Đề tài Đối tượng của hạch toán kế toán

Hạch toán kế toán có vai trò to lớn đối với nền kinh tế quốc dân, đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường. Một hệ thống kế toán hoàn thiện đảm bảo tính đầy đủ, toàn diện, khách quan sẽ giúp cho hạch toán kế toán có hiệu quả cao. Hệ thống ấy chỉ có thể có được nhờ vào sự nghiên cứu một cách đúng mực về đối tượng của hạch toán kế toán. Thực tế cho thấy dù cho điều kiện lịch sử có thay đổi, thậm chí có thể rất lớn, trong đường lối chính sách phát triển kinh tế của đất nước song xét về bản chất của đối tượng của hạch toán kế toán không có gì thay đổi: tài sản và sự vận động của tài sản ở các đơn vị trải qua các thời kỳ khác nhau, đối tượng của hạch toán kế toán chỉ khác đi ở những biểu hiện cụ thể hay vị trí vai trò của những đối tượng cụ thể ấy đối với hoạt động của đơn vị. Đấy là do yêu cầu khách quan, của từng thời kỳ. Tất cả những quan điểm đã trình bày ở trên đây có thể thấy: Đối tượng hạch toán kế toán là tài sản của đơn vị hạch toán được xét trong quan hệ giữa hai mặt vốn và nguồn hình thành và quá trình tuần hoàn của những tài sản đó qua các giai đoạn nhất định của quá trình tái sản xuất, cùng các mối quan hệ kinh tế pháp lý phát sinh trong quá trình hoạt động của đơn vị.

doc34 trang | Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 747 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đối tượng của hạch toán kế toán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tắc đâu tiên của quản lý; không có kế toán thì không thể quản lý được kinh tế. Kế toán không phải là công việc giấy tờ, một loại nghiệp vụ đơn giản, mà là một môn học về quản lý rất tinh vi. Hạch toán kế toán ra đời chính là để đáp ứng nhu cầu thông tin về các hoạt động kinh tế tài chính phát sinh trong hoạt động lao động sản xuất của con người. Tất cả các hình thái xã hội đều phải tiến hành hạch toán. Tuy nhiên mỗi chế độ xã hội đều có công thức sản xuất riêng, phương thức sản xuất thay đổi làm cho toàn bộ cơ cấu kinh tế, xã hội và chính trị thay đổi. Bên cạnh đó cùng với sự phát triển sản xuất của xã hội hạch toán cũng không ngừng được phát triển và hoàn thiện về phương pháp cũng như định hướng tổ chức. Trong xã hội có giai cấp, hạch toán bao giờ cũng là công cụ trong tay giai cấp thông trị sử dụng quản lý kinh tế phục vụ trực tiếp quyền lợi của giai cấp đó. Trải qua các quá trình hình thái kinh tế xã hội khác nhau cũng đã có nhiều quan điểm khác nhau về hạch toán kế toán, song có thể đưa ra hai quan điểm cơ bản sau. Các nhà tư bản nhìn nhận hạch toán dưới góc độ công việc, là một hoạt động dịch vụ, là một thứ ngôn ngữ kinh doanh. Tóm lại họ coi kế toán là một phương tiện, công cụ phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh hay hoạt động quản lý các hoạt động kinh tế ấy. Giai cấp tư bản biện luận rằng trong bất cứ chế độ xã hội nào hạch toán cũng giống nhau, có thể nghiên cứu các phương pháp hạch toán độc lập và tách rời phương thức xã hội. Họ muốn chứng minh tính chất bền vững của hạch toán tư bản chủ nghĩa nói riêng và tính chất ổn định của chế độ kinh tế tư bản chủ nghĩa nói chung. Kế toán xã hội chủ nghĩa được coi là một khoa học theo quan điểm này cũng có nhiều khái niệm về kế toán. Song dù hiểu theo cách nào thì kế toán là một khoa học nhất thiết gắn liền với thông tin về tài sản, sự vận động của tài sản và nhằm kiểm tra giám sát tài sản cũng như sự vận động ấy. Sự khác nhau về nhận thức, quan điểm giữa các nước Tư bản chủ nghĩa và các nước Xã hội chủ nghĩa đối với hạch toán kế toán là xuất phát từ sự khác nhau chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất. Vì vậy, trong điều kiện nền kinh tế dựa theo chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, hạch toán cần được hiểu là vấn đề thông tin, về vấn đề kiểm tra, kiểm soát các hoạt động kinh tế tài chính trong các tổ chức đơn vị, theo quan điểm này nó thể hiện bản chất hạch toán kế toán ở nước ta hiện nay. II. Đối tượng nghiên cứu của hạch toán kế toán Mỗi môn khoa học có một đối tượng và phương pháp nghiên cứu riêng, khác với hạch toán kế toán tư bản, kế toán xã hội chủ nghĩa nói chung và kế toán nước ta nói riêng có đối tượng và phương pháp cụ thể bởi vì nó là một môn khoa học cụ thể. Nghiên cứu đối tượng của hạch toán kế toán là xác định nội dung mà kế toán phản ánh, giám đốc. Hạch toán kế toán là một môn khoa học kinh tế có đối tượng nghiên cứu là một nội dung của quá trình tái sản xuất xã hội, mà cụ thể đối tượng của hạch toán kế toán là tài sản và sự hình thành, vận động của tài sản trong các đơi vị cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả của quá trình tái sản xuất ở đơn vị nói riêng và quá trình tái sản xuất xã hội nói chung. Mỗi một đơn vị sản xuất kinh doanh hay một cơ quan khi hình thành và bước vào hoạt động thực hiện chức năng nhiệm vụ đã được xác định đều phải sử dụng một lượng tài sản nhất định. Trong quá trình hoạt động thực hiện chức năng của đơn vị, các hoạt động kinh tế tài chính nảy sinh gây ra sự biến động về phạm vi, qui mô của tài sản cũng như sự thay đổi chuyển hoá hình thành của tài sản từ hình thái này sang hình thái khác. Hạch toán kế toán với vai trò rất quan trọng trong hệ thống quản lý kinh tế quốc dân cũng như trong từng đơn vị cần phải nhận biết số tài sản đang sử dụng trong đơn vị, nhận biết được các hoạt động kinh tế tài chính nảy sinh gây nên sự biến động của tài sản. Do vậy hạch toán kế toán cần thiết phải thu nhận sử lý thông tin, cung cấp thông tin về tài sản đơn vị đang sử dụng, về các hoạt động kinh tế tài chính gây nên sự biến động thay đổi tài sản trong đơn vị. Thực hiện phản ánh kiểm tra giám sát số tài sản hiện có và các hoạt động kinh tế tài chính đó, góp phần sử dụng có hiệu quả các tài sản trong đơn vị hơn. Có thể cụ thể hoá đặc điểm đối tượng hạch toán kế toán. Thứ nhất: Hạch toán kế toán nghiên cứu các yếu tố của quá trình tái sản xuất trên góc độ tài sản (tài sản cố định và tài sản lưu động) trong kinh doanh tài sản này được gọi là vốn, nguồn hình thành các tài sản này gọi là nguồn vốn. Nghiên cứu tài sản trong mối liên hệ giữa hai mặt vốn và nguồn vốn là đặc trưng nổi bật của hạch toán kế toán. Thứ hai: Hạch toán kế toán không chỉ nghiên cứu tài sản trong trạng thái tĩnh mà còn phải nghiên cứu cả trong trạng thái động của tài sản trong quá trình sản xuất kinh doanh. Thứ ba: Trong quá trình kinh doanh của đơn vị ngoài các mối quan hệ trực tiếp đến tài sản của đơn vị còn phát sinh cả những mối quan hệ kinh tế pháp lý ngoài vốn của đơn vị như: Sử dụng tài sản thuê ngoài, nhận vật liệu gia công, thực hiện các nghĩa vụ trong các hợp đồng kinh tế, liên kết kinh tế. Những mối quan hệ kinh tế pháp lý này ngày nay đang đặt ra các nhu cầu cấp bách đòi hỏi kế toán phải nghiên cứu giải quyết. Thứ tư: Việc cụ thể hoá đối tượng nghiên cứu của hạch toán kế toán chỉ có thể đạt được khi nắm được cả phạm vi biểu hiện của đối tượng này. Rõ ràng khó có thể thấy được quá trình tái sản xuất với đầy đủ các giai đoạn của nó trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân với hàng loạt những mối quan hệ qua lại của các doanh nghiệp, tổ chức cơ quan. Mặt khác trong phạm vi rộng lớn đó giữa các đơn vị kinh tế với nhau hay với các đơn vị, tổ chức phi kinh tế, các mặt biểu hiện của tài sản khác nhau. Để nâng cao hiệu quả công tác quản lý toàn bộ nền kinh tế nói chung và của mỗi tổ chức kinh tế nói riêng thì nhiệm vụ của hạch toán kế toán là phải nắm bắt được các mặt biểu hiện này để phản ánh, giám sát các hoạt động sản xuất kinh doanh. Nói tóm lại hạch toán kế toán có vai trò quan trọng trong công tác quản lý kinh tế, là công cụ không thể thiếu trong hệ thống các công cụ quản lý nền kinh tế quốc dân cũng như trong từng đơn vị. Do đó kế toán cần nhận biêt chính xác đối tượng của hạch toán kế toán thấy được sự biến động và nhân tố gây ra sự biến động đó để từ đó có thể có được những quyết định hợp lý nhằm giúp cho hệ thống hoạt động một cách có hiệu quả tiến tới mục tiêu đã được đề ra. Muốn có được như vậy nhất thiết kế toán phải thực hiện việc thu thập thông tin, xử lý, tổng hợp và cung cấp thông tin về các tài sản đang sử dụng, các nghiệp vụ kinh tế phát sinh gây ra sự biến động, chuyển hoá tài sản trong đơn vị. Việc xác định đối tượng của hạch toán kế toán một cách chi tiết cụ thể, đúng đắn sẽ giúp cho việc thu nhặt thông tin về số tài sản, kinh phí hiện có, về tình hình kết quả hoạt động của đơn vị một cách chính xác, trung thực, khách quan, kịp thời và toàn diện. Từ đó kiểm tra việc thực hiện sử dụng tài sản, sử dụng kinh phí, việc kiểm tra thực hiện các chỉ tiêu, việc chấp hành chính sách chế độ, đảm bảo hoạt động có hiệu quả, tránh được các tổn thất cho đơn vị và cho xã hội. III. Những quan điểm khác nhau về đối tượng nghiên cứu của hạch toán kế toán Giống như hạch toán kế toán, cũng có nhiều quan điểm khác nhau về đối tượng của hạch toán kế toán. Nhưng nhìn chung có hai quan điểm cơ bản sau: - Quan điểm thứ nhất cho rằng: Đối tượng của kế toán nghiên cứu là tài sản xã hội chủ nghĩa và sự vận động của các tài sản đó, các quá trình sản xuất, lưu thông, phân phối, tiêu dùng (không kể tiêu dùng cá nhân), tổng sản phẩm xã hội. - Quan điểm thứ hai lại cho rằng: Đối tượng kế toán được nhìn nhận là tài sản và sự vận động của tài sản trong đơn vị. Thực chất về mặt bản chất, hai quan điểm trên có sự thống nhất về đối tượng mà kế toán phản ánh, chỉ khác nhau về mặt phạm vi biểu hiện của đối tượng ấy. Quan điểm thứ nhất được đưa ra trong điều kiện nền kinh tế kế hoạch hoá tập chung bao cấp. Trong chế độ này, do chỉ tồn tại duy nhất loại hình kinh tế Nhà nước, mọi hoạt động đều được sự tài trợ và đảm bảo của nhà nước, tài sản của các đơn vị đều là tài sản chung - tài sản xã hội chủ nghĩa. Khi chuyển sang cơ chế quản lý kinh tế mới - vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước - Nền kinh tế gồm nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Các đơn vị không phải chỉ có các đơn vị thuộc quốc doanh mà còn có cả các đơn vị ngoài quốc doanh. Mọi hoạt động kinh tế tài chính trong đơn vị hoạt động theo nguyên tắc tự chủ trong phạm vi chính sách chế độ thể lệ về kinh tế, tài chính của nhà nước. Tài chính mỗi đơn vị này không chỉ duy nhất thuộc quyền sở hữu của nhà nước mà còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác tham gia trong nền kinh tế. Với vai trò của mình, hạch toán kế toán phải phản ánh được tất cả các tài sản, sự vận động của tài sản ấy. Như vậy là ở đây đối tượng của hạch toán kế toán được biểu hiện ở phạm vi rộng hơn, đầy đủ hơn. Đó là “tài sản và sự vận động của tài sản nói chung trong hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị”. Tuy nhiên trên đây mới chỉ là những nhận thức khái quát về đối tượng của hạch toán kế toán. Để có thể hiểu được đầy đủ, rõ ràng đối tượng của kế toán chúng ta cần phải đi sâu vào nghiên cứu đối tượng cụ thể của hạch toán kế toán trong các đơn vị mà tiêu biểu là đơn vị sản xuất - một đơn vị kinh tế cơ sở của nền kinh tế quốc doanh sử dụng tài sản và có các hoạt động kinh tế tài chính đa dạng, phong phú. Nghiên cứu đối tượng cụ thể của hạch toán kế toán trong đơn vị sản xuất và với phương pháp luận khoa học giúp ta có khả năng nghiên cứu, nhận biết được đối tượng cụ thể của hạch toán kế toán trong các đơn vị khác. Chương II Đối tượng cụ thể của hạch toán kế toán Trong thực tế, quá trình tái sản xuất được thực hiện trước hết và chủ yếu ở các đơn vị cơ sở của nền kinh tế: Các doanh nghiệp, các công ty, hợp tác xã tư nhân. . . các đơn vị này là những tế bào của nền kinh tế luôn có sự vận động không ngừng. Trong cơ chế quản lý, các đơn vị này có tính độc lập tương đối về nghiệp vụ kinh doanh cũng như công tác quản lý, tự bù đắp chi phí và tối đa hoá doanh thu. Để nghiên cứu về đối tượng của hạch toán kế toán trong doanh nghiệp, trong các đơn vị nói chung trước hết là tìm hiểu nó trong đơn vị sản xuất - một đơn vị kinh tế cơ sở của nền kinh tế quốc dân sử dụng tài sản và có hoạt động kinh tế tài chính đa dạng, phong phú. Khái niệm về đơn vị sản xuất kinh doanh là đơn vị cơ sở của nền kinh tế quốc dân với chức năng sản xuất ra các sản phẩm vật chất hữu ích để đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống xã hội. Để có thể thực hiện chức năng sản xuất ra những sản phẩm đáp ứng nhu cầu của xã hội, đơn vị sản xuất cần thiết phải có một số lượng tài sản nhất định như: máy móc, thiết bị sản xuất, các phương tiện kỹ thuật, các loại nguyên, nhiên vật liệu. . . trong điều kiện nền kinh tế sản xuất hàng hoá, các loại tài sản trong đơn vị đều được đo lường bằng thước đo tiền tệ bên cạnh thước đo hiện vật. Biểu hiện bằng tiền của các tài sản trong đơn vị sản xuất được gọi là vốn kinh doanh của đơn vị. Tài sản trong đơn vị sản xuất có nhiều loại khác nhau, được hình thành từ các nguồn khác nhau, do vậy vốn kinh doanh trong đơn vị sản xuất cũng có nhiều loại khác nhau và cũng được hình thành từ các nguồn khác nhau. Như vậy các loại vốn kinh doanh và các nguồn vốn kinh doanh là hai mặt biểu hiện của cùng một lực lượng tài sản - một lượng vốn kinh doanh trong đơn vị sản xuất là đối tượng cụ thể của hạch toán kế toán trong quá trình sản xuất. Để sử dụng hợp lý và có hiệu quả các nguồn vốn kinh doanh, khai thác, huy động triệt để các nguồn vốn kinh doanh cần phải nhận biết đầy đủ các loại vốn kinh doanh (xem trong doanh nghiệp có những loại vốn cụ thể gì), các nguồn vốn kinh doanh trong đơn vị (nguồn hình thành các loại vốn mà doanh nghiệp đang sử dụng), cũng có nghĩa là cần việc nghiên cứu, phân loại vốn kinh doanh trong đơn vị theo kết cấu vốn kinh doanh và theo nguồn hình thành vốn kinh doanh. I. Phân loại vốn kinh doanh theo kết cấu Trong đơn vị sản xuất, vốn kinh doanh được phân loại theo kết cấu gồm: vốn lưu động và vốn cố định. 1. Vốn lưu động Vốn lưu động được biểu hiện bằng tiền (giá trị) của tài sản lưu động. Đặc điểm của vốn lưu động là thời gian luân chuyển ngắn, thường là trong vòng một chu kỳ kinh doanh hay trong vòng một năm. Trong đơn vị sản xuất, vốn lưu động bao gồm: các loại tiền, chứng khoán ngắn hạn, tài sản trong thanh toán, tài sản dự trữ trong sản xuất kinh doanh, do đó vốn kinh doanh trong đơn vị sản xuất cũng chia thành các loại vốn tương ứng: vốn bằng tiền và các khoản đầu tư ngắn hạn, vốn trong thanh toán, vốn dự trữ sản xuất kinh doanh. Chúng ta hãy lần lượt xem xét từng loại vốn dưới đây. - Vốn bằng tiền và các khoản đầu tư ngắn hạn: là trị giá của các loại tiền như tiền mặt ở quỹ (bao gồm cả tiền Việt Nam và ngoại tệ), tiền gửi ở ngân hàng kho bạc, ở công ty tài chính vàng bạc, kim khí đá quý ở quỹ hay gửi ở ngân hàng, ở kho bạc, ở công ty tài chính; trị giá các loại chứng khoán ngắn hạn, các khoản góp vốn liên doanh ngắn hạn và cho vay ngắn hạn. Thông thường các khoản đầu tư chứng khoán hay cho vay ngắn hạn có thể bán đi, nói một cách khác là chuyển đổi thành tiền trong vòng một năm. - Vốn trong thanh toán là trị giá tài sản của đơn vị đang nằm trong quá trình thanh toán như các khoản phải thu của khách hàng, khoản tạm ứng cho nhân viên, khoản phải thu khác. Đó là những tài sản của doanh nghiệp nhưng do quan hệ thanh toán những khoản vốn đó vẫn do cá nhân hay các đơn vị khác sử dụng chưa trả cho doanh nghiệp. - Vốn dự trữ sản xuất kinh doanh là trị giá tài sản của đơn vị đang trong quá trình dự trữ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị được thực hiện một cách thường xuyên, liên tục, không gián đoạn như: các loại nguyên vật liệu, công cụ dự trữ trong kho chuẩn bị đưa vào sản xuất, các loại sản phẩm chế biến dở dang trên dây chuyền sản xuất, các loại sản phẩm trong kho chuẩn bị bán ra. . . 2. Vốn cố định Vốn cố định là biểu hiện bằng tiền (giá trị của tài sản cố định và các khoản đầu tư dài hạn). Tài sản cố định là những tài sản có giá trị lớn và thời gian sử dụng lâu dài. Theo quy định của nước ta hiện nay, những tài sản có trị giá 5 triệu đồng trở lên và thời gian sử dụng trên 1 năm trở lên được coi là tài sản cố định của đơn vị. Tài sản cố định trong đơn vị là các cơ sở vật chất kỹ thuật và điều kiện quan trọng đảm bảo cho đơn vị thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Tính chất chung của tài sản cố định là có thể tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất trong quá trình sản xuất, nó hao mòn dần và chuyển từng phần hao mòn đó vào giá trị của sản phẩm mới sản xuất ra, nhưng hình thái bên ngoài và thuộc tính của nó vẫn giữ nguyên sau mỗi chu kỳ sản xuất. Hiện nay tài sản cố định trong đơn vị sản xuất bao gồm: - Tài sản cố định hữu hình: là những tài sản có hình thái vật chất, có đủ tiêu chuẩn của tài sản cố định về giá trị và thời gian sử dụng theo quy định trong chế độ quản lý tài chính hiện hành như: Nhà cửa, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, phương tiện truyền dẫy. . . Tài sản cố định có thể do đơn vị tự mua sắm, xây dựng hoặc đi thuê dài hạn. - Tài sản cố định vô hình: Là những tài sản cố định không có hình thức biểu hiện dưới hình thái vật chất, thể hiện một lượng giá trị doanh nghiệp đã đầu tư hoặc đã tham gia vào hoạt động liên doanh của doanh nghiệp, nó đại diện cho một quyền hợp pháp của người chủ sở hữu nó được quyền hưởng những quyền lợi kinh tế mà nó đem lại như: chi phí thành lập doanh nghiệp, bằng sáng chế, bản quyền tác giả, chi phí nghiên cứu phát triển, chi phí về lợi thế thương mại, độc quyền nhãn hiệu. . .Tài sản này có thể do doanh nghiệp tự đầu tư xây dựng hoặc do doanh nghiệp thuê dài hạn mà có. - Tài sản cố định thuê tài chính: Là giá trị các khoản đầu tư dài hạn với mục đích kiếm lợi như: đầu tư góp vốn liên doanh dài hạn, chứng khoán dài hạn, cho thuê tài sản cố định dài hạn, cho vay vốn dài hạn hay đầu tư kinh doanh bất động sản. . . Trên đây là cách phân loại vốn kinh doanh theo kết cấu được áp dụng từ năm 1995 trở lại đây (xem bảng tóm tắt số 2). Trước năm 1995, việc phân loại vốn kinh doanh cũng có tất cả các nội dung của phân loại hiện nay, chỉ khác nhau về sự sắp xếp trật tự hai loại vốn (xem bảng số 1). Trước kia, các doanh nghiệp còn phụ thuộc nhiều vào nhà nước, khi mà chế độ kế hoạch hoá tập trung bao cấp đã từng tồn tại trong một thời gian dài ở nước ta. Nhà nước cung cấp vốn sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp vừa chịu trách nhiệm phân phối sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất ra, vấn đề cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hoàn toàn không được đề cao. Do vậy vốn cố định luôn chiếm một tỷ trọng lớn và yêu cầu quản lý loại vốn này luôn được đặt lên hàng đầu. Việc phân loại vốn cố định chỉ gồm có tài sản cố định hữu hình là do trong cơ chế cũ, tài sản chủ yếu của đơn vị là chỉ là tài sản cố định hữu hình như máy móc thiết bị, dụng cụ lao động. . . Tài sản cố định vô hình cũng như tài sản cố định thuê tài chính chưa được đầu tư cũng như chưa được quan tâm đúng mức. Thực tế trong cơ chế cũ hai loại tài sản cố định này không có điều kiện tồn tại và phát triển. Vốn lưu động trong doanh nghiệp ở chế độ cũ chiếm tỷ trọng nhỏ được quản lý theo định mức, các định mức sử dụng loại vốn này đều do Nhà nước quy định sẵn tuy theo mục đích chỉ đạo của Nhà nước. Chính vì vậy vốn này còn có tên gọi là vốn lưu động định mức. Mặt khác vốn lưu động này được sắp xếp theo trật tự: vốn dự trữ, vốn sản xuất, vốn thành phẩm, vốn bằng tiền và vốn thanh toán. Sắp xếp như vậy là hoàn toàn hợp lý với cơ chế quản lý cũ cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong điều kiện phát triển kinh tế xã hội bấy giờ. Thời đó doanh nghiệp sản xuất trên cơ sở cái mà mình có, vậy nên vốn dự trữ là cái doanh nghiệp có trước trong hoạt động sản xuất. Việc sản xuất sản phẩm theo định mức Nhà nước yêu cầu theo nguồn vốn dự trữ đã có. Tiếp đó đến vốn thành phẩm bởi sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất và sẽ phân phối theo sự chỉ đạo của Nhà nước. Vốn bằng tiền phục vụ cho các hoạt động của doanh nghiệp không cần nhiều vì điều kiện trao đổi còn hạn chế. Vốn trong thanh toán chưa được quan tâm trong hoạt động của doanh nghiệp bởi trong quan hệ thanh toán này luôn có sự can thiệp tài trợ của Nhà nước. Sự thiếu hụt vốn bằng tiền hay thiếu vốn hoạt động do ứ đọng trong sản xuất hay trong thanh toán đều được nhà nước tài trợ hay cấp thêm vốn để doanh nghiệp tiếp tục hoạt động. Chính vì vậy doanh nghiệp trong cơ chế cũ không phát huy được tính năng động, tự chủ sáng tạo. Suốt một thời gian dài doanh nghiệp ở thế bị động, thậm chí có tư tưởng trông chờ vào sự can thiệp giúp đỡ của Nhà nước. * Trước năm 1995 -Nhà cửa - Vật kiến trúc - Máy móc thiết bị - Phương tiện VT TSCĐ Bảng số 1: Tài sản của đơn vị sản xuất kinh doanh theo kết cấu vốn kinh doanh - Thanh toán với người mua... Vốn trong thanh toán - Nguyên liệu - Vật liệu - Công cụ lao động thô sơ - Nửa thành phẩm tự chế - Sản phẩm dở dang - Thành phẩm - Tiền mặt - Tiền gửi ngân hàng Vốn bằng tiền Vốn thành phẩm Vốn sản xuất Vốn dự trữ Vốn lưu động Vốn cố định Sau năm 1995 Bảng số 2 - Chứng khoán dài hạn - Góp vốn liên doanh dài hạn - Đầu tư kinh doanh dài hạn - TSCĐ hữu hình - TSCĐ vô hình - TSCĐ thuê tài chính Vốn cố định - Tiền mặt ở quỹ - Tiền gửi NH, kho bạc -Chứng khoán ngắn hạn - Góp vốn liên doanh ngắn hạn Vốn bằng tiền và đầu tư ngắn hạn Tài sản cố định Đầu tư dài hạn Vốn lưu động - NVL - Công cụ dụng cụ - Sản phẩm chế dở - Thành phẩm - Khoản phải thu của khách hàng - Tạm ứng cho CNV - Khoản phải thu khác Vốn dự trữ sản xuất kinh doanh Vốn trong thanh toán Vốn kinh doanh Khi chuyển sang cơ chế thị trường, vấn đề cạnh tranh được đặt lên hàng đầu. Doanh nghiệp muốn khẳng định mình thì phải có một vị thế vững vàng trên thị trường, muốn vậy doanh nghiệp phải có tính tự chủ cao để có thể đáp ứng tốt nhất nhu cầu của thị trường. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú đa dạng về chủng loại mẫu mã hàng hoá, doanh nghiệp phải đảm bảo đáp ứng được một lượng vốn đảm bảo cho quá trình sản xuất được diễn ra một cách thường xuyên liên tục và có hiệu quả theo đúng yêu cầu của sản xuất. Như vậy vốn này phải có khả năng thanh toán cao, dễ chuyển đổi. Cơ cấu vốn trong doanh nghiệp mà có nền tảng là tài sản cố định không thể đáp ứng được yêu cầu này, thậm trí còn có thể dẫn đến kìm hãm, trì trệ hoạt động của doanh nghiệp. Chỉ có vốn lưu động mới giải quyết được vấn đề đó, mặt khác vốn lưu động lại dễ mất mát vì thế vốn lưu động trong doanh nghiệp được nâng lên, yêu cầu đặt ra của việc quản lý của loại vốn này đòi hỏi phải tăng cường tránh mất mát, thất thoát. Ngày nay nhìn vào hoạt động của một doanh nghiệp có hiệu quả hay không người ta chỉ xem xét qui mô và giá trị của tài sản cố định, điều quan tâm hơn cả của vốn lưu động doanh nghiệp lớn hay nhỏ. Trong vốn lưu động, vốn bằng tiền là vốn có khả năng thanh toán, khả năng chuyển đổi nhanh nhất đáp ứng nhu cầu kịp thời thanh toán giao dịch phát sinh trong hoạt động của doanh nghiệp vì thế nó được xem xét đến trước tiên. Vốn trong thanh toán có khả năng thanh toán bằng các loại vốn bằng tiền song lại cao hơn so với vốn dự trữ trong sản xuất kinh doanh. Trong hoạt động tự chủ, tự hạch toán, vốn trong thanh toán đóng vai trò quan trọng trong việc quay vòng vốn của doanh nghiệp, vốn trong thanh toán bị ứ đọng nhiều thì sẽ làm giảm tốc độ chu chuyển vốn sản xuất kinh doanh, giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh của đơn vị. Ngược lại vốn trong thanh toán chuyển hoá thành tiền càng nhanh thì sẽ làm tăng tính hiệu quả của việc sử dụng vốn kinh doanh. Với vị trí quan trọng như vậy nên vốn trong thanh toán đòi hỏi phải được quan tâm để đưa ra những quyết định thích hợp chuyển hoá vốn này thành tiền, đảm bảo tốt nhất, đáp ứng tốt nhất mọi nhu cầu sản xuất kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường vốn dự trữ sản xuất kinh doanh chiếm một tỉ trọng nhỏ vì nó luôn được chuyển hoá nhanh chóng sang một biểu hiện khác của vốn lưu động, mặt khác các sản phẩm dự trữ cho hoạt động của đơn vị có thể đáp ứng đầy đủ, kịp thời với điều kiện có vốn bằng tiền, do đó vốn dự trữ trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không còn vị thế như thời kỳ trước nữa. Sắp xếp thứ tự như trên là muốn nhấn mạnh sự quan trọng trong hoạt động thanh toán, chi trả của doanh nghiệp. Hoạt động này quyết định tốc độ vòng quay của vốn. Trong nền kinh tế thị trường tốc độ vòng quay của vốn nhanh hay chậm ảnh hưởng nhiều đến toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị. Vốn cố định giờ không còn là nhân tố chủ yếu trong kết cấu vốn kinh doanh, song việc phân vốn cố định theo ba loại như ở trên là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp. Nó phản ánh một cách toàn diện, cụ thể hơn các biểu hiện cụ thể của tài sản cố định trong nền kinh tế thị trường. Trong một đơn vị sản xuất, tuỳ theo các giai đoạn hoạt động khác nhau mà kết cấu của các loại vốn cụ thể như đã nêu là một sự thay đổi phù hợp tương ứng. Ví dụ như trong quá trình sản xuất kinh doanh, vốn dự trữ trong sản xuất kinh doanh: Nguyên vật liệu giảm nhưng vốn sản phẩm chế tạo dở dang, vốn thành phẩm tăng lên. Cuối kỳ sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp bán sản phẩm, vốn trong thanh toán tăng lên vốn dự trữ sản xuất kinh doanh giảm. Giữa các đơn vị sản xuất khác nhau kết cấu vốn kinh doanh của chúng cũng khác nhau. Ví dụ: Có hai đơn vị: đơn vị đại lý bán hàng và đơn vị chế tạo xe đạp. Đơn vị chế tạo xe đạp yêu cầu tỉ trọng tài sản cố định trong toàn bộ giá trị tài sản của đơn vị tương đối cao, trong khi đó yêu cầu kết cấu vốn của đơn vị đại lý bán hàng lại là vốn lưu động cần phải lớn. ở đơn vị đại lý bán hàng yêu cầu về các máy móc thiết bị ít, chủ yếu là các phương tiện vận chuyển, các công cụ dụng cụ nhỏ phục vụ bán hàng, vốn bằng tiền, vốn dự trữ, vốn trong thanh toán đáp ứng nhu cầu nhập hàng hoá để bán cần nhiều. Do đó tỉ trọng vốn lưu động chiếm ưu thế là đương nhiên. Đơn vị chế tạo xe đạp đòi hỏi phải có máy móc thiết bị chế tạo nhiều. Tài sản cố định thường là có giá trị lớn. Mặt khác để xe đạp có chất lượng cao, mẫu mã đẹp cần áp dụng thành tựu khoa học công nghệ kỹ thuật mới, phương thức, tài sản cố định vô hình. Giá trị tài sản cố định trong đơn vị này so với toàn bộ tài sản của đơn vị chiếm tỉ trọng lớn. Nếu xét trong đơn vị đại lý bán hàng thì đầu mỗi chu kỳ sản xuất vốn bằng tiền chiếm tỉ trọng cao. Bắt đầu vào kinh doanh vốn bằng tiền giảm nhanh để nhập hàng hoá làm vốn dự trữ sản xuất tăng nhanh. Kết thúc chu kỳ kinh doanh hàng đem đi bán làm cho vốn dự trữ giảm, vốn trong thanh toán của doanh nghiệp tăng lên. Qua đây ta thấy muốn hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có hiệu quả cao, cần phải nghiên cứu các đối tượng kinh doanh của doanh nghiệp cụ thể hay nói một cách khác đối tượng của kế toán doanh nghiệp một cách cụ thể từ đó ra quyết định đúng, để có được kết cấu vốn kinh doanh của doanh nghiệp là hợp lý nhất, phù hợp với từng thời kỳ hoạt động cụ thể của đơn vị. II. Phân loại vốn kinh doanh theo nguồn hình thành vốn kinh doanh Vốn kinh doanh của doanh nghiệp được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Trong doanh nghiệp sản xuất nguồn hình thành vốn kinh doanh được chia thành hai loại sau: 1.Các khoản nợ phải trả. Các khoản nợ phải trả là các nguồn vốn mà đơn vị sản xuất huy động, khai thác trên cơ sở các chính sách, chế độ nhà nước qui định và các hợp đồng đã thoả thuận giữa đơn vị với các tổ chức, đơn vị, các cá nhân khác. Đơn vị có quyền sử dụng tạm thời hay một thời gian nhất định, sau thời gian đó đơn vị phải hoàn trả. Để khai thác huy động triệt để nguồn vốn này cần xem xét đến các biểu hiện cụ thể của nó trong đơn vị. a.Các khoản nợ ngắn hạn: Đây là những khoản nợ có thời hạn ngắn nhỏ hơn một năm hay chỉ trong một chu kỳ kinh doanh, những khoản nợ này bao gồm: - Vay ngắn hạn: là những khoản vay ngắn hạn từ các tổ chức tín dụng như ngân hàng, các công ty tài chính. - Nợ dài hạn đến hạn phải trả: là khoản nợ vay trong thời gian dài (lớn hơn một năm) song tại thời điểm xem xét, các khoản nợ này cần phải hoàn trả cho chủ sở hữu của nó. - Nợ phải trả người bán: là khoản nợ phải trả cho người bán hay cung cấp hàng hoá dịch vụ cho doanh nghiệp. - Thuế và các khoản phải nộp cho ngân sách nhà nước theo qui định chế độ đã ban hành. - Các khoản phải trả cho công nhân viên: đó là những khoản lương, phụ cấp phải trả cho công nhân viên. - Các khoản chi phí phải trả - Các khoản ký quĩ, ký cược ngắn hạn và các khoản phải trả ngắn hạn khác. B.Các khoản nợ dài hạn: Nợ dài hạn là những khoản nợ mà thời hạn trả nợ trên một năm bao gồm: - Dài hạn cho đầu tư phát triển - Nợ thế chấp phải trả - Thương phiếu dài hạn - Trái phiếu phải trả - Các khoản ký quĩ, ký cược dài hạn - Các khoản phải trả dài hạn khác. Nguồn vốn chủ sở hữu: Đây là nguồn vốn thuộc quyền sở hữu của đơn vị, đơn vị có quyền sử dụng lâu dài trong suốt thời gian hoạt động của đơn vị. Tuỳ theo loại hình hoạt động của doanh nghiệp - nhà nước, tư nhân, liên doanh, công ty cổ phần. . . mà nguồn vốn chủ sở hữu được hình thành khác nhau. - Đối với doanh nghiệp nhà nước vốn hoạt động do nhà nước cấp hoặc đầu tư nên chủ sở hữu vốn là nhà nước. - Với doanh nghiệp liên doanh: vốn hình thành từ các thành viên tham gia góp vốn hoặc các tổ chức cá nhân tham gia hùm vốn. - Với công ty cổ phần vốn chủ sở hữu do hoạt động góp vốn cổ phần của các cổ đông. - Với doanh nghiệp tư nhân vốn chủ sở hữu được hình thành từ sự bỏ vốn đầu tư của cá nhân hay hay một hộ gia đình. Tuy nhiên thông thường vốn chủ sở hữu bao gồm: a.Vốn góp: là vốn do các chủ sở hữu các nhà đầu tư đóng để thành lập hoặc mở rộng kinh doanh và được sử dụng vào mục đích kinh doanh. Số vốn này có thể được bổ xung, làm tăng thêm hoặc rút bớt đi trong quá trình kinh doanh. b.Lãi chưa phân phối (lãi lưu dữ) đây là kết quả của toàn bộ hoạt động kinh doanh số lãi này trong khi chưa được phân chia được sử dụng cho mục đích hoạt động kinh doanh và coi như vốn chủ sở hữu. c.Vốn chủ sở hữu khác: là vốn chủ sở hữu có nguồn gốc từ lợi nhuận để lại (các quĩ xí nghiệp, các khoản dự trữ theo điều lệ, dự trữ theo luật định.) hoặc các loại vốn khác (vốn xây dựng cơ bản, vốn kinh phí cấp phát). - Việc phân loại vốn kinh doanh theo nguồn hình thành như trên được áp dụng từ năm 1995 trở lại đây (bảng tóm tắt số 4). Việc phân loại như vậy là hoàn toàn hợp lý trong cơ chế kinh tế hiện nay. Ngay nay để có thể hoạt động doanh nghiệp có thể huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau như vay nợ các tổ chức tài chính, tín dụng. Trong điều kiện cạnh tranh của cơ chế kinh tế mới, khối lượng vốn cần nhiều để lưu chuyển hàng hoá. Vốn của chủ sở hữu khó có thể đáp ứng thường xuyên và đầy đủ lượng tiền đó. Vốn huy động có thể huy động cho hoạt động của doanh nghiệp có hiệu quả hơn. - Nợ ngắn hạn là những khoản vay nhằm thoả mãn những nhu cầu vốn ngay lập tức một cách kịp thời nhu cầu vốn hay ứ đọng ở khâu nào đó trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vì thế nó được quan tâm trước tiên. - Trở về những năm trước 1990 vốn kinh doanh phân loại theo nguồn hình thành cũng gồm hai loại về bản chất không có sự phân biệt về nội dung thể hiện cách phân biệt về sau. Chỉ khác nhau ở cách gọi tên và trật tự sắp xếp (xem bảng 3). Doanh nghiệp thời kỳ đó hoạt động nhờ vốn cấp phát của nhà nước hoặc vốn được tăng thêm từ hoạt động nhờ số vốn ban đầu được cấp phát. Việc huy động vốn của doanh nghiệp từ các hoạt động khác rất hạn chế. - Nguồn vốn nghiệp vụ cơ bản là nguồn vốn quan trọng nhất của doanh nghiệp bao gồm nguồn vốn cơ bản và nguồn cấp phát, vốn cơ bản giúp doanh nghiệp duy trì hoạt động một cách bình thường. Tiền cấp phát cũng do nhà nước cấp để bổ xung vốn cho doanh nghiệp trong trường hợp vốn cơ bản hiện có không đủ để tiến hành sản xuất do xí nghiệp được giao thêm nhiệm vụ mới. - Nguồn vốn chuyên dùng của xí nghiệp cũng được nhà nước cấp phát với tên gọi nguồn vốn chuyên dùng hoặc do doanh nghiệp lập ra do việc khấu hao của tài sản hoặc do việc phân phối lợi nhuận hình thành nên các quĩ xí nghiệp. Thực tế lợi nhuận của các đơn vị thời kỳ ấy không được quan tâm, mặt khác đa số lợi nhuận của doanh nghiệp đều không cao vì tính hiệu quả của doanh nghiệp thường không được đề cao. Tính tự chủ của xí nghiệp còn hạn chế. Nguồn vốn sử dụng tạm thời gồm nguồn vốn tín dụng và nguồn vốn trong thanh toán. * Trước năm 1995 Bảng số 3 Nguồn vốn chủ sở hữu - Vay ngắn hạn NH - Vay dài hạn NH - Vay đối tượng khác - Nguồn vốn xây dựng cơ bản - Các quỹ xí nghiệp - Thanh toán với Ngân sách - Thanh toán với người bán - Thanh toán với công nhân viên - Nguồn vốn cố định - Nguồn vốn lưu động - Thu nhập chưa phân phối Nguồn vốn tự có Nguồn vốn sử dụng tạm thời Nguồn vốn tín dụng Nguồn vốn chuyên dùng Nguồn vốn kinh doanh cơ bản Tài sản của đơn vị SXKD theo nguồn vốn hình thành * Sau năm 1995 - Vay ngắn hạn - Phải trả cho người bán - Phải trả cho công nhân viên - Thuể và các khoản phải nộp nhà nước - Phải trả người nộp khác Bảng số 4 Nợ ngắn hạn Nợ phải trả - Vay dài hạn - Nợ dài hạn khác Nợ dài hạn - Nguồn vốn kinh doanh - Lãi phải trả chưa phân phối - Quỹ đầu tư phát triển - Quỹ khen thưởng phúc lợi - Nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản Nguồn vốn chủ sở hữu Vốn kinh doanh Vốn tín dụng từ vay ngắn hạn hay dài hạn tại ngân hàng nhà nước trong thời hạn nào đó với lãi suất theo chế độ qui định. Nguồn vốn trong thanh toán: Là phần tiền mà doanh nghiệp phải trả cho các cá nhân hay đơn vị khác do quan hệ thanh toán mà các khoản tiền này hình thành nguồn vốn tạm thời của xí nghiệp như: phải trả cho người bán, khoản phải trả công nhân viên. Như đã biết, vốn kinh doanh và nguồn vốn kinh doanh là hai mặt biểu hiện của tài sản trong đơn vị sản xuất kinh doanh. Do vậy về mặt lượng, tổng số tiền theo kết cấu vốn kinh doanh bằng tổng số tiền theo nguồn hình thành vốn kinh doanh tại một thời điểm nhất định. Hạch toán kế toán phản phản ánh các loại vốn kinh doanh, nguồn vốn kinh doanh mới chỉ phản ánh tài sản ở trạng thái tĩnh. Thực tế trong quá trình hoạt động của đơn vị, các hoạt động kinh tế nảy sinh gây ra sự biến đổi chuyển hoá của các loại vốn kinh doanh, nguồn vốn kinh doanh. Trong các đơn vị hoạt động sản xuất kinh doanh các hoạt động kinh tế tài chính nảy sinh gây ra thường xuyên liên tục qua các giai đoạn khác nhau của quá trình tái sản xuất diễn ra trong đơn vị: Giai đoạn mua hàng (chuẩn bị cho hoạt động sản xuất), giai đoạn bán hàng (lưu thông sản phẩm đáp ứng nhu cầu của xã hội). Trong giai đoạn mua hàng vốn bằng tiền được chuyển hoá thành vốn dự trữ trong sản xuất kinh doanh của đơn vị, vốn chủ sở hữu chuyển thành phải trả cho người bán. Trong giai đoạn bán hàng vốn dự trữ sản xuất kinh doanh giảm, chuyển hoá thành vốn dự trữ trong thanh toán, vốn trong thanh toán chuyển hoá thành tiền... hay nguồn vốn kinh doanh chuyển hoá thành lãi chưa phân phối, quỹ đầu tư phát triển. Tóm lại, các hoạt động kinh tế tài chính nảy sinh ra sự biến động, thay đổi sự chuyển hoá hình thái giữa các loại vốn kinh doanh và các nguồn vốn kinh doanh, gây nên sự vận động tài sản - không chỉ là những biến động đơn thuần gắn liền với các giai đoạn của quá trình tái sản xuất diễn ra trong đơn vị sản xuất. Từ việc nghiên cứu các quá trình sản xuất kinh doanh, hạch toán thu nhận được những thông tin về sự vận động của tài sản trong quá trình đó, từ đó có sự kiểm tra thúc đẩy sự vận động của tài sản trong quá trình hoạt động của đơn vị đảm bảo tính hiệu quả cho đơn vị và xã hội. Qua toàn bộ những phân tích ở trên, một lần nữa khẳng định đối tượng của hạch toán kế toán trong đơn vị sản xuất là các loại vốn kinh doanh, các nguồn vốn kinh doanh (hai mặt biểu hiện của tài sản) và các giai đoạn của (quá trình) kinh doanh (biểu hiện sự vận động của tài sản). Từ việc nghiên cứu đối tượng cụ thể của hạch toán kế toán trong đơn vị sản xuất kinh doanh, kết hợp với phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa duy vật biện chứng, cơ sở khoa học của kinh tế chính trị Mác - Lênin ta có thể nhận biết được đối tượng của hạch toán kế toán trong các đơn vị khác: đơn vị thương mại, dịch vụ các đơn vị hành chính sự nghiệp, đơn vị, tổ chức tín dụng. Chương III Biểu hiện của đối tượng kế toán trong các đơn vị khác I. Biểu hiện của đối tượng hạch toán kế toán trong đơn vị thương mại dịch vụ 1. Đối tượng của thương mại dịch vụ Cùng với hoạt động dịch vụ, thương mại ngày nay có vai trò vô cùng to lớn đối với nền kinh tế thị trường. Chuyên môn hoá sản xuất ngày càng cao thì của cải vật chất, sản phẩm doanh nghiệp sản xuất ra ngày càng nhiều, khối lượng lớn. Nhu cầu tiêu thụ sản phẩm, phân phối sản phẩm tới tay người tiêu dùng càng nhanh càng tốt. Mặt khác nhu cầu được cung ứng sản phẩm của người tiêu dùng cũng không ngừng tăng theo thời gian. Thương mại có thể thoả mãn những nhu cầu ấy. Việc trao đổi theo nguyên tắc ngang giá, và thương mại trở thành môi giới tích cực giữa sản xuất và tiêu dùng ngày nay tạo điều kiện cho doanh nghiệp thương mại phát huy tính năng động sáng tạo quá trình hoạt động. Trong quản lý tài chính ở đơn vị dịch vụ cũng như ở đơn vị thương mại, hạch toán kế toán giữ vai trò quan trọng vì nó là công cụ không thể thiếu được để thu nhận, xử lý và thông tin về toàn bộ hoạt động kinh tế tài chính của các đơn vị này, phục vụ cho nhu cầu quản lý kinh doanh, bảo vệ tài sản, thực hiện hạch toán kế toán xã hội chủ nghĩa ở các đơn vị. Đối tượng của hạch toán kế toán trong đơn vị thương mại là tài sản và các quá trình kinh doanh. Tài sản trong đơn vị thương mại nếu xét nội dung biểu hiện cụ thể thì không có gì khác so với tài sản trong đơn vị sản xuất. Nhưng nếu xét tỷ trọng của từng đối tượng cụ thể, xét về mặt giá trị, thì vốn lưu động chiếm ưu thế hơn hẳn do yêu cầu hoạt động đặc trưng của loại hình đơn vị này. Trong đơn vị thương mại, nhu cầu về vốn bằng tiền khá là lớn. Muốn có hàng hoá nhất thiết doanh nghiệp phải có tiền để đảm bảo đủ lượng hàng hoá cung cấp cho khách hàng. Tuy nhiên trong điều kiện hiện nay, doanh nghiệp thương mại vẫn có thể có đủ hàng hoá mà không cần phải có đủ lượng tiền tương ứng giá trị lượng tài sản ấy. Đối tượng chiếm tỷ trọng lớn trong tài sản của doanh nghiệp thương mại là hàng hoá. Đây là những hàng hoá mua vào để bán và nhằm để đáp ứng nhu cầu sản xuất, tiêu dùng và xuất khẩu, các loại vật tư khác như vật liệu, nguyên liệu, phụ tùng thay thế, công cụ, dụng cụ . . . mua về để sử dụng phục vụ cho kênh sản xuất, chế biến, gia công nhằm tạo thêm khối lượng hàng hoá phục vụ cho kinh doanh thương mại hoặc làm phương tiện phục vụ cho quá trình quản lý sản xuất kinh doanh ở doanh nghiệp. ở các doanh nghiệp thương mại vốn dự trữ hàng hoá, vật tư chiếm tỷ trọng lớn trong vốn lưu động của doanh nghiệp. - Hàng hoá tồn kho: bao gồm toàn bộ hàng hoá ở các kho hàng, các cửa hàng và các quầy hàng của doanh nghiệp hàng tồn kho chiếm tuyệt đại bộ phận trong lực lượng hàng hoá dự trữ ở doanh nghiệp đảm bảo cho việc bán hàng được bình thường. - Vật tư, các vật liệu, nguyên liệu, phụ tùng thay thế.. cung cấp cho hoạt động sản xuất của doanh nghiệp khác. Quá trình mua hàng: Đây là quá trình mở đầu cho quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Được thực hiện bằng việc chuyển từ hình thái tiền (vốn bằng tiền) để mua hàng hoá, phương tiện vận tải. . . nhằm phục vụ cho hoạt động kinh doanh về vốn. Các thông tin trong quá trình mua hàng phải được hạch toán kế toán thu nhận và xử lý. . . để đưa ra các quyết định kịp thời để mua được hàng tốt để có thể thu được lợi nhuận cao cho doanh nghiệp. - Quá trình bán hàng: là giai đoạn kết thúc một quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại và là tiền đề cho quá trình kinh doanh tiếp theo. Hàng hoá bán ra phải đảm bảo bù đắp số tiền mua vào ban đầu và có lãi. Nếu quá trình mua và bán diễn ra liên tục sẽ tăng quá trình chu chuyển vốn thu được lợi nhuận cao. Thu nhận, xử lý, cung cấp thông tin về quá trình bán hàng sẽ đúc rút được kinh nghiệm cho lần sau là đưa ra những biện pháp khắc phục những thiếu sót, sai lầm phát huy điểm mạnh. Có thể minh hoạ quá trình mua hàng, bán hàng của doanh nghiệp thương mại qua sơ đồ sau: Tiền Quá trình mua Khoản phải thu Hàng hoá Quá trình bán hàng 2. Đối với đơn vị dịch vụ Trong điều kiện hiện nay, hoạt động dịch vụ có nhu cầu ngày càng tăng trong cơ cầu toàn bộ nền kinh tế quốc dân tỷ trọng ngành dịch vụ có xu hướng ngày càng tăng lên mạnh mẽ. Các đơn vị dịch vụ không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ, đáp ứng tốt hơn những nhu cầu của khách hàng. Đối tượng nghiên cứu của kế toán trong đơn vị này là tài sản, sản phẩm và quá trình sản xuất (tiêu thụ) sản phẩm ấy. Sản phẩm của đơn vị này không mang hình thái vật chất cụ thể. Qúa trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm được thực hiện đồng thời, không có sản phẩm làm dở, không có sản phẩm nhập kho. Nghiên cứu các quá trình sản xuất hay tiêu thụ này sẽ giúp cho doanh nghiệp thu nhận, xử lý các thông tin nhằm tính toán đúng đắn, hợp lý các chi phí thực hiện dịch vụ, rút kinh nghiệm đưa ra các quyết định nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của đơn vị. II. Biểu hiện của đối tượng hạch toán trong đơn vị hành chính sự nghiệp 1. Khái niệm đơn vị hành chính sự nghiệp Đơn vị hành chính sự nghiệp là một loại hình đơn vị được nhà nước quyết định thành lập, giao nhiệm vụ chuyên môn nhất định hay quản lý Nhà nước về một hoạt động nào đó như: các cơ quan quản lý Nhà nước theo ngành, các cơ quan chính quyền, các cơ quan quyền lực Nhà nước, các tổ chức đoàn thể, các đơn vị sự nghiệp kinh tế, các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang. . . 2. Đối tượng của hạch toán kế toán trong đơn vị hành chính sự nghiệp Khác với đơn vị sản xuất kinh doanh của các đơn vị hành chính sự nghiệp không trực tiếp sản xuất của cải vật chất mà thực hiện những nhiệm vụ mà Nhà nước giao cho. Mục tiêu của loại hình doanh nghiệp này không phải là lợi nhuận song hạch toán kế toán cũng không thể thiếu được. “Kế toán hành chính sự nghiệp là công việc tổ chức hệ thống thông tin bằng số liệu để quản lý và kiểm soát nguồn kinh phí, tình hình sử dụng và quyết toán kinh phí, tình hình quản lý và sử dụng các loại vật tư, tài sản công, tình hình chấp hành dự toán thu chi và thực hiện các tiêu chuẩn, định mức của Nhà nước ở đơn vị”. Như vậy để thực hiện tốt vai trò, hạch toán kế toán hành chính sự nghiệp cũng cần phải nghiên cứu tài sản và sự vận động của tài sản trong đơn vị hành chính sự nghiệp, rất phong phú và đa dạng tuỳ theo mục đích và phương thức hoạt động của mỗi đơn vị. Ví dụ tài sản của đơn vị thuộc lực lượng vũ trang thiết bị phục vụ cho yêu cầu đảm bảo cho an toàn như: súng, ống, đạn pháo, xe cơ giới vận chuyển quân nhân, quân nhu, doanh trại. . . Các tài sản này cũng được biểu hiện bằng tiền nhưng không gọi là vốn kinh doanh mà gọi là “trị giá tài sản”. Nguồn kinh phí để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của đơn vị hành chính sự nghiệp do NSNN cấp và được bổ xung từ các nguồn khác. Chi tiêu của từng đơn vị không phải là dành cho sản xuất kinh doanh, nguồn hình thành tài sản và chi phí trong quá trình hoạt động không gọi là nguồn vốn kinh doanh mà gọi là kinh phí. Tóm lại trị giá tài sản và nguồn kinh phí là đối tượng nghiên cứu của hạch toán kế toán hành chính sự nghiệp. Xác định đúng đối tượng giúp hạch toán kế toán thu thập thông tin được chân thực, khách quan về trị giá tài sản và nguồn kinh phí để sử dụng chúng có hiệu quả nhất. Mặt khác, trong đơn vị hành chính sự nghiệp, quá trình hoạt động không theo một chu kỳ khép kín mà là sự lặp lại nhiều lần. Vốn kinh doanh của đơn vị được cấp khi đơn vị đi vào hoạt động sẽ hao mòn dần song không có quỹ hao mòn thực hiện khấu hao tài sản mà khi cần kinh phí thì lại do Nhà nước cấp cho đơn vị. Điều đó có thể dẫn tới việc sử dụng tài sản này một cách lãng phí. Hạch toán kế toán giúp doanh nghiệp hạn chế điều này song đồng thời nâng cao tính hiệu quả trong việc sử dụng đồng chi phí bỏ ra. III. Biểu hiện đối tượng của kế toán trong đơn vị tổ chức tài chính, tín dụng Trong nền kinh tế thị trường, nhu cầu về vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh là rất lớn. Sự xuất hiện và phát triển ngày càng nhiều của các tổ chức tài chính tín dụng nhằm giải quyết nhu cầu thiếu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Mặt khác các tổ chức này thực hiện tập trung, huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi với chính sách lãi xuất hợp lý. Mục đích hoạt động của các tổ chức này cũng là lợi nhuận, hoặc không chỉ có lợi nhuận (Ngân hàng Nhà nước) song cái mà nó mang lại cho nền kinh tế là nó đảm bảo cung ứng đủ lượng tiền cần thiết trong lưu thông hàng hoá, hay cho nhu cầu đầu tư xây dựng. . . Sau đây, đơn vị tiêu biểu của loại hình doanh nghiệp này là ngân hàng. Xuất phát từ tính chất hoạt động đặc biệt của loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, đối tượng của hạch toán kế toán ngân hàng có những đặc điểm riêng. Một là: trong quá trình hoạt động hình thái vốn của ngân hàng không thay đổi (T-T) song xét về lượng giá trị thì sau một chu kỳ hoạt động vốn của ngân hàng (NH) đã tăng lên T- T’. Phần kết quả tăng thêm chính là kết quả sinh lời của hoạt động ngân hàng. Đặc điểm này phản ánh bản chất hoạt động kinh doanh tiền tệ của hàng hoá. Chính vì vậy tiền tệ là đơn vị ghi sổ chủ yếu của kế toán ngân hàng. Hai là: mối quan hệ thường xuyên đối tượng hạch toán kế toán ngân hàng với đối tượng hạch toán kế toán của toàn bộ nền kinh tế thông qua các hoạt động nhận tiền gửi, cấp tín dụng và các dịch vụ của ngân hàng đối với nền kinh tế. Chẳng hạn khi ngân hàng nhận tiền gửi của một doanh nghiệp thì về phía ngân hàng là nguồn vốn, với doanh nghiệp gửi tiền vào ngân hàng là sử dụng vốn hoặc khi ngân hàng cấp thẻ tín dụng về phía ngân hàng là sử dụng vốn và ngược lại về phía doanh nghiệp nhận tiền vay của ngân hàng là nguồn vốn. Qua đó bằng các chính sách hay các công cụ trực tiếp, ngân hàng sẽ tác động vào toàn bộ hoạt động của nền kinh tế, mối quan hệ này cũng tạo cho ngân hàng những uy tín và sự tin cậy nhất định. Ba là: xét về quy mô và tuần hoàn vốn, đối tượng của hạch toán kế toán ngân hàng có quy mô rất lớn, phạm vi rộng (bao gồm vốn của bản thân ngân hàng và vốn của nền kinh tế gửi tại ngân hàng) và có sự tuần hoàn thường xuyên liên tục theo yêu cầu quản lý và kinh doanh của ngân hàng cũng như chu chuyển vốn của toàn bộ nền kinh tế. Điều này đòi hỏi việc tổ chức hạch toán kế toán ngân hàng phải khoa học, phải nhanh chóng ứng dụng các thành tựu khoa học tính toán nhằm hiện đại hoá công nghệ ngân hàng đáp ứng yêu cầu chu chuyển vốn nhanh, chính xác trong toàn bộ nền kinh tế. Bốn là: việc hình thành ngân hàng hai cấp (từ 26/3/1998) đã làm đối tượng của hạch toán kế toán ở mỗi cấp có đặc trưng riêng, phù hợp với chức năng và nhiệm vụ của cấp đó. Ngân hàng nhà nước với chức năng quản lý vĩ mô chính sách tiền tệ quốc gia và là ngân hàng phát hành nên có các đặc trưng riêng của đối tượng hạch toán kế toán ngân hàng nhà nước là tạo tiền cơ bản cũng như huy động vốn với tư cách “ngân hàng của các ngân hàng” các tổ chức tín dụng (ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư phát triển, hợp tác xã tín dụng...) với chức năng kinh doanh trực tiếp phục vụ nền kinh tế nên đặc trưng của đối tượng hạch toán kế toán của các tổ chức tín dụng là tạo vốn khả dụng cũng như các hoạt động kinh doanh phục vụ kết hoạch là các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, tư nhân trong toàn bộ nền kinh tế. Với những đặc điểm trên, một mặt kế toán ngân hàng có đối tượng giống đối tượng của các đơn vị hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời còn có đối tượng riêng đặc trưng. Để thấy rõ hơn đối tượng của hạch toán kế toán, kế toán ngân hàng cần đi sâu vào hai mặt biểu hiện của nó là nguồn vốn (tài sản nợ) và sử dụng vốn (tài sản có). a. Nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn của NHNN Bản chất cơ cấu nguồn vốn, sử dụng vốn của ngân hàng phụ thuộc vào chức năng, nhiệm vụ của NHNN như: Nguồn vốn Sử dụng vốn - Vốn pháp định - Vốn NSNN cấp theo mục đích chỉ định - Vốn tích luỹ dự phòng - Vốn phát hành - Vốn quản lý - Vốn đi vay nước ngoài - Vốn khác - Cho vay các tổ chức tín dụng - Chi hoạt động sự nghiệp - Chi phí bộ máy - Chi mua sắm TSCĐ - Chi phí hành chính - Cấp vốn cho các đơn vị trực thuộc - Sử dụng khác b. Nguồn vốn, sử dụng vốn của các tổ chức tín dụng Để đảm bảo chức năng kinh doanh thông qua nghiệp vụ nhận tiền gửi cấp tín dụng cho nền kinh tế và thực hiện các nghiệp vụ cung ứng dịch vụ ngân hàng các tổ chức tín dụng có các nguồn vốn và sử dụng vốn sau: Nguồn vốn Sử dụng vốn - Vốn điều lệ - Vốn cổ phần - Vốn tích luỹ dự trữ - Vốn được cấp để cho vay đầu tư XDCB - Vốn huy động - Vốn trong thanh toán - Vốn đi vay - Vốn cố định - Vốn khác - Cho vay đối với nền kinh tế - Góp vốn liên doanh liên kết - Chi phí nghiệp vụ kinh doanh - Chi phí bộ máy - Chi mua sắm TSCĐ - Chi hành chính - Cấp vốn cho các đơn vị trực thuộc - Sử dụng khác Đối tượng của hạch toán kế toán ngân hàng được phân chia như trên là hoàn toàn phù hợp với nhiệm vụ mà các ngân hàng đảm nhận là kinh doanh tiền tệ (huy động vốn và cho vay trong nền kinh tế). Trong điều kiện nền kinh tế phát triển đặc biệt là xu thế hội nhập kinh tế và toàn cầu hoá nền kinh tế thì đối tượng của hạch toán kế toán ngân hàng ngày càng đa dạng và phức tạp để cơ thể phản ánh một cách đầy đủ về các mặt hoạt động về tài sản của đơn vị. Kết luận chung Hạch toán kế toán có vai trò to lớn đối với nền kinh tế quốc dân, đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường. Một hệ thống kế toán hoàn thiện đảm bảo tính đầy đủ, toàn diện, khách quan sẽ giúp cho hạch toán kế toán có hiệu quả cao. Hệ thống ấy chỉ có thể có được nhờ vào sự nghiên cứu một cách đúng mực về đối tượng của hạch toán kế toán. Thực tế cho thấy dù cho điều kiện lịch sử có thay đổi, thậm chí có thể rất lớn, trong đường lối chính sách phát triển kinh tế của đất nước song xét về bản chất của đối tượng của hạch toán kế toán không có gì thay đổi: tài sản và sự vận động của tài sản ở các đơn vị trải qua các thời kỳ khác nhau, đối tượng của hạch toán kế toán chỉ khác đi ở những biểu hiện cụ thể hay vị trí vai trò của những đối tượng cụ thể ấy đối với hoạt động của đơn vị. Đấy là do yêu cầu khách quan, của từng thời kỳ. Tất cả những quan điểm đã trình bày ở trên đây có thể thấy: Đối tượng hạch toán kế toán là tài sản của đơn vị hạch toán được xét trong quan hệ giữa hai mặt vốn và nguồn hình thành và quá trình tuần hoàn của những tài sản đó qua các giai đoạn nhất định của quá trình tái sản xuất, cùng các mối quan hệ kinh tế pháp lý phát sinh trong quá trình hoạt động của đơn vị. Qua các điểm phân tích ở trên cũng có thể khái quát những đặc điểm cơ bản của đối tượng hạch toán kế toán là: Thứ nhất: đối tượng của hạch toán kế toán luôn có tính hai mặt, độc lập nhau nhưng cân bằng với nhau về lượng. Thứ hai: đối tượng của hạch toán kế toán luôn vận động qua các giai đoạn khác nhau nhưng theo một trật tự xác định. Thứ ba: đối tượng của hạch toán kế toán luôn có tính đa dạng trên mỗi nội dung cụ thể. Thứ tư: mỗi một đối tượng cụ thể của hạch toán kế toán đều gắn liền trực tiếp đến lợi ích kinh tế, đến quyền lợi và trách nhiệm của nhiều phía khác nhau. Qua nghiên cứu những đặc điểm ở trên ta thấy rằng vấn đề đặt ra đối với người làm công tác kế toán là phải nhanh chóng phát hiện ra những biểu hiện cụ thể mới trong điều kiện lịch sử mới của đối tượng hạch toán. Nghiên cứu đối tượng của hạch toán kế toán - nghiên cứu tài sản và vận động của tài sản - giúp ta tìm ra những điều đó. Trong điều kiện cơ chế kinh tế mới ở nước ta hiện nay, các hoạt động kinh tế tài chính diễn ra phong phú đa dạng phức tạp thì việc tìm ra những biểu hiện cụ thể ấy về hoàn thiện hệ thống kế toán, phục vụ cho công tác quản lý, chỉ đạo hoạt động ở các đơn vị diễn ra tốt hơn, hiệu quả hơn không chỉ đối với đơn vị mà còn với toàn xã hội. Tôi xin trân thành cảm ơn sự tận tình giúp đỡ của các thầy cô khoa kế toán trường đại học kinh tế quốc dân hà nội đã truyền đạt cho tôi kiến thức để tôi hoàn thành chuyên đề này. Tuy nhiên, với thời gian có hạn, chắc chắn không thể không có những thiếu xót nhất định, tôi rất mong nhận được sự chỉ bảo, góp ý của các thầy cô. Xin trân thành cảm ơn! Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình lý thuyết hạch toán kế toán - Đại học kinh tế quốc dân 2. Giáo trình lý thuyết hạch toán kế toán - Học viện tài chính

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKT1142.doc
Tài liệu liên quan