điều kiện cơ sở hạ tầng cũng như khả năng cung cấp nguyên liệu hiện nay. Tránh tình trạng hoạt động dưới công suất do không đủ nguyên liệu cho chế biến. Đồng thời với việc phát triển vùng chuyên canh nguyên liệu, các doanh nghiệp phải xây dựng chương trình đầu tư mở rộng sản xuất để nhanh chóng đạt được ưu thế về qui mô. Có như vậy, các doanh nghiệp Việt Nam mới có cơ may chiến thắng trong điều kiện hội nhập AFTA.
Đối với ngành chăn nuôi: Do nhu cầu tiêu thụ trong nước là có hạn, trong khi chăn nuôi vẫn có tốc độ tăng trưởng đều đặn hàng năm. Do vậy, các doanh nghiệp nên định hướng phát triển trong tương lai tập trung vào đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi sang các thị trường ngoài khu vực cũng như sang các nước ASEAN. Để thực hiện được mục tiêu này cần chú trọng một số vấn đề sau:
+ Kêu gọi sự hỗ trợ về vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ngành chăn nuôi của Nhà nước vì vấn đề này vượt quá khả năng của các doanh nghiệp.
+ Đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất thức ăn gia súc, phát triển trang trại chăn nuôi công nghiệp. Chỉ có trên cơ sở này, các doanh nghiệp mới chủ động kiểm soát các vấn đề về an toàn thú y cũng như các tiêu chuẩn ngặt nghèo về an toàn vệ sinh thực phẩm trong xuất khẩu. Đây là điều kiện tiên quyết để các sản phẩm loại này thâm nhập được vào thị trường nước ngoài.
+ Tiến hàng cải tạo giống để có chất lượng sản phẩm tốt. Hiện nay do chưa có trang trại lớn, nên vấn đề này là khâu yếu của Việt Nam.
Đối với lĩnh vực dệt may: Hiện nay làn sóng chuyển dịch ngành dệt may đã chuyển sang giai đoạn 2, tức là từ các nước NICs châu á sang các nước Trung Quốc, ấn Độ, Indonesia, Banglades, Việt Nam…. có lao động rẻ. Vì vậy, thời cơ phát triển dệt may Việt Nam đang có cơ hội lớn để đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng trong giai đoạn 10 – 15 năm nữa. Khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trong lĩnh vực này trong những năm vừa qua là khá tích cực, tuy nhiên cụ thể trong từng lĩnh vực nhỏ còn tồn tại những vấn đề nhất định cần được tập trung giải quyết:
+ Đối với lĩnh vực sản xuất sợi, hiện nay trong nước mới chỉ sản xuất được sợi xơ ngắn với chất lượng có thể thay thế hàng nhập khẩu và gần 100% được tiêu thụ trong nước. Các sản phẩm sợi xơ dài phải nhập khẩu. Hiện nay đã bắt đầu có một số liên doanh sản xuất sợi xơ dài với khối lượng ít, do đó sợi xơ dài vẫn phải nhập khẩu làm nguyên liệu cho công đoạn dệt.
+ Đối với lĩnh vực dệt, do máy móc thiết bị còn lạc hậu và cũ kỹ, do đó hàng dệt vẫn chưa đủ sức cạnh tranh với hàng nhập khẩu vào thị trường trong nước ở một số mặt hàng, đặc biệt là giá cả, chất lượng và mới đáp ứng một phần cho may xuất khẩu.
+ Đối với ngành dâu tằm tơ, hiện nay tơ tằm được coi là mặt hàng có triển vọng mang lại giá trị kim ngạch xuất khẩu lớn cho Việt Nam trong những năm tới vì thị trường tiêu thụ tơ tằm và các sản phẩm từ tơ tằm của thế giới là rất lớn. Việt nam có ưu thế của một nước công nghiệp có nghề dâu tằm tơ truyền thống từ lâu đời, lại có ưu thế về lao động nhiều và rẻ, đất đai chưa được khai thác hết và khá phù hợp với nghề trồng dâu nuôi tằm. Khả năng cạnh tranh của tơ Việt Nam theo đánh giá chỉ kém của Trung quốc. Nhìn chung có thể cạnh tranh được với các nước ASEAN và thị trường này của Việt Nam đã tương đối phát triển, trong đó có các nước ASEAN.
+ Đối với da giày, cũng giống như dệt may, trong những năm gần đây, kim ngạch xuất khẩu giày dép của Việt Nam tăng nhanh và trở thành một ngành sản xuất quan trọng, đứng hàng thứ ba ở châu á, sau Trung Quốc và Indonesia. Trong lĩnh vực này, Việt Nam có lợi thế về nhân công rẻ nhưng lại thiếu vốn và khả năng thiết kế và triển khai mẫu mốt mới còn yếu kém, chủ yếu vẫn dựa vào đối tác nước ngoài, trên 60% nguyên liệu phải nhập, vì thế khả năng xuất khẩu sản phẩm trực tiếp còn chưa lớn.
Các doanh nghiệp cần phải có các biện pháp phi quan thuế hữu hiệu cùng các biện pháp thương mại khác để hạn chế tối đa vấn đề nhập khẩu và đồng thời tìm kiếm, mở rộng thị trường tiêu thụ cho các sản phẩm may mặc. Đẩy mạnh việc nghiên cứu thị hiếu người tiêu dùng ASEAN để tạo mẫu mã mới nhằm thâm nhập mạnh mẽ hơn vào thị trường khu vực. Mặt khác, không ngừng củng cố thị trường trong nước, bởi hiện mức tiêu dùng trong nước về mặt hàng này vẫn còn thấp.
Song song với những nỗ lực của các doanh nghiệp, sự hỗ trợ của Nhà nước về cơ chế chính sách, về hạ tầng cơ sở, về đào tạo, về thông tin… là điều rất cần thiết, đặc biệt trong hoàn cảnh các doanh nghiệp phải cạnh tranh trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra gay gắt.
3.4. Kiến nghị với nhà nước về các điều kiện cần thiết bảo đảm cho các doanh nghiệp Việt nam thích ứng với tiến trình hội nhập [17], [20], [25], [30]
Nhà nước có một vai trò rất lớn trong việc tạo ra những khuôn khổ kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp. ở mỗi một thời kỳ khác nhau, các chính sách của Nhà nước sẽ đóng vai trò khác nhau trong việc định hướng cũng như hỗ trợ các doanh nghiệp trong phát triển kinh doanh và nâng cao khả năng cạnh tranh.
3.4.1 Về hoàn thiện hành lang pháp lý
Thực tế cho thấy rõ rằng “thể chế nào, doanh nghiệp ấy”. Một thể chế kinh tế phù hợp với các qui luật phát triển của nền kinh tế thì nó sẽ thúc đẩy hoạt động kinh doanh và tạo ra sự bình đẳng, nâng cao khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế. Điều này đòi hỏi Nhà nước phải tạo hành lang pháp lý ổn định, bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Với mục tiêu như vậy, cần xây dựng bộ máy làm luật một cách chuyên nghiệp, tránh tình trạng luật qui định chung chung, kéo theo qui trình hướng dẫn luật: nghị định hướng dẫn, thông tư hướng dẫn, thông tư liên bộ, xuống địa phương lại có văn bản hướng dẫn, sở ban ngành lại hướng dẫn… Khi tham gia vào hệ thống pháp luật quốc tế, Việt Nam phải nhanh chóng tiến hành điều chỉnh luật pháp quốc gia sao cho phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế. Mặt khác, Việt Nam nên tiến hành các hiệp định tương trợ tư pháp với các quốc gia trong khối để thống nhất cách lựa chọn luật áp dụng khi giải quyết các tranh chấp có yếu tố nước ngoài.
Điều này đặc biệt cần thiết, bởi Việt Nam không chỉ hội nhập AFTA mà tương lai còn hội nhập mạnh mẽ hơn vào các tổ chức thương mại quốc tế khác. Điều đó có nghĩa giao thương giữa các doanh nghiệp Việt Nam và các doanh nghiệp nước ngoài sẽ tăng mạnh. Nếu không có một hành lang pháp lý thống nhất, sẽ làm chậm thời gian giải quyết các tranh chấp và làm mất lòng tin của các bạn hàng, gây khó khăn và thiệt thòi cho các doanh nghiệp Việt Nam.
3.4.2 Về hoàn thiện chính sách vĩ mô
Cần sớm xây dựng một kế hoạch tổng thể và dài hạn về hội nhập kinh tế quốc tế với một lộ trình cụ thể để các ngành, các địa phương, các doanh nghiệp khẩn trương sắp xếp lại và nâng cao hiệu quả sản xuát, nâng cao năng lực cạnh tranh, đảm bảo hội nhập có hiệu quả.
Xây dựng chiến lược cạnh tranh, hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường, chú trọng các thị trường cơ bản và những thị trường mới sơ khai như thị trường lao động, thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản, thị trường khoa học công nghệ, thị trường tư vấn và hỗ trợ thông tin doanh nghiệp.
Nhà nước cần có những chính sách cụ thể, hợp lý để khuyến khích các doanh nghiệp trong quá trình tham gia AFTA như: ưu tiên tín dụng, sửa đổi bổ sung những ưu đãi thuế cho sản xuất, xuất khẩu, thành lập quĩ bảo hiểm xuất khẩu, đặc biệt đối với các sản phẩm có tính chất nhạy cảm cao. Đối với các dự án đấu tư trong nước, lấy từ vốn ngân sách hay vốn ODA, phải chú trọng đến vấn đề hiệu quả đầu tư. Nhà nước cần có danh mục các ngành, lĩnh vực ưu tiên trong sử dụng các nguồn vốn này một cách rõ ràng, tránh đầu tư ồ ạt, đầu tư không hiệu quả sẽ không có khả năng hỗ trợ cao cho các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh khi AFTA được thực hiện. Đối với FDI, cần tập trung hơn nữa khuyến khích mạnh mẽ các nhà đầu tư nước ngoài liên doanh trong lĩnh vực công nghiệp sản xuất linh kiện, phụ tùng cho ngành công nghiệp cơ khí, điện, điện tử, công nghiệp đóng tầu. Cần dành cho những lĩnh vực này sự ưu tiên đặc biệt trước khi AFTA được thực thi để tạo ra sự thay đổi căn bản cục diện cạnh tranh với các nước ASEAN đặc biệt là về trình độ công nghệ.
Tiếp tục hoàn thiện môi trường vĩ mô cho phù hợp với điều kiện hội nhập kinh tế:
Một là, tiếp tục cải thiện chính sách thương mại và đầu tư, đặc biệt thay đổi chế độ nhập khẩu theo hướng hiện đại hoá và làm tăng tính minh bạch của hệ thống thuế quan và các hàng rào phi thuế quan. Chính phủ cần thiết lập hệ thống các biện pháp thuế quan và phi thuế quan hoàn chỉnh và đồng bộ cho phép sử dụng linh hoạt và hài hoà với mục tiêu bảo hộ nhưng có kỳ hạn giúp các doanh nghiệp tăng sức cạnh tranh ở những lĩnh vực sản xuất, kinh doanh quan trọng trong nền kinh tế. Trong đó, cần nghiên cứu áp dụng các biện pháp phi thuế quan phổ dụng trên thế giới, cần xây dựng các chế độ đãi ngộ tối huệ quốc (MFN), chế độ đãi ngộ quốc gia (NT), chế độ tự vệ và xây dựng qui chế xuất xứ hàng hoá làm cơ sở cho việc phát triển quan hệ thương mại với các quốc gia trong và ngoài khu vực ASEAN, tiếp tục tính toán và phân bố lại các mức thuế xuất nhập khẩu theo các nhóm hàng hoá để giảm độ phân tán của các mức thuế suất, chuyển dần các biện pháp phi quan thuế thành thuế suất tương đương có thể duy trì mức độ bảo hộ hợp lý cho các lĩnh vực sản xuất quan trọng trong nền kinh tế.
Hai là, tiếp tục cải cách hệ thống ngân hàng để tăng sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam. Để có thể thu được lợi nhuận từ quá trình tự do hoá thương mại, cần phải tăng tính linh hoạt của các nguồn lực quan trọng, đặc biệt là vốn từ ngân hàng. Do đó, hệ thống ngân hàng củaViệt Nam cần phải có những cải cách mới trong giai đoạn 2001 – 2005 như cải cách thủ tục thẩm định tín dụng, áp dụng các tiêu chuẩn kế toán được quốc tế thừa nhận, cải tiến các dịch vụ của ngân hàng thương mại, đảm bảo hoạt động ngân hàng thận trọng và an toàn bằng khuôn khổ pháp luật, qui định và giám sát.
Về chính sách tín dụng cho xuất khẩu: Các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh hàng xuất khẩu hiện đang thiếu vốn để hiện đại hoá trang thiết bị hoặc thu mua hàng hoá. Tín dụng ưu đãi cho xuất khẩu thuộc các ngành trong nhóm sản phẩm có khả năng cạnh tranh có thể huy động từ hai nguồn Quỹ hỗ trợ xuất khẩu và Quỹ hỗ trợ đầu tư. Do mức lãi suất hiện nay đã được điều chỉnh so với thời gian ban hành Quy chế hoạt động của các quỹ này nên lãi suất của các quỹ này không còn mang tính ưu đãi. Vì vậy các quỹ này cần xem xét trình Chính phủ:
Điều chỉnh mức lãi suất hỗ trợ cho các đối tượng được vay từ hai quỹ này trong thời gian tới;
Cơ chế điều chỉnh lãi suất cho vay linh hoạt hơn trong điều kiện kinh doanh thay đổi nhanh;
Mặt khác, cần xây dựng và ban hành Quỹ hỗ trợ tín dụng xuất khẩu làm tiền đề cho việc thành lập Ngân hàng chính sách xuất nhập khẩu.
Ba là, hoàn thiện chính sách thuế. Về thuế giá trị gia tăng VAT, cần sửa đổi theo hướng mức thuế sẽ được rút gọn lại và chỉ còn một mức thống nhất cho các loại sản phẩm, dịch vụ. Các máy móc, thiết bị sản xuất trong nước hoặc nhập khẩu được xếp vào diện không chịu thuế giá trị gia tăng. Cải tiến cách thu thuế và hoàn thuế, đảm bảo thuận tiện cho người nộp thuế, đồng thời nhà nước không bị thất thu thuế.
Về chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp: Thuế thu nhập doanh nghiệp áp dụng bình đẳng cho các đối tượng theo hướng hạ mức thuế cao hiện đang áp dụng chứ không điều chỉnh mức thuế hiện đang tương đối thấp hơn nhằm đảm bảo đủ diện thu thuế; hạn chế mức chênh lệch lớn giữa các ngành nghề, lĩnh vực.
Việc xác định mức thuế thu nhập doanh nghiệp không nên căn cứ vào mức lợi nhuận bình quân hiện tại của sản phẩm hay cách phân loại thành các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Mức thuế đề nghị căn cứ vào mục tiêu cần thúc đẩy ngành sản phẩm phát triển: mức thuế thấp được áp dụng cho những ngành có khả năng cạnh tranh cần khuyến khích, mức thuế trung bình được áp dụng cho những ngành có khả năng cạnh tranh trong tương lai và khả năng cạnh tranh thấp, mức thuế cao áp dụng cho những ngành không khuyến khích phát triển, có thể thuộc nhóm có khả năng cạnh tranh trong tương lai và nhóm khả năng cạnh tranh thấp. Mức lợi nhuận bình quân cao của ngành/sản phẩm sẽ thay đổi khi có nhiều doanh nghiệp tham gia kinh doanh.
Xem xét sớm bãi bỏ chế độ thuế thu nhập bổ sung 25% trên phần thu nhập do lợi thế khách quan đem lại.
Bộ Tài chính cho rằng các ngành dịch vụ phải chịu thuế suất cao hơn các ngành công nghiệp và nông nghiệp. Điều này không phù hợp với chủ trương phát triển ngành dịch vụ, một lĩnh vực kinh tế ngày càng quan trọng và theo xu hướng kinh tế chung trên thế giới sẽ có tỷ trọng ngày càng lớn so với các ngành nông nghiệp và công nghiệp.
Tiếp tục hoàn thiện các chính sách thương mại
Các kiến nghị đề xuất sau đây xuất phát từ quan điểm các sản phẩm và dịch vụ có năng lực cạnh tranh có thể tích cực cạnh tranh ngay và ít cần bảo hộ. Đồng thời, nếu cần, có thể có các chính sách khuyến khích đầu tư, hỗ trợ về khoa học, công nghệ v.v.. không liên quan đến các chính sách thương mại đã được cam kết trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Thuế nhập khẩu:
Việc nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm, tận dụng lợi thế tự nhiên như đất đai, khí hậu, lao động, không đòi hỏi phải bảo hộ bằng thuế nhập khẩu ở mức độ cao. Để giúp cho doanh nghiệp sản xuất và cung cấp các sản phẩm, dịch vụ nâng cao khả năng cạnh tranh, nhất là trên thị trường thế giới, thuế nhập khẩu đối với đầu vào cho sản xuất, (thí dụ như phân bón, thuốc trừ sâu đối với sản xuất nông nghiệp hoặc vải, phụ liệu đối với ngành may mặc), nhất là những nguyên liệu, mặt hàng trong nước chưa sản xuất được- cần được hưởng thuế suất thấp nhất, có thể bằng 0.
Mức bảo hộ cho nhóm có khả năng cạnh tranh phải thấp hơn mức bảo hộ cho các nhóm sản phẩm khác. Dự kiến trong tương lai chúng ta sẽ có 6 mức thuế nhập khẩu cơ bản với thuế suất tối đa là 60% nên cần giới hạn mức bảo hộ tối đa cho nhóm sản phẩm có khả năng cạnh tranh là 20% . Nhóm có khả năng cạnh tranh trong tương lai cần được bảo hộ ở mức cao nhất 50-60%, còn nhóm khả năng cạnh tranh thấp nên để ở mức trung bình 30-40%.
So sánh với lịch trình AFTA, có thể thấy rằng về thuế suất đề nghị cho nhóm này cao hơn (tối đa 20 % trong khi của AFTA là 5%), còn về thời gian thì có thể rút ngắn hơn.
Bộ Tài chính cho rằng cần bảo hộ đối với những mặt hàng chiến lược, những mặt hàng đã và sẽ được đầu tư sản xuất nhưng xét dưới góc độ khả năng cạnh tranh thì có thể thấy rằng một số mặt hàng chiến lược như xi măng chẳng hạn có khả năng cạnh tranh thấp, chi phí sản xuất cao hơn nhập khẩu. Việc bảo hộ đối với những mặt hàng như vậy cần có thời hạn nhất định, kéo dài thời gian bảo hộ không kèm theo các biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh chỉ kéo dài tình trạng trì trệ và ỷ lại vào nhà nước của doanh nghiệp và buộc người tiêu dùng phải trả giá.
Tác động tiêu cực có thể diễn ra do việc cắt giảm thuế nhập khẩu đối với nhóm có khả năng cạnh tranh là hạn chế hơn cả so với nhóm ngành khác. Với chính sách thuế nhập khẩu thấp, nhất là đối với nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất các sản phẩm này thì các doanh nghiệp còn tăng thêm khả năng chiếm lĩnh thị trường quốc tế do đưa ra mức giá cạnh tranh, đáp ứng nhu cầu tương đối ổn định về hàng tiêu dùng thiết thực hàng ngày.
Trên thực tế, nhiều sản phẩm đầu vào cho nhóm sản phẩm có khả năng cạnh tranh hiện tại đã có mức thuế danh nghĩa thấp hoặc không đánh thuế. Thuế nhập khẩu bình quân đơn giản và bình quân gia quyền hiện hành đối với một số mặt hàng như sau:
Bảng 11 - Thuế nhập khẩu bình quân đối với một số mặt hàng
Mặt hàng
Thuế NK bình quân giản đơn
Thuế NK bình quân gia quyền
Cà phê hạt
20
20
Gạo
5
5
Mía
10
10
Đường
24
32
Thuỷ sản nguyên liệu
22
17
Sản phẩm từ thuỷ sản
34
32
Phân bón
3,1
3,1
Thuốc trừ sâu
2,3
0,6
Dệt
26
31
May
46
42
Da
13
7
Sản phẩm từ da
43
21
Thuế xuất khẩu
Hiện đang áp dụng thuế xuất khẩu 1 % đối với gạo và cà phê khi giá xuất khẩu tăng cao. Nhằm mục đích nâng cao khả năng cạnh tranh bằng giá cả không nên đánh thuế xuất khẩu đối với toàn bộ nhóm, kể cả gạo, cà phê. Nếu giá thị trường thế giới cao đột biến, có thể điều tiết qua hình thức phụ thu được đề cập dưới đây. Thực hiện chế độ "hậu ưu đãi"- nếu doanh nghiệp xuất khẩu được sẽ được hoàn phần thuế nhập khẩu đã nộp và nếu tỷ lệ xuất khẩu cao thì được hưởng mức thuế thu nhập ưu đãi.
Chế độ hoàn thuế nhập khẩu khi xuất khẩu được áp dụng cho doanh nghiệp trực tiếp xuất khẩu và doanh nghiệp sản xuất hàng phục vụ xuất khẩu.
Phân bổ hạn ngạch
Trong nhóm sản phẩm có khả năng cạnh tranh, hiện còn đang áp dụng hạn ngạch đối với hàng may mặc và gạo xuất khẩu. Chế độ hạn ngạch đối với hai mặt hàng này còn tiếp tục duy trì một thời gian nhất định. Song, Bộ thương mại nghiên cứu cải tiến chế độ phân bổ hạn ngạch theo hướng mở rộng cơ hội cho các doanh nghiệp tham gia, công khai, minh bạch. Sau khi Chính phủ đàm phán ký kết hiệp định hàng năm sẽ giao cho Hiệp hội ngành hàng xác định quy chế phân bổ hạn ngạch.
Chế độ phụ thu đối với hàng xuất khẩu
Hiện nay tuy không đánh thuế xuất khẩu đối với hầu hết các mặt hàng xuất khẩu nhưng lại áp dụng chế độ phụ thu chênh lệch giữa giá xuất khẩu và giá vốn trong nước. Khoản phụ thu được đưa vào Quỹ khuyến khích xuất khẩu. Ngoài khoản phụ thu của cơ quan trung ương, một số địa phương cũng áp dụng chế độ phụ thu nông sản xuất khẩu.
Theo cơ chế hiện hành, chế độ phụ thu khi giá xuất khẩu lên cao làm giảm động lực của người sản xuất và kinh doanh hàng xuất khẩu, mặt khác lại không kịp thời hỗ trợ cho người sản xuất khi giá thế giới giảm thấp xuống dưới mức giá thành. Vì vậy, có thể có các phương án:
Tập trung nguồn phụ thu chênh lệch giá xuất khẩu ở Bộ chuyên ngành
Hiệp hội sản xuất và xuất khẩu mặt hàng đó.
Việc giao cho Bộ chuyên ngành hoặc Hiệp hội quản lý nguồn phụ thu khắc phục được tình trạng trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp không kịp thời. Nếu giao cho Hiệp hội thì còn có một thuận lợi là đảm bảo nguyên tắc nhà nước chỉ thu thuế và các khoản phí mang tính chất thuế.
Giấy chứng nhận xuất xứ
Đối với những mặt hàng xuất khẩu yêu cầu phải có giấy chứng nhận xuất xứ để hưởng ưu đãi về thuế của nước nhập khẩu như may mặc, giày dép thì thì xem xét cải tiến rút ngắn thời gian xét cấp giấy chứng nhận xuất xứ và mức phí thích hợp.
Xây dựng và áp dụng nguyên tắc xuất xứ đối với hàng nhập khẩu từ những nước được hưởng ưu đãi thuế quan
Thủ tục hải quan
Chấp nhận quy chế của WTO, đơn giản hoá thủ tục hải quan, giảm chi phí về thời gian và tiền bạc cho doanh nghiệp xuất và nhập hàng hoá, tập trung giải quyết khâu kiểm hoá và tính thuế hải quan.
Đối với kiểm hoá, dựa trên kết quả hoạt động trong thời gian qua,Tổng cục Hải quan rà soát các cơ quan đã được cấp phép, lựa chọn những cơ quan không có sai sót trong việc cấp giấy chứng nhận để ban hành danh mục các cơ quan kiểm hoá được thừa nhận đảm bảo chất lượng.
Một khi đã có xác nhận của các cơ quan thuộc danh mục này thì hải quan cửa khẩu chấp nhận để hoàn tất thủ thục, tránh tình trạng doanh nghiệp phải đưa đi nhiều nơi để kiểm hoá. Nếu Hải quan không chấp nhận kết quả kiểm hoá lần thứ nhất và yêu cầu kiểm hoá thêm thì Hải quan chịu chi phí cho lần kiểm hoá sau lần thứ nhất.
áp dụng cách tính thuế hải quan thông dụng ở các nước là dựa trên giá trị thực tế ghi trong hợp đồng, xây dựng hệ thống dữ liệu giá tham khảo theo khu vực và thời điểm.
Xúc tiến thương mại
Bộ Thương mại phối hợp với các ngành có liên quan xây dựng chương trình triển khai kế hoạch xúc tiến thương mại giai đoạn 2001-2005, đề ra nhiệm vụ cho Chính phủ, ngành hàng, doanh nghiệp kinh doanh. Tổ chức tốt việc thu thập và phân tích thông tin về thị trường trong nước và thế giới, phổ biến qua mạng điện tử, qua các hiệp hội.
3.4.3. Về tăng cường đầu tư có trọng điểm cho xây dựng kết cấu hạ tầng
Đối với một số lĩnh vực cụ thể, Nhà nước cần có sự quan tâm hỗ trợ mạnh mẽ hơn nữa ngay tại thời điểm này. Mặt khác, cần nghiên cứu một số phương án hỗ trợ gián tiếp cho các doanh nghiệp Việt Nam, như việc hỗ trợ về cơ sở hạ tầng kinh doanh, hỗ trợ về hệ thống thông tin… Cụ thể, trong một số lĩnh vực cơ bản như sau:
Thứ nhất, phát triển hệ thống kinh doanh lương thực có tính cạnh tranh trong và ngoài nước với sự tham gia thu mua, chế biến, buôn bán lúa gạo để phát huy thế mạnh về vốn, kinh nghiệm tiếp thị và cơ sở vật chất kỹ thuật, mạng lưới quan hệ kinh doanh đã hình thành từ lâu năm. Củng cố và tăng cường hoạt động của hiệp hội xuất khẩu lương thực để làm tốt hơn vai trò tập hợp lực lượng, tăng cường sức mạnh cạnh tranh quốc tế của các doanh nghiệp xuất khẩu gạo, là trung tâm trao đổi và hỗ trợ về kỹ năng kinh doanh cho các thành viên… Nhà nước cần tham gia tích cực trong việc phát triển cơ sở hạ tầng và dịch vụ phục vụ công tác chế biến và xuất khẩu nông sản.
Thứ hai, Nhà nước cần tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tập trung huy động mọi nguồn vốn có thể để đầu tư cho lĩnh vực thuỷ hải sản, tìm thêm nguồn để tăng vốn tín dụng trung, dài hạn, đầu tư cho các phương tiện đánh bắt và nuôi trồng mới.
Thứ ba, Nhà nước cần có những biện pháp hỗ trợ nhất định về công nghệ, cơ chế, thông tin, để các doanh nghiệp từng bước vươn lên xuất khẩu trực tiếp từ A đến Z, đặc biệt trong ngành may mặc. Bởi hiện nay, các doanh nghiệp trong ngành này, chủ yếu vẫn làm gia công xuất khẩu là chính. Nhà nước cần khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài tham gia mạnh mẽ vào tất cả các công đoạn của ngành dệt may, kể cả việc trồng dâu nuôi tằm.
Thứ tư, đối với ngành rau quả, trong giai đoạn này Nhà nước cũng nên khuyến khích phát triển các cơ sở chế biến nhỏ và vừa để nâng cao khả năng cạnh tranh, xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng dịch vụ cho sản xuất và xuất khẩu rau quả. Giữ vững thị trường trong nước, tập trung vào phát triển những mặt hàng đang có thị trường tiêu thụ, tiến tới cạnh tranh với ASEAN trong việc xuất khẩu sang các nước ngoài khu vực.
Thứ năm, Nhà nước cần thúc đẩy nhanh quá trình ký kết các hiệp định về thú ý, giải quyết các vấn đề về vệ sinh dịch tễ, tiêu chuẩn thú y trong quan hệ thương mại song phương để khuyến khích cho việc xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi, đặc biệt là sang Singapore và Malaysia để có thể tận dụng được ưu đãi của AFTA.
Thứ sáu, đối với ngành điện - điện tử: Các thiết bị điện công suất lớn, các thiết bị chuyên dùng, phụ tùng, thiết bị điện kỹ thuật cao hiện đã được đưa vào danh mục cắt giảm. Nói chung đây là những mặt hàng có thuế suất thấp, nên việc thực hiện AFTA không ảnh hưởng nhiều lắm đến các doanh nghiệp. Các thiết bị điện công suất nhỏ, các thiết bị nghe nhìn, đồ điện gia dụng khác, thiết bị chiếu sáng… được xếp trong danh mục loại trừ tạm thời. Nhìn chung đây là các mặt hàng hiện có mức thuế suất cao. Nhóm này chủ yếu sẽ được đưa vào thực hiện giảm thuế kể từ sau 2001. Để có thể giúp các doanh nghiệp giữ vững khả năng cạnh tranh, về phía Nhà nước, cần kịp thời áp dụng các biện pháp bảo hộ phi quan thuế một cách thích hợp căn cứ theo lịch trình giảm thuế, đồng thời cần có chính sách định hướng phù hợp:
+ Tích cực phát triển theo hướng chiến lược xuất khẩu, hội nhập nhanh vào mạng lưới sản xuất và thương mại khu vực và toàn cầu, đồng thời vẫn coi trọng khai thác thị trường nội địa.
+ Khuyến khích mọi thành phần kinh tế phát triển công nghiệp điện tử. Cần xác định rõ những khu vực mà Nhà nước có thể chủ động về vốn, thị trường thì ưu tiên đầu tư trong nước. Phần còn lại cần đẩy mạnh hợp tác với nước ngoài dưới mọi hình thức nhằm nhanh chóng đưa công nghiệp điện tử đạt trình độ quốc tế và khu vực. Cần có chính sách phù hơp trong việc khuyến khích gia tăng tỷ lệ nội địa hoá.
Thứ bảy, đối với ngành hoá chất, cao su: Nhà nước nên khuyến khích thành lập các liên doanh vào lĩnh vực chế biến, sản xuất các sản phẩm từ nguyên liệu cao su như xăm lốp ô tô, đồ dùng cao su và các chi tiết sử dụng trong máy móc thiết bị hiện đại… Phát triển công nghiệp chế biến gỗ cao su, để nâng cao hiệu quả khai thác tổng thể toàn ngành.
Thứ tám, đối với ngành cơ khí: Để thực hiện tố được tiến trình giảm thuế, trong khi vẫn bảo đảm khả năng cạnh tranh, trong những năm tới cần chú ý một số nội dung sau:
+ Thời gian tới, ngành cơ khí cần được đầu tư mạnh hơn, trước hết là đầu tư chiều sâu nhằm khai thác tốt tiềm năng hiện có. Đồng thời, trong cơ khí phải lựa chọn đầu tư một số công trình trọng điểm, tạo điều kiện để ngành cơ khí tham gia nhiều hơn nữa vào thị trường khu vực bằng những sản phẩm có đủ sức cạnh tranh. Điều nàycũng phù hợp với kinh nghiệm các nước trong giai đoạn đầu phát triển công nghiệp. Đặc biệt cần tập trung cho cơ khí phục vụ nông nghiệp, tiến đến là các sản phẩm thay thế cho nhập khẩu và tiến tới tăng cường xuất khẩu.
+ áp dụng triệt để các biện pháp bảo hộ cho sản xuất trong nước đối với các thiết bị trong nước đã sản xuất được mà nước ngoài dùng vốn lớn để phá giá. Cần có các chính sách bảo hộ việc làm cho ngành cơ khí. Thực hiện hợp lý hoá biểu thuế, giảm triệt để thuế nhập khẩu cho nguyên liệu đầu vào. Thực hiện hỗ trợ tốt cho các chương trình nội địa hoá ngành cơ khí.
+ Hoàn thiện công tác quản lý vĩ mô, cần có kế hoạch, chiến lược phát triển rõ ràng và tổ chức theo dõi quản lý dự án. Cần thiết phải thiết lập một hệ thống thực thi kế hoạch chiến lược và một hệ thống quản lý của Bộ công nghiệp kết hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư để có thể quản lý những mặt hàng trong nước có thể sản xuất được. Thực hiện tốt phối hợp kinh doanh qua các hiệp hội để tránh tình trạng cạnh tranh giữa các xí nghiệp trong nước gây bất lợi cho cạnh tranh quốc tế.
3.4.4. Tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ
Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới và khu vực (như Nhật Bản, Singapore…) cho thấy, công tác đào tạo, nâng cao năng lực cán bộ là một trong những nhân tố quyết định thành công đối với sự phát triển đất nước. Trong quá trình hội nhập ASEAN, nhân tố này lại càng có ý nghĩa quan trọng hơn bởi lẽ trình độ quản lý của doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều hạn chế so với các nước thành viên khác trong khu vực, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế tri thức đang hình thành và ảnh hưởng sâu rộng đến tư duy quản lý, tư duy kinh tế và phương thức sản xuất kinh doanh. Vì vậy, để thực hiện thành công các cam kết kinh tế – thương mại theo khuôn khổ ASEAN, Việt Nam cần tận dụng cơ hội này để phát triển nguồn nhân lực nâng cao năng lực doanh nghiệp của mình, do đó trong thời gian tới, chúng ta cần phải thực hiện các giải pháp sau:
Thứ nhất, Nhà nước phải tiến hành qui hoạch lại, phân loại và đào tạo theo năng lực sở trường của đội ngũ cán bộ tại các doanh nghiệp, các cơ quan quản lý vì tiến trình hội nhập của Việt Nam vào ASEAN, đặc biệt trong các ngành hải quan, thương mại, quản lý đầu tư nước ngoài… Đào tạo lại và đào tạo mới cần được kết hợp chặt chẽ để đáp ứng được tốt nhất những đòi hỏi phát sinh trong quá trình thực hiện các cam kết của Việt Nam theo khuôn khổ ASEAN.
Thứ hai, Nhà nước kết hợp với doanh nghiệp cần chú trọng đào tạo chuyên môn, tay nghề cho người lao động, phù hợp với chiến lược “phát triển văn hoá - xã hội và xây dựng con người”, lấy con người làm trung tâm trong phát triển kinh tế - xã hội mà Đại hội Đảng IX đã đề ra. Trước mắt, để chuẩn bị cho quá trình tham gia một cách đầy đủ vào ASEAN, chúng ta cần lưu ý đến việc đào tạo ba loại cán bộ sau đây:
Đào tạo công nhân lành nghề theo từng lĩnh vực, chú trọng đào tạo trong những ngành sản xuất mũi nhọn mà Việt Nam sẽ phát triển để phục vụ cho xuất khẩu, thực hiện vai trò của Việt Nam trong phân công lao động quốc tế đối với ASEAN. Vấn đề này cần được nhấn mạnh trong thời điểm này khi chúng ta bị mất cân đối nghiêm trọng giữa đào tạo đại học và đào tạo công nhân kỹ thuật lành nghề so với các nước thành viên khác trong khu vực.
Đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ kinh doanh quốc tế giỏi. Đây là loại hình cán bộ cần chuyên môn rất cao, rất am hiểu sản xuất, am hiểu thị trường, kỹ thuật đàm phán, giao dịch, ký kết hợp đồng và giỏi ngoại ngữ. Để hoàn thành quá trình hoà nhập một cách có hiệu quả vào ASEAN cũng như bảo vệ quyền lợi của quốc gia trong quá trình này, chúng ta đang rất thiếu và rất cần nhóm cán bộ chuyên môn này.
Đào tạo cán bộ pháp lý, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế và thương mại quốc tế, có sự am hiểu các luật lệ thông lệ trong ASEAN và cũng như các thông lệ quốc tế khác, để đủ trình độ tư vấn, trợ lý giúp đỡ các cơ quan quản lý và doanh nghiệp trong kinh doanh và hợp tác quốc tế.
Thứ ba, xây dựng qui chế về đầu tư phát triển đội ngũ cán bộ ở các doanh nghiệp trong đó định rõ tỷ lệ lợi nhuận được sử dụng để nâng cao chuyên môn tay nghề cho người lao động. Nhà nước cần tiến hành các công trình nghiên cứu về tính cạnh tranh các ngành của ta để định hướng cho công tác đào tạo tập trung vào các ngành mà chúng ta có khả năng cạnh tranh trong ASEAN, liên kết các trung tâm đào tạo lớn, các trường đại học với doanh nghiệp để gắn kết học đi đôi với hành.
Kết luận
Hội nhập kinh tế quốc tế nói chung, hội nhập AFTA nói riêng là đòi hỏi tất yếu, là nhiệm vụ quan trọng đối với tất cả các doanh nghiệp Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế, mọi qui mô hoạt động, là điều kiện quyết định cho sự tồn tại và phát triển của từng doanh nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế quốc dân trong điều kiện hiện nay. Để hội nhập thành công cần có sự hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi từ phía các cơ quan chính phủ, nhưng yếu tố quyết định vẫn là sự chủ động vươn lên tự thích ứng của các doanh nghiệp, là khả năng sáng tạo tìm mọi cách để nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp, là việc xây dựng và thực hiện một chiến lược kinh doanh phù hợp với đòi hỏi của tiến trình hội nhập.
Trong những năm gần đây, với sự hướng dẫn và hỗ trợ của các cơ quan Nhà nước về khung khổ pháp lý, về đổi mới chính sách kinh tế vĩ mô, về thuận lợi hoá môi trường kinh doanh cũng như những hỗ trợ trực tiếp và gián tiếp về việc nâng cao các nguồn lực cho sự phát triển, các doanh nghiệp Việt Nam đã có những bước tiến nhất định trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế nói chung, hội nhập AFTA nói riêng. Tuy nhiên, tuỳ theo điều kiện và khả năng phát triển cụ thể, phần lớn các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, vẫn còn lúng túng cả trong nhận thức cũng như xây dựng chiến lược, kế hoạch, bước đi cần thiết trong tiến trình hội nhập, trước hết là hội nhập AFTA. Chính bản luận án này là tài liệu tạo cơ sở lý luận và phương pháp luận cho tiến trình hội nhập AFTA của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian tới.
Luận án đã thực hiện được một số công việc sau đây:
- Đã hệ thống hoá một số vấn đề lý luận và cơ sở thực tiễn về hội nhập kinh tế quốc tế nói chung, hội nhập AFTA nói riêng đối với các doanh nghiệp thông qua việc làm rõ khái niệm, bản chất và các loại hình hội nhập kinh tế quốc tế; làm rõ mục tiêu, chương trình hoạt động của AFTA; khẳng định vai trò và những điều kiện cần thiết đối với doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình hội nhập AFTA và bước đầu rút kinh nghiệm về nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của một số quốc gia trong khu vực.
- Luận án đã phân tích tình hình thực hiện các cam kết chính của Việt Nam khi hội nhập AFTA, xem xét tình hình hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam từ khi diễn ra tiến trình hội nhập AFTA với những thành tựu đạt được và những hạn chế, yếu kém của các doanh nghiệp, đã xem xét năng lực cạnh tranh của các ngành/ doanh nghiệp Việt Nam khi diễn ra quá trình hội nhập nói chung và hội nhập AFTA nói riêng, đặc biệt xem xét năng lực cạnh tranh này ở một số sản phẩm chủ yếu và đánh giá năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong một số ngành kinh tế - kỹ thuật. Trên của sở đó, Luận án đã đánh giá tổng quát về những khó khăn, thuận lợi đối với các doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình hội nhập AFTA và chỉ rõ những nội dung công việc chủ yếu cần thực hiện đối với doanh nghiệp Việt Nam để hoàn tất lộ trình hội nhập trong thời gian tới.
- Luận án đã dự báo tiến trình hội nhập AFTA, nêu rõ định hướng chiến lược của Đảng và Nhà nước ta trong hội nhập kinh tế quốc tế nói chung, phân tích định hướng phát triển chủ yếu trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong việc thực hiện có hiệu quả các cam kết kinh tế - thương mại trong khuôn khổ AFTA và nêu lên các vấn đề đặt ra đối với doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình hội nhập AFTA trong thời gian tới.
- Luận án đã nêu lên những giải pháp cả ở tầm vĩ mô và vi mô nhừm thúc đẩy tiến trình hội nhập AFTA của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian tới, đồng thời đề xuất các kiến nghị với Nhà nước tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp để thực hiện thành công tiến trình hội nhập.
Với những kết quả nghiên cứu nêu trên, Luận án có thể trở thành tài liệu tham khảo tốt cho các nhà hoạch định chính sách, cho các doanh nghiệp cũng như cho những ai quan tâm đến vấn đề này. Do điều kiện nghiên cứu và thời gian hạn chế, Luận án không tránh khỏi thiếu sót, tác giả rất mong nhận được sự chỉ bảo và đóng góp ý kiến của bạn đọc xa gần.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- R0012.doc