Đề tài Đổi mới hoạt động kinh doanh ở công ty cổ phần xây dựng và sản xuất vật liệu xây dựng Yên Từ

Tài chính doanh nghiệp là những quan hệ tiền tệ gắn trực tiếp với việc tổ chức, huy động, phân phối, sử dụng và quản lý vốn trong quá trình kinh doanh. Sử dụng vốn trong kinh doanh là một khâu có tầm quan trọng quyết định đến hiệu quả kinh doanh. Tuy nhên việc sử dụng vốn kinh doanh lại là kết quả tổng hợp của tất cả các khâu, các bộ phận trong kinh doanh, từ phương hướng kinh doanh đến biện pháp tổ chức thực hiện cũng như sự quản lý hạch toán, theo dõi, kiểm tra. Mục đích của sử dụng vốn trong kinh doanh là nhằm bảo đảm nhu cầu tối đa về vốn cho việc phát triển sản xuất kinh doanh trên cơ sở nguồn vốn có hạn được sử dụng một cách hợp lý, tiết kiệm đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Để đạt được mục đích trên yêu cầu cơ bản của sử dụng vốn là: - Bảo đảm sử dụng vốn đúng phương hướng, đúng mục đích và đúng kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp.

doc71 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1307 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đổi mới hoạt động kinh doanh ở công ty cổ phần xây dựng và sản xuất vật liệu xây dựng Yên Từ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng rất quan trọng vì nó quyết định sản phẩm được sản xuất ra có đạt chất lượng hay không, do đó thiết bị sử dụng trong công đoạn này là lò nung phải đảm bảo và người công nhân đốt lò phải có tay nghề cao và như vậy sẽ làm giảm giá thành sản phẩm tăng doanh thu. Sau khi sản phẩm đã được sản xuất ra, bước tiếp theo mà doanh nghiệp phải thực hiện là tổ chức tiêu thụ sản phẩm. Tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh, là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Tiêu thụ sản phẩm thực hiện mục đích của sản xuất hàng hoá là đưa sản phẩm từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng. Trong quá trình tuần hoàn các nguồn vật chất, việc mua và bán các sản phẩm của doanh nghiệp được thực hiện cả về giá trị sử dụng và giá trị. Hoạt động tiêu thụ sản phẩm ở doanh nghiệp bao gồm các nghiệp vụ kỹ thuật sản xuất và các nghiệp vụ kinh tế. Đối với doanh nghiệp việc chuẩn bị hàng hoá để sản xuất bán cho khách hàng là hoạt động tiếp tục quá trình sản xuất trong khâu lưu thông. Các nghiệpvụ sản xuất ở kho bao gồm: tiếp nhận, phân loại, xếp hàng ở kho và chuẩn bị để xuất bán, vận chuyển hàng hoá theo yêu cầu của khách hàng. ở doanh nghiệp, tiêu thụ sản phẩm đóng vai trò quan trọng, quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, khi bán sản phẩm của doanh nghiệp được tiêu thụ tức là nó đã được người tiêu dùng chấp nhận để thoả mãn một nhu cầu nào đó. Sức tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp thể hiện ở mức bán ra, uy tín của doanh nghiệp, chất lượng sản phẩm, sự thích hợp với nhu cầu người tiêu dùng và hoàn thiện của các hoạt động dịch vụ. Công tác tiêu thụ sản phẩm gắn doanh nghiệp với người tiêu dùng, nó giúp cho doanh nghiệp hiểu thêm về kết quả sản xuất của mình và nhu cầu của khách hàng. Tiêu thụ sản phẩm giúp cho doanh nghiệp xác định phương hướng và bước đi của kế hoạch sản xuất cho giai đoạn tiếp theo. Thông qua tiêu thụ sản phẩm có thể dự đoán nhu cầu tiêu dùng của xã hội nói chung và từng khu vực nói riêng đối với từng loại sản phẩm. Trên cơ sở đó doanh nghiệp sẽ xây dựng được các kế hoạch sản xuất phù hợp nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Tóm lại để hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được tiến hành thường xuyên, liên tục hiệu quả thì công tác tiêu thụ sản phẩm phải được tổ chức tốt. Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh ngày càng gay gắt thì việc tiêu thụ sản phẩm có ý nghĩa quan trọng quyết định sự sống còn của doanh nghiệp. 3. Phân tích hoạt động kinh doanh của công ty cổ phần xây dựng và sản xuất vật liệu xây dựng Yên Từ. 3.1.Hoạt động thương mại đầu vào Công ty cổ phần xây dựng và sản xuất vật liệu xây dựng Yên Từ chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01 tháng 10 năm 1998 đến nay tuy thời gian chưa nhiều, khó khăn vướng mắc nhất là trong vấn đề chiếm lĩnh thị trường, lấy lại y tín của doanh nghiệp, bằng những giải pháp phù hợp công ty đã từng bước đi vào ổn định trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh đã được xác định Công ty xây dựng kế hoạch vật tư để nhằm mua sắm tốt nhất các loại vật tư kỹ thuật phục vụ sản xuất của Công ty. Nguyên nhiên liệu được đảm bảo đáp ứng đầy đủ cho nhu cầu sản xuất, máy móc trang thiết bị một phần được đổi mới, một phần được cải tạo nâng cấp do đó chất lượng sản phẩm sản xuất ra được nâng lên, mẫu mã sản phẩm sản xuất ra được nâng lên, mẫu mã sản phẩm phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Bộ máy quản lý, đội ngũ lao động được củng cố lại... 3.2. Hoạt động sản xuất của Công ty Bằng hình thức tổ chức sản xuất gọn nhẹ theo hai phân xưởng sản xuất nên tuy bước đầu hoạt động, khối lượng sản phẩm và chất lượng sản phẩm của Công ty đã đạt được những tiến bộ khả quan. Trên cơ sở đó bước đầu sản phẩm của công ty cổ phần xây dựng và sản xuất vật liệu xây dựng Yên Từ đã có chỗ đứng trên thị trường , đời sống của cán bộ công nhân viên trong công ty được cải thiện. Giá trị sản lượng hàng hoá sản xuất ra được thể hiện thông qua bảng sau: Bảng 4: Giá trị sản lượng sản xuất Đơn vị tính: viên Chỉ tiêu Quý IV/1998 Quý I/1999 Tổng sản lượng 1.235.000 1.300.000 Trong đó: - Sản phẩm gạch 1.100.000 1.200.000 - Sản phẩm ngói 135.000 100.000 Qua bảng trên ta thấy sản lượng hàng hoá sản xuất ra của công ty trong quý I năm 1999 tăng 3,7% so với quý IV năm 1998 hay 65.000 viên . Nguyên nhân là do năng suất lao động tăng lên và hiệu quả sử dụng thiết bị máy móc tăng lên. 3.3. Hoạt động tiêu thụ của Công ty Do những kết quả bước đầu trong khâu sản xuất nên sản phẩm của Công ty đã có được vị trí nhất định trên thị trường tiêu thụ. Khả năng tiêu thụ cao, có triển vọng tăng trưởng tốt. Sản lượng hàng hoá tiêu thụ của công ty ở quý IV/98 và quý I/99 như sau: Bảng 5: Sản lượng hàng hoá tiêu thụ của công ty . Đơn vị tính : viên STT Chỉ tiêu Tồn đầu kỳ Nhập trong kỳ Xuất trong kỳ Tồn cuối kỳ 1 Quý IV/98 0 1.235.000 1.200.000 35.000 2 Quý I/99 35.000 1.300.000 1.223.000 112.000 - Gạch 30.000 1.100.000 1.161.500 68.500 - Ngói 5.000 100.000 61.500 43.500 Quý IV/98 giá trị sản lượng hàng hoá bán ra đạt 97,2% trên tổng giá trị sản lượng hàng hoá. Quý I/99 sản lượng hàng hoá bán ra đạt 91,6% trên tổng giá trị sản lượng hàng hoá. Mặc dù sản lượng hàng hoá bán ra quý I/99 tăng lên 1,9% so với quý VI/98 nhưng lượng hàng tồn kho cuối kỳ cũng tăng lên, do đó để tránh ứ đọng vốn công ty cần đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ sản phẩm. 3.4. Hoạt động tài chính của Công ty Mặc dù mới hoạt động theo loại hình Công ty cổ phần, nhưng Công ty đã có nhiều cố gắng trong các lĩnh vực sản xuất, tiêu thụ. Biểu hiện tập trung của kết quả kinh doanh của Công ty được thể hiện ở kết quả hoạt động tài chính của Công ty trong gần 1 năm qua. Tình hình tài chính của Công ty được thể hiện trong bảng 6: Bảng 6: Tình hình tài chính của Công ty Đơn vị tính: đồng STT Chỉ tiêu Quý IV/98 Quý I/99 1 Vốn hoạt động 600.000.000 600.000.000 2 Doanh thu 443.450.000 453.200.000 3 Tổng chi phí 401.376.000 396.120.000 4 Lợi nhuận trước thuế 42.074.000 57.080.000 5 Lợi nhuận sau thuế 36.814.750 49.945.000 6 Nộp ngân sách 19.022.680 24.420.000 7 Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn điều lệ (%) 6,14 8 Trích quỹ: - quỹ phát triển SXKD 5% 1.840.738 - quỹ phúc lợi 5% 1.840.738 - Quỹ khen thưởng 5% 1,840.738 - Quỹ dự trữ bắt buộc 5% 1,840.738 9 Lợi tức cổ phần bình quân %/tháng 1,63 10 Thu nhập bình quân người lao động /tháng 312.000 325.000 Nhìn vào bảng ta thấy doanh thu quý I năm 99 tăng so với quý IV năm 98 là 2,2 % điều này cho thấy sản phẩm của công ty sản xuất ra đã được thị trường chấp nhận, bên cạnh đó chi phí quý I/99 giảm 1,3% so với quý IV/98 do đó làm lợi nhuận trước thuế của công ty tăng 35,6% tương đương với 15,006 triệu đồng. Thu nhập bình quân của người lao động quý I/99 tăng 4,2% so với quý IV/98. 3.5. Thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty: Thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty hiện nay là các tỉnh Ninh Bình, Thanh Hoá, Nam Định và Hà Nam. Cơ cấu thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty được thể hiện ở bảng 7 dưới đây: Bảng 7: Cơ cấu thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty Đơn vị tính : viên Năm Địa phương Quý IV/98 Quý I/99 Số lượng Tỷ trọng (%) Sô lượng Tỷ trọng (%) Ninh bình 700.000 58,3 714.000 58,38 Thanh Hoá 400.000 33,4 425.000 34,75 Nam Định 30.000 2,5 28.000 2,29 Hà Nam 70.000 5,83 56.000 4,58 Tổng cộng 1.200.000 100 1.223.000 100 Như vậy thị trường Ninh bình chiếm tỷ trọng lớn trong tiêu thụ sản phẩm của công ty, thị trường tiêu thụ sản phẩm ở hai tỉnh Nam định và Hà Nam rất nhỏ: quý IV/98 chỉ chiếm 2,5% và 5,83%, quý I/99 : 2,29 và 4,58 . Do vậy doanh nghiệp cần phải có biện pháp để tăng tỷ trọng thị trường tiêu thụ ở hai tỉnh này. 3.6. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty: Ta có thể khái quát hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần xây dựng và sản xuất vật liệu xây dựng Yên Từ thông qua bảng 8: Bảng 8: Hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty. Đơn vị tính: đồng. STT Chỉ tiêu Quý IV/98 Quý I/99 1 Vốn hoạt động 600.000.000 600.000.000 2 Doanh thu 443.450.000 453.200.000 3 Chi phí 401.376.000 396.120.000 4 Lợi nhuận trước thuế 42.074.000 57.080.000 5 Lợi nhuận sau thuế 36.814.750 4.994.5000 6 Tỷ suất lợi nhuận /chi phí(%) 10,48 14,41 7 Tỷ suất lợi nhuận/doanh thu (%) 9,49 12,59 8 Tỷ suất lợi nhuận /vốn (%) 7,01 9,51 9 Số vòng quay vốn/quý 0,74 0,76 Kết quả trên cho thấy mặc dù doanh thu tăng không đáng kể nhưng tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu tăng, tỷ suất lợi nhuận trên vốn cũng tăng và mức tỷ suất này trung bình vào khoảng 32% và số vòng quay của vốn cũng tăng. 3.7. Lao động và cơ cấu lao động của công ty: Hiện công ty cổ phần xây dựng và sản xuất vật liệu xây dựng Yên trì có 120 cán bộ công nhân viên. Cơ cấu lao động của công ty như sau: Bảng 9: Cơ cấu lao động của công ty. Trình độ Chỉ tiêu Đại học Trung cấp Công nhân lành nghề Chưa qua đào tạo Số lượng % số lượng % Số lượng % Số lượng % - Lao động quản lý 6 5 4 3,3 2 1,7 - Lao động trực tiếp 60 50 48 40 Số lao động có trình độ đại học chỉ chiếm 5% trong tổng số 120 lao động nhưng lại chiếm tới 50% trong tổng số lao động quản lý của công ty đây là một điều tương đối tốt cho công ty trong công tác quản lý. Công nhân chưa qua đào tạo còn chiếm tỷ trọng tương đối lớn 40% so với tổng số lao động trong công ty nếu so với tổng số lao động trực tiếp thì chiếm 44,4% do đó công ty cần phải có giải pháp để đào tạo số lao động đó đồng thời tạo điều kiện cho đội ngũ lao động quản lý nâng cao trình độ hơn nữa nhằm đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty ngày càng có hiệu quả hơn. III. Đánh giá chung về hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần xây dựng và sản xuất vật liệu xây dựng Yên Từ: 1. Tích cực: Doanh nghiệp được chuyển thành công ty cổ phần vào cuối năm 1998 nên chưa đủ thời gian để đánh giá một cách đầy đủ, song nhìn chung phát triển tốt hơn ổn định hơn. Trước đây doanh nghiệp làm ăn kém hiệu qủa, người lao động không có đủ việc làm, thu nhập thấp. Chỉ sau 6 tháng chuyển đổi thành công ty cổ phần đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Công tác tổ chức luôn phục vụ cho nhu cầu sản xuất kinh doanh, sắp xếp các phòng ban đặc biệt là vấn đề tinh giản gọn nhẹ bộ máy quản lý tranh thủ tục rườm rà đối với khách hàng. Các phòng chức năng đã tích cực tham mưu cho lãnh đạo ban hành các quy chế, nội quy của công ty nhằm phân định rõ ràng trách nhiệm và quyền lợi đối với mỗi cá nhân trong công ty. Công tác xây dựng Đảng, hoạt động đoàn thể được coi trọng do đó ngày càng ổn định vững mạnh. Tổ chức công đoàn của xí nghiệp cũ (chưa chuyển thành công ty cổ phần) được liên đoàn lao động tỉnh tặng bằng khen vì sự nghiệp ngành xây dựng vì vậy để phát huy được thế mạnh của tổ chức công đoàn lãnh đạo công ty đã xin được thành lập lại tổ chức công đoàn trong công ty đồng thời ký thoả ước lao động tập thể với công đoàn. Tổ chức đoàn thanh niên được củng cố, phát huy tính sáng tạo, tiên phong của tuổi trẻ. Khi chuyển sang công ty cổ phần do việc sắp xếp về tổ chức ngày càng hợp lý, ý thức của cán bộ công nhân viên ở đây được nâng lên rõ rệt, đã phát huy được tối đa nội lực tiềm ẩn, tính chủ động, sáng tạo trong lao động. Họ đã tự nghiên cứu, thiết kế và thi công một lò nung mới với giá trị 20 triệu đồng thay vì mua mới giá gần 100 triệu đồng mà chất lượng hiệu quả tương đương. Chỉ sau 6 tháng kể từ khi chuyển thành công ty cổ phần , tập thể lao động đã cho ra đời thêm được các mẫu mã sản phẩm mới được thị trường chấp nhận. Do giảm được nhiều khoản chi phí do đó hạ được giá thành sản phẩm và bằng tổ chức hội nghị khách hàng công ty đã kéo lại được các khách hàng cũ của xí nghiệp trước đây như công ty xây dựng Ninh bình,xí nghiệp xây dựng Yên Khánh. Công ty còn liên kết với xí nghiệp gạch Vườn chanh, công ty đá 5 để cung cấp nguyên liệu và học hỏi kinh nghiệm. Ngoài ra còn tạo thêm được bạn hàng, đối tác mới là công ty xây lắp và sản xuất công nghiệp thuộc bộ công nghiệp, công ty xây dựng 5 thuộc bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, công ty xây dựng 51 thuộc bộ quốc phòng. Mở được các đại lý kinh tiêu trong vùng và những tỉnh lân cận, Như vậy số khách hàng đông hơn so với khi còn là doanh nghiệp nhà nước. Đây là yếu tố quyết định tăng hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. 2. Hạn chế: Bên cạnh những thành tựu mà công ty đã đạt được, công ty còn một số điểm hạn chế : 2.1. Trình tự tổ chức quản lý của cán bộ : Do mới thành lập được gần 1 năm, hơn nữa là một đơn vị thí điểm chuyển từ doanh nghiệp Nhà nước sang loại hình Công ty cổ phần nên Hội đồng quản trị nói riêng và Ban lãnh đạo Công ty nói chung chưa bắt kịp cơ chế quản lý mới. Tình trạng chung của các Công ty cổ phần là cán bộ lãnh đạo còn rất bỡ ngỡ với cơ chế quản lý loại hình công ty này nói riêng và cơ chế thị trường nói chung. Tác phong, lề lối và cơ chế quản lý nội bộ Công ty còn đang giai đoạn "tập sự" do đó việc điều hành còn gặp những hạn chế nhất định, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất - kinh doanh của Công ty. Năng lực của mỗi cán bộ có trình độ quản lý kinh tế còn chưa đáp ứng được điều kiện kinh doanh hiện nay, cán bộ có trình độ đại học kinh tế quá mỏng nên không có khả năng nắm bắt nhanh nhạy các điều kiện môi trường kinh doanh để điều khiển, quản lý đơn vị. 2.2. Tình hình cơ sở vật chất kỹ thuật, lao động Là một Công ty qui mô vừa, cơ sở vật chất còn thiếu thốn và trình độ kỹ thuật ở mức trung bình tiên tiến. Điều này ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng và giá thành sản phẩm sản xuất ra. Mặc dù qua gần một năm hoạt động, cán bộ và công nhân đã có nhiều cố gắng song điều đó cũng chỉ khắc phục được những hạn chế nhất định về sự thiếu hụt và yếu kém về công nghệ sản xuất. Đây là khó khăn lớn và cũng là nhân tố rất quan trọng để nâng cao sức cạnh tranh của Công ty trên thị trường. Về lao động của Công ty có tới 40% số lao động chưa qua đào tạo, sự am hiểu về kỹ thuật sản xuất không có. Do vậy một mặt ảnh hưởng rất lớn đến năng suất lao động, mặt khác hạn chế hiệu quả sử dụng vật tư, thiết bị trong quá trình sản xuất, gây ra tình trạng giảm sút chất lượng sản phẩm và tăng chi phí trong sản xuất. 2.3. Về vốn kinh doanh Với số vốn hoạt động là 600 triệu đồng, Công ty ở tình trạng thiếu vốn để thực hiện các mục tiêu sản xuất kinh doanh. Việc đầu tư, đổi mới, nâng cấp các thiết bị nhà xưởng, tuyển chọn công nhân lành nghề và cán bộ quản lý có trình độ cũng bị giới hạn. Nguồn vốn có hạn, do đó việc thực hiện mục tiêu tăng sản lượng, mở rộng thị trường tiêu thụ cũng như việc khai thác các nguồn nguyên liệu có chất lượng cao để phục vụ sản xuất cũng gặp rất nhiều khó khăn. Công ty đã có những giải pháp tích cực để huy động thêm nguồn vốn cổ phần để mở rộng sản xuất, đầu tư công nghệ mới... nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả sản xuất - kinh doanh của Công ty. Ngoài những nhân tố ảnh hưởng cơ bản nêu trên, hoạt động kinh doanh của Công ty còn bị tác động bởi nhiều yếu tố khác nữa như về nguồn nguyên liệu cung cấp. Nguồn đất để sản xuất gạch ngói có xu hướng ngày càng giảm đi, giá cả mua bán có xu hướng tăng do khai thác ngày càng khó khăn, điều đó có tác động lớn đến việc cung ứng nguyên liệu cho sản xuất của công ty; nhân tố về thị trường tiêu thụ còn đang hạn hẹp, Công ty mới quan hệ mua bán với một số tỉnh lân cận khả năng tiêu thụ hạn chế. Trong thời gian tới Công ty cần có biện pháp tích cực để mở rộng hơn nữa thị trường tiêu thụ của mình. Nhân tố cạnh tranh: Hiện nay có rất nhiều loại vật liệu xây dựng lưu thông trên địa bàn với những mẫu mã, kiểu dáng, màu sắc, chất lượng cao. Đây là sức ép rất lớn đối với Công ty, đòi hỏi Công ty phải giải quyết đồng bộ nhiều biện pháp cả về công nghệ, về quản lý, về phương thức kinh doanh mới có cơ hội phát triển tốt được. Chương III Phương hướng và biện pháp đổi mới hoạt động kinh doanh ở Công ty cổ phần xây dựng và sản xuất vật liệu xây dựng Yên Từ I/ Mục tiêu phương hướng của công ty trong những năm tới Sau khi chuyển đổi từ doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần hoạt động sản xuất kinh doanh đã từng bước được ổn định và có hiệu qủa. Để đảm bảo cho sản xuất kinh doanh ngày càng có hiệu quả hơn, thị trường được mở rộng hơn, mẫu mã sản phẩm đa dạng hơn và ngành nghề kinh doanh được mở rộng hơn, công ty đã đặt ra mục tiêu phương hướng cho những năm tới: - áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật tiên tiến, phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất, hạ giá thành sản phẩm. - Tìm thêm những bạn hàng lớn làm ăn lâu dài để có kế hoạch sản xuất kinh doanh trong thời gian tới. - Đa dạng hóa mặt hàng sản xuất kinh doanh để từ đó có cơ sở bố trí sắp xếp lao động hợp lý. Những chỉ tiêu chủ yếu của năm 1999 của Công ty thể hiện như sau: - Sản lượng thực hiện : 6.000.000 viên gạch ngói các loại - Doanh thu: 2.000.000.000 đồng - Lợi nhuận sau thuế: 210.000.000 đồng. - Nộp ngân sách: 100.000.000 đồng - Thu nhập bình quân: 380.000đồng/người/tháng * Chỉ tiêu định hướng từ năm 2000 đến 2005 của Công ty tập trung vào đẩy nhanh sản lượng hàng hoá, phấn đấu đến năm 2005 đạt mức sản lượng 10.000.000 viên gạch ngói các loại. Cơ cấu mặt hàng mở rộng, ngoài các loại gạch ngói, gạch chống nóng còn sản xuất các loại vật liệu xây dựng khác, xây dựng cơ bản, nuôi trồng hải sản; sản xuất các sản phẩm cao cấp khác như gạch Ceramic, Grannit ... Kế hoạch phát triển công ty từ năm 2000-2005 được chia thành 3 giai đoạn: Giai đoạn I: Từ 2000-2002 nâng sản lượng lên 7.000.000 sản phẩm/năm. Giai đoạn II: Từ 2002-2004 nâng sản lượng lên 10.000.000sản phẩm gạch, ngói/năm và mở rộng sản xuất đa dạng hoá sản phẩm như làm gạch chống nóng 3-10 lỗ, gạch lá nem, lá dừa và các loại vật liệu xây dựng khác như gạch xi măng lát vỉa hè, các sản phẩm bằng bê tông, đá các loại, tiến tới sản xuất các loại vật liệu xây dựng cao cấp khác. Giai đoạn III: Từ 2004-2005, sau khi có đủ điều kiện về vốn, năng lực sản xuất kinh doanh, có nhiều bạn hàng quen thuộc công ty sẽ đi vào kinh doanh ngành nghề xây dựng. Với điều kiện thuận lợi hiện nay công ty đã có năm kỹ sư xây dựng, một kỹ sư kinh tế xây dựng, một trung cấp xây dựng. Tại địa bàn huyện Yên Mô chưa có đơn vị nào kinh doanh ngành nghề xây dựng vì vậy phương hướng hoạt động về ngành nghề này mang tính khả thi cao. Về thị trường tiêu thụ sản phẩm: từ những thế mạnh sẵn có của thiên nhiên trao tặng, trữ lượng đất còn rất lớn, chất lượng đất cho ra chất lượng sản phẩm tốt và thị trường tiêu thụ rộng rãi. Từ xưa gạch ngói Yên Từ đã có tiếng trên toàn tỉnh Hà Nam Ninh cũ và vào cả trong Thanh Hoá, ra Hà Nội. Trên toàn tỉnh Ninh Bình các doanh nghiệp sản xuất gạch chống nóng, lá nem, lá dừa còn ít. Vì vậy thị trường tiêu thụ sản phẩm còn rất lớn vấn đề còn lại là năng lực sản xuất kinh doanh của công ty để làm sao cho ra những sản phẩm có mẫu mã đẹp chất lượng tốt và giá cả hợp lý. Về nguyên liệu vật liệu: khả năng khai thác đất với diện tích đất là 21ha phần lớn số đất chưa được khai thác hết và không có kế hoạch cụ thể dẫn đến tình trạng lãng phí rất nhiều. Do đó công ty phải có kế hoạch cụ thể để tận dụng hết khả năng khai thác đất. Do điều kiện địa lý thuận lợi nên sau khi khai thác xong có thể khoanh vùng để chặn phù sa sau 5 năm có thể quay lại tiếp tục khai thác do đó nguồn nguyên liệu chính là ổn định. Nhiên liệu như than, củi, điện, nước do điều kiện địa lý thuận lợi nên việc cung cấp nhiên liệu cho hoạt động sản xuất tương đối thuận tiện. Hiện công ty có hai trạm biến áp công suất 280KVA thực tế chưa sử dụng hết nên khả năng cung cấp điện cũng tương đối tốt. II/ Biện pháp đổi mới các mặt hoạt động kinh doanh của công ty 1. Đổi mới hoạt động thương mại đầu vào Hoạt động thương mại đầu vào cho sản xuất bao gồm từ khâu nghiên cứu thị trường, xác định nhu cầu vật tư của doanh nghiệp, xác định nguồn vật tư, lập kế hoạch mua sắm vật tư, tổ chức mua sắm, tổ chức tiếp nhận, bảo quản và cấp phát, đến việc tổ chức quản lý sử dụng và quyết toán vật tư. Phải tổ chức tốt việc nghiên cứu thị trường và lập kế hoạch mua sắm vật tư cho doanh nghiệp: kế hoạch mua sắm vật tư là một bộ phận quan trọng của kế hoạch sản xuất - kỹ thuật - tài chính của doanh nghiệp. Việc xây dựng kế hoạch mua sắm kịp thời và có chất lượng cho phép đảm bảo các yếu tố của sản xuất một cách có hiệu quả nhất. Lập kế hoạch mua sắm vật tư đòi hỏi phải nghiên cứu kỹ thị trường các yếu tố của sản xuất để xác định nhu cầu vật tư cho doanh nghiệp cả về số lượng, chất lượng, thời gian và giá cả, nghiên cứu nhiệm vụ sản xuất trong năm kế hoạch, khả năng tiêu thụ sản phẩm, kiểm tra đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch vật tư năm báo cáo, xác định lại bảng danh mục vật tư tiêu dùng trong năm kế hoạch, xây dựng và chỉnh lý lại các loại định mức, bao gồm định mức tiêu hao nguyên vật liệu, định mức sử dụng công suất thiết bị máy móc và định mức dự trữ vật tư, tính toán các nhu cầu vật tư trong toàn bộ doanh nghiệp và cho tất cả các loại công việc, tính toán nguồn vật tư, lên biểu tổng hợp nhu cầu vật tư và biểu cân đối vật tư. - Tổ chức tốt việc mua sắm vật tư, trên cơ sở kế hoạch mua sắm vật tư và kết quả nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp lên đơn hàng vật tư và tổ chức thực hiện bảo đảm vật tư cho sản xuất. Lên đơn hàng là quá trình cụ thể hoá nhu cầu đến các quy cách, chủng loại và thời gian nhận hàng. Lập đơn hàng là công việc hết sức quan trọng trong quá trình tổ chức mua sắm vật tư hàng hoá và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bất cứ một sai sót nào cũng có thể dẫn đến việc đặt mua những vật tư mà nhu cầu sản xuất không cần hoặc không đủ so với nhu cầu. Để lập đơn hàng được chính xác, bộ phận lập đơn hàng phải tính đến các cơ sở để lập đơn hàng như nhiệm vụ sản xuất, hệ thống định mức tiêu dùng vật tư, định mức dự trữ vật tư, lượng tồn kho vật tư, kế hoạch tác nghiệp về đảm bảo vật tư quý, tháng... Nhiệm vụ quan trọng trong công tác lập đơn hàng là chọn và đặt mua những loại vật tư hàng hoá phù hợp với yêu cầu của sản xuất. Tổ chức mua sắm vật tư ở doanh nghiệp được thực hiện trên cơ sở đơn hàng và hợp đồng ký kết và như vậy việc lập đơn hàng, thảo hợp đồng hoặc ký kết hợp đồng phải thật chặt chẽ hạn chế tối đa những rủi ro có thể xảy ra trong khi thực hiện hợp đồng. - Tổ chức chuyển đưa vật tư hàng hoá về doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng. Đây là một trong những giai đoạn kết thúc của công tác các yếu tố vật chất cho sản xuất. Quản lý và tổ chức tốt việc vận chuyển, tiếp nhận hàng hoá sẽ tạo điều kiện cung ứng vật tư kịp thời và đồng bộ cho sản xuất của doanh nghiệp, giữ gìn tốt số lượng và chất lượng vật tư hàng hoá, bảo đảm sử dụng có hiệu quả vốn lưu động và giảm được chi phí kinh doanh. Chuyển đưa vật tư về doanh nghiệp nên thực hiện bằng phương pháp tập trung để giải phóng doanh nghiệp khỏi bận tâm lo lắng trong việc đảm bảo vật tư cho sản xuất nhờ đó có thể tập trung quản lý và đẩy mạnh sản xuất. - Tiếp nhận và bảo quản vật tư về số lượng và chất lượng. Khi hàng hoá vật tư chuyển về đến doanh nghiệp, cần tổ chức tốt công tác tiếp nhận và bảo quản. Mục đích của công tác này là kiểm tra việc thực hiện các hợp đồng mua bán vật tư, hàng hoá về nguyên vẹn, bảo đảm số lượng và chất lượng hay không? Ai là người chịu trách nhiệm về những hao hụt và hư hỏng đó? Sau khi tiếp nhận vật tư, hàng hoá phải tổ chức quản lý và bảo quản ở kho, trang bị kho và tổ chúc bảo quản kho phải bảo đảm giữ gìn tốt số lượng và chất lượng, đồng thời phải tuân thủ yêu cầu dễ thấy, dễ lấy, dễ kiểm tra và mỹ thuật kho tàng. - Cấp phát vật tư cho phân xưởng sản xuất là một công tác hết sức quan trọng. Tổ chức tốt công tác này sẽ đảm bảo cho sản xuất của doanh nghiệp tiến hành được nhịp nhàng, góp phần tăng năng suất lao động của công nhân, tăng nhanh vòng quay vốn lưu động, nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Việc cấp phát được tiến hành theo hạn mức. Hạn mức là lượng vật tư quy định cho phân xưởng trong kỳ kế hoạch để phân xưởng thực hiện nhiệm vụ sản xuất được giao. Hạn mức cấp phát nâng cao trách nhiệm của phân xưởng trong việc sử dụng số lượng vật tư lĩnh được một cách hợp lý và tiết kiệm. - Quyết toán và kiểm tra sử dụng. Để nâng cao hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào (vật tư) của sản xuất đòi hỏi doanh nghiệp phải định kỳ quyết toán vật tư sử dụng. Việc quyết toán vật tư nhằm tính toán lượng vật tư thực chi có đúng mục đích không? Việc sử dụng các yếu tố vật chất có tuân thủ các định mức tiêu dùng hay không? Lượng vật tư tiết kiệm hoặc bội chi? Nguyên nhân gây lãng phí trong sử dụng vật tư ở doanh nghiệp và từ đó đưa ra những giải pháp phù hợp với thực tế. 2. Đổi mới tổ chức lao động ở doanh nghiệp Trong quá trình vận hành doanh nghiệp, chúng ta nhận thấy rằng, nhiệm vụ sản xuất kinh doanh sẽ không hoàn thành nếu không có con người hay nói cách khác nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển doanh nghiệp là con người chính vì vậy công tác tổ chức lao động ở doanh nghiệp cũng phải luôn đổi mới để nhằm mục đích nâng cao trình độ năng lực quảnlý, năng suất lao động. Trước hết là việc bố trí sắp xếp hợp lý khoa học đội ngũ cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp nhằm khai thác hết khả năng tiềm tàng của mỗi con người. Tiếp theo là phải có chính sách tuyển dụng lao động, chính sách tuyển dụng phải trở thành chính sách then chốt trong vận hành doanh nghiệp, trong đó nổi lên vấn đề là những người được tuyển dụng phải thỏa mãn đầy đủ các yêu cầu vận hành của doanh nghiệp bảo đảm thực hiện chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần căn cứ vào loại công việc, số lượng người cần tuyển và trình độ cụ thể của từng loại cán bộ công nhân viên mà giới thiệu công việc và những yêu cầu của công việc cho những người được dự tuyển. Tuyển dụng được những người lao động có phẩm chất và tiêu chuẩn nhất định theo yêu cầu công việc sản xuất kinh doanh là vấn đề quan trọng trong chính sách vận hành của doanh nghiệp. Nhưng để cho doanh nghiệp đứng vững và phát triển thì việc đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng lao động hợp lý có ý nghĩa quyết định. Ngày nay khoa học kỹ thuật phát triển mạnh mẽ và liên tục cùng với sự bùng nổ thông tin, cạnh tranh trên thương trường ngày càng quyết liệt... đòi hỏi doanh nghiệp phải thường xuyên chăm lo đến việc đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng và sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ công nhân viên. Tuỳ theo tình hình nhân lực và yêu cầu cụ thể trong hoạt động kinh doanh mà doanh nghiệp có kế hoạch đào tạo, kèm cặp, bồi dưỡng từng loạicán bộ công nhân viên bằng các phương pháp và hình thức phù hợp, tạo điều kiện cho họ tiếp cận được với môi trường kinh doanh thường xuyên biến động và với những đòi hỏi của kỹ thuật nghiệp vụ mới trong sản xuất kinh doanh. Cùng với việc đào tạo và bồi dưỡng nhân lực phải thường xuyên cải tiến tổ chức lao động trong các khâu, khuyến khích mọi người phát huy tính chủ động, sáng tạo, nâng cao năng suất lao động và chất lượng công việc giảm chi phí, nâng cao hiệu quả lao động, tăng thu nhập cho tập thể và cá nhân. 3. Đổi mới thương mại đầu ra. Hoạt động thương mại đầu ra (tiêu thụ sản phẩm) của doanh nghiệp bao gồm hàng loạt các nghiệp vụ, từ khâu nghiên cứu thị trường, nắm bắt nhu cầu thị trường cho đến xuất bán theo yêu cầu khách hàng nhằm mục đích đạt hiệu quả cao nhất. Do vậy cần: Thứ nhất: tổ chức tốt việc điều tra nghiên cứu thị trường, điều tra nghiên cứu thị trường là việc làm cần thiết đầu tiên đối với doanh nghiệp, là khâu đóng vai trò quan trọng trong việc thành công hay thất bại của hoạt động tiêu thụ sản phẩm. Nghiên cứu thị trường nhằm trả lời câu hỏi: thị trường đang cần những loại sản phẩm gì? Đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của nó ra sao. Dung lượng thị trường về sản phẩm đó như thếnào? Ai là người tiêu thụ sản phẩm đó. Thứ hai: Phải lựa chọn sản phẩm thích ứng và tiến hành tổ chức sản xuất. Trên cơ sở nghiên cứu thị trường doanh nghiệp lựa chọn sản phẩm thích ứng. Đây là công việc quyết định hiệu quả hoạt động tiêu thụ. Lựa chọn sản phẩm thích ứng có nghĩa là phải tổ chức sản xuất những sản phẩm hàng hoá mà thị trường đòi hỏi. Sản phẩm thích ứng bao hàm về lượng, chất lượng và giá cả. Về mặt lượng, sản phẩm phải thích ứng với quy mô thị trường, với dung lượng thị trường. Về mặt chất lượng sản phẩm phải phù hợp với yêu cầu, tương xứng với trình độ tiêu dùng. Thích ứng về mặt giá cả hàng hoá được người mua chấp nhận và tối đa hóa được lợi ích người bán. Thứ ba: Tổ chức tốt việc hoàn chỉnh sản phẩm và đưa sản phẩm về kho thành phẩm để chuẩn bị tiêu thụ. Khâu hoàn chỉnh sản phẩm bao gồm: kiểm tra chất lượng sản phẩm, phân loại. Thứ tư: Đẩy mạnh việc mở rộng tiêu thụ, áp dụng các kỹ thuật marketing vào việc tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp đồng thời với việc phát triển mạng lưới đại lý tiêu thụ. 4. Đổi mới công tác tài chính Tài chính doanh nghiệp là những quan hệ tiền tệ gắn trực tiếp với việc tổ chức, huy động, phân phối, sử dụng và quản lý vốn trong quá trình kinh doanh. Sử dụng vốn trong kinh doanh là một khâu có tầm quan trọng quyết định đến hiệu quả kinh doanh. Tuy nhên việc sử dụng vốn kinh doanh lại là kết quả tổng hợp của tất cả các khâu, các bộ phận trong kinh doanh, từ phương hướng kinh doanh đến biện pháp tổ chức thực hiện cũng như sự quản lý hạch toán, theo dõi, kiểm tra. Mục đích của sử dụng vốn trong kinh doanh là nhằm bảo đảm nhu cầu tối đa về vốn cho việc phát triển sản xuất kinh doanh trên cơ sở nguồn vốn có hạn được sử dụng một cách hợp lý, tiết kiệm đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Để đạt được mục đích trên yêu cầu cơ bản của sử dụng vốn là: - Bảo đảm sử dụng vốn đúng phương hướng, đúng mục đích và đúng kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp. - Chấp hành đúng các quy định và chế độ quản lý tài chính của nhà nước. - Hạch toán đầy đủ, chính xác, kịp thời số vốn hiện có và tình hình sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Những biện pháp cần phải áp dụng để sử dụng vốn có hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp là: Một là: Tăng nhanh vòng quay của vốn lưu đồng Hai là: Tiết kiệm chi phí sử dụng hợp lý tài sản, máy móc, phương tiện vật tư. Ba là: Tăng cường công tác quản lý tài chính. - Hạch toán, theo dõi đầy đủ, chính xác, kịp thời tình hình thu, chi của doanh nghiệp. - Chấp hành việc thanh toán để giảm chi phí trả lãi vay ngân hàng. - Quản lý chặt chẽ vốn, chống tham ô, lãng phí. III/ Một số điều kiện tiền đề để thực hiện các biện pháp nêu trên 1. Vốn - huy động vốn Trong điều kiện hiện nay vốn của công ty còn eo hẹp mà muốn mở rộng sản xuất đẩy mạnh việc tiêu thụ sản phẩm thì cần phải có nhiều vốn do vậy trước hết công ty cần phải huy động thêm vốn, tại thời điểm này có hai cách để huy động thêm vốn. Thứ nhất là vay vốn của ngân hàng, thứ hai là vay vốn của các cổ đông của công ty, tốt nhất là công ty nên sử dụng cả hai cách này để đạt được mục tiêu một cách nhanh nhất. 2. Hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật Để có thể thoả mãn tốt hơn nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng thì cần phải có những sản phẩm có mẫu mã đẹp, chất lượng tốt, đồng thời có thể cạnh tranh được trong điều kiện hiện nay và sắp tới chúng ta tham gia vào AFTA thì vấn đề cạnh tranh càng trở nên khốc liệt hơn vì vậy không còn cách nào hơn nữa là việc hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật mới có thể nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, nâng cao năng suất lao động nâng cao tính cạnh tranh trong hoạt động sản xuất của công ty. Chính vì vậy trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh công ty cần chú trọng vào vấn đề hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật, nhưng cần phải tránh đầu tư tràn lan, không tính toán đến hiệu quả đầu tư gây ra tình trạng lãng phí mà hiệu quả lại không có. Trong một thời gian ngắn hoạt động, công ty đã đầu tư tương đối nhiều cho hoạt động sản xuất kinh doanh như cải tạo nâng cấp nhà xưởng sản xuất cũ, nâng cấp cải tạo máy móc thiết bị. Nhưng để mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh công ty cần huy động vốn vào một số hạng mục quan trọng sau đây: - Đầu tư xây dựng thêm 1000m2 nhà xưởng nữa để đảm bảo cho hoạt động sản xuất được thuận lợi hơn. - Đầu tư xây dựng mới dây chuyền sản xuất để đạt được mục tiêu đề ra của công ty. - Đầu tư mua mới thêm các trang thiết bị văn phòng như máy tính, máy in ... nhằm đảm bảo cho công tác quản lý được tốt hơn. - Đầu tư mua mới phương tiện vận chuyển hàng hoá để đáp ứng nhu cầu khách hàng nhanh chóng hơn, tốt hơn nữa. 3. Đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài Nhằm đáp ứng được công tác sản xuất kinh doanh của công ty thì việc đào tạo, nâng cao tay nghề cho công nhân là nhiệm vụ cấp bách, trong giai đoạn hiệnnay công nhân chưa qua đào tạo của công ty chiếm tỷ trọng khá lớn do vậy có thể đào tạo số người này bằng các hình thức như tự đào tạo lẫn nhau do công nhân lành nghề dạy, kèm cặp người chưa được đào tạo hoặc có thể mời giáo viên về công ty để đào tạo. Đối với những công nhân lao động lành nghề thì cần phải nâng cao tay nghề thêm nữa bằng cách đi tham qụan học hỏi kinh nghiệm ở những đơn vị khác. Đối với đội ngũ cán bộ quản lý thì việc đào tạo cũng được công ty coi trọng, hiện công ty đã cử 2 cán bộ đi học đại học tại chức nhưng muốn đẩy mạnh được hoạt động sản xuất kinh doanh hơn nữa thì cần phải cử thêm các cán bộ đi học để nâng cao trình độ của mình nhằm đáp ứng được những đòi hỏi ngày càng cao của thực tế hiện nay. 4. Tạo lập mối quan hệ Trong hoạt động sản xuất kinh doanh vấn đề tạo lập các mối quan hệ như quan hệ với khách hàng, quan hệ với đối tác quan hệ với các cơ quan quản lý của nhà nước cần phải nhiều lên và khăng khít hơn điều này sẽ mang lại hiệu quả sản xuất kinh doanh cho công ty cả trong giai đoạn trước mắt và lâu dài. Giải quyết vấn đề này công ty cần phải tạo được uy tín của mình bằng chính những khả năng của mình và chất lượng sản phẩm của mình sản xuất ra. Đồng thời tăng cường mối quan hệ đoàn kết của các cán bộ công nhân viên trong công ty nhằm thực hiện tốt các mục tiêu đề ra: - Trước hết cần tập trung giải quyết tốt mối quan hệ về cơ chế hoạt động và điều hành của Hội đồng quản trị theo tinh thần các quyết định chung của Đại hội đồng. Mỗi thành viên Hội đồng quản trị và giám đốc điều hành và thực hiện tốt những chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình; tăng cường trao đổi về các chức năng quản trị để thực hiện sự quản trị thống nhất, ăn khớp với mục tiêu của Công ty. - Giải quyết tốt quan hệ giữa các bộ phận chức năng và sản xuất của Công ty để đảm bảo cho những kế hoạch có tính khả thi; Nhiệm vụ sản xuất tương ứng có các điều kiện vật tư tiền vốn đảm bảo; gắn sản xuất với kinh doanh tiêu thụ sản phẩm của Công ty. Các bộ phận chức năng cần thường xuyên trao đổi, đúc rút kinh nghiệm trong quản trị các nghiệp vụ sản xuất - kinh doanh giúp Giám đốc và Hội đồng quản trị có những quyết định đúng đắn cho bước đi của Công ty trong tương lai. - Giải quyết tốt mối quan hệ giữa người lao động với Công ty và giữa các bộ phận lao động với nhau, giữa những người lao động trong cùng bộ phận nhằm đảm bảo tính công bằng, công khai, dân chủ; khuyến khích các bộ phận và từng người lao động đem hết khả năng và trách nhiệm để sản xuất - kinh doanh. Hợp lực toàn bộ sức mạnh cá biệt thành sức mạnh của toàn Công ty, cùng thúc đẩy Công ty phát triển. IV. Một số kiến nghị nhằm tạo lập môi trường thuận lợi cho sự phát triển Công ty cổ phần. Một là, ổn định tiền tệ, giảm lạm phát . Tiền tệ ổn định là một điều kiện quan trọng cho sự phát triển của công ty cổ phần, tiền tệ là yếu tố tác động đến nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, tiền tệ là vật ngang giá chung, có vai trò nói lên tất cả các loại thị trường vào nó chỉ phát huy được chức năng khi có sự ổn định tiền tệ. Sự ổn định tiền tệ sự phát triển của các doanh nghiệp trong đó có Công ty cổ phần. Một khi Công ty phát triển nó sẽ tác động tích cực trở lại đối với nền kinh tế nói chung, cũng như tiền tệ nói riêng. Bởi vì, những Công ty phát triển có nghĩa là một khối lượng tiền tệ trong xã hội được di chuyển vào sản xuất kinh doanh, từ đó hạn chế được những cơn sốt giá cả. Với ý nghĩa đó cần có những chính sách kinh tế vĩ mô tạo điều kiện ổn định tiền tệ, kích thích tiết kiệm và chuyển tiền tiết kiệm vào hoạt động đầu tư. Về thực chất người mua cổ phiếu là đầu tư tài chính với mục đích lợi nhuận cao hơn và đều có yêu cầu chung là phải an toàn trong khoản đầu tư đó. Nếu lạm phát họ sẽ không muốn giữ các khoản tiết kiệm dưới dạng tiền tệ và do đó không sẵn sàng mua cổ phiếu của Công ty cổ phần. Lạm phát từ lâu đã là căn bệnh chung của nền kinh tế thị trường, giảm lạm phát là vấn đề hàng đầu trong mục tiêui và chính sách kinh tế vĩ mô của các quốc gia. Lạm phát cao hạn chế khả năng phát hành cổ phiếu của doanh nghiệp vì trong trường hợp này lợi tức cổ phiếu, trái phiếu cao, doanh nghiệp không chịu nổi, do đó lạm phát thấp sẽ thúc đẩy nhanh sự ra đời và phát triển thị trường vốn trong nước. Lạm phát tăng làm giá cả tăng vụt, đồng tiền mất giá làm cho chi phí đầu vào luôn biến đổi, chính vì vậy lạm phát sẽ gây khó khăn cho việc tính toán và hoạch định các phương án kinh doanh thiếu chính xác, không tránh được những rủi ro có thể xảy ra. Nếu lạm phát giảm, giá cả ổn định nó sẽ tạo điều kiện tính toán và hoạch định các phương án kinh doanh một cách tương đối chính xác, đồng thời nó tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát hành cổ phiếu và trái phiếu và cả những người đầu tư. Hai là, chính sách tài chính thể hiện chủ yếu hai nội dung thu và chi của Chính phủ, từ đó tác động vào tổng cung, tổng cầu số lượng và giá cả. Kinh tế thị trường đòi hỏi phải xây dựng ngân sách theo tinh thần : bội chi để chống suy thoái kinh tế, bội thu để chống lạm phát, khi cần sẽ huy động nguồn vốn trong nước bằng nhiều hình thức (kỳ phiếu, công trái...) hoặc vay vốn nước ngoài để đầu tư phát triển, không phát hành tiền bù bội chi cho ngân sách. Về chi ngân sách Nhà nước cần ưu tiên cho các khoản đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, vật chất - xã hội (khi hệ thống đường giao thông được mở rộng, xâydựng hiện đại sẽ tạo điều kiện cho các nhà đầu tư mở rộng tầm nhìn và đầu tư. Chi cho hoạt động thông tin, dự báo, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp, nhất là hoạt động công ty cổ phần vì đây là loại hình sản xuất tập trung vốn của nhiều người và mục đích của họ là lợi nhuận. Ngoài ra chính sách thuế của Nhà nước tác động rất lớn đến hoạt động của Công ty cổ phần. Thông qua thuế Nhà nước điều chỉnh cơ cấu kinh tế, kích thích hoặc hạn chế hoạt động sản xuất kinh doanh của từng ngành từng lĩnh vực. Theo đánh giá của các chuyên gia, chính sách thuế của ta hiện nay còn nhiều bất hợp lý trong thu thuế bất động sản, thuế thu nhập, thuế lợi tức... Do đó việc sửa đổi bổ sung và hoàn chỉnh chính sách thuế, tạo lập sự công bằng hợp lý trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế hiện nay là vấn đề cấp bách Nhà nước cần quan tâm. Để đẩy mạnh việc phát triển Công ty cổ phần Nhà nước nên có những chính sách thuế khuyến khích thuế đầu tư. Ba là, Ngân hàng nhà nước Việt Nam thực hiện vai trò điều tiết quản lý vĩ mô về mặt tiền tệ. Nhưng sự can thiệp của Ngân hàng Nhà nước trên thị trường sẽ quyết định việc gia tăng hay thu hẹp khối lượng tiền tệ cung ứng cho nền kinh tế, vì theo yêu cầu của nền kinh tế vào các thời điểm nhất định. Các chính sách của Ngân hàng Trung ương tác động đến sự hình thành và phát triển thị trường vốn. Ngân hàng thương mại có vai trò then chốt trong việc hình thành và phát triển thị trường vốn, quản lý chứng khoán cho khách hàng và việc tổ chức các thị trường chứng khoán. Khi công ty muốn phát hành cổ phiếu hay trái phiếu họ có thể nhờ dịch vụ phát hành của một ngân hàng, Ngân hàng này sẽ giúp họ lựa chọn loại chứng khoán phát hành, tư vấn về các vấn đề như lãi suất chứng khoán, thời hạn chứng khoán và các vấn đề kinh tế khác. Các ngân hàng thương mại có thể mua toàn bộ cổ phiếu phát hành mới và sau đó bán lại cho công chúng. Trong những trường hợp đặc biệt như số phát hành khá lớn, nhiều ngân hàng có thể cùng nhau chia sẻ dự định phát hành này nhằm giảm tối thiểu rủi ro. Như vậy Ngân hàng đã đóng vai trò quan trọng trên thị trường vốn. Ngoài ra các Ngân hàng thương mại có thể hành động với tư cách trung gian mua bán chứng khoán, đây là dịch vụ ngân hàng phát triển sau này gọi là dịch vụ trung gian chứng khoán để có được kinh nghiệm và kỹ thuật chuyên môn của họ. Hoạt động này trên thị trường thứ cấp cần được luật cho phép dễ dàng với các qui định chặt chẽ, nhằm tránh những trường hợp đầu cơ gây xáo trộn trên thị trường chứng khoán. Bốn là, tăng cường và hoàn thiện công tác kiểm toán. Kiểm toán là công cụ hết sức quan trọng trong cơ chế kinh tế thị trường, nhất là khi các Công ty cổ phần đã trở nên phổ biến trong nền kinh tế nhằm đáp ứng lợi ích của nhiều phía: - Của Nhà nước để quản lý và kiểm soát việc sử dụng tài nguyên. - Của các doanh nghiệp, các công ty - để kiểm soát vốn liếng, doanh thu, chi phí, kết quả kinh doanh và hiệu quả hoạt động nhất là việc hoạt động của Công ty cổ phần vì doanh lợi lời lãi của Công ty ảnh hưởng đến lợi tức cổ phần. Đồng thời nó thể hiện giá trị cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, do đó việc kiểm toán vốn liếng, doanh thu, hiệu quả sẽ tác động cho những nhà đầu tư, tạo điều kiện huy động nguồn vốn trong sản xuất. - Của các nhà đầu tư, cho vay liên doanh, liên kết, khách hàng để kiểm soát việc bảo toàn và hiệu quả sinh lợi của các khoản đầu tư, cho vay của các hoạt động liên doanh, liên kết, các quan hệ mua bán. Qua kiểm toán các nhà đầu tư sẽ biết từng doanh nghiệp làm ăn như thế nào để đầu tư và mua bán cổ phiếu. Phải tăng cường và hoàn thiện công tác kiểm toán đồng thời hình thành các hình thức kiểm toán: Kiểm toán Nhà nước, kiểm toán độc lập, kiểm toán theo chức năng quản lý và kiểm toán nội bộ để phối hợp và hỗ trợ. Năm là, hình thành thị trường chứng khoán để tác động tích cực góp vốn đầu tư phát triển Công ty cổ phần. Với sự ra đời của thị trường chứng khoán đã khuyến khích tiết kiệm và đầu tư của dân chúng. Sau khi chấp nhận nền kinh tế nhiều thành phần, khu vực tư doanh được mở rộng, luật công ty được ban hành. Theo luật này Công ty cổ phần được phát hành cổ phiếu và trái phiếu, là những mặt hàng cung cấp cho thị trường chứng khoán, nếu thị trường chứng khoán được tổ chức thì việc mua bán chứng khoán được dễ dàng, sẽ đưa vốn vào sản xuất tốt hơn. Thị trường chứng khoán và Công ty cổ phần có tác dụng tương hỗ tích cực cho nhau, thị trường chứng khoán là" chợ trao đổi hàng hoá cổ phiếu" cho Công ty cổ phần. Công ty cổ phần là tiền đề đáp ứng hàng hoá cổ phiếu cho yêu cầu của thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán có tổ chức sẽ cung cấp mọi thông tin cần thiết về các loại cổ phiếu, chứng khoán cũng như mọi khả năng sinh lời của từng loại trong tương lai. Thị trường chứng khoán thu thập và phân tích các nguồn thông tin cần thiết như thành tích trong quá khứ của một đơn vị kinh tế cũng như đối chiếu với các loại chứng khoán khác. Ngoài ra, thị trường chứng khoán tạo thói quen đầu tư, thị trường chứng khoán với cơ sở pháp lý hoàn chỉnh và bộ máy quản lý hữu hiệu, sẽ là môi trường thuận lợi cho việc phát hành cổ phiếu và các loại chứng khoán cũng như mọi nghiệp vụ mua bán ở thị trường. Với sự phổ biến và hướng dẫn rộng rãi, người dân sẽ sử dụng nguồn vốn tiết kiệm của mình để mua cổ phiếu hay chứng khoán với niềm tin về lợi nhuận hay tiền lãi bảo đảm. Thị trường chứng khoán điều tiết việc phát hành cổ phiếu. Thị trường chứng khoán sẽ là nơi bảo đảm an toàn cho các nhà đầu tư bằng cách xem xét, đánh giá các loại cổ phiếu trước khi cho phép đem ra mua bán. Như vậy, qua thị trường chứng khoán người dân có điều kiện được thông tin đầy đủ hơn kể cả điều kiện phân tích sàng lọc thông tin để xác định Công ty cổ phần hay doanh nghiệp cổ phần hoá làm ăn lành mạnh, có hiệu quả để có lòng ham muốn tích cực tham gia mua cổ phiếu góp vốn vào sản xuất kinh doanh cho yêu cầu ích nước lợi nhà. Thị trường chứng khoán tạo điều kiện luân chuyển, lưu động nhanh vòng quay vốn của các cổ đông và thông qua thị trường chứng khoán các cổ đông có quyền nhượng bán cổ phiếu để thu hồi vốn cho các yêu cầu khác cấp bách hơn hoặc cho yêu cầu đầu tư nơi khác có lợi nhuận tối ưu hơn. Sáu là, đổi mới và hoàn thiện phương pháp hạch toán và hệ thống kế toán gọn nhẹ khoa học và hiện đại để đáp ứng nhu cầu hoạt động của các công ty cổ phần. Do tính chất xã hội hoá ngày càng cao của Công ty cổ phần, hạch toán và kế toán là phương pháp và công cụ quan trọng để quản lý vốn, tài sản và hoạt động sản xuất của bản thân các Công ty cổ phần,đồng thời là nguồn thông tin số liệu tin cậy để Nhà nước điều hành vĩ mô nền kinh tế, kiểm tra, kiểm soát hoạt động của các ngành, các lĩnh vực. Chính vì vậy việc đổi mới và hoàn thiện không ngừng công tác kế toán thích ứng với yêu cầu quản lý trong cơ chế kinh tế mới trong các Công ty cổ phần. Đổi mới và hoàn thiện một cách căn bản hệ thống các chế độ kế toán hiện hành, trước hết là: Chế độ chứng từ ban đầu, hệ thống tài khoản kế toán; chế độ sổ sách kế toán, chế độ báo cáo kế toán. Kết luận Mục tiêu cụ thể của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh là thu được lợi nhuận cao nhất trong điều kiện kinh tế xã hội chấp nhận được. Việc đổi mới hoạt động sản xuất kinh doanh không phải của riêng ai. Tất cả mọi doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, muốn kinh doanh có hiệu quả đều phải coi trọng vấn đề này, có đổi mới được hoạt động sản xuất kinh doanh thì mới nâng cao được năng suất lao động mới có lợi nhuận và tái sản xuất. Tiến hành việc đổi mới hoạt động sản xuất kinh doanh ở mỗi doanh nghiệp có những bước đi khác nhau, tuỳ thuộc vào từng doanh nghiệp mà xây dựng nên cho mình phương hướng và giải pháp thích hợp, nhưng nhìn chung hướng chủ yếu để đổi mới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh tập trung vào các mặt hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm đổi mới hoạt động thương mại đầu vào, đổi mới tổ chức lao động, đổi mới hoạt động thương mại đầu ra, đổi mới công tác tài chính. Với mỗi biện pháp mức độ tiến hành thực hiện có khác nhau nhưng cần phải tiến hành đồng bộ các biện pháp này và trên nguyên tắc phát huy những mặt mạnh cần khắc phục những mặt yếu và thực hiện triệt để các vấn đề đã được đặt ra. Thông qua việc nghiên cứu hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty kết hợp với những kiến thức được đào tạo tại trường. Người viết đưa ra một số biện pháp đổi mới các hoạt động các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty sau khi chuyển sang hình thức công ty cổ phần, và đưa ra một số kiến nghị nhằm tạo lập môi trường thuận lợi cho sự phát triển Công ty cổ phần chắc chắn những vấn đề đưa ra còn rất lý thuyết và chưa đầy đủ, nhưng mong muốn những ý kiến nhỏ bé này có ý nghĩa thiết thực cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Tài liệu tham khảo 1. Đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới vì chủ nghĩa xã hội. NXB Chính trị quốc gia 2. Đổi mới kinh tế Việt Nam và chính sách kinh tế đối ngoại - Viện kinh tế thế giới. NXB Khoa học xã hội Hà nội 1995. 3. Giáo trình kinh tế thương mại - Trường Đại học KTQD Chủ biên PGS. PTS Nguyễn Duy Bột PGS. PTS Đặng Đình Đào 4. Quản trị kinh doanh những vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam Chủ biên GS. PTS Nguyễn Đình Phan. NXB chính trị quốc gia 5. Kinh tế và kinh doanh thương mại dịch vụ trong nền kinh tế thị trường - Trường Đại học KTQD. Chủ biên PGS. PTS Nguyễn Duy Bột 6. Giáo trình quản trị nhân lực - Trường Đại học KTQD Chủ biên PGS. PTS Phạm Đức Thành . NXB Giáo dục 7. Quản trị doanh nghiệp thương mại - Trường Đại học KTQD Chủ biên PGS. PTS Hoàng Minh Đường PTS Nguyễn Thừa Lộc. NXB Giáo dục 1996 8. Tài liệu của công ty cổ phần xây dựng và sản xuất xây dựng vật liệu Yên Từ. 9. Công ty cổ phần và chuyển doanh nghiệp nhà nước thành Công ty cổ phần PTS Đoàn Văn Hạnh - NXB Thống kê. 10. Nghị định của Chính phủ số 44/CP ngày 29/6/1998 về việc chuyển đổi doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. 11. Thời báo kinh tế 12. Giáo trình chiến lược và kế hoạch phát triển doanh nghiệp - Trường Đại học KTQD. Chủ biên PTS Nguyễn Thành Độ. NXB Giáo dục Mục lục Trang Lời mở đầu 1 Chương I: Công ty cổ phần và sự cần thiết phải đổi mới hoạt động kinh doanh của Công ty 3 I/ Đặc điểm và vai trò của Công ty cổ phần 3 1. Đặc điểm của Công ty cổ phần 3 2. Vai trò của Công ty cổ phần 8 3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của Công ty 12 II/ Nghiên cứu kết quả của một số doanh nghiệp sau khi đã chuyển sang hình thức Công ty cổ phần 16 1. Kết quả bước đầu của các doanh nghiệp được cổ phần hoá 16 2. Kết quả cụ thể của một số doanh nghiệp Nhà nước sau khi cổ phần hoá từ 3 - 5 năm 17 III/ Sự cần thiết phải đổi mới hoạt động kinh doanh của Công ty cổ phần 22 1. Xuất phát từ thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước 22 2. Xuất phát từ vai trò của Công ty cổ phần 23 3. Xuất phát từ quan điểm năng suất, chất lượng và hiệu quả mà đòi hỏi các doanh nghiệp đã cổ phần hóa phải tiếp tục thực hiện 24 Chương II: Phân tích hoạt động kinh doanh hiện nay của Công ty cổ phần xây dựng và sản xuất vật liệu Yên Từ 25 I/ Quá trình hình thành và phát triển của Công ty cổ phần xây dựng và sản xuất vật liệu Yên Từ và đặc điểm hoạt động kinh doanh của Công ty 25 II/ Phân tích hoạt động kinh doanh hiện nay của Công ty sau khi chuyển sang hình thức Công ty cổ phần 33 1. Tổ chức bộ máy và chức năng nhiệm vụ 33 2. Những nội dung chủ yếu về hoạt động kinh doanh của Công ty cổ phần xây dựng Yên Từ hiện nay 38 3. Phân tích hoạt động kinh doanh của Công ty cổ phần xây dựng và sản xuất vật liệu xây dựng Yên Từ 41 III/ Đánh giá chung về hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty cổ phần xây dựng và sản xuất vật liệu xây dựng Yên Từ 46 1. Tích cực 46 2. Hạn chế 48 Chương III: Phương hướng và biện pháp đổi mới hoạt động kinh doanh ở Công ty cổ phần xây dựng và sản xuất vật liệu xây dựng Yên Từ 51 I/ Mục tiêu phương hướng của Công ty trong những năm tới 51 II/Biện pháp đổi mới các hoạt động kinh doanh của Công ty 53 1. Đổi mới hoạt động thương mại đầu vào 53 2. Đổi mới tổ chức lao động ở doanh nghiệp 56 3. Đổi mới thương mại đầu ra 57 4. Đổi mới công tác tài chính 58 III/ Một số điều kiện tiền đề để thực hiện các biện pháp nêu trên 59 1. Vốn - huy động vốn 59 2. Hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật 59 3. Đào tạo nhân lực bồi dưỡng nhân tài 60 4. Tạo lập mối quan hệ 61 IV/ Một số kiến nghị nhằm tạo lập môi trường thuận lợi cho sự phát triển Công ty cổ phần 62 Kết luận 68 Tài liệu tham khảo 69

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0212.doc
Tài liệu liên quan