Đề tài Đổi mới cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư XDCB

Việc xác định dự toán để làm giá chuẩn, giá trần để xem xét giá trúng thầu chậm, thiếu chính xác; việc bố trí kế hoạch thiếu tập trung, bố trí kế hoạch không theo tiến độ dự án là trở ngại phổ biến làm cho việc triển khai công tác đấu thầu khó thực hiện. Thủ tục trong đấu thầu, chọn thầu phải qua quá nhiều khâu và trình tự đấu thầu chưa phù hợp gây ách tắc, chậm trễ trong việc triển khai thực hiện dự án cũng như kế hoạch đầu tư hàng năm gây phiền hà cho các chủ đầu tựu sử dụng vốn NSNN cũng như các đơn vị tham gia đấu thầu. Đặc biệt với các công trình trung ương đóng trên địa bàn địa phương, chi phí đi lại để trình duyệt nhiều lần gây tốn kém, lãng phí và tiêu cực. Cần cải tiến khâu thủ tục gọn nhẹ, phải qui định trách nhiệm và quyền hạn rõ ràng, cụ thể (kể cả trách nhiệm kinh tế trước pháp luật) của chủ đầu tư và cơ quan chủ quản đầu tư, phải thực hiện đúng trình tự qui định, làm tốt công tác chuẩn bị đầu tư thiết kế dự toán, xây dựng giá chuẩn, phải xác định đúng giá trần để làm cơ sở cho việc xét chọn giá trúng thầu. Mặt khác chấn chỉnh lại các tổ chức tư nhân nhận thầu xây lắp, cung ứng vật tư thiết bị, các tổ chức tư vấn nhằm đảm bảo khả năng tham gia đấu thầu của các nhà thầu phù hợp với năng lực về kỹ thuật và tài chính của mình.

doc96 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1816 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đổi mới cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư XDCB, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đẩy nhanh tiến độ thực hiện kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản nhằm đạt cho được mục tiêu tăng trưởng kinh tế và ổn định xã hội năm 2000. Mặt khác, quy trình thông qua kế hoạch đầu tư xây dựng ở một số ngành, địa phương còn rườm rà qua nhiều lần xem xét, tốn nhiều thời gian thẩm định và ra quyết định. Một số Bộ, ngành địa phương do chưa thực hiện hết nguồn vốn bổ sung năm trước nên chưa khẩn trương phân bổ nguồn vốn năm sau. Đồng thời nguồn vốn dành cho đầu tư xây dựng cơ bản hàng năm còn hạn hẹp làm cho việc bố trí vốn đầu tư còn theo kiểu bao cấp mang tính bình quân. Nguyên nhân thứ hai là chất lượng chuẩn bị dự án đầu tư còn thấp. Điều này được thể hiện ở khâu điều tra, khảo sát ban đầu không tính toán hết khả năng, dẫn đến không sát với thực tế. Nhiều dự án chất lượng khả thi chưa cao, chưa xem xét đầy đủ đến yếu tố đầu ra nên trong quá trình triển khai thường bị vướng mắc và phải thay đổi nhiều lần về quy mô, tổng mức đầu tư, thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán... làm chậm tiến độ thực hiện dự án. Nguyên nhân thứ ba là cơ chế quản lý trong lĩnh vực đầu tư và xây dựng thể hiện trong các nghị định của Chính phủ dù đã được đổi mới nhưng vẫn còn hạn chế. Thêm vào đó việc hướng dẫn thi hành còn thực hiện chậm. Nguyên nhân thứ tư là chủ trương phân cấp thẩm định và phê duyệt dự án chưa đi đôi với việc tăng cường bộ máy quản lý nghiệp vụ về đầu tư xây dựng cơ bản ở các cấp. Trước hết phải thấy rằng chủ trương phân cấp này là đúng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho cơ sở, song việc này lại chưa làm rõ trách nhiệm cụ thể của từng ngành từng cấp, chưa có các chế tài đối với các cá nhân và đơn vị không thực hiện theo đúng quy định. Cuối cùng là việc chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất của các thành phố, thị xã thực hiện rất chậm do sự phối hợp không đồng bộ giữa các ngành địa chính và xây dựng. Các thủ tục cấp đất cho thuê đất đã được cải tiến nhưng thực tế chủ đầu tư vẫn gặp không ít khó khăn, mất nhiều thời gian và chi phí tốn kém... 3. Cơ cấu đầu tư trong xây dựng cơ bản còn có mặt chưa hợp lý Sự chưa hợp lý này không phải diễn ra ở sự phân bố giữa các ngành mà trong từng ngành: Trong nông nghiệp ít chú ý đến đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá, công nghệ sinh học, giống, công nghệ sau thu hoạch như chế biến và bảo quản, mạng lưới dịch vụ tiêu thụ sản phẩm... Đầu tư cho công nghiệp còn thấp chưa đủ cơ cấu lại ngành công nghiệp khả năng cạnh tranh chưa chú trọng đầu tư để tăng công suất nâng cao chất lượng sản phẩm mà đầu tư ồ ạt và một số ngành cung vượt quá cầu như thép, xi măng, ô tô, rượu, bia, nước ngọt... Rất nhiều công ty liên doanh hoạt động trong lĩnh vực này như thép Việt Hàn, Việt Úc, xi măng liên doanh Việt Pháp như Bút Sơn, Việt - Nhật như Nghi Sơn gây nên sự dư thừa không cần thiết. 4. Tình trạng vốn chờ dự án, thừa-thiếu vốn giả tạo: Một nghịch lý đang diễn ra gay gắt trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản là trong khi nhiều dự án quan trọng không thể triển khai được do thiếu vốn thì những dự án đã ghi kế hoạch lại không thể “tiêu” hết số vốn đã được phân bổ. Cho đến đầu năm 2000 nguồn vốn Ngân sách dành cho đầu tư xây dựng cơ bản năm 1999 còn đọng trên 2000 tỉ đồng nằm chờ công trình. Mặc dù Thủ tướng chính phủ đã đồng ý cho Ngân sách được cấp phát nguồn vốn kế hoạch năm 1999 đến hết ngày 31-3-2000 (thêm 3 tháng) nhưng theo Kho bạc Nhà nước thì việc giải ngân là không đúng hạn. Nguyên nhân chính vẫn là do tiến độ triển khai của nhiều dự án còn chậm khiến khối lượng thực hiện không có hoặc nếu có thì cũng không bằng so với kế hoạch để chuyển tới thanh toán cho kho bạc. Theo thống kê cho thấy, đến hết tháng 12 năm 1999, riêng nguồn vốn Trung ương dành cho đầu tư xây dựng còn thừa tới gần 1900 tỷ đồng. Cùng với nguồn vốn Ngân sách địa phương, vốn Ngân sách vay trong và ngoài nước (theo ước tính còn 2000 tỉ đồng)... đã tạo ra áp lực rất lớn về giải ngân trong những tháng đầu năm 2000. Mặc dù chính phủ đã đề ra các giải pháp tháo gỡ bằng các văn bản ban hành cho phép chủ đầu tư được tạm ứng trước một phần vốn hay cho thanh toán trước tới 80% khối lượng công việc đã hoàn thành nhưng chưa đủ thủ tục thanh toán, đơn giản hoá thủ tục thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Đặc biệt, việc nghiệm thu khối lượng thực hiện, chất lượng công trình mà trước đây Tổng cục đầu tư phát triển thường lấy làm lí do chính để kéo dài thời gian cấp phát vốn nay đã không còn được áp dụng đối với hệ thống kho bạc. Các bên A (chủ dự án) và bên B (đơn vị thi công) tự chịu trách nhiệm về việc này và cứ có xác nhận của bên A là Kho bạc cấp phát vốn. Tuy nhiên, những biện pháp thông thoáng này vẫn chưa khắc phục được tình trạng chậm trễ trong giải ngân nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản bằng vốn Ngân sách. Sang đến năm 2001, tình trạng vốn chờ dự án lại được tái diễn và dường như đây là một căn bệnh khó chữa mà chúng ta đang gặp phải. Theo báo cáo của Kho bạc Nhà nước các tỉnh, Thành phố thuộc Trung ương, qua 10 tháng thực hiện kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản năm 2001 giá trị khối lượng xây dựng cơ bản hoàn thành đạt 36,6% so với kế hoạch năm, trong đó Trung ương đạt 40,1% kế hoạch, địa phương đạt 34,6%. Vốn thanh toán gồm cả tạm ứng đạt 41,3% so với kế hoạch năm, trong đó Trung ương đạt 46,1%, địa phương đạt 38,7% kế hoạch. Số vốn thanh toán 10 tháng đầu năm là 20700 tỉ đồng trong đó vốn thanh toán cho kế hoạch năm 2000 kéo dài khoảng 6000 tỉ đồng và thanh toán cho kế hoạch năm 2001 đạt khoảng 14700 tỉ đồng cao hơn so với cùng kỳ năm 2000 (16000 tỉ đồng). Nguyên nhân của việc tỷ lệ vốn thanh toán so với kế hoạch còn thấp là do nhiều dự án mặc dù đã có khối lượng thực hiện nhưng rất thiếu các điều kiện thanh toán cho nên không thể thanh toán được. Đối với các dự án nhóm A, kể cả các dự án chuyển tiếp như dự án xây dựng 38 cầu giao thông nông thôn đồng bằng sông Mê Kông, dự án hồ Tả Trạch, dự án làng văn hoá du lịch các dân tộc Việt Nam... tiến độ triển khai còn rất chậm, bổ sung hợp đồng nên đã ảnh hưởng lớn đến tiến độ thực hiện và thanh toán... 5. Lãng phí thất thoát vốn trong đầu tư xây dựng cơ bản. Thiếu vốn cho tăng trưởng kinh tế đang là vấn đề cấp bách đặt ra đối với nước ta, song vấn đề sử dụng chưa có hiệu quả nhất là thất thoát lãng phí lại vẫn đang tồn tại. Hiện nay, nhiều ý kiến cho rằng mức thất thoát vốn đầu tư xây dựng cơ bản vào khoảng 15%, 20%, 25% thậm chí con số này có thể lên tới 30% hoặc hơn, như ở Hà Nội trong 3 năm 1991 - 1993 Ngân hàng đầu tư và phát triển Thành phố đã tiến hành thẩm định, giám sát dự toán các công trình và hạng mục công trình được đầu tư bằng vốn ngân sách Trung ương, qua đó đã rút giảm được 27,7 tỉ đồng chiếm 5% giá trị quyết toán. Tính chung lại tỷ lệ vốn đã rút giảm được 10% so với vốn dự toán ban đầu. Riêng năm 1993 Sở giao dịch của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam và các chi nhánh trong toàn quốc đã tiến hành thẩm định 3487 dự án đầu tư bằng vốn ngân sách Trung ương với tổng giá trị 2439 tỉ đồng. Qua công tác thẩm định đã tiết kiệm cho ngân sách Nhà nước 88 tỷ đồng chiếm 3,7% tổng vốn đầu tư nói trên, rút giảm ở khâu thanh toán và quyết toán được 40 tỷ đồng. Trong đó, Hải Phòng số vốn giảm được 9,7 tỷ đồng chiếm gần 11% Gia Lai 6,5 tỷ đồng chiếm 10%…, theo đánh giá sơ bộ của nước ta năm 1992 tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản toàn xã hội là 200000 tỷ đồng, thất thoát khoảng 700 tỷ đồng. Năm 1993, tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản toàn xã hội là 30000 tỷ đồng thất thoát khoảng 910 tỷ đồng… Trong năm 1998, vốn đầu tư xây dựng cơ bản đã bị cắt giảm nhằm hạn chế lãng phí và thất thoát là838 tỷ đồng so với dự toán, riêng khâu kiểm tra quyết toán cắt giảm 105 tỷ đồng thẩm tra phiếu giá 423 tỷ đồng…. Đây chỉ là những con số sơ bộ, nhiều Bộ, ngành ngoài sự thẩm tra của tổng cục đầu tư phát triển đã tiếnhành các biện pháp kiên quyết như: Bộ thương mại cắt giảm 126 tỷ đồng, nhỏ như tỉnh Bắc Giang cũng tiết kiệm được 10 tỷ đồng, Hà Nội cắt giảm bình quân từ 8 – 10% so với giá trị tổng dự toán đã được duyệt. Nguyên nhân của hiện tượng này là do cả nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp: - Thất thoát do nguyên nhân trực tiếp vì cố tình vi phạm các quy định về chế độ quản lý của Nhà nước. Theo báo cáo kết quả thanh tra tài chính năm 2001 do thanh tra Bộ tài chính thực hiện thì công tác quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản đang vi phạm nghiêm trọng quy chế, quy định về xây dựng cơ bản. - Thất thoát do nguyên nhân gián tiếp vì có những sơ hở trong chính sách, chế độ quản lý kinh tế của nhà nước ở các khâu của quá trình hoạt động đầu tư và xây dựng. 6/ Đánh giá tình hình thực hiện và giải ngân vốn đầu tư XDCB năm 2002: 6.1/ Những tồn tại: Theo báo cáo của KBNN ngày 14/1/2003 thì đến 31/12/2002 tổng giá trị khối lượng XDCB hoàn thành trên phạm vi cả nước gửi đến hệ thống KBNN để thanh toán là 30602 tỷ đồng, đạt 59,4% kế hoạch cả năm. Trong đó, giá trị khối lượng thực hiện các dự án do các ngành trung ương quản lý là 9.924 tỷ đồng, đạt 51,2% so với kế hoạch; giá trị khối lượng thực hiện các dự án do địa phương quản lý là 20.679 tỷ đồng, đạt 64,4% so với kế hoạch được giao. Tổng số vốn đầu tư được thanh toán (giải ngân) qua hệ thống KBNN là 32.746 tỷ đồng (giá trị khối lượng thực hiện - KLTH: 30.603 tỷ đồng), bằng 63,6% so với kế hoạch, song so với giá trị khối lượng thực hiện đạt 107%. Trong đó, số vốn đầu tư được giải ngân của các công trình trung ương là 10235 tỷ đồng. So với kế hoạch được giao đạt 52,8%, so với giá trị khối lượng thực hiện đạt 103,13%; tổng số vốn thanh toán của các công trình địa phương là 22.512 tỷ đồng, đạt 70,1% kế hoạch được giao, so với giá trị khối lượng thực hiện đạt 108,86%. Tình hình thực hiện giải ngân vốn đầu tư XDCB theo kế hoạch đầu tư năm 2002 cho thấy một số vấn đề cần khắc phục: - Tình hình thực hiện vốn đầu tư so với kế hoạch được giao đạt thấp, công trình thuộc nguồn vốn NSTW đạt 51,2%; công trình thuộc nguồn vốn NSĐP đạt 64,4%. - Giải ngân vốn đầu tư XDCB cho các dự án so với kế hoạch được giao đạt còn thấp, song so với tỷ lệ giữa giá trị khối lượng thực với kế hoạch vẫn cao hơn từ 1,6% đến 5,7%: Tỷ lệ thanh toán vốn đầu tư so với kế hoạch đạt 63,6%; tỷ lệ giá trị KLTH so với kế hoạch đạt 60,3%. Trong đó công trình thuộc NSTW có tỷ lệ vốn thanh toán so với kế hoạch được giao đạt 52,8%, cao hơn tỷ lệ giá trị KLTH so với kế hoạch (đạt 51,2%) là 1,6%; công trình thuộc vốn NSĐP có tỷ lệ vốn thanh toán so với kế hoạch đạt 70,1%, cao hơn tỷ lệ giá trị KLTH so với kế hoạch (64,4%) là 5,7%. - Công tác quản lý và giải ngân vốn đầu tư XDCB luôn theo sát giá trị khối lượng thực hiện. Vì vậy, tỷ lệ vốn đầu tư XDCB được thanh toán (giải ngân) so với giá trị khối lượng thực hiện đều đạt trên 100%, từ 102,2% đến 109,3% (trừ các dự án thuộc chương trình mục tiêu mới đạt 85,9%). 6.2/ Những nguyên nhân: - Việc bố trí kế hoạch đầu tư năm 2002 của các Bộ, ngành Trung ương và địa phương vẫn chưa đảm bảo tuân thủ đúng quy định về các điều kiện bố trí kế hoạch. Nhiều dự án chưa đủ thủ tục đầu tư và xây dựng vẫn được các bộ, ngành, địa phương bố trí vào danh mục kế hoạch để rồi sau đó mới làm các thủ tục đầu tư; đối với dự án nhóm C thì hiện tượng bố trí vượt qui định 2 năm là phổ biến. - Việc phân khai chi tiết kế hoạch đầu tư cho từng dự án, công trình của các Bộ, ngành, địa phương rất chậm thường sau 2-3 tháng, nhiều dự án đến tháng 6 hoặc lâu hơn nữa (kể từ ngày Thủ tướng Chính phủ giao kế hoạch đầu tư năm 2002) mới triển khai. - Ngoài kế hoạch đầu tư năm, năm 2002 Chính phủ còn giao kế hoạch bổ sung hai lần: tháng 3/2002 giao kế hoạch bổ sung theo Quyết định số 216/QĐ-TTg là 1000 tỷ đồng; tháng 12-2002 tại Quyết định số 1117/QĐ-TTg là 1500 tỷ đồng. Việc giao kế hoạch bổ sung chậm cũng làm ảnh hưởng lớn đến triển khai thực hiện kế hoạch nên giá trị khối lượng thực hiện của dự án đạt thấp dẫn đến tỷ lệ vốn đầu tư được giải ngân so với kế hoạch đạt thấp. - Không chỉ các Bộ, ngành, địa phương đã giao kế hoạch đầu tư năm chậm mà các chủ đầu tư triển khai cũng chậm, bởi lẽ, một mặt, những tháng đầu năm các chủ đầu tư còn lo các thủ tục kế hoạch để thanh toán cho khối lượng các dự án được kéo dài từ năm trước chuyển sang (cũng như các năm trước, năm 2002 có khoảng 5000 tỷ đồng của kế hoạch năm 2001 được chuyển sang). Mặt khác, đã thành nếp quen, nhiều năm qua các chủ đầu tư thường vẫn chờ dự án được giao kế hoạch mới tiến hành các thủ tục triển khai kế hoạch cụ thể để thực hiện như: kế hoạch đấu thầu, ký hợp đồng thi công... sau đó mới trình lên cơ quan chủ quản phê duyệt. Hiện tượng này sẽ kéo dài trình tự triển khai kế hoạch đến từ 3 đến 6 tháng, làm ảnh hưởng nhiều đến tiến độ thực hiện kế hoạch: khối lượng thực hiện và khối lượng vốn đầu tư được giải ngân theo kế hoạch đạt thấp. - Vướng mắc trong công tác đền bù giải phóng mặt bằng do cơ chế chính sách đền bù còn thiếu thống nhất; công tác đền bù, giải phóng mặt bằng của nhiều dự án chưa thực sự đi trước một bước theo trình tự về đầu tư và xây dựng. - Tổ chức các chủ đầu tư còn nhiều bất cập, năng lực của nhiều chủ đầu tư chưa đáp ứng yêu cầu công tác quản lý dự án; nhiều chủ đầu tư do kiêm nhiệm, ít am hiểu về quản lý đầu tư và xây dựng, kỹ thuật xây dựng... nên lúng túng, chậm chạp, gặp khó khăn khi triển khai tổ chức thực hiện dự án. - Tình hình triển khai thực hiện các dự án đầu tư thuộc các chương trình mục tiêu triển khai thực hiện chậm: + Đối với chương trình 135: kế hoạch đầu tư năm 2002 là 1.160 tỷ đồng (trong đó NSTW trợ cấp 1.114 tỷ đồng, NSĐP tự cân đối 46 tỷ đồng) với 6.157 công trình được giao kế hoạch. Đến tháng 11/2002 các địa phương mới duyệt thiết kế, dự toán của 4.769 công trình, bằng 77,4% kế hoạch được giao. Việc triển khai thiết kế, lập dự toán chậm sẽ ảnh hưởng rất lớn đến tiến độ khối lượng thực hiện và khối lượng thanh toán theo kế hoạch. + Đối với các dự án thuộc các cụm dân cư như tôn nền vượt lũ khu vực Đồng bằng sông Cửu Long: Kế hoạch Chính phủ giao là 1.820 tỷ đồng cho 7 tỉnh. Đến hết tháng 12/2002 các địa phương đã triển khai 314 cụm tuyển dân cư với số vốn là 1446,7 tỷ đồng, bằng 79,5% kế hoạch được giao. Do triển khai chậm, nên khối lượng thực hiện đạt thấp, đến 31/12/2002 mới đạt 458,6 tỷ đồng, bằng 31,7% kế hoạch được giao, KBNN tạm ứng và thanh toán 634 tỷ đồng, bằng 43,8% kế hoạch. Mặc dù được Chính phủ, các bộ, ngành tạo điều kiện thuận lợi như không phải lập báo cáo đầu tư, chỉ lập và trình duyệt thiết kế, dự toán; không phải tổ chức đấu thầu, mà cho phép chỉ định thầu, nhưng tình hình triển khai, thực hiện dự án chậm. Trong số 7 tỉnh triển khai thực hiện các dự án các cụm tuyến dân cư, trên nền vượt lũ khu vực ĐBSCL có 2 tỉnh là An Giang và Đồng Tháp có khối lượng thực hiện và thanh toán đạt khá, còn 5 địa phương còn lại triển khai thực hiện và thanh toán đạt thấp. + Đối với các dự án xây dựng trung tâm tích hợp dữ liệu của cán bộ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (Đề án 112): Đến nay mới có một số bộ, ngành, địa phương triển khai như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Trung tâm khoa học tự nhiên và công nghệ Quốc gia, Thông tấn xã Việt Nam... Vì vậy các dự án thuộc nhóm mục tiêu này không hoàn thành kế hoạch trong năm 2002. Nhìn chung, công tác quản lý và điều hành kế hoạch đầu tư năm 2002 so với các năm trước không mấy tiến bộ. Một số nguyên nhân như: bố trí kế hoạch phân tán, thiếu tập trung; triển khai kế hoạch của các bộ, ngành, địa phương và chủ đầu tư chậm; không thực hiện đầy đủ các thủ tục đầu tư và xây dựng... đã rõ, song chậm được khắc phục. II. NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CƠ CHẾ QUẢN LÝ ĐẦU TƯ VÀ XÂY DỰNG, NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ XDCB: Đầu tư XDCB là một lĩnh vực hoạt động quan trọng, có vai trò quyết định đến sự phát triển của nền kinh tế-xã hội như chúng ta đã biết. Nhưng xuất phát từ chính vai trò và nhất là từ bản chất, đặc điểm của lĩnh vực này chúng ta thấy, quản lý hoạt động đầu tư XDCB là một lĩnh vực quản lý hết sức phức tạp, bởi vì đây là một lĩnh vực hoạt động rộng lớn, có sự tham gia của hầu hết các lực lượng xã hội, từ những cơ quan mang quyền lực Nhà nước cao nhất, các cấp chính quyền, các ban nghành đến các đơn vị tổ chức thực hiện, các nghành kinh tế-kỹ thuật, các nghành cung ứng dịch vụ...Tính chất phức tạp đó còn thể hiện ngay trong qúa trình tổ chức thực hiện một công cuộc đầu tư ở phạm vi dự án. Bên cạnh đó, bên cạnh vai trò của nó, do bản chất, lĩnh vực đầu tư XDCB là một lĩnh vực đòi hỏi một sự hy sinh lớn các nguồn lực, các chi phí xã hội nói chung, nhưng do việc quản lý ở giác độ vĩ mô cũng như vi mô là hết sức phức tạp nên thời gian qua, bên cạnh những mặt tích cực mà đầu tư XDCB đem lại cho nền kinh tế và xã hội, lĩnh vực đầu tư XDCB từ thực trạng của nó đang đặt ra rất nhiều yêu cầu hoàn thiện. A. Việc hoàn thiện cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng thuộc về Nhà nước: Đối với lĩnh vực này, việc hoàn thiện cơ chế quản lý đầu tư XDCB của Nhà nước luôn được đặt lên hàng đầu, để một mặt đảm bảo cho lĩnh vực này thực hiện tốt nhất vai trò của mình, mặt khác sử dụng được tốt nhất, có hiệu quả nhất mọi nguồn lực, mọi chi phí mà xã hội đã bỏ ra. Bởi vì, như ở trên chúng ta đã thấy, hơn bất kỹ lĩnh vực nào khác, đầu tư XDCB là một lĩnh vực mà mức độ lãng phí, thiệt hại là rất lớn, ngoài ra còn có hậu quả rất nghiêm trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế-xã hội. Cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng của Nhà nước luôn được đổi mới cho thích ứng với yêu cầu thực tế, việc đổi mới này cần thiết trong quá trình tìm ra phương pháp tối ưu nhất tron điều kiện nước ta. Và có thể nói Nhà nước là chủ thể có vai trò quan trọng nhất đối với việc không ngừng hoàn thiện cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng. Mục đích là không ngừng nâng cao hiệu quả đầu tư, chống thất thoát, lãng phí, cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính trong đầu tư và xây dựng, đảm bảo chất lượng công trình. Với mực đích đó, ngày 30 tháng 01 năm 2003 Chính phủ đã ban hành Nghị định 07/2003/NĐ-CP về sửa đổi bổ sung một số điều của Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng ban hành kèm theo NĐ 52/1999/NĐ-CP và Nghị định 12/2000/NĐ-CP của Chính phủ. Những nội dung chính cần quan tâm của việc sửa đổi này là: 1. Các quyết định đầu tư dự án của tất cả các thành phần kinh tế trước hết phải tuân thủ quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội vùng, lãnh thổ (QHPTKTXH), quy hoạch phát triển ngành (QHPTN) và quy hoạch xây dựng (QHXD) đã được duyệt: Thực hiện nguyên tắc này nhằm khắc phục cơ bản tình trạng đầu tư tràn lan, theo phong trào, chồng chéo, thiếu đồng bộ dẫn đến tình trạng lãng phí vốn đầu tư thuộc các ngành, các cấp, các thành phần kinh tế... Trường hợp các dự án không nằm trong quy hoạch được cấp có thẩm quyền phê duyệt nói trên, các chủ đầu tư phải thực hiện những thủ tục khắt khe hơn như: - Đối với các dự án thuộc vốn ngân sách nn phải được sự phê chuẩn của cấp phê duyệt quy hoạch phải có văn bản phê duyệt chủ trương đầu tư; Đặc biệt đối với các dự án nhóm A, phải lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi để Thủ tướng Chính phủ xem xét ra quyết định cho phép đầu tư trước khi tiến hành bước lập báo cáo nghiên cứu khả thi của dự án. Đối với các dự án nhóm B chưa có trong quy hoạch được duyệt, trước khi lập báo cáo nghiên cứu khả thi cũng phải có ý kiến đồng ý bằng văn bản của cấp có thẩm quyền phê duyệt quy hoạch. - Đối với các dự án thuộc nhóm A, B sử dụng vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, vốn đầu tư của các doanh nghiệp và các nguồn vốn khác nếu chưa có trong quy hạch được duyệt cũng phải áp dụng theo nguyên tắc trên. 2. Tiếp tục thực hiện cải cách thủ tục hành chính, tăng cường quyền hạn và trách nhiệm cho các ngành, các cấp; chủ đầu tư, doanh nghiệp trong việc quyết định đầu tư các dự án thuộc quyền quản lý và khai thác sử dụng. Cụ thể là: 2.1. Đối với các dự án thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước: Thủ tướng chỉ quyết định đầu tư các dự án quan trọng quốc gia do Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư sau khi được Hội đồng thẩm định Nhà nước xem xét trình Thủ tướng quyết định đầu tư thay vì Thủ tướng Chính phủ quyết định đầu tư tất cả các dự án nhóm A sử dụng các nguồn vốn Nhà nước trước đây (bao gồm các vốn ngân sách Nhà nước, vốn tín dụng có bảo lãnh và vốn đầu tư phát triển của Nhà nước, vốn đầu tư phát triển của các doanh nghiệp Nhà nước). Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cấp tương đương, Chủ tịch UBND cấp tỉnh được quyền quyết định các dự án nhóm A còn lại (thay vì chỉ được quyền quyết định các dự án thuộc nhóm B, C như trước đây) nhưng với điều kiện các dự án phải có trong QHPT KT-XH, QHPT nghành hoặc đã có quyết định chủ trương đầu tư bằng văn bản của các cấp có thẩm quyền sau khi được Thủ tướng Chính phủ cho phép đầu tư (thay vì Thủ tướng ra quyết định đầu tư như trước đây). Trước khi ra quyết định đầu tư các dự án nhóm A nói trên, người quyết định đầu tư phải tổ chức lấy ý kiến bằng văn bản của các Bộ quản lý ngành, Bộ Kế hoạch đầu tư, Bộ Xây dựng (nếu là dự án xây dựng), Bộ Tài chính và các bộ, ngành, địa phương có liên quan đến dự án (nếu có) để báo cáo Thủ tướng Chính phủ cho phép đầu tư. Trường hợp dự án nhóm A sử dụng vốn ngân sách địa phương phải đưa ra Hội đồng nhân dân thảo luận, quyết định và công bố công khai. Đối với các dự án nhóm B, C sử dụng vốn ngân sách Nhà nước các cấp nói trên có thể ra quyết định đầu tư hoặc ủy quyền quyết định đầu tư nhưng cũng phải tuân thủ phù hợp với quy hoạch được duyệt. Riêng các dự án nhóm C chỉ được thực hiện không quá 2 năm nhằm tránh phân tán vốn. Điểm phân cấp mới lần này Nghị định cho phép Chủ tịch UBND huyện quyết định đầu tư các dự án dưới 3 tỷ đồng và UBND xã dưới 1 tỷ đồng tuỳ theo điều kiện cụ thể của từng địa phương mà UBND tỉnh quy định cho phù hợp nhưng khi quyết định đầu tư vẫn phải dựa trên quy hoạch, kế hoạch PTKTXH của mỗi địa phương và phải qua thẩm định của tổ chức chuyên môn (kể cả các tổ chức tư vấn) và được HĐND cùng cấp thông qua, cấp trên một cấp (tỉnh đối với huyệt, huyện đối với xã) chấp thuận về mục tiêu đầu tư và quy hoạch. 2.2. Đối với các dự án sử dụng vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước, vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh: Nghị định đã quy định: các dự án quan trọng quốc gia thuộc nhóm A cũng áp dụng như các dự án thuộc vốn ngân sách. Các dự án còn lại thuộc nhóm A, B, C do doanh nghiệp đầu tư thì doanh nghiệp tự thẩm định dự án, tự quyết định đầu tư, tự chịu trách nhiệm trước pháp luật nhưng vẫn phải phù hợp với quy hoạch được duyệt như trên. Riêng dự án nhóm A trước khi quyết định đầu tư phải được Thủ tướng Chính phủ cho phép đầu tư. Đây là một trong những sửa đổi bổ sung rất quan trọng - Trao trọn trách nhiệm quyết định đầu tư và trách nhiệm hiệu quả đầu tư và hoàn trả nợ vay cho chủ đầu tư bất kể là Tổng công ty 90, 91 hay công ty độc lập bao gồm cả các dự án nhóm A trước đây do Thủ tướng Chính phủ quyết định đầu tư và HĐQT Tổng công ty 91 trước đây chỉ được quyền quyết định đầu tư nhóm B, C, HĐQT Tổng công ty 90 chỉ được quyết định đầu tư nhóm C và như vậy vô hình chung đã kéo theo trách nhiệm của các cấp quản lý Nhà nước từ Thủ tướng Chính phủ, các bộ, UBND tỉnh... đối với hiệu quả đầu tư của các dự án này. Với quy định mới, từ nay các cấp quản lý Nhà nước nói trên sẽ tập trung vào nhiệm vụ quản lý Nhà nước như xây dựng quy hoạch PTKTXH, Quy hoạch phát triển ngành, Quy hoạch xây dựng... và thực hiện chức năng kiểm tra kiểm soát việc thực thi của các chủ đầu tư là các doanh nghiệp phải theo đúng luật pháp và quy hoạch được duyệt (thông qua việc các bộ quản lý ngành và UBND các tỉnh tổ chức thẩm tra báo cáo nghiên cứu khả thi các dự án nhóm A của các doanh nghiệp thuộc quyền quản lý... và các cấp thực hiện quyền giảm sát và đánh giá đầu tư các dự án...); Thực hiện một bước đột phá để tách quản lý Nhà nước khỏi quản lý sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Cũng từ nay đối với các dự án thuộc nguồn vốn này quan hệ của các DNNN với bộ chủ quản sẽ được thay thế bằng quan hệ mới giữa tổ chức cho vay (Quỹ HTĐT, các ngân hàng thương mại) với người đi vay (các CĐT, doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế) dựa trên cơ sở các dự án đầu tư phải có hiệu quả mà cụ thể là có khả năng hoàn vốn và có lãi theo quy định của tổ chức cho vay; Còn trách nhiệm các cấp quản lý Nhà nước từ Thủ tướng Chính phủ, các bộ ngành, đến các chính quyền địa phương chỉ thực thi quyền cho phép đầu tư các dự án theo quy hoạch, kế hoạch được phê duyệt đối với mọi dự án không kể dự án đó thuộc thành phần kinh tế nào, như vậy sẽ tạo ra một "sân chơi" bình đẳng giữa các dự án với các chủ đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế. Nghị định cũng cho phép người có thẩm quyền quyết định đầu tư được phép ủy quyền cho giám đốc đơn vị trực thuộc quyết định đầu tư các dự án nhóm B, C tuỳ theo điều kiện cụ thể của mỗi doanh nghiệp và đương nhiên người được ủy quyền phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về sự ủy quyền của mình, ngược lại người được ủy quyền phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình trước pháp luật và người ủy quyền. 2.3. Đối với các dự án sử dụng vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp và các nguồn vốn khác: do doanh nghiệp tự đầu tư, tự vay, tự trả không có sự bảo lãnh của Nhà nước về nguyên tắc cũng thực hiện như các dự án đề cập ở phần 2.2. Điều mới khác với trước đây là quy chế 52CP và 12CP chỉ quy định cho các dự án thuộc doanh nghiệp Nhà nước nay mở rộng sang các dự án thuộc mọi thành phần kinh tế để tạo sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong lĩnh vực đầu tư xây dựng. Nghị định cũng đề cập phương thức quản lý đối với dự án đầu tư sử dụng nhiều nguồn vốn khác nhau, về nguyên tắc thì công trình, hạng mục công trình sử dụng nguồn vốn nào phải thực hiện theo quy định quản lý của nguồn vốn đó; Trường hợp không tách riêng được đối tượng sử dụng vốn thì sẽ áp dụng theo quy định quản lý của nguồn vốn có tỷ trọng lớn nhất trong dự án. 3. Nghị định mới quy định rõ quyền hạn, trách nhiệm của các chủ thể quan trọng trong đầu tư và xây dựng đó là chủ đầu tư, nhà tư vấn và nhà thầu. Cụ thể: 3.1. Đối với chủ đầu tư trực tiếp quản lý dự án và các ban quản lý dự án phải bồi thường thiệt hại vật chất nên gây lãng phí vốn đầu của Nhà nước hay của doanh nghiệp và bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật... Ban quản lý dự án là tổ chức thực hiện vai trò, trách nhiệm của chủ đầu tư... chịu trách nhiệm trước pháp luật và chủ đầu tư. 3.2. Đối với các tổ chức tư vấn đầu tư, xây dựng (lập thẩm tra dự án, thiết kế dự toán, giám sát công trình...) phải có đủ năng lực theo quy định của Bộ Xây dựng chịu trách nhiệm trước pháp luật và chủ đầu tư về các nội dung đã cam kết trong hợp đồng... phải bồi thường thiệt hại gây ra và bắt buộc phải mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp..., nghiêm cấm tư vấn bán tư cách pháp lý để dự thầu hoặc tiết lộ thông tin về đấu thầu.. 3.3. Đối với các doanh nghiệp xây dựng phải có đủ điều kiện, năng lực theo quy định của Bộ Xây dựng, phải bồi thường thiệt hại do mình gây ra, phải bắt buộc mua bảo hiểm vật tư, thiết bị... cấm mua bán tư cách pháp nhân, hoặc dàn xếp mua bán thầu, móc ngoặc với chủ đầu tư... 4. Chấp hành nghiêm chỉnh trình tự đầu tư - xây dựng, tăng cường quản lý khâu thiết kế dự toán nhằm bảo đảm chất lượng và tiết kiệm chi phí các dự án Nhà nước, thực hiện nghiêm chỉnh công tác nghiệm thu bàn giao và quyết toán công trình. Cụ thể: 4.1. Các dự án Nhà nước trước khi khởi công phải có thiết kế dự toán được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Riêng đối với các dự án nhóm A (thiết kế 2 bước: Thiết kế kỹ thuật kèm theo Tổng dự án - thiết kế bản vẽ thi công chi tiết kèm theo dự toán hạng mục) nếu chưa có Thiết kế kỹ thuật (TKKT) và Tổng dự án (TDT) được duyệt nhưng cần thiết phải khởi công thì phải có thiết kế và dự toán hạng mục khởi công được duyệt nhưng chậm nhất sau khi thực hiện được 30% Tổng mức đầu tư phải có TKKT và TDT được duyệt. 4.2. Đối với các dự án đầu tư - xây dựng sử dụng vốn NSNN, vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. Được quy định như sau: a. Thiết kế kỹ thuật - TDT các dự án quan trọng quốc gia do Thủ tướng Chính phủ quyết định đầu tư, các dự án nhóm A sử dụng vốn NSNN do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND cấp tỉnh có dự án đầu tư hoặc người có thẩm quyền quyết định đầu tư phê duyệt sau khi có ý kiến thẩm định của Bộ Xây dựng. Riêng các công trình xây dựng chuyên ngành thuộc dự án nhóm A sử dụng vốn NSNN được thực hiện theo quy định tại Điều 1 mục 14 của NĐ 07/2003 /NĐ-CP. Đối với các dự án nhóm A sử dụng vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và các dự án mua sắm trang thiết bị có những yêu cầu đặc thù thì các bộ, ngành, địa phương tự tổ chức thẩm định thiết kế và TDT để trình cấp có thẩm quyền phê duyệt. b. Dự án đầu tư xây dựng nhóm B, C thuộc Bộ ngành Trung ương quản lý người có thẩm quyền quyết định đầu tư phê duyệt TKKT và TDT sau khi đã được cơ quan chuyên môn thẩm định. Dự án đầu tư xây dựng nhóm B, C thuộc địa phương quản lý, chủ tịch UBND cấp tỉnh phê duyệt TKKT và TDT sau khi được Sở xây dựng hoặc sở có xây dựng chuyên ngành thẩm định. Dự án nhóm A, B, C do các doanh nghiệp đầu tư. Doanh nghiệp tự tổ chức thẩm định đầu tư phê duyệt TKKT và TDT. c. Thực hiện nguyên tắc người có thẩm quyền phê duyệt TKKT và TDT được phép ủy quyền cho Thủ trưởng đơn vị cấp dưới trực tiếp phê duyệt TKKT và TDT nhưng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về sự ủy quyền đó. d. Thực hiện nguyên tắc người có thẩm quyền phê duyệt TKKT và TDT có thể ủy quyền cho chủ đầu tư phê duyệt thiết kế chi tiết và DT hạng mục nhưng phải phù hợp với TKKT và TDT được duyệt. 4.3. Vấn đề tạm ứng và thanh toán được quy định rõ đối với từng loại hợp đồng đã được chủ đầu tư ký kết với các nhà thầu. Cụ thể: a) Trường hợp hợp đồng chỉ định thầu được thanh toán theo giá trị khối lượng thực hiện được nghiệm thu theo giai đoạn hoặc nghiệm thu hàng tháng theo hợp đồng đã ký kết. b) Chủ đầu tư, cơ quan cấp vốn hoặc cho vay có trách nhiệm xem xét và giải quyết việc tạm ứng vốn cho nhà thầu một số cấu kiện, bán thành phẩm xây dựng có giá trị lớn phải sản xuất trước. c) Thực hiện việc tạm giữ 5% tổng mức vốn cho đến khi thực hiện đúng quyết toán dự án theo quy định. d) Việc thanh toán các gói thầu xây lắp thực hiện đấu thầu theo tiến độ thực hiện gói thầu ghi trong hợp đồng giao nhận thầu và giá trị hợp đồng đã được ký kết đối với hợp đồng trọn gói; hoặc thanh toán theo đơn giá trúng thầu và các điều kiện cụ thể ghi trong hợp đồng. e) Về thời hạn thanh toán được quy định là 10 ngày làm việc kể từ ngày nhà thầu nộp đủ thủ tục thanh toán chủ đầu tư phải thanh toán cho nhà thầu; căn cứ hồ sơ đề nghị thanh toán của chủ đầu tư trong thời hạn 7 ngày làm việc kể từ khi nhận đủ hồ sơ hợp lệ cơ quan cấp phát cho vay vốn có trách nhiệm thanh toán theo các phương thức quy định nói trên cho nhà thầu. g) Ngoài ra Nghị định cũng quy định việc thanh toán cho các gói thầu thực hiện theo Hợp đồng thiết kế - cung ứng thiết bị vật tư - xây dựng (EPC). 4.4. Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập hội đồng nghiệm thu các dự án quan trọng quốc gia, các cơ quan thuộc nhóm A (nếu xét thấy cần thiết) để kiểm tra xem xét công tác nghiệm thu của CĐT và trực tiếp nghiệm thu. Hội đồng nghiệm thu do Bộ trưởng Bộ Xây dựng làm Chủ tịch. Thời hạn quyết toán không quá 12 tháng được áp dụng đối với các dự án quan trọng quốc gia. Các dự án đầu tư khác còn lại sau khi hoàn thành dựa vào khai thác sử dụng nhất thiết phải làm thủ tục quyết toán đầu tư đối với các dự án nhóm A chậm nhất là sau 9 tháng, các nhóm còn lại chậm nhất là sau 6 tháng; Các hạng mục vận hành độc lập chậm nhất sau 3 tháng. Về phê duyệt quyết toán thực hiện nguyên tắc người có thẩm quyền quyết định đầu tư là người phê duyệt quyết toán đầu tư. Riêng các dự án Thủ tướng Chính phủ quyết định đầu tư và các dự án nhóm A sử dụng vốn NSNN do Bộ trưởng Bộ Tài chính phê duyệt. 5. Về hình thức tổ chức quản lý thực hiện dự án. Nghị định lần này đã sửa đổi bổ sung một số nội dung quan trọng. Cụ thể là: a. Đối với các dự án đầu tư xây dựng sử dụng vốn NSNN khi thực hiện hình thức chủ đầu tư trực tiếp quản lý dự án yêu cầu phải lập ban quản lý dự án có đủ điều kiện về năng lực, nghiệp vụ chuyên môn theo quy định của Bộ Xây dựng. b. Khuyến khích áp dụng hình thức chìa khoá trao tay thông qua hợp đồng EPC (Thiết kế - Mua sắm thiết bị vật tư - Xây dựng) nhưng phải đảm bảo các điều kiện về tổ chức quản lý, về năng lực nhà thầu và tư vấn giám sát quá trình thực hiện hợp đồng. c. Áp dụng hình thức tự thực hiện dự án cho các chủ đầu tư là doanh nghiệp có đăng ký hoạt động sản xuất xây dựng phù hợp với yêu cầu dự án, không phân biệt nguồn vốn đầu tư; mở rộng việc áp dụng hình thức này cho các chủ đầu tư có đủ năng lực hoạt động sản xuất xây dựng phù hợp với yêu cầu của một số dự án thuộc lĩnh vực lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, giống cây trồng vật nuôi, đầu tư xây dựng hầm lò, duy tu bảo dưỡng và một số dự án khác theo quy định. 6. Về một số biện pháp tăng cường quản lý nhà nước trong quản lý đầu tư xây dựng. Nghị định mới đã quy định các biện pháp tăng cường quản lý nhà nước về đầu tư - xây dựng thông qua việc lập, thẩm định và công bố công khai các quy hoạch phát triển KTXH vùng, lãnh thổ, quy hoạch phát triển ngành, quy hoạch xây dựng; Thực hiện trách nhiệm giám sát, đánh giá đầu tư của các cấp từ Thủ tướng Chính phủ, các bộ ngành, UBND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đến các CĐT các ban quản lý dự án để xem xét xử lý hoặc đề nghị cấp có thẩm quyền xem xét xử lý và đề xuất các biện pháp khắc phục các vấn đề phát sinh trong quá trình triển khai thực hiện các dự án. B. Một số giải pháp khác nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư XDCB: 1. Nâng cao chất lượng công tác xây dựng chiến lược đầu tư và kế hoạch hoá đầu tư: Xây dựng chiến lược đầu tư và kế hoạch hoá đầu tư nhằm các mục tiêu: Xoá bỏ tình trạng “ ngẫu hứng “ trong đầu tư. Các quyết định đầu tư vội vàng thiếu kế hoạch, vi phạm các qui trình đầu tư, khắc phục hiện tượng vừa thiết kế vừa thi công, để nâng cao chất lượng dự án, chất lượng thiết kế, đảm bảo đầu tư có hiệu quả. Xoá bỏ cơ chế “xin-cho” nguyên nhân phát sinh tiêu cực, làm thát thoát vốn đầu tư do tham nhũng thoáI hoá, làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Bản chất của kế hoạch hoá đầu tư là dựa trên chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của Nhà nước; trên cơ sở quy hoạch dàI hạn và ngắn hạn của nghành; dự báo thị trường tiêu thụ trong và ngoàI nước để định ra một “ bức tranh tổng thể “ cho đầu tư của cả nước, của từng vùng từng địa bàn, cho dàI hạn và ngắn hạn. Trên cơ sở đó, định ra kế hoạch đầu tư 5 năm và đầu tư hằng năm. Các kế hoạch này xác định thời gian cho việc nghiên cứu dự án, tạo điều kiện cho Nhà nước kiểm soát, hướng dẫn đầu tư của các thành phần kinh tế, kể cả đầu tư nước ngoàI. Ở lĩnh vực nào đó, nếu thấy đầu tư sẽ dẫn đến mất cân đối trong tiêu thụ sản phẩm, hoặc cạnh tranh không lành mạnh, thì Nhà nước can thiệp, không cho phép đầu tư đối với bất kì nguồn vốn nào. Điều này không chỉ có lợi cho nhà đầu tư mà còn có lợi cho xã hội. Việc nâng cao chất lượng xây dựng chiến lược đầu tư, kế hoạch hoá đầu tư đòi hỏi Nhà nước phải quản lý chặt chẽ các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoàI.Thực tế hiện nay nhiều doanh nghiệp liên doanh rơI vào tình trạng thua lỗ, sau một thời gian buộc phải bán cổ phần cho các nhà đầu tư nước ngoàI. Vấn đề này, đến một giới hạn nào đó, không đơn thuần là kinh tế, mà còn liên quan đến chính trị và an ninh quốc gia. Mặt khác, cũng cần xem xét lại việc vay vốn nước ngoàI để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Kinh nghiệm ở TháI Lan cho thấy, nếu đầu tư vào cơ sở hạ tầng quá mức cần thiết gây mất cân đối, kém hiệu quả, tạo ra gánh nặng nợ nần là một trong những nguyên nhân gây ra khủng hoảng kinh tế – xã hội. 2. Đề cao trách nhiệm của cá nhân ra quyết định đầu tư : Từ trước đến nay, luật pháp nước ta chưa đặt ra các chế tàI cụ thể đối với các tổ chức và cá nhân khi gây ra thiệt hại cho đất nước, trong lĩnh vực được giao phụ trách( trừ luật hình sự ). Do đó trong đầu tư xây dựng, mặc dù có nhiều dự án không hiệu quả, bởi các chữ kí “ làm nghèo đất nước”, nhưng vẫn không bị truy cứu trách nhiệm. Để tránh tình trạng này cần tăng trách nhiệm cho các cơ quan và cá nhân trực tiếp quản lý. Chình phủ ra chủ trương, chính sách, còn việc quyết định phê duyệt dự án (kể cả dự án nhóm A) nên giao cho Bộ trưởng hoặc Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố thực hiện và chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ về hiệu quả của dự án. Việc đề ra trách nhiệm của người phê duyệt, quyết định dự án đầu tư sẽ hạn chế được rất nhiều hiện tượng “ chạy” dự án như hiện nay và sự ra đời của một dự án sẽ được thực hiên nghiêm túc, chính xác, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. 3. Bổ sung, hoàn thiện và quản lý chặt chẽ hệ thống quy phạm, định mức kinh tế - kỹ thuật và đơn giá trong đầu tư xây dựng: Thứ nhất, giao cho Bộ Xây dựng là cơ quan quản lý Nhà nước thông nhất và chịu trách nhiệm ban hành các quy phạm, tiêu chuẩn kĩ thuật và các định mức kinh tế-kỹ thuật. Chấm dứt tình trạng thiếu thống nhất và khó kiểm soát do nhiều bộ, nghành tự ban hành các văn bản nói trên. Thứ hai, khẩn trương sửa đổi, ban hành hệ thống quy phạm, tiêu chuẩn kỹ thuật mới phù hợp với trình độ khoa học công nghệ hiện nay, để tránh những bất cập, gây lãng phí trong đầu tư xây dựng. Thứ ba, nhanh chóng sửa đổi và bổ sung hệ thống định mức kinh tế-kỹ thuật hiện hành vừa lạc hậu vừa thiếu (chỉ có trên 1500 định mức).Thực tế hiện nay, lĩnh vực công nghiệp xây dựng nước ta đã đuổi kịp nhiều nước tiên tiến trên thế giới. Đã xuấtt hiện nhiều chủng loại vật liệu xây dựng mới, nhiều loại xe máy thi công hiện đại, nhiều loại hình công tác xây lắp tiên tiến ..v.v…Ở các nước có trình độ kỹ thuật công nghệ như nước ta, họ đã ban hành và sử dụng hàng ngàn định mức kinh tế kĩ thuật. Hệ thống định mức kinh tế-kỹ thuật vừa lạc hậu vừa thiếu, sẽ làm cho việc áp dụng các định mức này trong thực tế không đủ và không phù hợp, tạo ra nhiều khe hở khi tính dự toán và tổng dự toán công trình, gây lãng phí, thất thoát và tiêu cực trong đầu tư xây dựng. 4. Chấn chỉnh và nâng cao hiệu lực công tác thanh tra, kiểm tra trong đầu tư xây dựng: Công tác kiểm tra, thanh tra trong đầu tư xây dựng từ trước đến nay vẫn được thực hiện, nhưng thường chỉ đối với từng vụ việc riêng lẻ và thường xử lý chưa nghiêm minh, đúng người đúng tội. Lực lượng thanh tra, kiểm tra vừa thiếu về số lượng, vừa yếu về chất lượng nên hiệu lực công tác chưa cao. Để phát huy vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước trong nền kinh tế thị trường, công tác này cần được coi trọng, phải tiến hành thường xuyên, sâu rộng. Thứ nhất, thanh tra, kiểm tra cần kết hợp chặt chẽ với giám định đầu tư, tiến hành từ khâu xem xét lại quyết định đầu tư có phù hợp với chiến lược và kế hoạch đầu tư. Đến các khâu thực hiện và khai thác dự án có đúng trình tự, thủ tục theo luật định. Từ đó đưa ra kết luận và kiến nghị với các cấp có thẩm quyền xem xét, để xử lý ở các mức độ khác nhau nếu có sự vi phạm. Thứ hai, thanh tra, kiểm tra trong đầu tư xây dựng cần kết hợp với việc phổ biến giải thích pháp luật. Đồng thời, phát hiện những sơ hở trong các văn bản pháp luật về đầu tư xây dựng để kiến nghị với các cấp có thẩm quyền bổ sung, sửa đổi, thay thế bằng văn bản mới cho phù hợp, phục vụ cho việc quản lý đầu tư xây dựng, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Muốn làm tốt các nội dung trên, phải hoàn thiện hệ thống thanh tra, kiểm tra từ trung ương đến địa phương. Phải nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật của các tổ chức kinh tế tiến hành đầu tư xây dựng. Phải tăng cướng trình độ chuyên môn và coi trọng phẩm chất đạo đức thông qua quá trình thử thách, rèn luyện đội ngũ cán bộ thanh tra, kiểm tra. 5. Chấn chỉnh, hoàn thiện các khâu để thực hiện rộng rãi phương thức đấu thầu. Việc xác định dự toán để làm giá chuẩn, giá trần để xem xét giá trúng thầu chậm, thiếu chính xác; việc bố trí kế hoạch thiếu tập trung, bố trí kế hoạch không theo tiến độ dự án là trở ngại phổ biến làm cho việc triển khai công tác đấu thầu khó thực hiện. Thủ tục trong đấu thầu, chọn thầu phải qua quá nhiều khâu và trình tự đấu thầu chưa phù hợp gây ách tắc, chậm trễ trong việc triển khai thực hiện dự án cũng như kế hoạch đầu tư hàng năm gây phiền hà cho các chủ đầu tựu sử dụng vốn NSNN cũng như các đơn vị tham gia đấu thầu. Đặc biệt với các công trình trung ương đóng trên địa bàn địa phương, chi phí đi lại để trình duyệt nhiều lần gây tốn kém, lãng phí và tiêu cực. Cần cải tiến khâu thủ tục gọn nhẹ, phải qui định trách nhiệm và quyền hạn rõ ràng, cụ thể (kể cả trách nhiệm kinh tế trước pháp luật) của chủ đầu tư và cơ quan chủ quản đầu tư, phải thực hiện đúng trình tự qui định, làm tốt công tác chuẩn bị đầu tư thiết kế dự toán, xây dựng giá chuẩn, phải xác định đúng giá trần để làm cơ sở cho việc xét chọn giá trúng thầu. Mặt khác chấn chỉnh lại các tổ chức tư nhân nhận thầu xây lắp, cung ứng vật tư thiết bị, các tổ chức tư vấn nhằm đảm bảo khả năng tham gia đấu thầu của các nhà thầu phù hợp với năng lực về kỹ thuật và tài chính của mình. C. Chuyển dịch cơ cấu vốn đầu tư XDCB nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư XDCB: 1/ Chuyển dịch cơ cấu vốn đầu tư theo vùng lãnh thổ: Phân bổ vốn đầu tư theo vùng lãnh thổ hợp lý sẽ khai thác triệt để lợi thế từng vùng, góp phần tích cực vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đầu tư phát triển hợp lý theo vùng lãnh thổ, sẽ phát huy tốt những ưu việt của từng vùng, đảm bảo tiết kiệm chi phí vận tảI, sản xuất, đào tạo .. và phát triển kinh tế hàng hoá. Nâng cao khả năng, trình độ chuyên môn hoá, tăng năng suất lao động xã hội, góp phần tiếp cận và giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các vùng trong nước và quốc tế. Mặt khác, phân bổ vốn đầu tư hợp lý giữa các vùng, còn là động lực mạnh mẽ góp phần giải quyết các mục tiêu xã hội như xoá đói giảm nghèo, hạn chế chênh lệch giữa các vùng về mức sống, hưởng thị văn hoá, môI trường …Nói cách khác, việc phân bổ lại cơ cấu vốn đầu tư XDCB theo vùng còn là một cách để nâng cao hiệu quả kinh tế-xã hội của vốn đầu tư XDCB. Thời gian qua, việc đầu tư phát triển vùng lãnh thổ tuy đã được những thành tựu ban đầu, nhưng do còn nhiều hạn chế về cơ chế, chính sách phối kết hợp, về tư duy và hành động … nên việc phân bổ vốn đầu tư còn mang nhiều yếu tố chủ quan, bình quân chủ nghĩa. Việc chuyển dịch cơ cấu vốn đầu tư theo vùng lãnh thổ trong giai đoạn 2001- 2010 cần theo các hướng cụ thể sau đây : Một là , tập trung ưu tiên vốn đầu tư cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật của các vùng kinh tế trọng điểm, tạo đà cho sự phát triển kinh tế xã hội và khai thác tiềm năng sẵn có. Theo đó, cần chú trọng đầu tư Phát triển những vùng có tiềm năng phát triển mạnh mẽ như Đông Nam bộ , đồng bằng sông Hồng,các vùng tam giác tăng trưỏng … Hai là, chú trọng đầu tư nhằm hình thành và phát triển một số vùng kinh tế đặc biệt có cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội và thị trường phát triển làm nhân tố khuyến khích phát triển các vùng lân cận. Những vùng này thường là những vùng có lợi thế đặc biệt so với các vùng khác về tự nhiên, khí hậu, thổ nhưỡng …như Đà Lạt, các vùng cửa khẩu, cảng biển, vùng đất đỏ bazan … Ba là, để thực hiện CNH-HĐH trên phạm vi cả nước cần đầu tư phát triển giao thông, thuỷ lợi, điện lực ở các vùng Tây Bắc, Việt Bắc, Tây Nguyên, miền Trung . Bốn là, để kết hợp mục tiêu tăng trưởng và mục tiêu công bằng xã hội , không chỉ tập trung đầu tư vào các vùng kinh tế có điều kiện thuận lợi về hạ tầng kĩ thuật, các khu vực thành thị và các vùng kinh tế trọng điểm, mà còn cần chú ý đầu tư phát triển vùng núi, vùng sâu, vùng xa (ở Tây Nguyên và miền núi phía Bắc). Do đó, cần thực hiện chính sách đầu tư ưu đãI đối với các vùng này và kết hợp lại tích luỹ từ các vùng kinh tế trọng điểm. Năm là, chú trọng hơn nữa đầu tư nhằm bảo tồn và phát triển nguồn tàI nguyên thiên nhiên sẵn có, bằng cách đầu tư kết hợp, lồng ghép các chương trình trồng rừng với chương trình xoá đói giảm nghèo … 2/ Đổi mới cơ cấu kỹ thuật của vốn đầu tư XDCB: Theo cơ cấu kĩ thuật, thì tổng mức vốn đầu tư được phân thành đầu tư xây lắp, đầu tư thiết bị và đầu tư xây dựng cơ bản khác. Để góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, cơ cấu kĩ thuật của vốn đầu tư cần được đổi mới theo các hướng sau: Một là, chính sách đầu tư phải thực hiện theo hướng ưu đãI, đối với các dự án đầu tư có mức đầu tư thiết bị chiếm trên 50% tổng mức vốn đầu tư của dự án. Đồng thời thực hiện việc chuyển từ ưu đãI đầu tư, sang ưu đãI đầu tư. Theo đó, chỉ sau khi hoàn thành toàn bộ quá trình đầu tư, thu hồi được vốn đầu tư, mới được hoàn nhận các khoản ưu đãI đầu tư theo chế độ, chính sách đầu tư quy dịnh . Hai là, không phê duyệt các dự án sản xuất mà đầu tư xây lắp chiếm tỷ trọng trên 50% toỏng mức vốn đầu tư . Ba là, giảm tỷ trọng chi phí xây dựng cơ bản khác trong tổng mức vốn đầu tư xuống còn dưới 10%. Muồn vậy phải chú ý tìm giải pháp nâng cao chất lượng lập, thẩm định dự án đầu tư, thiết kế, lập dự toán và quyết toán công trình hoàn thành. Đồng thời phải thiết lập được hệ thống tư vấn và xây dựng có đủ năng lực nhằm nâng cao chất lượng công tác tư vấn đầu tư và xây dựng. 3/ Đổi mới có cấu táI sản xuất của vốn đầu tư XDCB: Theo cơ cấu táI sản xuất, tổng mức vốn đầu tư được phân thành: đầu tư xây dựng mới, đầu tư mở rộng hoặc đổi mới máy móc thiết bị (đầu tư chiều sâu) và đầu tư để xây dựng lại, khôI phục năng lực sản xuất. Trong giai đoạn đầu của quá trình CNH, cơ cấu vốn đầu tư thường đặt trọng tâm vào việc đầu tư theo chiều rộng, tức là đầu tư xây dựng mới là chủ yếu. Thực tế, ngoàI một số ít dự án đầu tư chiều sâu như nâng cấp đường quốc lộ, cảI tạo nhỏ một số cơ sở sản xuất hiện có, phần lớn còn lại là đầu tư chiều rộng, thông qua đầu tư xây dựng mới nhà máy thuỷ điện, nhà máy xi măng, nhà máy đường …(chủ yếu là công nghệ và thiết bị của Trung Quốc). Cơ cấu đầu tư như vậy trong giai đoạn đầu của quá trình CNH là hợp lý . Tuy nhiên, phải nhận thấy rằng nếu chúng ta không chú ý ngay việc tập trung đầu tư chiều sâu để cảI tiến công nghệ, đối với máy móc thiệt bị, góp phần nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, thì hiệu quả sử dụng vốn đầu tư sẽ rất thấp, thậm chí sản xuất thua lỗ do không cạnh tranh nổi với các mặt hàng ngoại nhập. Vấn đề lại trở nên thách thức rõ rệt, khi VIệt Nam thực hiện cam kết AFTA (các hàng rào thuế quan và phi thuế quan phải dỡ bỏ). Do đó, trong giai đoạn tới cơ cấu táI sản xuất của vốn đầu tư cần phải đổi mới, điều chỉnh theo hướng : Một là, đối với những nhóm hiện nay đang chịu sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường nội địa và thị trường quốc tế thì kiên quyết không đầu tư xây dựng mớ các cơ sở sản xuất với công nghệ, thiết bị lạc hậu (tạo ra những sản phẩm cạnh tranh kém). Tập trung đầu tư cảI tiến công nghệ, thiết bị nâng cao chất lượng. CảI tiến mẫu mã, đáp ứng kịp thời thị hiếu người tiêu dùng với giá cả hợp lý. Hai là, đối với những dự án xây dựng mới, hoặc mở rộng, khi cần thiết phải đảm bảo đầu tư vào những thiết bị công nghệ tiên tiế , kết hợp hài hoà giữa đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu. Việc xét duyệt dự án cần chú ý lựa chọn các phưong án sử dụng những thiết bị, công nghệ tiên tiến một cách hợp lý với phương châm đI tắt (như mô hình của nghanh bưu chính viễn thông). Ba là, thực hiện các chính sách ưu tiên về thuế, cùng với ưu đãI đặc biệt cho các dự án thiên về đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ. Chú trọng việc đào tạo đội ngũ công nhân lành nghề, có khả năng nắm bắt nhanh, vận dụng kiến thức tiên tiến và công nghệ mới vào thực tiễn . Bốn là, chính sách đầu tư phải hướng vào hạn chế xây dựng mới và không được tiến hành đầu tư đối với các cơ sở sản xuất chưa sử dụng hết công suất của máy móc thiết bị đã có. Các nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp (từ nguồn khấu hao và các nguồn tự bổ sung khác ) phải ưu tiên cho việc đầu tư chiều sâu. Muốn vậy phải đánh giá chính xác tàI sản doanh nghiệp. Thực hiện khấu hao nhanh những TSCĐ cần thiết và khuyến khích doanh nghiệp nhanh chóng đổi mới máy móc thiét bị. KẾT LUẬN Trong 10 năm thực hiện Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội 1991-2000 do đại hội Đảng VIII đề ra, đặc biệt là giai đoạn 1996-2000, đất nước đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng: kinh tế tăng trưởng khá, tình hình chính trị – xã hội ổn định, đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể... Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn những tồn tại như nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp, cơ chế chính sách còn thiếu đồng bộ... Vì vậy để có thể tiếp tục giữ vững tốc độ tăng trưởng, phát triển ổn định trong thời gian tới cần có sự quyết tâm rất lớn của Đảng và Nhà nước. Hoạt động đầu tư XDCB là một hoạt động quan trọng, đang từng ngày tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế xã hội. Tuy nhiên, đầu tư XDCB đòi hỏi một số lượng vốn rất lớn trong khi đất nước ta còn nghèo, chúng ta đang thiếu vốn đầu tư để phát triển. Vì vậy, sử dụng vốn sao cho tiết kiệm, hiệu quả nhất đang là yêu cầu cấp bách và khách quan. Để thực hiện nhiệm vụ này cần phải có sự phối hợp chặt chẽ của nhiều cấp, nhiều ngành từ giai đoạn xây dựng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, các chuẩn mực, biện pháp, các quy định, quy chế về đầu tư và xây dựng …đến việc tổ chức thực hiện trong thực tế. Đây là vấn đề thuộc về cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng. Quá trình nghiên cứu, đánh giá, rút kinh nghiệm nhằm mục đích xây dựng, ban hành cũng như tổ chức thực hiện trong thực tế, đồng thời liên tục hoàn thiện cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng là yêu cầu bắt buộc, nhằm mục đích ngày càng nâng cao hiệu quả đầu tư, hiệu quả vốn đầu tư XDCB. Tất cả, không ngoàI mục đích là làm cho hoạt động đầu tư XDCB thực hiện được tốt nhất vai trò quan trọng của mình đối với nền kinh tế-xã hội. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình Kinh tế đầu tư - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội. 2. Giáo trình lý thuyết thống kê - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội. 3. Giáo trình thống kê kinh tế - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội. 4. KIểm tra, kiểm toán báo cáo quyết toán công trình XDCB hoàn thành, NXB TàI chính-2002. 5. Giáo trình Cấp phát và tín dụng vốn đầu tư XDCB, NXB TàI Chính-1991. 4. Chế độ báo cáo thống kê XDCB định kỳ - Tổng cục thống kê. 5. Các tạp chí: Kinh tế và dự báo 8/2002; Xây dựng: 9/2000; 1,7/2001; 3/2003… 6. Niên giám Thống kê 1999,2000. 7. Báo đầu tư, Thời báo kinh tế, Thời báo tài chính. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29280.doc
Tài liệu liên quan