Đề tài Đổi mới công tác quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước của Cục Tài chính doanh nghiệp

Hiện nay, quốc tế hoá nền kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn thế giới. Theo xu thế chung, Việt Nam cũng đang từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực, trong đó các doanh nghiệp nhà nước càng phải khẳng định vai trò chủ đạo của mình. Để các doanh nghiệp nhà nước tồn tại và phát triển thì cần tăng cường đổi mới cơ chế chính sách quản lý đối với doanh nghiệp nhà nước, đồng thời cũng cần gắn liền với giám sát các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp với thị trường- hoạt động sử dụng vốn, tăng trưởng lợi nhuận, bảo toàn và phát triển vốn kinh doanh. Thống nhất các quan điểm trong nội dung trên đây, đưa vào áp dụng trong thực tế chính là góp phần cải cách thể chế, cải cách việc sử dụng các công cụ kinh tế- tài chính, thúc đẩy doanh nghiệp chuyển sang cơ chế tự chủ kinh doanh thực sự và đầy đủ.

doc73 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1342 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đổi mới công tác quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước của Cục Tài chính doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
heo nguyên tắc có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn. Trường hợp sử dụng các loại vốn và quỹ khác với mục đích sử dụng đã quy định cho các loại vốn và quỹ đó thì phải theo nguyên tắc có hoàn trả, như: dùng các quỹ dự phòng, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi... để kinh doanh thì phải hoàn trả quỹ đó khi có nhu cầu sử dụng. Doanh nghiệp được quyền thay đổi cơ cấu tài sản và các loại vốn cho việc phát triển kinh doanh có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn. - Quản lý công nợ: Doanh nghiệp phải mở sổ theo dõi chi tiết tất cả các khoản công nợ phải thu trong và ngoài doanh nghiệp. Định kỳ (tháng, quý) doanh nghiệp phải đối chiếu, tổng hợp, phân tích tình hình công nợ phải thu; đặc biệt là các khoản nợ đến hạn, quá hạn và các khoản nợ khó đòi. Các khoản nợ không thu hồi được, cần xác định rõ mức độ, nguyên nhân, trách nhiệm và biện pháp xử lý. Nếu do chủ quan gây ra thì người phạm lỗi phải bồi thường. Khoản chênh lệch giữa thiệt hại và bồi thường của đương sự nếu thiếu được bù đắp bằng quỹ dự phòng tài chính của doanh nghiệp. Trường hợp nếu quỹ dự phòng tài chính không đủ bù đắp thì phần thiếu được hạch toán vào chi phí bất thường trong kỳ. Các khoản nợ thực sự không đòi được, doanh nghiệp hạch toán vào chi phí hoạt động kinh doanh, đồng thời phải tiếp tục theo dõi trên sổ kế toán (tài khoản ngoài bảng cân đối kế toán) và đôn đốc thường xuyên để thu hồi. Số tiền thu được sau khi trừ chi phí thu nợ, hạch toán vào thu nhập bất thường của doanh nghiệp. - Doanh nghiệp thực hiện chế độ khấu hao tài sản cố định theo quy định hiện hành. Doanh nghiệp Nhà nước phải xây dựng quy chế quản lý, bảo quản, sử dụng tài sản của doanh nghiệp; quy định rõ trách nhiệm của từng bộ phận, cá nhân đối với các trường hợp làm hư hỏng, mất mát tài sản. Doanh nghiệp được quyền cho các tổ chức, cá nhân trong nước thuê hoạt động các tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng của mình, để nâng cao hiệu suất sử dụng, tăng thu nhập nhưng phải theo dõi, thu hồi tài sản khi hết hạn cho thuê. Đối với tài sản cho thuê hoạt động, doanh nghiệp vẫn phải trích khấu hao theo chế độ quy định. Doanh nghiệp được đem tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng của mình để cầm cố, thế chấp vay vốn hoặc bảo lãnh tại các tổ chức tín dụng theo đúng trình tự, thủ tục quy định của pháp luật. Doanh nghiệp không được đem cầm cố, thế chấp, cho thuê các tài sản đi mượn, đi thuê, nhận giữ hộ, nhận cầm cố, nhận thế chấp... của doanh nghiệp khác nếu không được sự đồng ý của chủ sở hữu những tài sản đó. Đối với tài sản là toàn bộ dây chuyền công nghệ chính của doanh nghiệp theo quy định của cơ quan quản lý ngành kinh tế - kỹ thuật khi cho thuê, cầm cố, thế chấp phải được cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp cho phép. Doanh nghiệp được nhượng bán các tài sản không cần dùng, lạc hậu về kỹ thuật để thu hồi vốn sử dụng cho mục đích kinh doanh có hiệu quả hơn. Đối với tài sản là toàn bộ dây chuyền công nghệ chính của doanh nghiệp theo quy định của cơ quan quản lý ngành kinh tế - kỹ thuật khi nhượng bán phải được cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp đồng ý bằng văn bản. Doanh nghiệp được thanh lý những tài sản kém, mất phẩm chất; tài sản lạc hậu bị hư hỏng không có khả năng phục hồi; tài sản lạc hậu kỹ thuật không có nhu cầu sử dụng hoặc sử dụng không có hiệu quả và không thể nhượng bán nguyên trạng được. Những tài sản là toàn bộ dây chuyền công nghệ chính của doanh nghiệp theo quy định của cơ quan quản lý ngành kinh tế - kỹ thuật khi thanh lý phải được cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp phê duyệt. Khi nhượng bán, thanh lý doanh nghiệp phải lập Hội đồng đánh giá thực trạng về mặt kỹ thuật, thẩm định giá trị tài sản. Tài sản đem nhượng bán phải tổ chức đấu giá, thông báo công khai. Nếu tài sản thanh lý dưới hình thức dỡ bỏ, huỷ, phải tổ chức Hội đồng thanh lý do Tổng giám đốc hoặc Giám đốc doanh nghiệp quyết định. Chênh lệch giữa số tiền thu được do thanh lý, nhượng bán tài sản với giá trị còn lại trên sổ kế toán và chi phí nhượng bán, thanh lý (nếu có) được hạch toán vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp (thu nhập khác). 1.4. Bảo toàn và phát triển vốn Bảo toàn vốn và phát triển vốn là nghĩa vụ của doanh nghiệp để bảo vệ lợi ích của Nhà nước về vốn đã đầu tư vào doanh nghiệp Nhà nước, tạo điều kiện cho doanh nghiệp ổn định và phát triển kinh doanh có hiệu quả, tăng thu nhập cho người lao động và làm nghĩa vụ với Ngân sách Nhà nước. Các biện pháp bảo toàn vốn là: - Thực hiện đúng chế độ quản lý, sử dụng vốn, tài sản theo các qui định của Nhà nước. - Thực hiện việc mua bảo hiểm tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng của doanh nghiệp. Tiền mua bảo hiểm được hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh. - Doanh nghiệp Nhà nước được hạch toán vào chi phí kinh doanh, chi phí hoạt động khác các khoản dự phòng sau đây: Dự phòng giảm giá hàng tồn kho: là khoản giảm giá vật tư, hàng hoá tồn kho dự kiến sẽ xảy ra trong kỳ kinh doanh tiếp theo. Dự phòng các khoản nợ phải thu khó đòi: là các khoản phải thu dự kiến không thu được trong kỳ kinh doanh tới do khách nợ không có khả năng thanh toán. Dự phòng giảm giá các chứng khoán trong hoạt động tài chính. Việc lập và sử dụng các khoản dự phòng nói trên thực hiện theo quy định hiện hành. Ngoài các biện pháp trên, doanh nghiệp được dùng lãi năm sau (trước thuế hoặc sau thuế) để bù lỗ các năm trước (thời gian không quá 05 năm), được hạch toán một số thiệt hại (thiên tai, dịch bệnh...) vào chi phí hoặc kết quả kinh doanh theo qui định của Nhà nước. 1.5. Phân phối và sử dụng các quỹ Nhà nước để lại khoản lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp cho doanh nghiệp nhằm mục đích chủ yếu bổ sung vốn kinh doanh, lập quỹ dự phòng tài chính để tự bù đắp một phần rủi ro; đồng thời chăm lo lợi ích vật chất cho người lao động trong doanh nghiệp. a) Phân phối lợi nhuận sau thuế Sau khi chuyển lỗ theo Điều 22 của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp và nộp thuế thu nhập theo Luật định, lợi nhuận còn lại được phân phối theo trình tự sau đây: - Bù khoản lỗ các năm trước không được trừ vào lợi nhuận trước thuế. - Nộp tiền thu sử dụng vốn ngân sách Nhà nước theo quy định hiện hành. - Trả tiền phạt vi phạm pháp luật Nhà nước như: vi phạm Luật thuế, Luật giao thông, Luật môi trường, Luật thương mại và quy chế hành chính..., sau khi đã trừ tiền bồi thương tập thể hoặc cá nhân gây ra (nếu có). - Trừ các khoản chi phí thực tế đã chi nhưng không được tính vào chi phí hợp lý khi xác định thu nhập chịu thuế. - Chia lãi cho các đối tác góp vốn theo hợp đồng hợp tác kinh doanh (nếu có). - Phần lợi nhuận còn lại được phân phối như sau: Trích 10% vào quỹ dự phòng tài chính. Khi số dư của quỹ này bằng 25% vốn điều lệ của doanh nghiệp thì không trích nữa. Trích tối thiểu 50% vào quỹ đầu tư phát triển. Trích 5% vào quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm. Khi số dư quỹ này đạt 6 tháng lương thực hiện của doanh nghiệp yhì không trích nữa. Đối với một số ngành đặc thù (như ngân hàng thương mại, bảo hiểm,...) mà pháp luật quy định phải trích lập các quỹ đặc biệt từ lợi nhuận sau thuế thì doanh nghiệp trích lập theo các quy định đó. Chia lãi cổ phần trong trường hợp phát hành cổ phiếu. Số lợi nhuận còn lại sau khi trích các quỹ nói trên được trích lập Quỹ khen thưởng và Quỹ phúc lợi. Mức trích tối đa cho cả 2 quỹ căn cứ vào tỷ suất lợi nhuận trên vốn Nhà nước (vốn Nhà nước nói ở đây là số trung bình cộng của số dư vốn Nhà nước tại các thời điểm 1/1 và cuối mỗi quý của năm), như sau: 3 tháng lương thực hiện cho các trường hợp doanh nghiệp có tỷ suất lợi nhuận nói trên năm nay bằng hoặc cao hơn năm trước hoặc doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ, đầu tư mở rộng kinh doanh đang trong thời gian được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp theo Luật khuyến khích đầu tư trong nước nếu có tỷ suất lợi nhuận thấp hơn năm trước khi đầu tư. 2 tháng lương thực hiện, nếu tỷ suất lợi nhuận năm nay thấp hơn năm trước. Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc (đối với doanh nghiệp không có Hội đồng quản trị) sau khi lấy ý kiến tham gia của Ban chấp hành công đoàn quyết định tỷ lệ phân chia số tiền vào mỗi quỹ. Sau khi trích đủ quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi theo mức quy định trên thì bổ sung toàn bộ số lợi nhuận còn lại vào Quỹ đầu tư phát triển. b) Mục đích sử dụng các quỹ - Quỹ đầu tư phát triển để: Bổ sung vào vốn kinh doanh của Nhà nước: đầu tư mở rộng quy mô hoạt động kinh doanh và đổi mới công nghệ, trang thiết bị, điều kiện làm việc của doanh nghiệp; góp vốn liên doanh, mua cổ phiếu, góp vốn cổ phần theo quy định hiện hành. Căn cứ vào nhu cầu đầu tư và khả năng của quỹ, Hội đồng quản trị, giám đốc (đối với doanh nghiệp không có Hội đồng quản trị) quyết định hình thức và biện pháp đầu tư theo nguyên tắc có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn. Ngoài ra, doanh nghiệp phải trích nộp Quỹ đầu tư phát triển của Tổng công ty Nhà nước (nếu là thành viên của Tổng công ty) theo tỷ lệ do Hội đồng quản trị Tổng công ty quyết định hàng năm. Trường hợp cần thiết, Nhà nước có thể điều động một phần quỹ đầu tư phát triển của doanh nghiệp để đầu tư phát triển doanh nghiệp Nhà nước khác. Bộ Tài chính, sau khi thống nhất với cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp, quyết định việc điều động này. - Quỹ dự phòng tài chính để: Bù đắp phần còn lại của những tổn thất, thiệt hại về tài sản xảy ra trong quá trình kinh doanh sau khi đã được bồi thường của các tổ chức, cá nhân gây ra tổn thất và của tổ chức bảo hiểm và trích nộp để hình thành Quỹ dự phòng tài chính của Tổng công ty (nếu là thành viên của Tổng công ty) theo tỷ lệ do Hội đồng quản trị Tổng công ty quyết định hàng năm. - Quỹ dự phòng về trợ cấp mất việc làm để: Trợ cấp cho người lao động đã làm việc tại doanh nghiệp từ một năm trở lên bị mất việc làm tạm thời theo quy định của Nhà nước; chi đào tạo lại chuyên môn, kỹ thuật cho người lao động do thay đổi công nghệ hoặc chuyển sang công việc mới, đặc biệt là đào tạo nghề dự phòng cho lao động nữ của doanh nghiệp. Quỹ này chỉ dùng trợ cấp cho người lao động mất việc làm do các nguyên nhân khách quan như: lao động dôi ra vì thay đổi công nghệ, do liên doanh, do thay đổi tổ chức trong khi chưa bố trí công việc khác, hoặc chưa kịp giải quyết cho thôi việc. Đối với những doanh nghiệp là thành viên của Tổng công ty Nhà nước, mà việc trợ cấp mất việc làm do Tổng công ty đảm nhận theo Quy chế tài chính Tổng công ty thì doanh nghiệp thành viên trích nộp để hình thành Quỹ dự phòng trợ cấp mất việc của Tổng công ty theo tỷ lệ do Hội đồng quản trị Tổng công ty quyết định hàng năm. Mức trợ cấp cho từng trường hợp cụ thể do Giám đốc Quyết định sau khi có ý kiến của Chủ tịch công đoàn doanh nghiệp. - Quỹ phúc lợi để: Đầu tư xây dựng hoặc sửa chữa, bổ sung vốn xâydựng các công trình phúc lợi công cộng của doanh nghiệp, góp vốn đầu tư xây dựng các công trình phúc lợi chung trong ngành, hoặc với các đơn vị khác theo hợp đồng thoả thuận. Chi cho các hoạt động thể thao, văn hoá, phúc lợi công cộng của tập thể công nhân viên doanh nghiệp. Đóng góp cho quỹ phúc lợi xã hội (các hoạt động từ thiện, phúc lợi xã hội công cộng...). Trợ cấp khó khăn thường xuyên, đột xuất cho cán bộ công nhân viên doanh nghiệp. Ngoài ra có thể chi trợ cấp khó khăn cho người lao động của doanh nghiệp đã nghỉ hưu, mất sức lâm vào hoàn cảnh khó khăn, không nơi nương tựa, xây nhà tình nghĩa, từ thiện. Trích nộp để hình thành Quỹ phúc lợi tập trung của Tổng công ty (nếu là thành viên Tổng công ty) theo tỷ lệ do Hội đồng quản trị Tổng công ty quyết định. Giám đốc doanh nghiệp phối hợp với Ban chấp hành công đoàn doanh nghiệp để quản lý và sử dụng quỹ này. - Quỹ khen thưởng để: Thưởng cuối năm hoặc thưởng thường kỳ cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp. Mức thưởng do Giám đốc doanh nghiệp quyết định sau khi có ý kiến tham gia của tổ chức Công đoàn và trên cơ sở năng suất lao động, thành tích công tác của mỗi cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp. Thưởng cho những cá nhân và đơn vị bên ngoài doanh nghiệp có quan hệ kinh tế đã hoàn thành tốt những điều kiện của hợp đồng, đóng góp có hiệu quả vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Mức thưởng do Giám đốc doanh nghiệp quyết định. Trích nộp để hình thành Quỹ khen thưởng tập trung của Tổng công ty (nếu là thành viên Tổng công ty) theo tỷ lệ do Hội đồng quản trị Tổng công ty quyết định. 2. Vai trò quản lý nhà nước Cục Tài chính doanh nghiệp thực hiện vai trò quản lý nhà nước thông qua giám sát các doanh nghiệp nhà nước. Việc giám sát nhằm đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh, hiệu quả sử dụng vốn và khả năng thanh toán nợ đối với từng doanh nghiệp để xem xét quyết định việc tăng thêm hoặc giảm bớt số vốn đầu tư vào doanh nghiệp, xếp loại doanh nghiệp và quyết định thưởng phạt đối với người quản lý và điều hành doanh nghiệp hoặc sắp xếp lại doanh nghiệp. Ngoài ra, giám sát doanh nghiệp còn để đánh giá việc chấp hành các văn bản quy phạm pháp luật, chế độ tài chính, chuẩn mực kế toán hiện hành và đánh giá tổng thể về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để phục vụ cho việc ban hành, hoàn thiện các chính sách vĩ mô và chế độ đối với doanh nghiệp trong từng ngành, từng lĩnh vực, thực hiện việc hỗ trợ đối với những trường hợp cần có sự hỗ trợ của nhà nước nhằm khắc phục những khó khăn tạm thời và phát triển doanh nghiệp. Các hình thức giám sát doanh nghiệp nhà nước bao gồm: Giám sát từ bên trong là giám sát nội bộ do các tổ chức của doanh nghiệp như kiểm toán nội bộ, ban kiểm soát, thanh tra nhân dân và do doanh nghiệp tự tổ chức thực hiện. Giám sát từ bên ngoài là giám sát do các cơ quan chức năng của nhà nước hoặc các tổ chức, cá nhân bên ngoài doanh nghiệp tổ chức thực hiện. Việc giám sát bên ngoài doanh nghiệp được thực hiện dưới hai hình thức: Giám sát gián tiếp là theo dõi và kiểm tra từ xa thông qua báo cáo tài chính, thống kê và chế độ báo cáo khác do các cơ quan chức năng của nhà nước quy định, thông qua báo cáo công khai tài chính tại thị trường vốn, thị trường chứng khoán. Giám sát trực tiếp được thực hiện bằng các hoạt động kiểm tra, thanh tra, khảo sát nắm tình hình trực tiếp tại doanh nghiệp. Ngoài ra, còn có thể thông qua các công ty tư vấn (bao gồm công ty tư vấn tài chính kế toán, thuế, các công ty kiểm toán độc lập, công ty đánh giá tài sản...) để thực hiện các dịch vụ về giám sát doanh nghiệp. Giám sát trước, trong quá trình thực hiện và sau khi thực hiện Giám sát trước khi thực hiện là việc kiểm tra tính khả thi của các dự án như kế hoạch ngắn hạn hoặc dài hạn; dự án đầu tư xây dựng hoặc đầu tư ra ngoài doanh nghiệp, dự án huy động vốn... Giám sát trong quá trình thực hiện là theo dõi, kiểm tra, thanh tra tính hiệu lực của các quy định pháp luật, nguyên tắc quản lý điều hành cảu doanh nghiệp và hiệu quả các hoạt động của doanh nghiệp. Giám sát sau khi thực hiện là việc theo dõi, kiểm tra, thanh tra các kết quả hoạt động của doanh nghiệp trên cơ sở các báo cáo kết quả hoặc quyết toán định kỳ và giám sát việc chấp hành các quy định của pháp luật hoặc quyết định của chủ sở hữu hoặc Điều lệ doanh nghiệp. IV. Đánh giá công tác quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước của Cục Tài chính doanh nghiệp Từ khi Luật Doanh nghiệp nhà nước được ban hành năm 1995, Chính phủ đã triển khai một số chính sách quan trọng về quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước như Nghị định 59/CP ngày 3/10/1996, Nghị định 27/1999/NĐ-CP ngày 2/4/1999. Bộ Tài chính cũng đã ban hành các Thông tư hướng dẫn thực hiện như Thông tư 62/1999/TT-BTC ngày 7/6/1999 hướng dẫn quản lý, sử dụng vốn và tài sản trong doanh nghiệp nhà nước, Thông tư 64/1999/TT-BTC ngày 7/6/1999 hướng dẫn chế độ phân phối lợi nhuận sau thuế và quản lý các quỹ trong doanh nghiệp nhà nước... Do đó, việc quản lý sử dụng vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước đã có hệ thống văn bản pháp lý tương đối đồng bộ. Tuy nhiên khi xem xét tổ chức bộ máy quản lý vốn nhà nước và phân tích từng vấn đề cũng như quá trình triển khai thực hiện các chính sách quản lý vốn nhà nước, có thể thấy rằng bên cạnh những mặt tích cực, hợp lý, vẫn còn tồn tại một số vấn đề cần phải hoàn thiện thêm trong thời gian tới. 1. Ưu điểm 1.1. Quyền chủ động của doanh nghiệp được mở rộng Khác với các chính sách về quản lý sử dụng vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước trước khi có Luật doanh nghiệp nhà nước, chính sách về quản lý sử dụng vốn nhà nước hiện nay đã trao cho doanh nghiệp quyền chủ động trong nhiều vấn đề cơ bản, quyết định hoạt động của doanh nghiệp, cụ thể như sau: Doanh nghiệp được chủ động quyết định hình thức huy động vốn theo quy định của pháp luật. Theo đó, doanh nghiệp cũng phải tự chịu trách nhiệm về việc huy động vốn của mình. Mức khống chế tổng dư nợ vốn huy động không được vượt quá vốn điều lệ của doanh nghiệp tại thời điểm vay vốn đã được huỷ bỏ. Nhờ đó, các doanh nghiệp đã chủ động trong việc huy động các nguồn vốn bằng nhiều hình thức khác nhau để bổ sung vốn trong hoạt động kinh doanh. Nhiều doanh nghiệp đã khai thác tốt nguồn vốn nội bộ của người lao động trong doanh nghiệp nên đã mở rộng kinh doanh, giảm được chi phí. Doanh nghiệp được tự quyết định đối với các tài sản do doanh nghiệp quản lý và sử dụng, bao gồm các quyền được cầm cố, thế chấp, cho thuê, nhượng bán, thanh lý, trừ các tài sản là toàn bộ dây chuyền công nghệ chính của doanh nghiệp theo quy định của cơ quan quản lý ngành kinh tế - kỹ thuật.. 1.2. Đề cao trách nhiệm bảo toàn vốn của doanh nghiệp Đã có những quy định cụ thể để doanh nghiệp có thể bảo toàn được số vốn Nhà nước giao. Hầu hết các khoản chi phí thực tế của doanh nghiệp được hạch toán vào chi phí của doanh nghiệp để lấy thu nhập bù đắp, giúp doanh nghiệp không bị mất vốn. Các khoản tổn thất tài sản, kể cả công nợ không thu hồi được, sau khi trừ đi tiền bồi thường của tổ chức bảo hiểm, của tập thể, cá nhân vi phạm đều được tính vào chi phí. Ngoài ra, doanh nghiệp còn được hạch toán vào trong chi phí các khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho, dự phòng nợ khó đòi, dự phòng giảm giá chứng khoán, dự phòng chênh lệch tỷ giá để phân tán bớt các khoản rủi ro có thể xảy ra nhằm bảo vệ số vốn được giao. Các quy định vè phân phối lợi nhuận sau thuế như: cho phép bù đắp khoản lỗ các năm trước không được trừ vào lợi nhuận trước thuế trước khi thu sử dụng vốn Ngân sách nhà nước, trích tối thiểu 50% phần lợi nhuận sau khi trừ các khoản phải trả vào quỹ đầu tư phát triển... tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp bảo toàn và phát triển vốn. 1.3. Bảo đảm sự bình đẳng giữa doanh nghiệp nhà nước với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác Doanh nghiệp nhà nước là đơn vị kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân, có quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý, trong đó có phần vốn Nhà nước giao. Như vậy, doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh thị trường một cách bình đẳng với các hình thức doanh nghiệp khác. Trong các cơ chế tài chính trước Luật doanh nghiệp nhà nước, nhiều quy định xử lý các vấn đề tài chính chỉ áp dụng cho doanh nghiệp nhà nước như đưa chênh lệch khi thanh lý, nhượng bán tài sản bổ sung vốn, tính vào chi phí khoản thu sử dụng vốn ngân sách, chế độ bảo toàn vốn... Những quy định này tạo sự mất bình đẳng giữa doanh nghiệp nhà nước với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Cơ chế tài chính hiện hành đã khắc phục được những điểm này như: chênh lệch thanh lý, nhượng bán tài sản được tính vào lợi nhuận của doanh nghiệp và phải chịu thuế; thu sử dụng vốn ngân sách nhà nước được lấy từ lợi nhuận sau thuế. Những quy định này tạo môi trường pháp lý bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, kích thích tính cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước. 1.4. Công tác giám sát đã đạt được một số kết quả. - Đã giúp Nhà nước nắm được tình hình vốn, tài sản của doanh nghiệp trong cả nước, của doanh nghiệp trung ương và doanh nghiệp địa phương một cách hệ thống. - Đã tổng hợp đánh giá được kết quả kinh doanh hàng năm; tình trạng và khả năng bảo toàn, phát triển vốn của từng doanh nghiệp, ngành, địa bàn và cấp quản lý. - Kết hợp tổng hợp, phân tích, đánh giá phân loại doanh nghiệp nhà nước về hiệu quả kinh doanh, quy mô kinh doanh đã giúp cho các ngành và địa phương có căn cứ tin cậy để tổ chức sắp xếp hoặc cơ cấu lại các doanh nghiệp nhà nước. - Đã bước đầu thiết lập được hệ thống cơ sở dữ liệu doanh nghiệp nhà nước, phục vụ cho việc phân tích, đánh giá hoạt động doanh nghiệp nhà nước. - Đã giúp cho doanh nghiệp chấn chỉnh công tác quản lý vốn; khắc phục được những tồn tại, yếu kém trong công tác quản lý, tăng thu cho ngân sách hàng năm hàng trăm tỷ đồng. 2. Hạn chế 2.1. Tổ chức bộ máy quản lý vốn nhà nước chưa hợp lý Hiện nay, Cục Tài chính doanh nghiệp trực thuộc Bộ Tài chính là cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tài chính đối với doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và đại diện chủ sở hữu đối với số vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước. Việc một cơ quan cùng lúc thực hiện cả hai nhiệm vụ này có ưu điểm là thống nhất chỉ đạo về chính sách kinh tế tài chính quốc gia đối với doanh nghiệp nhà nước. Nhưng các quyết sách của Cục đưa ra có thể bị lẫn lộn giữa nhiệm vụ quản lý nhà nước và chủ sở hữu. Do đó, hoạt động của doanh nghiệp bị can thiệp bởi cơ quan quản lý. Đồng thời doanh nghiệp cũng nảy sinh ra tính ỷ lại vào nhà nước. 2.2. Cơ chế đầu tư vốn chưa đầy đủ và phù hợp. Trong quy chế tài chính hiện nay còn một số vấn đề về đầu tư vốn cho doanh nghiệp nhà nước chưa được đề cập. Doanh nghiệp nhà nước được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đầu tư toàn bộ hoặc một phần vốn điều lệ ban đầu, nhưng không thấp hơn tổng mức vốn pháp định của các ngành nghề mà doanh nghiệp đó kinh doanh. Nhưng trong thực tế, nhiều doanh nghiệp nhà nước do Nhà nước thành lập nhưng vốn Nhà nước cấp lại không đủ mức tối thiểu cho sản xuất kinh doanh. Có tới 60% doanh nghiệp nhà nước không đủ vốn pháp định theo Nghị định 50/CP. Tổng công ty nhà nước được ưu tiên các điều kiện vật chất, nguồn lực để phát triển nhưng trong năm 1998 có tới khoảng 80% Tổng công ty có mức vốn nhà nước dưới mức vốn bình quân của các Tổng công ty, trong đó 35% Tổng công ty có mức vốn nhà nước dưới 1000 tỷ đồng. Như vậy, do không có qui định ràng buộc trách nhiệm đầu tư vốn của người quyết định thành lập doanh nghiệp nên đã xảy ra tình trạng doanh nghiệp được thành lập nhưng không được cấp đủ vốn điều lệ, gây ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trong quá trình kinh doanh, căn cứ vào hiệu quả sản xuất kinh doanh, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội mà Nhà nước giao cho doanh nghiệp và khả năng ngân sách Nhà nước, Nhà nước xem xét đầu tư bổ sung cho doanh nghiệp trong những trường hợp cần thiết. Tuy nhiên, chưa có tiêu chuẩn thống nhất về lợi nhuận, hiệu quả sản xuất kinh doanh, ngành nghề kinh doanh... để xác định doanh nghiệp nhà nước nào được đầu tư bổ sung. Thêm vào đó, phương thức đầu tư, mức đầu tư vốn cũng không được quy định cụ thể. Hơn nữa, cơ chế cấp bổ sung vốn như vậy còn mang nặng tính hành chính. Đối với vốn lưu động, doanh nghiệp nhà nước được tự bổ sung vốn từ nguồn lợi nhuận sau thuế thông qua trích lập quỹ đầu tư phát triển. Trong tổng số vốn nhà nước hiện nay là 110 ngàn tỷ thì vốn bổ sung của doanh nghiệp từ nguồn quỹ đầu tư phát triển là 22,5 ngàn tỷ. Ngoài ra, hàng năm Ngân sách dành một khoản hỗ trợ vốn lưu động cho doanh nghiệp, năm 2000 là 34 tỷ. Với doanh thu hàng năm khoảng 300.000 tỷ đồng, các doanh nghiệp nhà nước cần khoảng 75 ngàn tỷ đồng vốn lưu động. Như vậy vốn lưu động của các doanh nghiệp thiếu khoảng 55 tỷ. Trong thực tế, có những doanh nghiệp thực sự thiếu vốn. Nhưng có không ít các doanh nghiệp thiếu vốn do sử dụng vốn của mình không hiệu quả. Các doanh nghiệp nhà nước chiếm dụng vốn của nhau, vốn lưu động quay vòng luẩn quẩn làm cho tình hình tài chính của các doanh nghiệp trở nên phức tạp, thiếu vốn ngày càng trầm trọng. Đối với vốn cố định, mặc dù đã có cơ chế để lại khấu hao cơ bản cho doanh nghiệp nhưng việc sử dụng thường đạt hiệu quả không cao vì lâu nay việc cải tạo trang thiết bị, xây dựng, mua sắm mới tài sản cố định thường chủ yếu dựa vào nguồn cấp phát vốn của Ngân sách nhà nước. Nếu tiếp tục thực hiện cấp phát vốn thì không tạo được động lực cho doanh nghiệp sử dụng vốn một các hiệu quả, không ỷ lại vào Ngân sách nhà nước. 2.3. Vấn đề sở hữu doanh nghiệp nhà nước Theo Điều 1, Luật Doanh nghiệp nhà nước hiện hành, doanh nghiệp nhà nước được định nghĩa là “tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội do Nhà nước giao”. Theo khái niệm này, doanh nghiệp nhà nước là do Nhà nước đầu tư 100% vốn. Nói cách khác, 100% vốn chủ sở hữu trong doanh nghiệp nhà nước thuộc về Nhà nước. Tuy nhiên, trong Nghị định 27/1999/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn thi hành vẫn quy định doanh nghiệp nhà nước được huy động vốn dưới hình thức phát hành cổ phiếu “nhưng không được làm thay đổi hình thức sở hữu của doanh nghiệp”. Quy định này không phù hợp với thực tế. Doanh nghiệp nhà nước không thể chỉ phát hành cổ phiếu trong nội bộ khu vực nhà nước, sẽ có một bộ phận cổ phiếu được phát hành ra các thành phần kinh tế khác. Khi đó, hình thức sở hữu của doanh nghiệp nhà nước sẽ thay đổi. Thực chất, khi doanh nghiệp nhà nước phát hành cổ phiếu thì doanh nghiệp đang thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước- một hình thức đa dạng hoá các hình thức sở hữu doanh nghiệp nhà nước. 2.4. Doanh nghiệp nhà nước chưa thực sự được chủ động. Mặc dù đã được trao quyền chủ động huy động vốn và sử dụng tài sản trong phạm vi quản lý của doanh nghiệp, nhưng doanh nghiệp vẫn phải tuân theo một số hạn chế. Cơ quan quản lý vẫn giữ quyền can thiệp vào hoạt động của doanh nghiệp như phê chuẩn phương án huy động vốn, góp vốn liên doanh... Khi cầm cố, thế chấp, cho thuê, nhượng bán hay thanh lý tài sản là toàn bộ dây chuyền công nghệ chính của doanh nghiệp theo quy định của cơ quan quản lý ngành kinh tế - kỹ thuật, doanh nghiệp phải được cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp đồng ý bằng văn bản. Những quy định này đã hạn chế tính chủ động và quyền kinh doanh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, quy định còn khống chế các khoản chi giao dịch, tiếp khách, hội họp... bằng 7% tổng chi phí thực tế của doanh nghiệp. Do yêu cầu về khoản chi này ở từng doanh nghiệp, từng ngành nghề khác nhau là khác nhau nên việc khống chế một mức chi đối với mọi loại hình doanh nghiệp là không phù hợp. Nếu doanh nghiệp có thể thu được hiệu quả cao hơn từ việc bỏ ra thêm một khoản chi phí giao dịch thì nên trao quyền quyết định về mức chi này cho doanh nghiệp. Căn cứ vào đặc điểm ngành và nhu cầu của mình, doanh nghiệp xác định mức chi phù hợp. Đồng thời việc doanh nghiệp được tự quyết định khoản chi này cũng góp phần tăng cường trách nhiệm của những người quản lý doanh nghiệp. 2.5. Chế độ phân phối lợi nhuận sau thuế Chế độ thu sử dụng vốn ngân sách nhà nước: Nghị định 22/HĐBT ngày 24/1/1991 về thu sử dụng vốn ngân sách nhà nước quy định các doanh nghiệp nhà nước hàng năm phải nộp ngân sách số tiền bằng 2,4% đến 6% (tuỳ ngành nghề kinh doanh) số vốn doanh nghiệp được nhà nước giao quản lý và sử dụng. Từ năm 1991 đến trước Nghị định 59/CP ngày 3/10/1996, khoản này được hạch toán vào chi phí của doanh nghiệp. Từ năm 1997 đến nay, doanh nghiệp nộp thu sử dụng vốn ngân sách nhà nước từ lợi nhuận sau thuế. Mục đích của khoản thu sử dụng vốn ngân sách nhà nước là nhằm đảm bảo công bằng trong việc sử dụng các nguồn vốn, thúc đẩy doanh nghiệp sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ngân sách. Tuy nhiên, cơ chế lại quy định các doanh nghiệp lỗ không phải nộp khoản này còn các doanh nghiệp làm ăn có lãi thì phải nộp. Như vậy, cả hai mục đích trên đều không đạt được, vừa tạo ra sự bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp, vừa không khuyến khích doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả. Mức thu sử dụng vốn ngân sách được tính trên số vốn nhà nước có tại doanh nghiệp. Như vậy khoản thu này không gắn với kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nhưng lại lấy từ lợi nhuận sau thuế. Điều này dẫn tới một số doanh nghiệp sau khi nộp thu sử dụng vốn thì không còn nguồn để trích lập các quỹ, ảnh hưởng đến việc bảo toàn vốn cũng như quyền lợi của người lao động. Mặt khác, nếu coi nhà nước như một nhà đầu tư vốn vào doanh nghiệp thì việc nộp thu sử dụng vốn ngân sách nhà nước trước khi chia lãi cho đối tác góp vốn kinh doanh (nếu có) là không công bằng. Chế độ trích lập các quỹ Đối với lợi nhuận sau thuế, doanh nghiệp phải trích lập các loại quỹ sau: quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính, quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm, quỹ phúc lợi và khen thưởng, chưa kể các quỹ đặc biệt mà các doanh nghiệp kinh doanh trong các ngành, lĩnh vực đặc thù phải trích lập. Thực tế, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước chưa cao, số doanh nghiệp không có lợi nhuận, thua lỗ chiếm tỷ lệ lớn. Những doanh nghiệp có lợi nhuận tăng so với năm trước không nhiều. Một số lớn doanh nghiệp sau khi nộp thuế thu nhập doanh nghiệp và nộp thu sử dụng vốn ngân sách nhà nước thì còn rất ít lợi nhuận. Trong điều kiện nguồn lợi nhuận sau thuế hạn chế đó, việc chia ra quá nhiều loại quỹ trong doanh nghiệp thực sự làm phân tán nguồn tài chính của doanh nghiệp. Nội dung sử dụng các quỹ còn quá lớn, phân tán, tạo ra mâu thuẫn căng thẳng giữa nhu cầu chi và khả năng của các quỹ. Chế độ còn quy định mức trích tối đa cho hai quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi là 2 hoặc 3 tháng lương thực hiện của doanh nghiệp căn cứ vào tỷ suất lợi nhuận trên vốn nhà nước. Quy định này phần nào không khuyến khích người lao động tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh vì không gắn quyền lợi của họ với kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Dù doanh nghiệp làm ra bao nhiêu lợi nhuận thì vẫn chỉ được trích lập hai quỹ này tối đa theo lương của người lao động, có nghĩa là người lao động không thể được hưởng hơn một mức nhất định. Đây là một vấn đề bất hợp lý, cản trở sự nỗ lực đi lên của doanh nghiệp. 2.6. Trách nhiệm của người quản lý doanh nghiệp chưa cụ thể Doanh nghiệp được huy động các nguồn vốn khác nhau để hình thành nguồn vốn kinh doanh theo nguyên tắc tự chịu trách nhiệm về hiệu quả sử dụng vốn vay, hoàn trả cả gốc và lãi cho người vay theo cam kết; được sử dụng vốn, tài sản để thực hiện các dự án đầu tư theo nguyên tắc có hiệu quả, bảo toàn, phát triển vốn. Tuy nhiên nhiều doanh nghiệp huy động vốn bằng mọi giá, không tính đến hiệu quả nên rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán dẫn tới phá sản; nhiều chương trình sử dụng vốn vay kém hiệu quả. Nhưng vì chưa có cơ chế nào quy định cụ thể, rõ ràng trách nhiệm của người quản lý điều hành nên hậu quả thường do Nhà nước phải gánh chịu, tìm cách giải quyết. 2.7. Hiệu quả công tác giám sát doanh nghiệp nhà nước chưa cao. - Công tác giám sát chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý của đại diện chủ sở hữu. Việc giám sát chưa tập trung đánh giá, phát hiện khả năng thanh toán nợ của doanh nghiệp cũng như hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp để có biện pháp xử lý kịp thời. - Hệ thống cơ sở dữ liệu chưa hoàn chỉnh ở cấp Trung ương và địa phương; chất lượng dữ liệu còn hạn chế; chưa có sự phân biệt giữa các doanh nghiệp quy mô lớn, vừa và nhỏ. - Kênh thông tin từ doanh nghiệp lên các cơ quan tài chính thường chậm và không đầy đủ. Do đó việc phân tích đánh giá tình hình doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, chậm và hạn chế tác dụng của giám sát sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp. - Công tác giám sát còn nhiều chồng chéo, trùng lặp, còn gây khó khăn phiền hà cho doanh nghiệp. Chương 3: Một số kiến nghị nhằm đổi mới công tác quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước của Cục tài chính doanh nghiệp 1. Mục tiêu cơ bản khi thực hiện đổi mới công tác quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước. Từ trước đến nay, đổi mới công tác quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước luôn được Nhà nước quan tâm. Trong Nghị quyết Trung ương 3 khoá IX về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước”, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý để doanh nghiệp nhà nước kinh doanh tự chủ, tự chịu trách nhiệm, hợp tác và cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác theo pháp luật. ... Xóa bao cấp, đồng thời có chính sách đầu tư đúng đắn và hỗ trợ phù hợp đối với những ngành, lĩnh vực sản phẩm cần ưu tiên phát triển. Phân biệt rõ chức năng của cơ quan đại diện quyền chủ sở hữu của nhà nước với chức năng điều hành sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Giao quyền quyết định nhiều hơn đi đôi với đòi hỏi trách nhiệm cao hơn đối với đại diện trực tiếp chủ sở hữu tại doanh nghiệp.” Trên cơ sở đó, mục tiêu của công tác quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước trong giai đoạn 2001- 2005 là: Tạo khuôn khổ pháp lý bình đẳng, lành mạnh, thông thoáng, ổn định cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế; nâng cao hiệu quả kinh doanh và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong môi trường kinh doanh của cơ chế thị trường, hội nhập khu vực và quốc tế. Tăng quyền tự chủ của doanh nghiệp, giảm sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước chỉ quản lý về mặt giá trị dưới hình thức đầu tư vốn vào doanh nghiệp. Doanh nghiệp nhà nước là pháp nhân kinh tế, có quyền của người kinh doanh, chi phối các yếu tố sản xuất và nắm giữ quyền quản lý và tài sản của doanh nghiệp. Các khoản tài trợ, các chính sách ưu đãi phải dần được xoá bỏ, thay vào đó là các chính sách tài trợ cho các mục tiêu, các hoạt động mang tính xã hội mà doanh nghiệp chỉ được hưởng khi thực hiện các mục tiêu, hoạt động đó. Tạo điều kiện cho doanh nghiệp bổ sung vốn kinh doanh từ khả năng tài chính của mình và huy động vốn của xã hội để đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh. Thay đổi phương thức quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tồn tại và phát triển, ổn định và tăng thu nhập cho người lao động, tăng mức đóng góp cho Ngân sách Nhà nước. Nhà nước chỉ nắm giữ những doanh nghiệp nhà nước cần sở hữu 100% thuộc các ngành, lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế hoặc những ngành mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không thể làm đưọc; xử lý những doanh nghiệp nhà nước làm ăn không có hiệu quả, kinh doanh thua lỗ kéo dài, giảm bớt gánh nặng của doanh nghiệp và Ngân sách Nhà nước. 2. Một số kiến nghị nhằm đổi mới công tác quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước. Xuất phát từ những hạn chế còn tồn tại trong công tác quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước và những mục tiêu trong giai đoạn 2001- 2005, sau đây là một vài kiến nghị nhằm đổi mới công tác quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước: 2.1. Đổi mới tổ chức quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước. Nhà nước thành lập Công ty đầu tư tài chính nhà nước. Công ty là đại diện chủ sở hữu đối với số vốn Nhà nước đã giao cho công ty mà công ty đã đầu tư vào doanh nghiệp khác. Nhiệm vụ của công ty là tổ chức kinh doanh số vốn Nhà nước đã đầu tư cho công ty bằng các phương thức đầu tư, góp vốn vào các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế bao gồm doanh nghiệp nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Công ty đầu tư tài chính nhà nước là một doanh nghiệp nhà nước, được Nhà nước quyết định thành lập, đầu tư vốn và tổ chức quản lý. Công ty chịu sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp nhà nước, có tư cách pháp nhân, chịu trách nhiệm dân sự bằng toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của công ty. Nhà nước chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã đầu tư cho công ty. Công ty đầu tư tài chính nhà nước là một doanh nghiệp nhà nước có đầy đủ quyền tổ chức quản lý, tổ chức kinh doanh và quản lý tài chính và quyền của một pháp nhân được quy định trong các văn bản pháp luật. Những quyền quan trọng nhất của công ty là: - Được sử dụng toàn bộ số vốn Nhà nước đã giao cho công ty quản lý, sử dụng các khoản lợi nhuận thu được từ việc đầu tư (sau khi đã nộp thuế và trích các quỹ doanh nghiệp) và các nguồn vốn hợp pháp khác của công ty để đầu tư vào các doanh nghiệp. - Được lựa chọn đối tượng, phương thức đầu tư, đầu tư bổ sung hoặc giảm bớt đầu tư vào các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế theo quy định của pháp luật và điều lệ doanh nghiệp. - Được thực hiện vai trò, quyền của chủ sở hữu, của thành viên góp vốn, của cổ đông đối với số vốn công ty đã đầu tư vào các doanh nghiệp. - Được hưởng lợi từ các khoản đầu tư của công ty vào các doanh nghiệp. Việc thành lập Công ty đầu tư tài chính Nhà nước có ưu điểm: - Góp phần vào quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước, đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước và quan trọng nhất là tách riêng chức năng quản lý nhà nước và chức năng đại diện chủ sở hữu đối với vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước hiện đang do một cơ quan quản lý nhà nước thực hiện (Bộ Tài chính). - Chấm dứt sự can thiệp của cơ quan quản lý nhà nước vào hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát huy đầy đủ quyền chủ động trong hoạt động kinh doanh và quản lý tài chính. - Xoá bỏ sự bao cấp về vốn của Nhà nước cho các doanh nghiệp nhà nước thông qua việc cấp bổ sung vốn lưu động (cấp không hoàn lại) để chuyển sang hình thức đầu tư tài chính (kinh doanh vốn), qua đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước. - Thay đổi phương thức quản lý vốn nhà nước từ cách thức quản lý kiểu hành chính sang phương thức kinh doanh vốn theo cơ chế thị trường thông qua công ty đầu tư tài chính. - Thông qua việc đầu tư vốn nhà nước vào các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả thuộc mọi thành phần kinh tế, thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội trong từng vùng, từng khu vực kinh tế một cách bền vững. 2.2. Hoàn thiện cơ chế đầu tư vốn Bất cứ doanh nghiệp nhà nước nào khi thành lập phải có vốn điều lệ. Về nguyên tắc, số vốn theo điều lệ phải lớn hơn hoặc bằng tổng mức vốn pháp định mà Nhà nước quy định cho các ngành nghề. Vì thế, ngay khi có quyết định thành lập, doanh nghiệp nhà nước phải được cấp vốn điều lệ theo đúng điều lệ thành lập của doanh nghiệp. Cần có quy định thêm trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu (người quyết định thành lập doanh nghiệp) phải cấp đủ số vốn đã cam kết trong Điều lệ doanh nghiệp. Trường hợp không bổ sung đủ vốn theo cam kết thì tuỳ theo tình hình cụ thể mà có hướng xử lý thích hợp: -Chuyển thành nợ phải thu của doanh nghiệp đối với đại diện chủ sở hữu -Điều chỉnh giảm vốn điều lệ nếu sau một thời hạn 5 năm mà đại diện chủ sở hữu vẫn không cấp đủ vốn. Trường hợp nguồn vốn chủ sở hữu nhỏ hơn 40% mức vốn pháp định liên tục trong 6 tháng thì phải tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Vốn cấp có thể bằng tiền, bằng quyền sử dụng đất, bằng các tài sản hữu hình, vô hình khác được đánh giá theo thời giá nhằm đảm bảo cho doanh nghiệp nhà nước có thể sản xuất kinh doanh bình thường, cạnh tranh được trên thị trường. Trong quá trình kinh doanh, nếu thiếu vốn, doanh nghiệp nhà nước phải tự huy động trên thị trường, Nhà nước không cấp thêm. Tuy nhiên, trong một số trường hợp cụ thể, doanh nghiệp nhà nước có thể được cấp thêm vốn để thực hiện thêm một số chức năng được giao bổ sung. Khi có nhu cầu đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, nếu quỹ đầu tư phát triển không đủ sức bù đắp, doanh nghiệp nhà nước được quyền dùng lợi nhuận sau thuế để tái đầu tư (phải có phương án khả thi và được cơ quan tài chính duyệt). Trong chừng mực nhất định, nếu lợi nhuận để lại không đủ thì Nhà nước sẽ cấp thêm (chỉ một lần khi thực hiện dự án). Điều kiện, tiêu chuẩn cấp vốn bổ sung cần được thống nhất, có thể theo hướng: Doanh nghiệp nộp thuế thu nhập năm sau cao hơn năm trước, doanh nghiệp có dự án có tác động thúc đẩy kinh tế vùng phát triển. Khi được cấp vốn điều lệ hay được bổ sung vốn điều lệ, doanh nghiệp nhà nước phải công bố công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng. 2.3. Thống nhất vấn đề sở hữu trong doanh nghiệp nhà nước khi huy động vốn. Sau khi sử dụng hết số nguồn vốn chủ sở hữu, khi nhu cầu vốn tăng, doanh nghiệp nhà nước được phép huy động, tận dụng các nguồn vốn bên ngoài theo nguyên tắc có hoàn trả dưới hình thức tín dụng hoặc chiếm dụng hợp pháp. Điều đó có nghĩa là khi doanh nghiệp nhà nước thiếu vốn thì có thể vay vốn của ngân hàng, các tổ chức tín dụng khác, cũng có thể vay vốn dưới dạng phát hành trái phiếu công ty trong phạm vi nhu cầu vốn thiếu cần thiết cho kinh doanh, không được phép vay nhằm mục đích đáo nợ. Lãi suất tiền vay được xác định theo nguyên tắc thoả thuận giữa người vay và người cho vay và được trừ vào thu nhập trước thuế. Xoá bỏ quy định cho phép doanh nghiệp nhà nước huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu, đảm bảo sở hữu nhà nước của doanh nghiệp. 2.4. Mở rộng hơn nữa quyền tự chủ của doanh nghiệp nhà nước Vấn đề mở rộng quyền tự chủ của doanh nghiệp nhà nước gắn bó chặt chẽ với việc tách bạch quyền sở hữu với quyền quản trị kinh doanh của doanh nghiệp. Khi tách bạch được hai quyền này thì quyền tự chủ của doanh nghiệp sẽ được mở rộng hơn. Vì thể cần tăng cường áp dụng mô hình Hội đồng quản trị, thuê giám đốc điều hành và trả lương dựa trên hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Với mô hình này, doanh nghiệp có quyền chủ động hơn: Doanh nghiệp được quyết định việc đầu tư của mình. Các dự án có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp do đại diện chủ sở hữu, tức là Hội đồng quản trị (đối với doanh nghiệp có Hội đồng quản trị) hoặc đại diện chủ sở hữu (đối với doanh nghiệp nhà nước không có Hội đồng quản trị) quyết định. Các dự án có giá trị thấp hơn tỷ lệ quy định trên do doanh nghiệp quyết định, cụ thể là Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc. Tương tự, đối với vay vốn, đại diện chủ sở hữu quyết định các dự án vay vốn có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản ghi trên báo cáo tài chính của doanh nghiệp công bố tại thời điểm gần nhất. Tổng Giám đốc hoặc Giám đốc doanh nghiệp quyết định đối với dự án vay vốn có giá trị thấp hơn tỷ lệ quy định trên. Việc cầm cố, thế chấp, cho thuê, nhượng bán, thanh lý tài sản, xử lý tài sản tổn thất đều do doanh nghiệp tự quyết định. Để bảo vệ quyền lợi chủ sở hữu, đối với trường hợp nhượng bán tài sản có giá trị bằng 50% tổng giá trị tài sản theo sổ sách phải được sự chấp nhận của đại diện chủ sở hữu. Đối với trường hợp xử lý tài sản tổn thất, nên quy định trình tự, thời hạn xử lý để tránh thất thoát tài sản doanh nghiệp. Trường hợp tổn thất đặc biệt lớn do nguyên nhân bất khả kháng mà các khoản bù đắp (bảo hiểm, người gây thiệt hại, các khoản dự phòng...) cũng không giúp doanh nghiệp tự khắc phục được thì Nhà nước mới xem xét xử lý. Doanh nghiệp có quyền điều hoà, phân phối nguồn vốn, quỹ trong phạm vi doanh nghiệp nhằm thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trên cơ sở tôn trọng các quy định của pháp luật. Khi đã giao vốn, Nhà nước không thu hồi lại vốn sản xuất kinh doanh trong thời gian doanh nghiệp hoạt động nhằm đảm bảo cho doanh nghiệp chủ động trong kinh doanh và bảo toàn vốn. Trường hợp doanh nghiệp nhà nước thu hẹp chức năng nên thừa vốn, doanh nghiệp không có hướng đầu tư hiệu quả thì Nhà nước sẽ thu lại một phần vốn tương đương với số vốn thừa. Trên cơ sở xây dựng quy chế thưởng khuyến khích người quản lý, điều hành doanh nghiệp gắn với kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, thực hiện bỏ qui định khống chế các khoản chi giao dịch, tiếp khách... Doanh nghiệp tự quyết định dựa trên nhu cầu thực tế của doanh nghiệp. Hội đồng quản trị duyệt định mức, công bố công khai; Giám đốc quyết định mức chi cụ thể. Việc bỏ qui định mức khống chế chi này cũng nhằm nâng cao trách nhiệm của Hội đồng quản trị và Giám đốc doanh nghiệp, đồng thời tăng cường giám sát của người lao động. 2.5. Hoàn thiện chính sách phân phối và sử dụng các quỹ Nhà nước là chủ sở hữu của doanh nghiệp nên phần lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp hoàn toàn thuộc về Nhà nước. Nhà nước có toàn quyền sử dụng khoản này. Do vậy không cần thiết phải có khoản thu sử dụng vốn ngân sách nữa. Để đảm bảo hài hoà ba lợi ích của chủ sở hữu, doanh nghiệp và người lao động, khuyến khích người quản lý điều hành doanh nghiệp gắn với kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cần sửa đổi chế độ phân phối lợi nhuận sau thuế theo hướng doanh nghiệp làm ra càng nhiều lợi nhuận thì mức trích lập các quỹ của doanh nghiệp càng tăng, ngược lại doanh nghiệp làm ra ít lợi nhuận thì mức trích lập các quỹ cũng phải giảm xuống. Phần lợi nhuận sau thuế sau khi bù các khoản lỗ chưa được trừ vào lợi nhuận trước thuế được trích quỹ khen thưởng, phúc lợi. Mức trích hai quỹ này căn cứ vào lợi nhuận của doanh nghiệp. Thực hiện lập quỹ Giám đốc nhằm thưởng cho Hội đồng quản trị và Giám đốc doanh nghiệp có thành tích trong quản lý, điều hành doanh nghiệp, phù hợp với chế độ tài chính của doanh nghiệp nhà nước chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên (Giám đốc doanh nghiệp được nhận tiền thưởng khi có thành tích trong quản lý, điều hành doanh nghiệp). Phần còn lại dùng để bổ sung vào vốn của doanh nghiệp để đầu tư đổi mới công nghệ, máy móc, thiết bị... Nếu doanh nghiệp không có nhu cầu hoặc doanh nghiệp sẽ chuyển đổi sở hữu thì Nhà nước thu vào ngân sách hoặc chuyển vốn cho những doanh nghiệp cần được đầu tư. Như vậy, lợi nhuận của doanh nghiệp sau khi nộp thuế thu nhập doanh nghiệp và bù khoản lỗ của các khoản năm trước đối với các khoản lỗ không được trừ vào lợi nhuận trước thuế được phân phối như sau: - Trích 10% vào quĩ dự phòng tài chính. - Trích 5% vào quĩ dự phòng mất việc làm - Trích quĩ đặc biệt (nếu có) - Chia lãi thành viên góp vốn (nếu có) - Lợi nhuận còn lại sau khi trừ 5 khoản trên được phân phối như sau: a. Trích 10% lập quĩ khen thưởng để thưởng cho người lao động trong doanh nghiệp tuỳ theo thành tích đóng góp của mỗi người và người ngoài doanh nghiệp hoàn thành tốt những điều kiện của hợp đồng, đóng góp có hiệu quả vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Mức thưởng do Tổng Giám đốc hoặc Giám đốc quyết định. b. Trích 10% lập quĩ phúc lợi. c. Trích tối đa 5% lập quỹ Giám đốc để thưởng cho Hội đồng quản trị và Tổng Giám đốc (Giám đốc) có thành tích trong quản lý, điều hành doanh nghiệp. Mức thưởng cho Hội đồng quản trị cho chủ sở hữu quyết định. Mức thưởng cho Tổng Giám đốc (Giám đốc) do Hội đồng quản trị quyết định. d. Số còn lại bổ sung vào vốn kinh doanh của doanh nghiệp hoặc chủ sở hữu có thể điều động một phần để đầu tư cho doanh nghiệp khác. 2.6. Quy định rõ trách nhiệm của người quản lý doanh nghiệp. Mở rộng quyền chủ động của doanh nghiệp phải đồng thời với xác định cụ thể trách nhiệm của người quản lý doanh nghiệp. Cần có chế tài nghiêm khắc đối với trường hợp người quản lý doanh nghiệp có quyết định đầu tư không hiệu quả, cầm cố, thế chấp, cho thuê, nhượng bán, thanh lý tài sản không đúng quy định gây thất thoát vốn, tài sản, gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh doanh của chính doanh nghiệp nhà nước đó, làm giảm kết qua tài chính của doanh nghiệp nhà nước, bất kể do người quản lý đó không đủ tài quản lý hay do cố tình thu lợi cá nhân. 2.7. Tăng cường công tác giám sát quản lý vốn Để các chính sách được thực thi hiệu quả thì việc kiểm tra, giám sát doanh nghiệp là rất quan trọng. Cần quy định việc kiểm toán báo cáo tài chính doanh nghiệp thay thế việc kiểm tra báo cáo tài chính hàng năm. Căn cứ vào quy mô và tầm quan trọng của từng doanh nghiệp, trước mắt áp dụng kiểm toán đối với một số doanh nghiệp. Sau đó tiến tới kiểm toán tất cả các doanh nghiệp hàng năm. Chế độ công khai tài chính phải được quy định trong Luật Doanh nghiệp nhà nước, xác định là nghĩa vụ doanh nghiệp phải thực hiện. Đối với doanh nghiệp không thực hiện, thực hiện muộn hoặc không đầy đủ cần có chế tài xử lý. Bên cạnh đó, cần tổ chức lại hệ thống quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp theo từng chức năng quản lý nhà nước và đại diện chủ sở hữu. Hiện tại, Cục Tài chính doanh nghiệp đang thực hiện công tác quản lý nhà nước: ban hành chính sách chế độ đối với các loại hình doanh nghiệp, đồng thời lại phải giám sát sử dụng vốn nhà nước của các doanh nghiệp nhà nước. Để đảm bảo chất lượng công tác quản lý, cần thành lập một cơ quan riêng giúp Nhà nước thực hiện vai trò chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước. Cơ quan này chịu trách nhiệm phối hợp với các Bộ, ngành, cơ quan chức năng để xử lý các vấn đề vượt thẩm quyền của doanh nghiệp, là người ra quyết định xử lý các vấn đề kinh tế, kỹ thuật, nghiệp vụ. Cơ quan này có nhiệm vụ kiểm tra giám sát công tác sử dụng vốn nhà nước của các doanh nghiệp nhà nước và các chức năng nhiệm vụ khác của chủ sở hữu đối với doanh nghiệp. Kết luận Hiện nay, quốc tế hoá nền kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn thế giới. Theo xu thế chung, Việt Nam cũng đang từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực, trong đó các doanh nghiệp nhà nước càng phải khẳng định vai trò chủ đạo của mình. Để các doanh nghiệp nhà nước tồn tại và phát triển thì cần tăng cường đổi mới cơ chế chính sách quản lý đối với doanh nghiệp nhà nước, đồng thời cũng cần gắn liền với giám sát các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp với thị trường- hoạt động sử dụng vốn, tăng trưởng lợi nhuận, bảo toàn và phát triển vốn kinh doanh. Thống nhất các quan điểm trong nội dung trên đây, đưa vào áp dụng trong thực tế chính là góp phần cải cách thể chế, cải cách việc sử dụng các công cụ kinh tế- tài chính, thúc đẩy doanh nghiệp chuyển sang cơ chế tự chủ kinh doanh thực sự và đầy đủ. Trong quá trình chuyển đổi đó, những bước đi và giải pháp đồng bộ cả về lý luận và thực tiễn quản lý vốn, đặc biệt là cơ chế chính sách và hoạt động giám sát có ý nghĩa quan trọng đối với toàn bộ tiến trình cải cách doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay. Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình Tài chính doanh nghiệp- ĐH Kinh tế quốc dân- NXB Giáo dục 1998. 2. Hệ thống chế độ quản lý Tài chính doanh nghiệp- NXB thống kê 1999 3. Đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam- NXB Khoa học xã hội 1997. 4. Tạp chí Tài chính 4, 5, 6, 9, 10/2000; 3, 6, 12/2001; 1+2/2002 5. Tạp chí Thông tin tài chính 7, 8, 12/01 6. Tạp chí Phát triển kinh tế 10, 12/01 7. Kinh tế Việt Nam và thế giới 2000, 2001 Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0017.doc