Đề tài Dựa vào các lí thuyết kinh tế và đầu tư, giải thích vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế

Trong những năm qua, tốc độ tăng trưởng, phát triển kinh tế của nước ta được đánh giá là cao so với các nước trên thế giới. Đóng góp vào sự tăng trưởng này bao gồm nhiều yếu tố trong đó phải kể đến sự đóng góp quan trọng của vốn đầu tư. Vốn đầu tư là một bộ phận không thể thiếu trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đạt được các mục tiêu đề ra. Theo những nhận định ở trên, ta có thể thấy hoạt động về thu hút vốn đầu tư của nền kinh tế nước ta trong giai đoạn qua đã có nhiều tiến bộ. Nguồn vốn trong nước đã có nhiều cải thiện và được phân bổ hợp lý hơn đồng thời cũng thu hút nhiều hơn nguồn vốn nước ngoài đóng góp vào tăng trưởng, phát triển kinh tế. Một phần là do nhà nước ta đã đưa ra những chính sách tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư đồng thời cũng tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật của nền kinh tế nhằm mục tiêu thu hút nhiều hơn vốn trong và ngoài nước. Tuy nhiên, những hạn chế trong cơ chế, chính sách của nhà nước, tệ nạn quan liêu tham nhũng. đã và đang làm thất thoát rất nhiều nguồn lực của đất nước. Những mặt tiêu cực này đã hạn chế khả năng huy động thêm nguồn vốn và cũng làm cho việc sử dụng nguồn vốn hiện có chưa thực sự có hiệu quả, chưa tạo ra sự thay đổi đáng kể về tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là tăng trưởng bền vững. Đất nước ta đang bước vào một giai đoạn phát triển mới, với việc trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO thì việc huy động và sử dụng vốn có hiệu quả là một trong những điều kiện cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Vì vậy, cần phải có những biện pháp hữu hiệu để khắc phục những hạn chế trong hoạt động vốn. Công việc này không phải chỉ là của Đảng, Chính phủ mà còn là của các cấp, các ngành, các tầng lớp nhân dân cùng chung sức để đạt mục tiêu phát triển đề ra.

doc66 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1829 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Dựa vào các lí thuyết kinh tế và đầu tư, giải thích vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nay. Do đó, để kiểm soát lạm phát, một mặt áp dụng các giải pháp mang tính tình thế, cần phải tiến hành xây dựng một hệ thống chính sách và giải pháp đồng bộ dựa trên mối quan hệ tổng cung – tổng cầu của nền kinh tế. Năm 2007 như biến động giá nguyên vật liệu của thị trường thế giới, thiên tai, tăng công chi, tăng khối lượng tiền tệ, tăng đột biến tín dụng, tăng tiền lương danh nghĩa... Đặc biệt trong những tháng cuối năm 2007 và đầu năm 2008, “bong bóng” của thị trường bất động sản đã đẩy mạnh tổng cầu của nền kinh tế (vốn đã mất cân đối) tạo ra hiệu ứng số nhân với các thị trường hàng hóa và dịch vụ khác. Bên cạnh đó, vấn đề tăng công chi liên tục của hệ số nhân đã áp lực rất mạnh lên tổng cầu (nếu tăng công chi để đầu tư có hiệu quả sẽ tăng tổng cung, nên có thể cân đối trở lại ở mức cao hơn không làm mất cân đối tổng cung – tổng cầu); Nhưng nếu đầu tư không có hiệu quả sẽ trở thành nguyên nhân gây ra lạm phát).       Với mục tiêu tăng xuất khẩu ròng, thì không chỉ năm 2007, mà có lẽ trong một số năm nữa cũng còn là số âm (năm 2007 âm 12,5 tỷ USD tương đương với gần 18% GDP, vượt xa ngưỡng 5% mà về lý thuyết người ta thường cảnh báo). Năm 2007, nền kinh tế nước ta xuất hiện một nghịch lý là cán cân thương mại thâm hụt đến 18% GDP, nhưng trên thị trường lại thừa USD đã gây khó khăn cho chính sách ổn định tỷ giá VNĐ của Chính phủ, trong điều kiện lạm phát cao. Việc bù đắp thâm hụt thương mại bằng các nguồn khác như FDI, FII, ODA, kiều hối, xuất khẩu lao động... đã tạo ra cảm giác yên tâm về sự an toàn trong cán cân thanh toán quốc tế và cũng từ đó không còn bức xúc trong việc đề ra các quyết sách để sớm đạt mục tiêu tăng xuất khẩu ròng (tăng xuất khẩu ròng là cách bảo đảm an toàn và căn cơ nhất trong cán cân vãng lai đối với các thị trường mới nổi lên). Dựa trên khung lý thuyết về 4 mục tiêu kinh tế vĩ mô để phân tích sơ bộ như trên để có cái nhìn rõ hơn những trạng thái của nền kinh tế mà những con số mang nặng tính chất thống kê không thể biểu cảm hết. Nếu hàng quý, 6 tháng và hàng năm có sự nghiên cứu, phân tích, đánh giá dựa trên phân tích tổng cung – tổng cầu của nền kinh tế; Gắn với nó các chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô của Chính phủ thì mới nhận diện được bản chất của nền kinh tế đang vận động. Nếu không phân tích các yếu tố đang tác động đến tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế để có cái nhìn tổng thể, mà cứ sử dụng các công cụ điều tiết cục bộ (như các biện pháp kiểm soát lạm phát) thì việc chữa bệnh đôi khi trở thành “tích bệnh”, dồn khó khăn về sau nhiều hơn.  Thông thường để điều tiết mối quan hệ giữa tổng cung – tổng cầu, Nhà nước sử dụng 4 nhóm công cụ chính sách nhằm định hướng vận động của thị trường bao gồm: Chính sách tài chính; Chính sách tiền tệ; Chính sách thu nhập; Chính sách kinh tế đối ngoại. Bốn nhóm chính sách trên sẽ hướng đến 4 mục tiêu kinh tế vĩ mô và cần thực hiện đồng bộ. Trong tình hình hiện nay (tính cả sự bất lợi của thị trường thế giới), có lẽ đang đặt chúng ta trước 2 mục tiêu mâu thuẫn phải lựa chọn: Hoặc tiếp tục đẩy nhanh tốc độ tăng GDP trên 9% trong năm 2008 như chỉ tiêu đề ra; Hoặc ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô, chấp nhận tốc độ tăng trưởng GDP chậm hơn. Khi tình thế không cho phép chúng ta đạt cả hai, thì phải ưu tiên lựa chọn một mục tiêu mà thôi. 2.3. Chưa có sự thay đổi đáng kể trong cơ cấu kinh tế. CCKT có những chuyển biến tích cực, đúng hướng nhưng chưa mạnh. Ngành Công nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao, giữ tỉ trọng lớn trong nền kinh tế. Cơ cấu công nghiệp có sự chuyển dịch đáng kể. Tuy nhiên, yếu tố hiện đại hoá chưa được quan tâm đúng mức. Công nghiệp chế biến, đặc biệt là những ngành công nghệ cao chưa phát triển. Những ngành dịch vụ có hàm lượng chất xám và giá trị gia tăng cao như dịch vụ tài chính – tín dụng, dịch vụ tư vấn chậm phát triển. Tình trạng độc quyền, dẫn tới giá cả dịch vụ cao, chất lượng dịch vụ thấp còn tồn tại ở nhiều ngành dịch vụ như viễn thông, đường sắt. Một số ngành có tính chất động lực như giáo dục - đào tạo, khoa học – công nghệ, tính chất xã hội hoá còn thấp, chủ yếu dựa vào nguồn vốn của Nhà nước. Cơ cấu đào tạo chưa hợp lý, vẫn diễn ra tình trạng “thừa thầy thiếu thợ”; chất lượng giáo dục đào tạo chưa đáp ứng với yêu cầu của quá trình chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH. Trong nhóm ngành nông, lâm, ngư nghiệp xu hướng tích cực là tỉ trọng hàng hoá trong tổng sản phẩm tăng lên, cơ cấu sản xuất đã bước đầu hướng về xuất khẩu. Về cơ cấu thành phần kinh tế: Chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần của Đảng và Nhà nước ta đã góp phần giải phóng sức sản xuất xã hội, thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước, bước đầu hình thành nên một nền kinh tế nhiều thành phần sôi động, giải quyết việc làm, nâng cao đời sống của nhân dân, tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, cơ cấu thành phần kinh tế còn bộc lộ những mặt hạn chế sau: - Tỉ trọng của thành phần kinh tế nhà nước còn cao, điều này là một nguyên nhân của tình trạng hiệu quả thấp, sức cạnh tranh yếu của nền kinh tế. - Tỉ trọng của khu vực kinh tế cá thể cao phản ánh phương thức kinh doanh nhỏ lẻ, phân tán còn khá phổ biến trong nền kinh tế. - Khu vực kinh tế tư nhân còn quá nhỏ bé, chưa tương xứng với tiềm năng, mặc dù đây là thành phần kinh tế hết sức quan trọng để thu hút các nguồn lực trong dân cư, để phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, giải quyết việc làm, nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế. - Tỉ trọng kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài còn thấp và tăng không đáng kể trong những năm vừa qua, chứng tỏ sức hấp dẫn của môi trường đầu tư của nước ta chưa được cải thiện tương xứng với mong muốn của các nhà đầu tư nước ngoài. Về cơ cấu vùng kinh tế, trong những năm vừa qua cũng đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế. Trên bình diện quốc gia, đã hình thành 6 vùng kinh tế: Vùng Trung du miền núi phía Bắc, vùng Đồng bằng sông Hồng, Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Miền Trung, Vùng Tây Nguyên, Vùng Đông Nam Bộ và Vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Trong đó có 3 vùng kinh tế trọng điểm, là vùng động lực cho tăng trưởng kinh tế cả nước. Các địa phương cũng đẩy mạnh việc phát triển sản xuất trên cơ sở xây dựng các khu công nghiệp tập trung, hình thành các vùng chuyên canh cho sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, chế biến, nuôi trồng thuỷ sản, hình thành các vùng sản xuất hàng hoá trên cơ sở điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội của từng vùng. Điều này tạo thuận lợi cho phát triển công nghiệp chế biến, góp phần tạo nên xu hướng chuyển dịch CCKT theo hướng tăng tỷ trọng sản xuất hàng hoá, hướng về xuất khẩu. Tuy nhiên, ở các địa phương, quy hoạch vùng kinh tế còn rập khuôn, mang nặng tính phong trào. Có thể lấy ví dụ về điều này qua việc xây dựng tràn lan nhà máy đường, nhà máy xi măng lò đứng, cảng biển, khu công nghiệp ở các tỉnh, dẫn đến hiệu quả đầu tư rất thấp. Nhiều vùng sản xuất hình thành một cách tự phát, hoặc quy hoạch phát triển thiếu khoa học, như phát triển tràn lan cây cà phê ở Tây Nguyên, xây dựng nhiều nhà máy đường ở các địa phương khác trong cả nước...  2.4. Thị trường tài chính mở rộng nhưng tiềm ẩn nhiều rủi ro Mấy năm nay, lĩnh vực đầu tư tài chính thu hút sự quan tâm đặc biệt của dư luận, với nhiều thông tin về "sự phát triển ngoạn mục" cả về số lượng tổ chức, về tốc độ tăng trưởng tín dụng, về thị phần tín dụng của các ngân hàng thương mại cổ phần, cả về kế hoạch lợi nhuận đầy tham vọng và mức thực hiện còn cao hơn,... Tuy nhiên, khi Ngân hàng Nhà nước thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, nhiều điểm yếu kém của lĩnh vực này, nhất là ở các ngân hàng thương mại cổ phần, đã hé lộ. Yếu kém tổng quát nhất là tính cân đối, an toàn trong tài sản của một số ngân hàng chưa bảo đảm. Tổng tài sản ngày càng tăng nhưng khả năng thanh toán của các ngân hàng tăng không tương ứng. Hiện quy mô tín dụng của các ngân hàng thương mại cổ phần tăng cao chưa từng thấy. Khu vực các ngân hàng thương mại cổ phần ở địa bàn Hà Nội năm 2007 có dư nợ tín dụng tăng 125,6% so với năm 2006, cao gấp trên 5 lần tốc độ tăng của khu vực các ngân hàng thương mại nhà nước. Khu vực các ngân hàng thương mại cổ phần trên địa bàn TP.HCM tháng 12.2007 tăng 14,2%, tháng 1.2008 tăng tiếp 13,2%. Đây là một trong những yếu tố góp phần làm tăng sức ép lạm phát vào cuối năm 2007 và đầu năm 2008. Tình trạng vay từ các tổ chức tín dụng khác (là nguồn chỉ để bù đắp thiếu hụt tạm thời khả năng thanh khoản) để cho khách hàng vay đã diễn ra khá phổ biến và đối với một số ngân hàng đã có quy mô rất lớn. Có ngân hàng trong tổng số dư nợ cho vay, thì có đến 50% là từ nguồn vay trên thị trường liên ngân hàng. Có đến gần 60% số ngân hàng thương mại cổ phần có hội sở chính trên địa bàn TP.HCM có tỷ lệ dư nợ so với số vốn huy động tiền gửi tổ chức kinh tế và dân cư trên 100%. Đáng lưu ý, tỷ lệ đó của 6 ngân hàng đã lên đến từ 130% trở lên, trong đó ngân hàng có tỷ lệ cao nhất lên đến 267%. Điều đó giải thích tại sao lãi suất trên thị trường liên ngân hàng đã "phi mã" lên mức rất cao và một số ngân hàng đi vay vẫn phải chấp nhận. Yếu kém nổi bật là cơ cấu dư nợ tín dụng của nhiều ngân hàng thương mại cổ phần không bền vững, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Một lượng vốn không nhỏ các ngân hàng cổ phần không được các nhà đầu tư dùng để đầu tư vào sản xuất kinh doanh phục vụ tăng trưởng kinh tế, mà lại đổ vào các lĩnh vực phi sản xuất, như thị trường chứng khoán thứ cấp (các nhà đầu tư mua/bán với nhau); thị trường bất động sản (trong đó có không ít nhà đầu tư theo kiểu đầu cơ mua đi bán lại); tiêu dùng (có không ít người tiêu dùng vượt quá khả năng làm ra); vàng (cũng có không ít người mua đi bán lại)... Những lĩnh vực trên năm qua có quá nhiều biến động bất thường, tiềm ẩn rủi ro lớn. CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG ĐẦU TƯ VÀ NÂNG CAO KHẢ NĂNG SỬ DỤNG HIỆU QUẢ VỐN ĐẦU TƯ THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ 1. Những giải pháp chặn, phòng, chống thất thoát và lãng phí trong xây dựng cơ bản. Các giải pháp liên quan đến cá nhân: Công tác cán bộ là cốt lõi để giải quyết mọi vấn đề. Trong hoạt động đầu tư có nhiều chức danh cán bộ như: khảo sát, tư vấn, thiết kế, soát, kiểm tra, giám sát, thẩm định, kiểm định, phản biện, quản lý doanh nghiệp tư vấn, người có thẩm quyền quyết định phê chuẩn, quản lý dự án, quản lý thi công,… Mỗi chức danh phải có các nhân nào chịu trách nhiệm chính, cá nhân nào liên đới trách nhiệm, không thể để tình trạng “rất nhiều người có quyền, song rất ít người chịu trách nhiệm cụ thể” và tình trạng “cha chung không ai khóc” tồn tại trong quản lý điều hành và triển khai dự án. Vì vậy để khắc phục các nguyên nhân gây thất thoát, lãng phí nêu trên trước hết cần làm một số việc sau: - Phải có các quy định chặt chẽ ràng buộc trách nhiệm cá nhân với công việc được giao quản lý. Cần xác định rõ theo nguyên tắc tập trung dân chủ thì người quyết định là người chiụ trách nhiệm chứ không phải là tập thể chịu trách nhiệm, không có tập thể quyết định chuyên môn. - Cần trả thù lao tương xứng với trách nhiệm. - Kiên quyết xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm quy định quản lý đầu tư, xây dựng và chi tiêu. Không bao che, dung túng, nể nang, né tránh đối với bất kể cán bộ nào làm sai để giữ vững kỷ cương, kỷ luật. - Những cán bộ có trách nhiệm trực tiếp quản lý dự án, trước khi được giao nhiệm vụ phải khai báo tài sản và thu nhập cá nhân.    - Phải xây dưng và thực hiện tiêu chuẩn hoá chức danh với các công việc quản lý dự án, tư vấn, quản lý kinh doanh tư vấn và xây dựng. Phải bố trí cán bộ có đủ trình độ và kinh nghiệm, đúng chuyên môn và có phẩm chất phù hợp với chức danh công việc được giao. Nghiêm cấm và xử phạt nghiêm mọi trường hợp mượn danh, mua danh để hành nghề. Các giải pháp liên quan đến xây dựng quy định quản lý: Các quy định quản lý đầu tư, xây dựng và chi tiêu là cơ sở, là “cái gậy” của cán bộ quản lý. Nếu nghiên cứu chưa kỹ thì có nhiều sơ hở dẫn đến hay thay đổi và ban hành không đồng bộ thì dẫn đến khó khăn cho công tác quản lý, bị kẻ xấu lợi dụng để trục lợi các nhân. Vì vậy để khắc phục các nguyên nhân gây thất thoát, lãng phí nêu trên cần làm một số việc sau:  - Cần rà soát các quy định hiện tại để sủa đổi, bổ sung mới từ đó hình thành một hệ thống các quy định quản lý đầu tư, xây dựng và chi tiêu chặt chẽ, rõ ràng, dễ hiểu, minh bạch, đầy đủ, phù hợp với thực tế hoạt động đầu tư xây dựng ở  nước ta và ban hành cách đồng bộ.  - Cùng với xây dựng một hệ thống quy định trên phải xây dựng quy trình và biện pháp kiểm tra hữu hiệu để đảm bảo các quy định quản lý đầu tư, xây dựng và chi tiêu phải được tuân thủ đúng, đủ và để phát hiện ngay được những sơ hở trong các quy định. - Có một tổ công tác gồm các nhà chuyên môn ở nhiều lĩnh vực, có nhiều kinh nghiệm thực tế trong quản lý dự án, có tâm huyết. Tổ công tác này hoạt động độc lập, chuyên trách giúp chính phủ nghiên cứu soạn thảo ra hệ thống các quy định quản lý đầu tư, xây dựng và chi tiêu đạt được các yêu cầu trên. Việc soạn thảo, ban hành các quy định theo đúng quy trình.   Các giải pháp liên quan đến công tác kiểm tra, thanh tra và điều tra: Có quy định mà không có sự giám sát, kiểm tra và thanh tra thì việc thực thi không nghiêm. Nhưng các sai phạm thường được che dấu bởi nhiều thủ đoạn tinh vi vì thế nếu không điều tra thì không thể phát hiện được. Cho nên có thể nói trong nguyên nhân: Công tác quản lý bị buông lỏng và có kẻ cố tình vi phạm định chế quản lý vì lợi ích cá nhân là do công tác thanh tra, điều tra chưa làm mạnh, lực lượng thanh tra, điều tra còn yếu và thiếu lực. Do vậy những việc cần làm ngay là: Nâng cao năng lực, hiệu quả công tác của lực lượng này và đẩy mạnh công tác này để ngăn chặn và phát hiện những sai phạm; đưa ra ánh sáng nhưng kẻ cố ý làm trái quy định, pháp luật gây ra tình trạng thất thoát, lãng phí hiện nay; thu hồi tài sản bị thất thoát. Các biện pháp cụ thể là: - Bổ sung thêm nhiều cán bộ “có năng lực, trình độ” vào lực lượng thanh tra, điều tra. - Trang bị thêm trang thiết bị kỹ thuật và tăng kinh phí cho lực lượng thanh tra, điều tra. - Mở rộng phạm vi quyền hạn cho lực lượng thanh tra, điều tra. - Lực lượng thanh tra, điều tra phải độc lập để đảm bảo tính khách quan, công bằng. - Có sự thưởng, phạt phân minh với những thành tích và khuyết điểm trong công tác. - Cần áp dụng “các giải pháp liên quan đến cá nhân” ở trên đối với lực lượng thanh tra, điều tra. - Xác định rõ trách nhiệm của lực lượng này đối với sự gia tăng số vụ và mức độ thất thoát. - Đã có đơn tố giác, đã có biểu hiện, dư luận về sai phạm, thất thoát ở dự án nào thì lực lượng thanh tra, điều tra phải sớm xác định và làm rõ, phải làm cho đến nơi đến chốn để rõ trắng đen để đưa vụ việc ra ánh sáng, để có tác dụng dăn đe và quan trọng là thu hồi tài sản của đất nước bị thất thoát.  - Nhà nước cần mở tài khoản kế toán riêng để theo dõi và quản lý tập trung tất cả tài sản bị thất thoát thu hồi qua kết quả kiểm tra, thanh tra và điều tra. Số tiền thất thoát là rất lớn vì vậy số tiền thu hồi sẽ rất lớn, Nhà nước có thể dùng một phần số tiền thu hồi để chi cho việc đầu tư nâng cao năng lực lực lượng thanh tra, điều tra, chi cho việc bảo vệ nhân chứng, bổ sung kinh phí cho hoạt động thanh tra, điều tra...vì vậy có thể sẽ phát hiện nhiều hơn những dự án có thất thoát và thu hồi được nhiều hơn số tiền bị thất thoát. - Tập trung giám sát đầu tư với tất cả các dự án đang ở giai đoạn chuẩn bị triển khai hoặc đã triển khai để đánh giá hiệu quả đầu tư, phát hiện những sai sót trong tính toán có thể dẫn đến lãng phí từ đó có biện pháp điều chỉnh kịp thời làm giảm hoặc tránh xảy ra lãng phí. - Tập trung thanh tra tất cả các dự án đang và đã triển khai để phát hiện những sai phạm quy định, thủ tục triển khai, những sơ hở trong quản lý có thể dẫn đến lãng phí, thất thoát từ đó có biện pháp điều chỉnh, xử lý kịp thời ngăn chặn hoặc tránh xảy ra lãng phí, thất thoát. Các giải pháp liên quan đến việc phát huy dân chủ Những vụ việc thất thoát mà thanh tra, điều tra phát hiện được là dựa vào đơn thư tố giác của dân. Thực tế tình hình thất thoát tiền đầu tư hiện nay là phổ biến, nhưng số vụ việc mà lực lượng thanh tra, điều tra đưa ra ánh sáng được còn rất ít, rất ít vì có ít đơn thư tố cáo, rất ít vì dân còn chưa giám nói, dân chưa giám nói vì tư tưởng “muốn yên thân”, vì “ngại va chạm”, vì sợ “đấu tranh – tránh đâu”, vì dân chưa tin vào quyết tâm chống thất thoát của lãnh đạo. Tài sản công là tài sản của dân, nghĩa là dân là “người chủ” nhưng tinh thần làm chủ  của “người chủ” chưa được phát huy. Quyền làm chủ chưa được phát huy vì thiếu cơ chế thực hiện quyền làm chủ cụ thể trong xây dựng cơ bản, hoặc có mà chưa được coi trọng, hoặc vì “người chủ” thiếu thông tin. Do vậy những việc cần làm ngay là: phát huy tinh thần làm chủ  của “người chủ ” trong phòng và chống thất thoát tiền đầu tư  của “người chủ ”. Các biện pháp cụ thể như sau:   - Xây dựng hoàn chỉnh cơ chế để người dân thực hiện quyền làm chủ của mình trong quản lý dự án, có chế tài để đảm bảo cơ chế này được tôn trọng.  - Có cơ chế đảm bảo sự công khai, minh bạch trong công tác đấu thầu, trong xây dựng, mua sắm, trong thanh, quyết toán để “ngừơi chủ” có thể giám sát quá trình đầu tư tốt hơn.   - Phải có chính sách, biện pháp cụ thể bảo vệ có hiệu quả những cá nhân đứng ra tố giác những hành vi cố tình làm trái các quy định quản lý, pháp luật, tố giác những cán bộ tham ô, nhận và đưa hối lộ. Đồng thời kiên quyết xử lý theo đúng pháp luật mọi cá nhân cố tình vu khống, tố cáo sai sự thật để phục vụ mục đích xấu của họ. Các giải pháp liên quan đến việc phát huy vai trò của thông tin đại chúng Dư luận xã hội, ý kiến của các chuyên gia, của những người trong cuộc, của các đại biểu Quốc hội đánh giá tình trạng thất thoát và lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản là “kinh khủng”, là “rất phổ biến đối với đầu tư xây dựng của nhà nước ” …thế nhưng số những dự án được phát hiện có lãng phí, thất thoát; được xử lý và đưa ra công luận còn rất ít có thể đếm trên đầu ngón tay – vậy tại sao? Có ý kiến cho rằng đưa ra báo chí nhiều quá làm bôi đen xã hội ta, làm mất uy tín của cán bộ …Tôi cho rằng ngược lại. Tìm, kiên quyết xử lý nghiêm minh và đưa ra công luận nhiều hơn nữa những dự án đầu tư có thất thoát và lãng phí để thu hồi tiền bị thất thoát; để răn đe từ đó ngăn chặn sự phát triển của tình trạng lãng phí, thất thoát hiện nay; để chứng minh bằng hành động quyết tâm chống thất thoát, lãng phí của Chính phủ. Vừa qua, thông tin đại chúng mới phản ánh một số ít dự án thất thoát, lãng phí thôi nhưng đã có tác dụng rất lớn, hiệu quả cao, điều đó chứng tỏ vai trò to lớn của thông tin đại chúng. Vì vậy để chống thất thoát, lãng phí quyết liệt hơn,  báo chí không chỉ đưa tin kết quả thanh tra, điều tra mà cần phải tham gia điều tra phát hiện. 2.Điều chỉnh cơ cấu đầu tư Nhà nước Kinh nghiệm quốc tế cho thấy hiệu quả đầu tư của Nhà nước phụ thuộc vào mức độ hợp lý của việc điều chỉnh cơ cấu vốn đầu tư vào các ngành kinh tế và việc ưu tiên vốn Nhà nước cho các mục tiêu nhất định Đối với vốn đầu tư của Ngân sách: Trong thời gian tới cần tập tăng đầu tư cho khu vực nông nghiệp và hạ tầng cơ sở xã hội đặc biệt là cơ sở hạ tầng giáo dục, y tế, khoa học và công nghệ. Việc điều chỉnh này là hoàn toàn phù hợp với yêu cầu phát triển trong giai đoạn tới nhằm phát huy nội lực tiềm năng sẵn có trong nước để sẵn sàng cho việc hội nhập kinh tế khu vực cũng như kinh tế thế giới - Đối với các khu công nghiệp xây dựng dịch vụ vốn ngân sách đầu tư cho các dự án có tác động tầm quốc gia như: cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn, công trình truyền tải điện về nông thôn, hệ thống giao thông quốc gia về liên tỉnh, liên huyện, công trình thông tin liên lạc phục vụ cho các vùng nông thôn, hệ thống cầu cống quan trong phục vụ phát triển nông nghiệp. Thời hạn ưu tiên vốn ngân sách cho hạng mục này là 5 năm tới và sau đó sẽ chuyển dần sang hình thức hỗ trợ qua ưu đãi tín dụng hoặc thu hút vốn đầu tư của tư nhân - Nhà nước tập trung ngân sách Nhà nứơc đầu tư nông lâm ngư nghiệp: + Hệ thống đê điều quan trọng, hệ thống thuỷ lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp chăn nuôi thuỷ sản như hồ chứa nước, kênh dẫn thoát nước trạm bơm, tưới tiêu. + Thời hạn ưu tiên vốn ngân sách cho hạn mục này là 10 năm, sau đó nhà nước sẽ đảm nhận một vài công trình quan trọng như đê điều quan trọng và hệ thống thuỷ lợi tại một số vùng khó khăn, đồng thời huy động các hình thức đầu tư tư nhân theo hình thức thu phí dịch vụ. - Tập trung ngân sách đầu tư phát triển theo hướng sau: + Trong những năm tới: đồng thời ưu tiên đầu tư cho ngành giáo dục và y tế. Do ngân sách Nhà nước có hạn nên chỉ tăng dần ngân sách cho lĩnh vực này. Đối với dịch vụ xã hội phi cơ bản cần huy động các loại vốn khác ngoài ngân sách. + Về dài hạn: Nhà nước nên tăng ngân sách đầu tư hai lĩnh vực này một cách toàn diện nhằm thực hiện chiến lược phát triển nguồn nhân lực phục vụ tăng trưởng nền kinh tế bền vững. + Đầu tư phát triển công nghệ giống phân bón, công nghệ sinh học… phục vụ sản xuất nông nghiệp, cây công nghiệp, nuôi trồng thủy sản có giá trị trong nước và xuất khẩu. Nghiên cứu này mang tính ứng dụng cho điều kiện khí hậu, sản xuất nông nghiệp của Việt Nam và sau đó chuyển giao cho nông dân + Công nghệ thông tin chủ yếu tập trung vào nghiên cứu phần mềm. + Hỗ trợ chuyển giao công nghệ. + Điều chỉnh tăng đầu tư cho thiết bị, máy móc, đồng thời giảm đầu tư xây lắp. Đây là yêu cầu cấp thiết nhằm thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa và theo xu hướng chung của cả nước. Đầu tư vào thiết bị máy móc cần thoả mãn tiêu chuẩn về tính đồng bộ, chất lượng, hiện đại, bảo vệ môi trường và các điều kiện tiêu chuẩn chất lượng hiện hành. Bên cạnh đó Nhà nước nên có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp nghiên cứu triển khai. Nhà nước hỗ trợ cung cấp thông tin và chi phí này được hạch toán vào giá thành sản phẩm. Đồng thời gắn đầu tư với việc chuyển giao công nghệ thông qua thu hút vốn ODA, FDI với các nguồn vốn đầu tư gián tiếp khác của nước ngoài. Đối với vốn tín dụng ưu đãi: Nên tập trung cho các dự án kinh tế thuộc lĩnh vực công nghiệp – xây dựng, dịch vụ tạo việc làm, có khả năng thu hồi vốn, có tác động đến tăng trưởng kinh tế- xã hội của địa phương / ngành / lãnh thổ . Kiên quyết không áp dụng hình thức cho vay này với các dự án không thoả mãn các điều kiện trên. Điều này làm tránh khả năng các doanh nghiệp không trả được nợ hoặc đầu tư không có mục đích rõ ràng, dự án không phát huy được hiệu qủa mà vẫn được vay vốn dẫn đến tình trạng Nhà nước phải xoá nợ, tương đương với hình thức bao cấp vốn. Đối với vốn tự đầu tư của DNNN, doanh nghiệp được toàn quyền sử dụng. Do nguồn vốn này không lớn nên Nhà nước không nhất thiết phải qui định cứng nhắc mục đích sử dụng mà có chính sách khuyến khích doanh nghiệp sử dụng vốn này để mở rộng qui mô, đổi mới trang thiết bị. 3.Thực hiện đồng thời phân cấp thẩm quyền ra quyết định đầu tư và hoàn thiện cơ chế quản lý đầu tư. Để ngăn chặn hiện tượng phân bổ vốn đầu tư XDCB dàn trải, tình trạng đầu tư chắp vá, cần thực hiện đồng thời phân cấp thẩm quyền ra quyết định đầu tư và hoàn thiện cơ chế quản lý theo các hướng sau: Đẩy mạnh phân cấp cần đi đôi với trách nhiệm: - Nâng cao trách nhiệm thẩm định dự án đầu tư. Cần qui định cụ thể trách nhiệm vật chất và trách nhiệm trước pháp luật đối với người tham gia xây dựng dự án, thẩm định, ra quyết định đầu tư cuối cùng đối với dự án đầu tư sử dựng vốn Nhà nước mà sau khi hoàn thành các công trình này không phát huy tác dụng cho phát triển kinh tế địa phương, ngành, lãnh thổ không gắn với quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội của địa phương. Mục đích của qui định này là buộc các ngành, các cấp, các cơ quan và người có thẩm quyền đầu tư có trách nhiệm phải xem xét kỹ tính khả thi, hiệu quả của dự án trước khi ra quyết định và chịu trách nhiệm về quyết định đó. Qua đó hạn chế chi phí không đáng có như đập đi làm lại, sửa chữa...gây thất thoát vốn và nhằm tăng cường trách nhiệm của chủ đầu tư đối với hiệu qủa sử dụng vốn, hiệu quả kinh tế- xã hội của công trình đầu tư bằng vốn Nhà nước. Hằng năm chỉ bố trí kế hoạch đầu tư khi đã xác định chắc chắn khả năng nguồn vốn. Chỉ đưa vào kế hoạch các dự án đã chuẩn bị đầy đủ thủ tục đầu tư theo qui định. kế hoạch vốn phải bố trí theo dự án được duyệt và đảm bảo đủ vốn để thực hiện theo tiến độ đã được phê duyệt. Nếu không thực hiện đúng tiến độ, cần qui định rõ chủ đầu tư phải chịu trách nhiệm về vật chất và trách nhiệm trước pháp luật nếu như không có lý do chính đáng do thiên tai hoặc lý do bất khả kháng khác. 4.Nâng cao chất lượng của công tác qui hoạch phát triển kinh tế- xã hội. Xây dựng kế hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội gắn với qui hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội nói chung, quy hoạch vùng, ngành hàng năm và 5 năm. Để các dự án đầu tư có hiệu quả, công tác qui hoạch phát triển kinh tế- xã hội nói chung và quy hoạch xây dựng hạ tầng nói riêng là khâu trọng yếu nhất. Thực tế chứng minh rằng, việc qui hoạch tổng thể của quốc gia, của ngành, của địa phương thiếu chính xác, thiếu thống nhất, không khớp nhau sẽ dẫn đến sai lệch trong xây dựng các dự án. Do tầm quan trọng của các công trình cơ sở hạ tầng đối với phát triển nền kinh tế- xã hội, quy hoạch tổng thể cần được xây dựng dựa trên những căn cứ khoa học và thực tiễn, gắn với chiến lược kinh tế đã đề ra trong thời kỳ trung và dài hạnu, nhưng cần có điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện phát triển của mỗi thời kỳ. Vì vậy trong thời gian tới, Nhà nước cần đầu tư hơn nữa cho công tác khảo sát, xây dựng qui hoạch (quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội, quy hoạch ngành, quy hoạch đô thị…), nâng cao chất lượng của công tác này. Trên cơ sở đó, các bộ, ngành, địa phương sẽ xây dựng kế hoạch xây dựng cơ sơ hạ tầng cho phù hợp với điạ phương nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế- xã hội ở địa phương. Đây là một vấn đề hết sức quan trọng, bởi thực tế cho thấy đã có sự chạy đua trong xây dựng một số công trình dẫn đến thừa năng lực ( ví dụ : cảng biển..), không khai thác hết công suất, lãng phí vốn ngân sách Nhà nước trong khi nhiều công trình cần thiết khác lại thiếu vốn đầu tư. 5.Đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực đầu tư. Để chuẩn bị và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu CNH-HĐH, từ nay đến năm 2010 cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau đây: Một là, quản lý quá trình phát triển dân số và nguồn nhân lực trong mối quan hệ với phát triển kinh tế - xã hội. Thực hiện tốt chiến lược Dân số & Phát triển, duy trì vững chắc mức giảm tỷ lệ sinh 0,07% trong các năm 2006 – 2007 và 0,06% đến năm 2010. Đồng thời, giải quyết từng bước và có trọng điểm một số yếu tố về chất lượng dân số, nâng cao thể lực, trí lực của con người, thực hiện bình đẳng giới, nâng cao phúc lợi xã hội, xây dựng gia đình văn hoá, phát triển bền vững… làm cho nhân tố con người thật sự trở thành thế mạnh của đất nước trong công cuộc đổi mới. Để đạt được các mục tiêu trên, cần kiện toàn, củng cố và ổn định hệ thống cán bộ làm công tác dân số ở các cấp và đặc biệt ở cấp cơ sở. Tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước đối với công tác dân số. Phát huy cao nhất sự hợp tác tích cực giữa các cơ quan nhà nước và các tổ chức tham gia công tác dân số để từng bước quản lý có hiệu quả các biến động dân số, nguồn lao động. Nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản, kế hoạch hoá gia đình. Đẩy mạnh công tác truyền thông, giáo dục, phổ biến kiến thức về sức khoẻ thông qua các tổ chức Hội Nông dân, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ. Để nâng cao thể lực cho người lao động, cần thực hiện tốt các chương trình mục tiêu quốc gia về Y tế, có biện pháp phòng ngừa dịch bệnh, các bệnh xã hội nhất là HIV/AIDS. Bảo đảm tốt về an toàn vệ sinh thực phẩm, môi trường với vệ sinh an toàn lao động, cải thiện điều kiện làm việc của người lao động. Hai là, đổi mới phương thức đào tạo phát triển nguồn nhân lực Đây là một trong những giải pháp đột phá, tạo điều kiện cho người lao động có nhiều cơ hội việc làm trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, phải giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa đào tạo, phát triển nguồn nhân lực với thị trường, thực chất là phải chuyển căn bản từ phương thức đào tạo theo hướng cung lao động, hướng vào việc cung cấp lao động có chất lượng chuyên môn kỹ thuật, tay nghề, sức khoẻ, kỷ luật, tác phong công nghiệp, bản lĩnh văn hoá… đồng thời có khả năng thích ứng với môi trường, sự thay đổi nhanh chóng của kỹ thuật công nghệ mới.Để nâng cao trình độ học vấn và kỹ thuật chuyên môn cho người lao động, cần coi trọng việc giáo dục cơ bản, giáo dục đào tạo chất lượng cao, chọn lọc, bồi dưỡng nhân tài nhằm tạo nguồn và xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, kinh doanh, quản lý có trình độ cao, đặc biệt đối với lao động trẻ. Đẩy mạnh đào tạo nghề cho người lao động. Nâng tỷ lệ người lao động được đào tạo lên 40% so với tổng số lao động. Trong đó khoảng 70% người lao động được đào tạo ở trình độ trung cấp, công nhân kỹ thuật đáp ứng cho lao động phổ thông ở các khu kinh tế phát triển tập trung. Tăng cường dạy nghề phổ thông cho thanh niên nông thôn để thúc đẩy nhanh chuyển dịch kinh tế nông nghiệp. Đa dạng hoá các loại hình đào tạo (trường, lớp, trung tâm thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và các tổ chức xã hội, đoàn thể, tư nhân); tổ chức học lý thuyết và thực hành theo nhóm, lớp, kèm cặp theo đơn vị sản xuất, tại nhà… lấy thực hành là chính, vừa học vừa làm; đẩy mạnh chuyển giao KHKT - công nghệ mới. Củng cố và tăng mức đầu tư cho cơ sở dạy nghề, khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống, làng nghề ở nông thôn. Lồng ghép chương trình phổ cập nghề cho người lao động với chương trình quốc gia giải quyết việc làm gắn liền với chương trình phát triển kinh tế - xã hội của từng vùng, từng địa phương, khu kinh tế, khu dân cư. Ba là, phát triển nguồn nhân lực gắn liền với tạo việc làm cho người lao động. Tạo việc làm tại chỗ bằng các biện pháp phát triển sản xuất, sản xuất các sản phẩm có chất lượng cao, xuất khẩu. Tập trung phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, thâm canh tăng vụ, phát triển kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại, mở rộng các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp chế biến, dịch vụ. Khuyến khích các nhà đầu tư về nông thôn, miền núi. Chuyển một phần đáng kể lao động nông thôn ra khỏi nông nghiệp bằng các biện pháp đào tạo nghề cho lực lượng thanh niên có sức khoẻ, văn hoá để cung cấp cho thành thị và các khu công nghiệp, vùng động lực kinh tế và xuất khẩu lao động. Đối với vùng ven đô thị nơi có sự biến động lớn về đất đai, cần phải có chính sách hỗ trợ đào tạo nghề cho phù hợp với thị trường đang cần. Trong chi phí đền bù có chi phí về học nghề và quy chế khuyến khích các doanh nghiệp đào tạo, tuyển dụng tại chỗ. Xây dựng hệ thống dịch vụ việc làm từ tỉnh đến huyện thị. Cung cấp thông tin về thị trường lao động, thực hiện giới thiệu, cung ứng lao động, các dịch vụ khác về lao động, việc làm. Hình thành mối liên kết người sử dụng lao động với các cơ sở dạy nghề, các đơn vị sản xuất, tạo điều kiện, cơ hội cho người lao động có việc làm, thu nhập. Mở rộng và phát triển thị trường lao động ngoài nước với chiến lược tăng cường đầu tư mở thị trường xuất khẩu lao động sang các nước, trong đó ngành giáo dục đào tạo phải đảm trách về đào tạo và chất lượng của ngoại ngữ, pháp luật và tay nghề. Phát triển mạnh hơn nữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ, kinh tế tư nhân, doanh nghiệp hộ gia đình, hộ kinh doanh cá thể, tiểu thương, tiểu chủ ở nông thôn phát triển bằng cơ chế chính sách tài chính; hỗ trợ pháp lý cho người lao động, cho nông dân, người nghèo nhằm triệt để giải phóng sức lao động, thúc đẩy dân chủ, công bằng xã hội phát triển phù hợp với tăng trưởng kinh tế của đất nước. Sứ mệnh lịch sử của ngành Giáo dục & Đào tạo rất nặng nề, song vinh quang và ắp đầy tính nhân văn cao cả. Đường lối chủ trương chính sách của Đảng đã rõ hướng đi, hướng mở. Hệ thống pháp luật tuy chưa đồng bộ, nguồn lực vật chất còn nhiều khó khăn đã trở thành rào cản, thách thức đối với ngành. Song, với truyền thống văn hoá, lịch sử của đất nước và quyết tâm đổi mới, tự vận động, tự khẳng định mình chắc chắn sẽ đưa sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực lên tầm cao mới, đáp ứng tốt hơn cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. 6. Triển khai mạnh việc nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật - công nghệ Phải coi trọng khoa học - công nghệ là một trong các giải pháp hàng đầu, trước hết tập trung vào các khâu trọng yếu, các chương trình phát triển và ứng dụng trong nhóm: công nghệ phục vụ chế biến khoáng sản, vật liệu xây dựng, chế biến lương thực thực phẩm; công nghệ sinh học, nhóm điện tử tin học, năng lượng chương trình đưa tiến bộ khoa học và công nghệ hỗ trợ phát triển nông thôn. Đa dạng hoá các nguồn vốn nhằm tăng lượng đầu tư tài chính cho công tác nghiên cứu triển khai và đổi mới công nghệ. Phấn đấu đến năm 2010 vốn đầu tư cho khoa học - công nghệ từ các nguồn (ngân sách Nhà nước, vốn của các doanh nghiệp, vốn của các tổ chức tài chính, tài trợ của các tổ chức quốc tế và nước ngoài) đạt khoảng 2,5% GDP. Trong vốn đầu tư cơ bản bắt buộc phải dành một tỷ lệ thích đáng tuỳ theo từng ngành cho đổi mới công nghệ, đảm bảo tốc độ đổi mới công nghệ cao hơn tốc độ tăng đầu tư cơ bản. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cho khoa học và công nghệ của tỉnh. Dành một tỷ lệ đầu tư thích đáng cho việc tăng cường các cơ quan làm dịch vụ công nghệ (đo lường, kiểm tra chất lượng sản phẩm, kiểm lại công nghệ...). Xây dựng và phát triển mạng lưới thông tin khoa học và công nghệ nối mạng với hệ thống của cả nước; phục vụ đắc lực cho lựa chọn công nghệ. Có chính sách đồng bộ về thuế để khuyến khích thúc đẩy khoa học và công nghệ. Miễn thuế đối với phần vốn dành cho công tác nghiên cứu và đổi mới công nghệ tại các doanh nghiệp. Miễn, giảm thuế có thời hạn cho các dự án sản xuất thử. Có chính sách và biện pháp phát triển mạnh nguồn nhân lực cho khoa học và công nghệ. Thực hiện đồng bộ các biện pháp để trẻ hoá đội ngũ cán bộ khoa học ở các cơ sở nghiên cứu, triển khai. Có chế độ đặc biệt ưu đãi các nhân tài và đào tạo các cán bộ đầu đàn. Có chính sách đặc biệt thu hút lực lượng chuyên gia Việt kiều làm công tác chuyển giao trí thức và chuyển giao công nghệ cho vùng. Liên kết với các Viện khoa học ở thành phố lớn trong cả nước và các Viện nghiên cứu ở nước ngoài để tăng cường nghiên cứu ứng dụng các tiến bộ về công nghệ và kĩ thuật đối với các ngành chủ động tạo nhanh khối lượng sản phẩm lớn xuất khẩu. 7.Các ngân hàng thương mại cần tăng tỉ trọng huy động vốn trung và dài hạn Phát triển và đa dạng hoá các công cụ huy động vốn trung, dài hạn Các công cụ ấy là: kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi trên 1 năm và trái phiếu. Đây có thể coi là giải pháp quan trọng để huy động vốn trung và dài hạn. Một số Ngân hàng thương mại quốc doanh như ngân hàng Công thương. ngân hàng Ngoại thương, ngân hàng Đầu tư và Phát triển đã tổ chức nhiều đợt phát hành chứng chỉ tiền gửi (kỳ phiếu ngân hàng) để huy động vốn trung hạn (từ 1 đến 5 năm), phát hành trái phiếu ngân hàng thương mại để huy động vốn dài hạn. Hiện nay, chỉ có các ngân hàng thương mại quốc doanh là đã thực hiện phát hành kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi và trái phiếu cả nội tệ và ngoại tệ, tuy chưa thường xuyên đều đặn. Trong khi đó, các ngân hàng thương mại cổ phần chưa thực hiện các hình thức huy động vốn này. Để khuyến khích các ngân hàng thương mại phát hành trái phiếu, ngân hàng Nhà nước cần tạo quyền chủ động cho các ngân hàng thương mại, không phân biệt thành phần kinh tế, tạo sân chơi bình đẳng cho các ngân hàng trong lĩnh vực phát hành các công cụ huy động vốn trung và dài hạn. Phát hành trái phiếu ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán  Hiện nay chỉ có trái phiếu của ngân hàng đầu tư và phát triển được phát hành và giao dịch trên thị trường chứng khoán tập trung, còn các ngân hàng khác chủ yếu là bán lẻ trực tiếp cho công chúng. Do đó, Ủy ban chứng khoán Nhà nước và ngân hàng Nhà nước cần phối hợp để có các biện pháp khuyến khích các ngân hàng thương mại phát hành trái phiếu trên thị trường chứng khoán tập trung; đồng thời, có các giải pháp phát triển thị trường trái phiếu hiện đang đóng băng. Đổi mới điều hành chính sách lãi suất khuyến khích huy động vốn trung và dài hạn Hiện nay về cơ bản, lãi suất đã được tự do hoá, tuy nhiên, khả năng can thiệp để điều chỉnh lãi suất bằng các công cụ gián tiếp, thông qua nghiệp vụ thị trường mở của ngân hàng Nhà nước là rất hạn chế. Do đó, khi lãi suất huy động bị đẩy lên quá cao, ngân hàng Nhà nước tỏ ra lúng túng trong việc điều tiết, gây khó khăn trong công tác huy động vốn, nhất là vốn trung và dài hạn của hệ thống ngân hàng thương mại. Vì vậy, ngân hàng Nhà nước cần có các giải pháp hoàn thiện các công cụ gián tiếp trong điều hành chính sách tiền tệ, hoàn thiện nghiệp vụ thị trường mở để có đủ năng lực điều tiết cung cầu về vốn, điều chỉnh lãi suất tạo thuận lợi cho hoạt động huy động vốn trung và dài hạn của các ngân hàng thương mại. Áp dụng hình thức cho vay đồng tài trợ của các ngân hàng thương mại  Các dự án đầu tư trung và dài hạn thường là các dự án có quy mô lớn, nhu cầu về vốn cao, vì vậy, các ngân hàng thương mại Việt Nam thường gặp khó khăn trong việc cho vay tiềm lực tài chính hạn chế. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có vốn điểu lệ lớn nhất cũng chỉ vào khoảng 3700 tỷ VND, tương đương 250 triệu USD, vốn điều lệ của ngân hàng thương mại cổ phần lớn nhất cũng chỉ khoảng 300 tỷ VND, tương đương 20 triệu USD. Chính vì vậy các ngân hàng thương mại Việt Nam thường phải sử dụng phương thức cho vay đồng tài trợ đối với các dự án có quy mô lớn. Giải pháp quan trọng để đẩy mạnh cho vay trung và dài hạn là tăng tiềm lực tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Trong thời gian tới, do việc tăng vốn tự có của các ngân hàng thương mại gặp nhiều khó khăn và cần phải có thời gian, để đẩy mạnh cho vay trung và dài hạn, các ngân hàng thương mại có thể sử dụng hình thức cho vay đồng tài trợ. Hình thức cho vay này sẽ phần nào giải quyết khó khăn do hạn chế về tiềm lực tài chính, đồng thời chia sẻ rủi ro giữa các ngân hàng tham gia đồng tài trợ. Đối với các dự án cho vay trung và dài hạn, cán bộ tín dụng phải có khả năng phân tích, thẩm định và đánh giá hiệu quả dự án. Tuy nhiên, nhìn chung, trình độ, khả năng này của cán bộ tín dụng thuộc các ngân hàng thương mại Việt Nam còn hạn chế. Vì vậy, nâng cao khả năng phân tích, thẩm định dự án của cán bộ ngân hàng thông qua việc đào tạo, đào tạo lại, tuyển chọn... là một giải pháp quan trọng. Bên cạnh việc triển khai tín dụng trung và dài hạn, các ngân hàng thương mại cần từng bước đa dạng hoá và phát triển hoạt động đầu tư trung và dài hạn, như góp vốn liên doanh, mua cổ phần của các doanh nghiệp. Hoạt động này sẽ giúp ngân hàng thương mại đa dạng hoá hoạt động kinh doanh, phân tán rủi ro và mở rộng khách hàng. Phát triển thị trường chứng khoán  Đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, lựa chọn một số doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh có hiệu quả để tiến hành cổ phần hoá và gắn chương trình sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước với việc đưa các doanh nghiệp này niêm yết trên thị trường. Bên cạnh đó, đẩy nhanh việc thực hiện chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tạo nguồn cung hàng hoá có chất lượng cao cho thị trường. Phát triển thị trường trái phiếu thông qua khuyến khích các doanh nghiệp phát hành trái phiếu công ty để vay vốn dài hạn, các ngân hàng thương mại phát hành trái phiếu ngân hàng huy động vốn trung, dài hạn. Đặc biệt, cần đẩy mạnh việc phát hành trái phiếu công trình đô thị để huy động vốn cho phát triển cơ sở hạ tầng. Đây là hình thức huy động vốn phù hợp với cơ chế thị trường, đã thực hiện thành công ở một số địa phương. Phát hành trái phiếu công trình đô thị, một mặt, huy động vốn bù đắp phần thiếu hụt trong tổng chi các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng; mặt khác, tạo hàng hoá cho thị trường chứng khoán. Đối với trái phiếu công ty hay trái phiếu đầu tư, hai yếu tố cơ bản nhất quyết định sự hấp dẫn đối với công chúng đầu tư là tính khả thi của dự án và lãi suất. Do đó, để thúc đẩy thị trường trái phiếu, cần thành lập tổ chức định mức tín nhiệm nhằm thông tin về rủi ro của các công cụ nợ và định hướng cho người đầu tư. Phát triển các tổ chức tài chính trung gian trên thị trường chứng khoán  Hiện nay, thị trường chứng khoán Việt Nam chưa phát triển và hoạt động không ổn định một phần là  do thiếu các tổ chức tài chính trung gian, thiếu các nhà đầu tư có tổ chức hoạt động trên thị trường. Để thị trường chứng khoán phát triển và hoạt động sôi động, bên cạnh việc áp dụng nhiều biện pháp thu hút các nhàg đầu tư cá nhân tham gia thị trường, cần phát triển các nhà đầu tư có tổ chức như quỹ đầu tư, công ty bảo hiểm, ngân hàng thương mại, tổ chức tài chính, đồng thời, khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài. Khuyến khích hình thành và phát triển các quỹ đầu tư chứng khoán đặc biệt là các quỹ đầu tư phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư ra công chúng để thu hút vốn đầu tư dài hạn của các tầng lớp nhân dân. Bên cạnh đó, thu hút các nhà đầu tư nước ngoài góp vốn vào quỹ đầu tư chứng khoán, đồng thời, khuyến khích các quỹ đầu tư chứng khoán nước ngoài tham gia hoạt động trên thị trường chứng khoán, qua đó, thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài cho phát triển kinh tế - xã hội. Hệ thống các công ty chứng khoán đã được hình thành, tuy nhiên quy mô hoạt động nhỏ bé và hoạt động nghiệp vụ còn sơ khai, kém đa dạng. Do đó, cần nâng quy mô vốn, mở rộng hoạt động nghiệp vụ và đào tạo, củng cố đội ngũ nhân viên hành nghề của các công ty chứng khoán. Khuyến khích các công ty chứng khoán mở thêm các chi nhánh và đại diện nhận lệnh ở các khu đông dân cư để thu hút thêm các nhà đầu tư cá nhân. Đồng thời, phát triển số lượng công ty chứng khoán nhằm tạo sự cạnh tranh, cho phép các công ty chứng khoán chuyển nhượng vốn cho đối tác nước ngoài, cho phép lập công ty liên doanh với nước ngoài, cho phép sáp nhập các công ty chứng khoán và thực hiện việc niêm yết cổ phiếu công ty chứng khoán. Khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài tham gia thị trường chứng khoán  Cần khuyến khích các tổ chức trung gian tài chính nước ngoài và liên doanh với nước ngoài như công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư và quỹ đầu tư chứng khoán. Đặc biệt, có cơ chế chính sách khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của các doanh nghiệp Nhà nước thực hiện cổ phần hoá... Tăng cường chứng khoán là lĩnh vực còn khá mới mẻ đối với đại đa số công chúng, các nhà kinh doanh và các nhà quản lý. Vì vậy, cần tăng cường đào tạo, thông tin, tuyên truyền rộng rãi về thị trường chứng khoán. Nội dung của chương trình đào tạo cơ bản và chuyên sâu phải đáp ứng yêu cầu chất lượng ngày càng nâng lên phù hợp với đòi hỏi của sự phát triển thị trường. Đa dạng hoá các hình thức đào tạo nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của các đối tượng khác nhau. Trên đây chỉ là một số giải pháp còn mang tính sơ bộ, chưa có điều kiện đi sâu vào phân tích, nhưng phần nào cũng giải quyết được một số hạn chế trong quá trình huy động và sử dụng vốn đầu tư để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. KẾT LUẬN Trong những năm qua, tốc độ tăng trưởng, phát triển kinh tế của nước ta được đánh giá là cao so với các nước trên thế giới. Đóng góp vào sự tăng trưởng này bao gồm nhiều yếu tố trong đó phải kể đến sự đóng góp quan trọng của vốn đầu tư. Vốn đầu tư là một bộ phận không thể thiếu trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đạt được các mục tiêu đề ra. Theo những nhận định ở trên, ta có thể thấy hoạt động về thu hút vốn đầu tư của nền kinh tế nước ta trong giai đoạn qua đã có nhiều tiến bộ. Nguồn vốn trong nước đã có nhiều cải thiện và được phân bổ hợp lý hơn đồng thời cũng thu hút nhiều hơn nguồn vốn nước ngoài đóng góp vào tăng trưởng, phát triển kinh tế. Một phần là do nhà nước ta đã đưa ra những chính sách tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư đồng thời cũng tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật của nền kinh tế nhằm mục tiêu thu hút nhiều hơn vốn trong và ngoài nước. Tuy nhiên, những hạn chế trong cơ chế, chính sách của nhà nước, tệ nạn quan liêu tham nhũng... đã và đang làm thất thoát rất nhiều nguồn lực của đất nước. Những mặt tiêu cực này đã hạn chế khả năng huy động thêm nguồn vốn và cũng làm cho việc sử dụng nguồn vốn hiện có chưa thực sự có hiệu quả, chưa tạo ra sự thay đổi đáng kể về tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là tăng trưởng bền vững. Đất nước ta đang bước vào một giai đoạn phát triển mới, với việc trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO thì việc huy động và sử dụng vốn có hiệu quả là một trong những điều kiện cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Vì vậy, cần phải có những biện pháp hữu hiệu để khắc phục những hạn chế trong hoạt động vốn. Công việc này không phải chỉ là của Đảng, Chính phủ mà còn là của các cấp, các ngành, các tầng lớp nhân dân cùng chung sức để đạt mục tiêu phát triển đề ra. Nhóm thực hiện đề tài chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo PGS.TS Từ Quang Phương. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình kinh tế đầu tư. NXB Đại học KTQD 2. Giáo trình kinh tế phát triển. NXB Lao động xã hội 3. Lịch sử các học thuyết kinh tế - Robert B.ekelund, Robert F. Hébert -NXB Thống kê 4. Những vấn đề chủ yếu về kinh tế phát triển. NXB Chính trị Quốc gia 5. Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 345 - Tháng 02/2007 Số 346 - Tháng 03/2007 Số 347 - Tháng 04/2007 Số 348 - Tháng 05/2007 Số 356 - Tháng 01/2008 6. Tạp chí kinh tế và dự báo Số 406 - Tháng 02/2007 Số 408 - Tháng 04/2007 Số 409 - Tháng 05/2007 Số 411 - Tháng 07/2007 Số 415 - Tháng 11/2007 7. Tạp chí kinh tế và phát triển Số 124 - Tháng 10/2007 Số 126 - Tháng 12/2007 8. Báo cáo phát triển của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. 9.Niên giám thống kê các năm và Bộ Kế hoạch - Đầu tư. 10.Cục đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư. 11.Vụ quản lý dự án - Bộ Kế hoạch và Đầu tư. 12.Webside:www.gso.gov.vn. 13. www. vir.com.vn 14. www.mpi.gov.vn 15. www.wikipedia.ogr 16. www.vafi.org.vn 17. www.dantri.com.vn 18.www.vnexpress.net 19.www.vietnamnet.vn MỤC LỤC Trang LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG I: MỘT SỐ LÝ THUYẾT KINH TẾ VÀ ĐẦU TƯ VỀ VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG, PHÁT TRIỂN KINH TẾ 2 I. KHÁI NIỆM ĐẦU TƯ VÀ PHÂN LOẠI. 2 1. Khái niệm 2 2. Phân loại đầu tư 2 2.1. Theo mối quan hệ của chủ đầu tư với đối tượng đầu tư: 2 2.2 Theo bản chất của đầu tư 3 2.3 Theo nguồn vốn 3 2.4 Theo cấp quản lý 4 II. KHÁI NIỆM TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ 4 1. Khái niệm 4 2. Một số chỉ tiêu đánh giá 5 2.1. Một số thước đo của sự tăng trưởng 5 2.1.1. Tổng sản phẩm quốc nội ( GDP) 5 2.1.2. Tổng thu nhập quốc dân ( GNI ) 6 2.1.3. Thu nhập bình quân đầu người 7 2.2. Các chỉ số về cơ cấu kinh tế 7 2.2.1. Chỉ số cơ cấu ngành 7 2.2.2. Chỉ số cơ cấu xuất nhập khẩu 7 2.2.3. Chỉ số tiết kiệm - đầu tư 7 2.3. Đánh giá sự phát triển xã hội 8 2.3.1. Mức tăng dân số hàng năm 8 2.3.2. Số calo bình quân trên đầu người 8 2.3.3. Chỉ số cơ cấu nông thôn và thành thị 8 2.3.4. Chỉ số phát triển con người ( HDI ) 8 III. VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ VỚI TĂNG TRƯỞNG, PHÁT TRIỂN KINH TẾ QUA CÁC LÝ THUYẾT KINH TẾ VÀ ĐẦU TƯ 9 1. Đầu tư tác động đến tổng cung của nền kinh tế. 9 1.1. Lí thuyết tăng trưởng kinh tế của trường phái cổ điển. 9 1.2. Quan điểm tăng trưởng kinh tế của K.Marx 9 1.3.Lí thuyết tân cổ điển về đầu tư. 10 1.4. Mô hình Harrod-Domar 10 2. Mô hình của Keynes: Đầu tư là nhân tố kích thích tổng cầu của nền kinh tế. 11 3.Đầu tư tạo sự phát triển cho các ngành kinh tế mũi nhọn từ đó tạo ra sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế. 13 3.1. Mô hình các giai đoạn phát triển của W.Rostow 13 3.2. Mô hình hai khu vực của Arthus Lewis 14 3.3. Mô hình hai khu vực của Oshima. 15 4. Đầu tư được coi là cú huých từ bên ngoài giúp các nước đang phát triển thoát khỏi vòng luẩn quẩn của đói nghèo. 16 5.Đầu tư đúng hướng cho phép khai thác lợi thế tuyệt đối và tương đối, thúc đẩy hoạt động ngoại thương phát triển. 17 5.1. Quan điểm của Adam Smith 17 5.2 Lí thuyết của Ricarđo và Heckscher-Ohlin. 17 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA 19 I. TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM QUA 19 1.Tổng quan về kinh tế 19 2. Một số vấn đề xã hội 21 II. TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ TÁC ĐỘNG VÀO TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN CỦA VIỆT NAM 22 1. Dựa vào vai trò của đầu tư tác động lên tổng cầu 22 2. Dựa vào vai trò của đầu tư tác động lên tổng cung. 23 3.Vai trò của đầu tư nước ngoài trong việc thúc đẩy kinh tế phát triển 26 4. Đứng dưới mô hình các giai đoạn phát triển kinh tế của W.Rostow. 28 5. Đầu tư đúng hướng, khai thác được lợi thế, tăng giá trị xuất khẩu. 30 III. NHỮNG VẤN ĐỀ CÒN TỒN TẠI CỦA ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM. 31 1. Hạn chế của đầu tư. 31 1.1. Giải ngân thấp ảnh hưởng đến tăng trưởng và phát triển. 31 1.2. Sự tăng lên của hệ số ICOR cho thấy Việt Nam đang duy trì mức” tăng trưởng bằng lượng” mà thiếu quan tâm đến “tăng trưởng bằng chất”. 33 1.3. Cái "nóng" trong quy hoạch phát triển và tình trạng phân tán dàn trải trong đầu tư. 35 1.4. Vốn phân bổ chưa hợp lí giữa các ngành và các khu vực được đầu tư. 37 1.5. Tình trạng đáng báo động về nợ đọng trong xây dựng. 38 1.6. Những bất cập và tồn tại trong cơ chế đầu tư. 39 1.7. Tham nhũng, chất lượng nguồn nhân lực- hai điều đáng quan tâm. 40 2. Hạn chế trong tăng trưởng, phát triển kinh tế. 43 2.1. Quy mô nền kinh tế còn nhỏ, tăng trưởng khá cao nhưng chưa bền vững. 43 2.2. Mất cân đối giữa tổng cung và tổng cầu. 45 2.3. Chưa có sự thay đổi đáng kể trong cơ cấu kinh tế. 45 CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG ĐẦU TƯ VÀ NÂNG CAO KHẢ NĂNG SỬ DỤNG HIỆU QUẢ VỐN ĐẦU TƯ THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ 45 1. Những giải pháp chặn, phòng, chống thất thoát và lãng phí trong xây dựng cơ bản. 45 2.Điều chỉnh cơ cấu đầu tư Nhà nước 45 3.Thực hiện đồng thời phân cấp thẩm quyền ra quyết định đầu tư và hoàn thiện cơ chế quản lý đầu tư. 45 4.Nâng cao chất lượng của công tác qui hoạch phát triển kinh tế- xã hội. 45 5.Đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực đầu tư. 45 6. Triển khai mạnh việc nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật - công nghệ 45 7.Các ngân hàng thương mại cần tăng tỉ trọng huy động vốn trung và dài hạn 45 KẾT LUẬN 45 TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………...63

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10080.doc
Tài liệu liên quan