Kinh tế thị trường luôn gắn liền với các phạm trù, các quy luật kinh tế của nó, trong đó có phạm trù "giá trị thặng dư", vì vậy, trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay thì sự tồn tại của phạm trù "giá trị thặng dư" là một tất yếu khách quan. Do đó, việc nghiên cứu về "giá trị thặng dư" là một điều cần thiết.
Qua quá trình phân tích mặt chất và mặt lượng của giá trị thặng dư có thể đi đến kết luận: "giá trị thặng dư là cái chung cho những xã hội có thời gian lao động vượt khỏi thời gian lao động tất yếu", nó không phải là phạm trù riêng của CNTB, sự tồn tại của "giá trị thặng dư" là một tất yếu khách quan trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay. Phạm trù "giá trị thặng dư" có ý nghĩa quan trọng đối với việc phát triển kinh tế, phát triển cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH, cũng như việc cải thiện đời sống của nhân dân. Việc nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư có ý nghĩa quan trọng, giúp chúng ta có nhận thức đúng đắn, phân biệt giữa giá trị thặng dư và vấn đề bóc lột, để xây dựng thành công CNXH phát triên kinh tế, nền sản xuất xã hội phải sản xuất ra giá trị thặng dư đồng thời phải phân phối lượng giá trị thặng dư ấy một cách công bằng loại bỏ sự bóc lột trong xã hội: áp dụng quá trình sản xuất giá trị thặng dư: kết hợp sức lao động và tư liệu sản xuất tạo ra giá trị thặng dư vào nền sản xuất xã hội của nước ta trong giai đoạn này. Nghiên cứu giá trị thặng dư còn ý nghĩa trong việc quản lý các doanh nghiệp, giúp Đảng và Nhà nước xây dựng những chủ trương phát triển kinh tế đồng thời đảm bảo công bằng xã hội.
31 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 3218 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giá trị thặng dư là hòn đá tảng trong học thuyết kinh tế của Mác, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NXH, đó là thành tựu của nhân loại, đồng thời nó rất cần thiết cho công cuộc xây dựng phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH và kể cả khi CNXH đã được xây dựng. Mà nền kinh tế thị trường thì luôn gắn liền với các phạm trù và các quy luật kinh tế của nó, trong đó có phạm trù giá trị thặng dư. Hay nói cách khá: sự tồn tại giá trị thặng dư là một tất yếu khách quan ở Việt Nam, khi mà ở Việt Nam ta đang thực hiện nền kinh tế thị trường nhiều thành phần theo định hướng XHCN nhưng trong chừng mực nào đó vẫn tồn tại thành kiến với các thành phần kinh tế tư nhân, tư bản, coi các thành phần kinh tế này là bóc lột, nhận thức này không chỉ xảy ra với một số cán bộ đảng viên làm công tác quản lý mà còn xảy ra ngay trong những người trực tiếp làm kinh tế tư nhân ở nước ta. Mà theo như lý luận của Các Mác, vấn đề bóc lột này lại liên quan đến “giá trị thặng dư”. Chính vì thế,việc nghiên cứu về chất và lượng của giá trị thặng dư sẽ giúp chúng ta có những nhận thức đúng đắn về con đường đi lên xây dựng CNXH ở Việt Nam mà Đảng và Nhà nước đã chọn. Từ việc nghiên cứu đó, rút ra ý nghĩa thực tiễn của vấn đề này là cần thiết.
Lênin đã từng đánh giá: “Giá trị thặng dư là hòn đá tảng trong học thuyết kinh tế của Mác”, lời đánh giá này cho thấy nghiên cứu về giá trị thặng dư là một vấn đề lớn. Với kiến thức còn hạn hẹp, bài viết này chỉ nêu ra những nội dung cơ bản của “giá trị thặng dư”, cùng một vài ý nghĩa thực tiễn rút ra được khi nghiên cứu vấn đề này và một số y kiến để vận dụng “giá trị thặng dư” trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.
Bài viết được chia thành hai phần:
Phần I : Mặt chất và mặt lượng của giá trị thặng dư.
Phần II : ý nghĩa thực tiễn rút ra khi nghiên cứu vấn đề này đối với việc quản lý doanh nghiệp của chúng ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường.
Bài viết đã được hoàn thành với sự giúp đỡ của thầy giáo hướng dẫn, thư viện trường và nhiều tài liệu tham khảo bổ ích khác.
Nội dung
Phần I: Mặt chất và mặt lượng của giá trị thăng dư.
Cần phải nghiên cứu về giá trị thặng dư bởi sự tồn tại của giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là một tất yếu khách quan, có nghiên cứu về giá trị thặng dư ta mới thấy rõ những đặc tính phổ biến của sản xuất và phân phối giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường, từ đó tìm ra các giải pháp để vận dụng học thuyết giá trị thặng dư nhằm phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta, theo mục tiêu đã được Đảng và Nhà nước ta vạch ra, làm dân giầu nước mạnh, xây dựng thành công CNXH ở Việt Nam.
Khi nghiên cứu về phạm trù giá trị thặng dư, Mác đã sử dụng nhuần nhuyễn phương pháp duy vật biện chứng để nghiên cứu. Người đã gạt bỏ đi những cái không bản chất của vấn đề rút ra bản chất của nó, đi từ cái chung đến cái riêng, từ trừu tượng đến cụ thể và đặc biệt là việc sử dụng phương pháp trừu tượng hoá khoa học.
A. Mặt chất của giá trị thặng dư.
Đi từ sự phân tích "sự chuyển hoá của tiền thành cơ bản " cùng với "sự chuyển hoá sức lao động thành hàng hoá". Mác đã chỉ rõ mối quan hệ kinh tế giữa người sở hữu tiền và người sở hữu sức lao động là điều kiện tiên quyết để sản xuất giá trị thặng dư. Từ đó, Mác đi phân tích "quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư", làm rõ bản chất, nguồn gốc của giá trị thặng dư.
I. Sự chuyển hoá của tiền thành tư bản
1. Công thức chung của tư bản
Tiền là sản phẩm cuối cùng của quá trình lưu thông hàng hoá. Thật vậy, nếu gạt bỏ đi nội dung vật chất của lưu thông là sự trao đổi giá trị sử dụng khác nhau, mà chỉ xét tới hình thái kinh tế của quá trình lưu thông thì tiền là sản phẩm cuối cùng của quá trình ấy. Nhưng đồng thời, tiền cũng là một hình thức biểu hiện của Tư bản. Xong bản thân tiền không phải là Tư bản, mà tiền chỉ trở thành Tư bản khi nó được đưa vào lưu thông với mục đích đem lại lợi nhuận cho người sở hữu tiền. Để làm rõ sự khác nhau giữa tiền và Tư bản, Mác đã đi phân tích điểm giống và khác nhau của hai công thức: lưu thông hàng hoá giản đơn H- T -H và hình thái lưu thông T - H - T.
Điểm giống nhau của hai hình thái lưu thông này là:
- Trong cả hai công thức đều bao gồm hai yếu tố tiền (T) và hàng hoá (H).
- Nếu đem phân chia mỗi công thức thành hai giai đoạn thì cả hai công thức đều có hai giai đoạn đôí lập giống nhau: H- T là bán và T - H là mua.
Và trong cả hai công thức thì đều có sự xuất hiện của ba bên, trong đó một người chỉ bán, một người chỉ mua, và người thứ ba thì lần lượt mua và bán.
Và điểm khác nhau của chúng là:
- Trình tự hai giai đoạn đối lập( mua và bán) trong hai công thức lưu thông là đảo ngược nhau. Với công thức H-T-H là bán trước, mua sau, tiền chỉ đóng vai trò trung gian. Còn với công thức T-H-T thì mua trước, bán sau, vai trò trung gian thuộc về hàng hoá.
- Trong công thức lưu thông T-H-T, tiền cuối cùng được chuyển thành hàng hoá, do đó tiền bị chi tiêu hẳn. Ngược lại, trong hình thái T-H-T, tiền được chi ra để mua rồi được thu lại sau khi bán, như vậy tiền trong công thức này chỉ được ứng ra mà thôi. Tóm lại, giá trị sử dụng là mục đích cuối cùng của vòng chu chuyển T-H-T. Còn động cơ, mục đích của vòng chu chuyển T-H-T là bản thân giá trị trao đổi.
Trong lưu thông T-H-T, điểm đầu và điểm cuối đều là tiền, chúng không khác nhau về mặt chất. Do đó, quá trình vận động này dường như là một việc thừa, vì nó là việc đổi một vật để lấy một vật giống hệt. Mà như ta đã biết, một món tiền chỉ có thể khác nhau với một món tiền khác về mặt số lượng, nên để quá trình T-H-T có được cái nội dung của nó thì cần có sự khác nhau về lượng tiền ở điểm đầu và điểm cuối. Kết quả là qua lưu thông, giá trị( tiền) được ứng ra trước đó không những được bảo tồn mà còn tự tăng thêm giá trị. Chính sự vận động ấy đã biến giá trị( tiền) đó thành tư bản.
- Mục đích của quá trình lưu thông T-H-T, là giá trị sử dụng, tức là nhằm thoả mãn những nhu cầu nhất định. Như vậy, quá trình này là hữu hạn, nó sẽ kết thúc khi nhu cầu nào đó được thoả mãn. Ngược lại, mục đích khi thực hiện quá trình lưu thông theo công thức T-H-T là làm tăng giá trị ứng trước đó. Chỉ riêng điều này thôi đã khiến sự vận động của tư bản theo công thức T-H-T là không có giới hạn.
Từ phân tích trên, Mác đã phân biệt một cách rõ ràng tiền thông thường và tiền là tư bản. Tiền thông thường chỉ đóng vai trò trung gian trong lưu thông, rồi lại trở lại lưu thông, tự duy trì và sinh sôi nảy nở trong lưu thông, quay trở về dưới dạng đã lớn lên và không ngừng bắt đầu lại cũng một vòng chu chuyển ấy, T-T', tiền đẻ thành tiền( theo lời phái trọng thương)
T-H-T', mới nhìn thì nó là công thức vận động của riêng tư bản thương nghiệp, nhưng ngay cả tư bản công nghiệp và tư bản cho vay cũng vận động theo công thức này.Tư bản công nghiệp cũng là tiền được chuyển hoá thành hàng hoá thông qua sản xuất, rồi lại chuyển hoá trở lại thành một số tiền lớn hơn bằng việc bán hàng hoá đó. Tư bản cho vay thì lưu thông T-H-T' được biểu hiện dưới dạng thu ngắn lại là T-T', một số tiền thành một số tiền lớn hơn. Như vậy, T-H-T' thực sự là công thức chung của tư bản.
Nhưng sự vận động theo công thức chung T-H-T' này mâu thuẫn với tất cả các quy luật về bản chất của hàng hoá, giá trị, tiền và bản thân lưu thông.
2. Những mâu thuẫn của công thức chung:
Trong lưu thông có thể có hai trường hợp xảy ra: một là trao đổi tuân theo quy luật giá trị( trao đổi ngang giá); hai là trao đổi không tuân theo quy luật giá trị ( trao đổi không ngang giá).
- Nếu trao đổi ngang giá, thì giá trị thặng dư không thể sinh ra từ hành vi mua
( T-H) hoặc hành vi bán( H-T), tức là từ lĩnh vực lưu thông, vì nếu mua, bán ngang giá thì chỉ có sự thay đổi hình thái từ tiền sang hàng hoá, rồi từ hàng trở lại thành tiền, số tiền ứng ra bằng số tiền thu lại sau khi bán. Vậy, ở trường hợp này không có sự hình thành giá trị thặng dư.
- Nếu trao đổi ngang giá: có thể có hai giả thiết, một là người bán bán hàng hoá cao hơn giá trị của chúng( bán đắt), và hai là người bán bán hàng hoá dưới giá trị của chúng( giá rẻ).
Trong giả thiết "bán đắt": hàng hoá được bán với giá cao hơn giá trị của nó, khi đó người bán được một khoản là phần chênh lệch giữa giá bán và giá trị thực của hàng hoá, còn người mua bị thiệt một khoản đúng bằng giá trị mà người bán được lợi.
Trong giả thiết "bán rẻ": hàng hoá được bán với thấp hơn so với giá trị của nó, thì người mua được lợi một khoản là phần chênh lệch giữa giá trị thực và giá trị bán của hàng hoá, còn người bán bị thiệt một giá trị đúng bằng giá trị mà người mua được lợi.
Như vậy, trong cả 2 giả thiết trên, thì nếu người này được lợi thì người kia bị thiệt, nhưng tổng giá trị của hàng hoá( trong quá trình lưu thông đó) vẫn không tăng lên. Vì vậy, cả trong trường hợp này cũng không diễn ra sự hình thành giá trị thặng dư.
Nhìn vào công thức chung của tư bản, ta thấy chỉ có hành vi mua và bán, tức là chỉ có lưu thông, nhưng thực tế lại có giá trị thặng dư. Mà theo phân tích trên, giá trị thặng dư không sinh ra trong lưu thông. Như vậy, giá trị thặng dư vừa không thể sinh ra trong lưu thông lại vừa không thể sinh ra ngoài quá trình lưu thông. Nó phải sinh ra trong lưu thông và đồng thời không phải trong lưu thông. Và theo Mác, đó chính là mâu thuẫn của công thức chung.
Để giải thích mâu thuẫn này, thì chỉ còn một giả thiết là: người sở hữu tiền phải mua được một thứ hàng hoá(H) đặc biệt, mà khi tiêu dùng nó sẽ đem lại giá trị thặng dư, và thứ hàng hoá đặc biệt đó chính là hàng hoá sức lao động.
3. Hàng hoá - sức lao động:
(a) Sức lao động và điều kiện tạo ra hàng hoá:
Chúng ta hiểu, sức lao động ( hay năng lực lao động): là toàn bộ năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con người đang sống và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó.
Nhưng để người sở hữu tiền có thể mua được sức lao động với tư cách là hàng hoá thì sức lao động phải có hai điều kiện sau để trở thành hàng hoá:
- Một là: người lao động là người tự do sở hữu năng lực lao động của mình, thân thể mình, và chỉ bán sức lao động đó trong một thời gian nhất định.
Bởi vì, sức lao động chỉ có thể xuất hiện trên thị trường với tư cách là hàng hoá, khi nó được đưa ra thị trường, tức là bản thân người có sức lao động đó, đem bán nó. Mà muốn vậy, thì người đó phải được hoàn toàn tự do về thân thể, tự do sở hữu năng lực lao động của mình. Người sở hữu sức lao động bao giờ cũng phải bán sức lao động ấy trong một thời gian nhất định mà thôi, vì nếu anh ta bán hẳn sức lao động đó trong một lần thì anh ta sẽ tự bán bản thân mình, và từ chỗ là một người tự do anh ta sẽ trở thành người nô lệ.
- Hai là: người lao động không còn tư liệu sản xuất nào khác, buộc phải đem bán chính sức lao động của mình để tồn tại.
Bởi vì, khi một người còn có những hàng hoá khác( tư liệu sản xuất khác) để bán thì anh ta sẽ không đem bán sức lao động của mình. Do vậy, chỉ khi người lao động không còn tư liệu sản xuất nào khác, thì họ buộc phải đem bán chính sức lao động của mình để tồn tại, và chỉ khi đó hàng hoá sức lao động mới xuất hiện trên thị trường.
Khi sức lao động trở thành hàng hoá, nó cũng có hai thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng, nhưng nó là hàng hoá đặc biệt, vì vậy, giá trị và giá trị sử dụng của nó có những nét đặc thù so với những hàng hoá khác.
(b) Hai thuộc tính của hàng hoá lao động:
* Giá trị của hàng hoá lao động:
Giá trị của sức lao động cũng giống như bất kỳ một hàng hoá nào khác, được quyết định bởi số thời gian lao động cần thiết để sản xuất và để tái sản xuất ra thứ sản phẩm đặc biệt ấy. Mà sức lao động lại gắn liền với cơ thể sống. Do đó, việc sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động cũng bao hàm việc duy trì cuộc sống của con người đó. Muốn duy trì cuộc sống của bản thân mình, con người cần có một số tư liệu sinh hoạt nhất định. Mặt khác, số lượng của những nhu cầu cần thiết ấy, cũng như phương thức thoả mãn những nhu cầu đó, ở mỗi người, nhóm người lao động khác nhau, do các yếu tố lịch sử, tinh thần, nên giá trị của sức lao động còn mang tính chất tinh thần, thể chất và lịch sử.
Nhưng người sở hữu sức lao động có thể chết đi, do vậy, muốn cho người ấy không ngừng xuất hiện trên thị trường hàng hoá sức lao động, thì người bán sức lao động ấy phải trở nên vĩnh cửu, bằng cách sinh con đẻ cái. Những sức lao động đang biến mất khỏi thị trường vì hao mòn hay chết đi phải được thay thế bằng sức lao động mới. Vì vậy, tổng số những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho việc sản xuất ra sức lao động bao gồm cả những tư liệu cho những người thay thế đó, tức là cho con cái của những người lao động.
Muốn người lao động có kiến thức và có thói quen khéo léo trong một ngành lao động nhất định, thì cần phải tốn một số nhiều hay ít chi phí để đào tạo. Chi phí đào tạo này lại là khác nhau tuỳ theo tính chất phức tạp của lao động. Và chi phí này cũng gia nhập vào tổng số những giá trị được chi phí để sản xuất ra sức lao động.
Vậy giá trị của hàng hoá sức lao động bao gồm:
- Giá trị của những tư liệu sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất ra sức lao động của người công nhân.
- Giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho gia đình người công nhân ( cho những người thay thế của anh ta)
- Chi phí đào tạo người công nhân tuỳ theo tính chất phức tạp của người lao động được đào tạo.
* Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động:
Hàng hoá sức lao động có điểm giống và điểm khác hàng hoá thông thường.
Điểm giống là ở chỗ: hàng hoá thông thường và hàng hóa sức lao động đều có khả năng thoả mãn những nhu cầu nhất định của người mua nó.
Điểm khác là ở chỗ: nếu như hàng hoá thông thường khi đem sử dụng thì cả giá trị và giá trị sử dụng đều bị tiêu hao theo thời gian, thì ngược lại, hàng hoá sức lao động khi đem sử dụng, giá trị sử dụng càng tăng do người công nhân tích luỹ được kinh nghiệm sản xuất
Và giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động chỉ thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng sức lao động. Chính trong quá trình ấy, sức lao động tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó, tức là tạo ra giá trị thặng dư.
II. Sản xuất ra giá trị thặng dư
Sau khi người sử hữu tiền đã mua được sức lao động của người sở hữu sức lao động, thì người đó tiến hành tiêu dùng sức lao động. Mà việc tiêu dùng sức lao động là lao động. Nên người mua sức lao động tiêu dùng của sức lao động chỉ thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng sức lao động, tức là quá trình lao động, và trong quá trình ấy sức lao động tạo ra giá trị thặng dư. Do đó, khi đi nghiên cứu về sản xuất giá trị thặng dư, ta sẽ bắt đầu nghiên cứu từ quá trình lao động.
1. Quá trình lao động:
Lao động là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người tác động vào tự nhiên bắt tự nhiên phục vụ lợi ích của mình.
Như vậy thì quá trình lao động sẽ là sự kết hợp của 3 yếu tố cơ bản của quá trình lao động, vì sức lao động gắn với con người, mà con người luôn sáng tạo ra tư liệu lao động, đối tượng lao động, đồng thời sử dụng chúng để phục vụ lợi ích của mình.
ở đây, ta cần phân biệt giữa sức lao động và lao động. Nếu như nói đến sức lao động là mới chỉ nói đến khả năng lao động của con người, thì nói đến lao động là nói đến việc tiêu dùng sức lao động, là nói đến việc dùng sức lao động kết hợp với đối tượng và tư liệu lao động để tạo ra của cải vật chất.
- Đối tượng lao động: là những vật mà con người tác động vào trong quá trình lao động. Có thể chia nó thành 2 loại: Một là, loại có sẵn trong tự nhiên như đất đai, các nguồn thuỷ sản, lâm sản… Hai là, loại đã trải qua chế biến, thường tồn tại dưới dạng nguyên, nhiên, vật liệu.
- Tư liệu lao động bao gồm: công cụ lao động và những yếu tố vật chất phục vụ trực tiếp hoặc gián tiếp quá trình sản xuất như: kho tàng, bến bãi, đường giao thông, thông tin, điện nước… tức là các cơ sở hạ tầng kỹ thuật. Trong đó, công cụ lao động là những yếu tố tác động trực tiếp vào đối tượng lao động( như máy móc…), nó là yếu tố cơ bản nhất của tư liệu lao động, mà Mác gọi nó là hệ thống “xương cốt” của quá trình lao động sản xuất.
Việc phân biệt giữa đối tượng lao động và tư liệu lao động cũng chỉ là tương đối mà thôi. Đối tượng lao động và tư liệu lao động trong quá trình lao động sản xuất hợp thành tư liệu sản xuất, do đó, có thể nói rằng: quá trình lao động là sự kết hợp của hai yếu tố: sức lao động và tư liệu sản xuất.
Trong quá trình lao động, sức lao động kết hợp với dụng cụ lao động tác động vào đối tượng lao động và chuyển toàn bộ giá trị của những tư liệu sản xuất đó vào sản phẩm được tạo ra.
Đi từ cái chung là việc nghiên cứu quá trình lao động, Mác đã đi đến phân tích quá trình sản xuất giá trị thặng dư dưới CNTB.
2.Sản xuất ra giá trị thặng dư:
Để hiểu rõ hơn quá trình sản xuất giá trị thặng dư dưới CNTB, ta hãy xem ví dụ với những giả định khoa học mà Mác đã đưa ra như sau:
Với phương pháp trừu tượng hoá trong nghiên cứu, Mác đã đưa ra các giả định khoa học:
- Nền kinh tế tư bản chỉ là nền kinh tế tái sản xuất giản đơn.
- Giá cả không thay đổi
- Không xét đến ngoại thương.
Ví dụ như trong sản xuất sợi, nhà tư bản đã mua( giả định theo đúng giá trị) 1kg bông giá 1 đông; hao mòn máy móc để kéo 5kg bông thành 5 kg sợi là 1 đồng; tiền công lao động trong 1 ngày 8 giờ là 4 đồng; cứ 4 giờ thì người công nhân kéo được 5 kg bông thành 5 kg sợi;
Nếu sản xuất 5 kg sợi thì nhà tư bản sẽ phải đứng trước một số tiền là 10 đồng.
Để sản xuất ra 5 kg sợi thì cần phải có 5 kg bông và sự hao mòn của máy móc, và khi 5 kg sợi được sản xuất ra thì không có nghĩa là giá trị của 5 kg bông và phần máy móc hao mòn bị mất đi, mà phần giá trị đó được chuyển nguyên vẹn vào giá trị của 5 kg sợi. Như vậy, giá trị của những tư liệu sản xuất: 5 kg bông và hao mòn máy móc được biểu hiện bằng 6 đồng, là những bộ phận cấu thành giá trị của 5 kg sợi. Chú ý là, người ta chỉ chi phí một thời gian lao động cần thiết trong điều kiện sản xuất xã hội nhất định mà thôi, vì vậy, dù nhà tư bản có sử dụng những tư liệu giá trị sản xuất nào mà có giá trị lớn hơn giá trị 6 đồng như trên đi nữa, thì gia nhập vào giá trị của 5 kg sợi cũng chỉ có 6 đồng, tức là số lao động xã hội cần thiết của nền sản xuất mà thôi.
Bây giờ chúng ta phải xem xét phần giá trị mà lao động của người công nhân đã kết hợp vào bông. Giả định là muốn sản xuất một lượng trung bình những tư liệu sinh hoạt cần thiết hàng ngày cho một người lao động thì mất 4 giờ lao động trung bình, và giả định rằng 4 giờ lao động trung bình đã được vật hoá trong 4 đồng. Việc nhà tư bản trả 4 đồng cho một ngày lao động của người công nhân là đúng giá trị của sức lao động. Trong quá trình lao động, lao động không ngừng chuyển hoá từ hình thái hoạt động sang hình thái tồn tại, từ hình thái vận động sang hình thái vật thể. Như vậy, 4 giờ lao động xã hội cần thiết, vận động kéo sợi sẽ biểu hiện ra trong một lượng sợi nhất định là 5 kg sợi. Do đó, thành phần giá trị do lao động xã hội cần thiết, và chỉ là lượng vật chất hoá của số giờ lao động xã hội đó mà thôi.
Theo giả định trên, 4 giờ lao động xã hội cần thiết này được vật hoá trong 4 đồng, và theo giả định ban đầu, cứ 4 giờ thì người công nhân kéo được 5 kg bông thành 5 kg sợi, vậy chính việc kéo sợi đã gắn thêm vào bông một giá trị là 4 đồng.
Bây giờ, hãy xem tổng giá trị của sản phẩm - 5kg sợi ấy. Giá trị của 5 kg sợi bao gồm giá trị của 5 kg bông là 5 đồng; với hao mòn máy móc để chuyển 5 kg bông thành 5 kg sợi là 1 đồng; và 4 giờ lao động của người công nhân kéo sợi biểu hiện là 4 đồng. Vậy giá trị của 5 kg sợi là 10 đồng.
Đến đây ta thấy, giá trị của sản phẩm bằng giá trị của tư bản ứng trước. Giá trị ứng trước không tăng thêm, do đó, không sản xuất ra giá trị thặng dư, và tiền không biến thành tư bản.
Hàng ngày, muốn tái sản xuất ra sức lao động của mình, người công nhân phải tạo ra một giá trị hàng ngày là 4 đồng(như giả định), cái mà người công nhân thực hiện được bằng cách lao động mỗi ngày 4 giờ nhưng điều đó lại không làm cho anh ta mất khả năng có thể lao động mỗi ngày 8 giờ hay nhiều hơn nữa. Bởi vậy, khi đã mua sức lao động của người công nhân với giá 4 đồng(được cho là ngang giá) cho một ngày lao động 8 giờ, thì nhà tư bản có quyền tiêu dùng sức lao động đó, hay có thể bắt người công nhân đó lao động trong cả 8 giờ. Nên nếu tiếp tục sản xuất thêm 5 kg sợi nữa thì nhà tư bản chỉ phải bỏ thêm tiền để mua 5 kg bông và tiền hao mòn máy móc, mà không phải trả thêm tiền công cho công nhân kéo sợi.
Vậy tổng số tiền nhà tư bản ứng trước để sản xuất ra 10 kg sợi là: 10 đồng cho 10 kg bông; hai đồng cho hao mòn máy móc; 4 đồng để thuê công nhân; tổng cộng là 16 đồng. Mà giá trị của 10 kg sợi là: 20 đồng.
Nếu nhà tư bản bán 10 kg sợi (đúng giá trị) với giá 20 đồng thì thu được lượng giá trị thặng dư là 4 đồng. Như thế tiền đã được biến thành tư bản.
Ví dụ trên cho thấy, tư liệu của sản xuất chỉ chuyển giá trị sang sản phẩm mới chứ không làm tăng thêm giá trị của sản phẩm đó, tức là không tạo ra giá trị thặng dư. Còn sức lao động mới là nhân tố tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó, phần lớn hơn đó là kết quả lao động không được trả công của người công nhân, và chính là giá trị thặng dư.
Tư bản ứng trước của nhà tư bản trên được chia làm hai bộ phận. Một là, bộ phận tư bản được chia ra để mua tư liệu sản xuất được coi là tư bản biến, ký hiệu là C. Hai là, bộ phận tư bản chi ra để mua sức lao động được gọi là tư bản khả biến, ký hiệu là v, bộ phận tư bản này cũng chỉ là một số tiền như tư bản chi ra để mua tư liệu sản xuất, nhưng nhờ mua được sức lao động là loại hàng hoá đặc biệt mà khi tiêu dùng nó tạo ra giá trị thặng dư, nên trở thành lượng khả biến. Việc phân chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến càng chỉ rõ nguồn gốc của giá trị thặng dư là sức lao động của công nhân chứ không phải là máy móc hay tư liệu sản xuất khác.
Cũng qua ví dụ trên, chúng ta thấy ngày lao động của người công nhân được chia thành hai phần, một phần là thời gian lao động xã hội cần thiết(để tái sản xuất ra sức lao động), một phần là thời gian lao động thặng dư (phần thời gian tạo ra giá trị thặng dư).
Có hai phương thức sản xuất ra giá trị thặng dư, đó là: sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
(a) Phương thức sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối:
Đây là phương thức sản xuất giá trị thặng dư bằng cách kéo dài ngày lao động hoặc là tăng cường độ lao động, trong khi giá trị sức lao động và thời gian lao động tất yếu không thay đổi, nhờ đó kéo dài thời gian lao động thặng dư.
Kéo dài ngày lao động hay tăng cường độ lao động đều là hao phí lao động trừu tượng.
Thí dụ: ngày lao động là 8 giờ, gồm thời gian lao động cần thiết: 4 giờ và thời gian lao động thặng dư: 4 giờ. Bây giờ kéo dài ngày lao động thành 10 giờ mà thời gian lao động cần thiết không đổi thì thời gian lao động thặng dư tăng từ 4 giờ lên 6 giờ.
Mục đích của nhà tư bản là giá trị thặng dư tối đa(vô hạn), nhưng phương thức sản xuất này không đạt được mục đích đó. Vì ngày lao động bị hạn chế không quá 24 giờ, và trong thực tế, không thể kéo dài đến 24 giờ. Mặt khác, việc kéo dài ngày lao động còn gặp phải những đấu tranh của công nhân, và sự đấu tranh đó buộc nhà tư bản phải rút ngắn thời gian lao động.
Khi độ dài ngày lao động đã được xác định, nhà tư bản phải tìm phương thức khác để sản xuất ra giá trị thặng dư, phương thức đó được gọi là phương thức sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
(b) Phương thức sản xuất giá trị thặng dư tương đôi:
Phương thức sản xuất giá trị thặng dư tương đối là phương thức sản xuất giá trị bằng cách rút ngắn thời gian lao động cần thiết, nhờ đó kéo dài thời gian lao động thặng dư, còn độ dài ngày lao động không đổi.
Muốn rút ngắn thời gian lao động cần thiết thì phải giảm giá trị những tư liệu sinh hoạt, bằng cách tăng năng suất lao động xã hội ở những ngành sản xuất ra tư liệu sinh hoạt và ở những ngành sản xuất ra tư liệu sản xuất để sản xuất ra tư liệu sinh hoạt. Muốn tăng năng suất lao động phải cải tiến sản xuất, đổi mới công nghệ. Những doanh nghiệp nao đi đầu trong việc ứng dụng công nghệ mới sẽ thu được giá trị thặng dư siêu ngạch. ở đây, giá trị thặng dư siêu ngạch là giá trị thặng dư cao hơn giá trị thặng dư bình thường do có giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị xã hội của hàng hóa đó. Thực chất của giá trị thặng dư siêu ngạch chính là giá trị thặng dư tương đối, bởi vì nó đều do tăng năng suất lao động mà có. Chỉ khác ở chỗ: giá trị thặng dư tuơng đối do tăng năng suất lao động xã hội, do đó, tất cả các nhà tư bản đều được hưởng. Còn giá trị thặng dư siêu ngạch là do tăng năng suất cá biệt cao hơn năng suất lao động xã hội thì mới được hưởng giá trị thặng dư siêu ngạch này.
Khi các doanh nghiệp đều ứng dụng công nghệ mới và hạ giá trị cá biệt của hàng hoá thì giá trị thị trường sẽ giảm xuống, người tiêu dùng được mua hàng hoá rẻ hơn trước, tức là giá của những tư liệu sinh hoạt giảm, nhờ đó sẽ hạ được thời gian lao động xã hội cần thiết xuống, và nhà tư bản thu giá trị thặng dư tương đối. Do các doanh nghiệp đều có trình độ công nghệ như nhau nên không ai thu được giá trị thặng dư siêu ngạch nữa, giá trị thặng dư siêu ngạch khi đó chuyển thành giá trị thặng dư tương đối.
Cần để ý rằng, máy móc(máy móc tiên tiến cũng vậy) không tạo ra giá trị thặng dư, nhưng nó tạo điều kiện để tăng sức sản xuất của lao động, hạ giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị của thị trường, nhờ đó mà giá trị thặng dư tăng lên.
B. Mặt lượng của giá trị thặng dư:
Mặt lượng của giá trị thặng dư biểu hiện ở tỷ suất giá trị thặng dư, ở khối lượng giá trị thặng dư, và ở trong các hình thức của giá trị thặng dư.
I. Tỷ suất giá trị thặng dư
Tỷ suất giá trị thặng dư là tỷ lệ tính theo phần trăm giữa giá trị thặng dư và tư bản khả biến(Ký hiệu là m3).
Như vậy ta có thể thấy tỷ suất giá trị thặng dư phụ thuộc vào mối quan hệ giữa phần ngày lao động cần thiết để tái sản xuất ra sức lao động, và thời gian lao động thặng dư. Mà dưới CNTB, phần thời gian lao động thặng dư là phần thời gian lao động không công của người công nhân cho nhà tư bản. Do đó, tỷ suất giá trị thặng dư phản ánh trình độ (mức độ) bóc lột của nhà tư bản với công nhân, tức là nói lên sự bóc lột theo chiều sâu. Để chứng minh cho kết luận này, ta hãy đi so sánh giá trị thặng dư và phần tư bản trực tiếp sinh ra nó.
Nhà tư bản ứng trước một số tư bản là C để tiến hành sản xuất, tìm kiếm giá trị thặng dư, giá trị thặng dư đó được biểu hiện ở phần dư trong giá trị của sản phẩm so với tổng số giá trị của các yếu tố sản xuất ra sản phẩm ấy.
Ta có giá trị của sản phẩm (Ký hiệu la C,) là: C, = C + m, trong đó m là giá trị thặng dư.
Tư bản C được chia thành hại phần: một phần được gọi là tư bản bất biến, ký hiệu là c, chi cho những tư liệu sản xuất; một phần được gọi tư bản khả biến, ký hiệu là v, chia ra để mua sức lao động. Vậy C = c + v . Ví dụ như nhà tư bản đã ứng trước 16 đồng, trong đó c = 12 đồng, v = 4 đồng. Đến đây ta có thể viết lại công thức tính giá trị thặng dư của một sản phẩm như sau: C, =c + v + m. Ví dụ như giá trị của sản phẩm đó là C, =20 đồng, vậy giá trị thặng dư m = 4 đồng.
Như đã làm rõ ở phần trên, thì c là bộ phận giá trị được chuyển hoá toàn bộ vào trong giá trị của sản phẩm, còn v là bộ phận giá trị trực tiếp sinh ra m.
Chúng ta đã thấy rằng, trong một ngày lao động, người công nhân không chỉ sản xuất ra giá trị sức lao động của mình, tức là chỉ sản xuất ra giá trị những tư liệu sinh hoạt hàng ngày cần thiết cho anh ta mà còn tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Vì anh ta sản xuất trong điều kiện có sự phân công lao động xã hội, cho nên anh ta không trực tiếp sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, mà chỉ sản xuất ra giá trị bằng giá trị những tư liệu sinh hoạt của anh ta. Phần ngày lao động mà anh ta dùng để sản xuất ra giá trị những tư liệu sinh hoạt hàng ngày cần thiết đó, ta gọi là thời gian lao động cần thiết, lao động trong thời gian ấy gọi là lao động cần thiết, và lao động cần thiết được biểu hiện bằng số tư bản v. Phần thứ hai trong ngày lao động, hay là phần thời gian người công nhân làm quá thời gian lao động cần thiết, mà lao động trong phần thời gian này, cũng làm cho người công nhân phải hao phí sức lao động của mình, nhưng lại không tạo ra giá trị nào cho mình cả, mà giá trị tạo ra khi đó là giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Ta gọi phần thời gian này là thời gian lao động thặng dư, lao động trong thời gian này là lao động thặng dư, lao động thặng dư này được biểu hiện bằng giá trị thặng dư m.
Tỷ suất giá trị thặng dư theo khái niệm trên là:
m,
=
m
v
x
100%
=
4
4
x
100%
= 100%
Và theo phân tích trên thì
m
v
=
Lao động thặng dư
Lao động cần thiết
Công thức tỷ suất giá trị thặng dư :
m'
=
Lao động thặng dư
Lao động cần thiết
Chỉ ra chính xác tỷ lệ giữa hại bộ phận cấu thành của ngày lao động. Nếu tỷ lệ đó là 100%, thì người công nhân đã làm nửa ngày cho bản thân, và nửa ngày cho nhà tư bản.
Tóm lại, tỷ suất giá trị thặng dư đã biểu hiện chính xác độ tư bản bóc lột sức lao động, hay mức độ nhà tư bản bóc lột người công nhân.
II. Khối lượng giá trị thặng dư:
Khối lượng giá trị thặng dư là tích số giữa tỷ suất giá trị thặng dư và tổng số tư bản khả biến được sự dụng. Ký hiệu là M.
Như vậy, khối lượng giá trị thặng dư có thể được biểu hiện bằng công thức:
M = m, . v
(Trong đó, v là tổng số tư bản khả biến được sử dụng.)
Nhìn vào công thức trên ta thấy, ở cùng một trình độ bóc lột (m,) nhất định, nếu nhà tư bản sử dụng càng nhiều tư bản khả biến thì khối lượng giá trị thặng dư thu được sẽ càng lớn. Như vậy, có thể kết luận là, khối lượng giá trị thặng dư phản ánh quy mô của sự bóc lột, hay đó là sự bóc lột theo chiều rộng.
III. Sự thay đổi trong đại lượng của giá trị thặng dư:
Chúng ta giả định rằng: hàng hoá được bán theo giá trị của nó, và giá cả sức lao động có thể cao hơn giá trị của nó, nhưng không bao giờ thấp hơn giá trị của nó. Khi đã giả định như thế thì sự thay đổi của đại lượng giá trị thặng dư sẽ được quyết định bởi 3 nhân tố sau: một là độ dài của ngày lao động. Mà 3 nhân tố này có thể kết hợp với nhau để tạo ra sự thay đổi của đại lượng giá trị thặng dư.
1. Đại lượng của ngày lao động và cường độ lao động không thay đổi (cho sẵn), sức sản xuất của lao động thay đổi.
Đại lượng của ngày lao động không đổi, có nghĩa là giá trị của ngày lao động đó không đổi, hay giá trị mới được tạo ra trong ngày lao động là không đổi. Giá trị mới tạo ra này bao gồm giá trị sức lao động và giá trị thặng dư. Vì thế, trong điều kiện sản xuất nhất định, thì không thể có sự cùng tăng lên hay cùng giảm xuống của giá trị sức lao động và giá trị thặng dư. Do giá trị của sức lao động không giảm xuống, thì giá trị thặng dư không tăng lên, nên để có sự thay đổi của hai đại lượng đó, thì sức sản xuất của lao động phải có sự thay đổi. Giả định: thời gian lao động cần thiết là 4 giờ, nếu sức sản xuất của lao động tăng lên, thì chỉ cần một thời gian ít hơn 4 giờ để sản xuất ra khối lượng tư liệu sinh hoạt hàng ngày cần thiết mà trước đây phải cần 4 giờ để sản xuất, do đó, giá trị của sức lao động giảm xuống. Ngược lại, nếu sức sản xuất của lao động giảm xuống, thì giá trị của sức lao động tăng lên. Như vậy, việc tăng năng suất lao động sẽ làm giảm giá trị của sức lao động, và đồng thời làm tăng giá trị thặng dư, trong khi đó, việc năng suất lao động, và đồng thời làm tăng giá trị thặng dư, trong khi đó, việc năng suất lao động giảm sẽ làm tăng giá trị của sức lao động và làm giảm giá trị thặng dư. Cần phải chú ý là việc tăng hay giảm của giá trị thặng dư bao giờ cũng là kết quả (chứ không phải là nguyên nhân) của việc tăng hay giảm tương ứng của giá trị sưc lao động.
2. Ngày lao động không đổi, sức sản xuất của lao động không đổi, cường độ lao động thay đổi.
Khi cường độ lao động tăng lên, tức là chi phí lao động tăng lên trong một khoảng thời gian, thì một ngày lao động có cường độ cao hơn sẽ sản xuất ra nhiều sản phẩm hơn só với một ngày lao động có cường độ thấp hơn mà có số giờ lao động ngang nhau. Trường hợp này cũng gần giống như việc tăng sức sản xuất của lao động đều đem lại số sản phẩm lớn hơn trong cùng một thời gian lao động, nhưng giá trị của mỗi một đơn vị sản phẩm trong hợp này không đổi vì trước cũng như sau, để làm ra một sản phẩm đều hao phí một lượng lao động như nhau; còn trong trường hợp tăng sức sản xuất của lao động, giá trị của mỗi một đơn vị sản phẩm giảm đi vì nó tốn ít lao động hơn trước. Việc tăng cường độ lao động, làm khối lượng sản phẩm sản xuất ra khi đó tăng lên, giá trị lại không giảm, làm tổng giá trị tăng, trong khi đó giá trị của sức lao động không đổi, do đó, làm giá trị thặng dư tăng lên. Việc đó khác với việc tăng sức sản xuất của lao động, làm cho giá trị của sức lao động giảm đi, mà tổng số giá trị không tăng lên (vì tuy khối lượng sản phẩm tăng, nhưng giá trị của mỗi sản phẩm lại giảm tương ứng), do đó giá trị thặng dư tăng lên.
3.Sức sản xuất của lao động và cường độ lao động không thay đổi, ngày lao động thay đổi.
Ngày lao động có thể thay đổi theo hai chiều, nó có thể được rút ngắn lại hay kéo dài ra.
Việc rút ngắn ngày lao động, trong điều kiện năng suất lao động và cường độ lao động không thay đổi, không làm thay đổi giá trị của sức lao động, hay không làm thay đổi số thơi gian lao động cần thiết, vì thế nó làm thời giam lao động thặng dư bị rút ngắn, hay làm giá trị thặng dư giảm. Đại lượng tuyệt đối của giá trị thặng dư giảm làm đại lượng tương đối của nó so với đại lượng không đổi của giá trị sức lao động cũng giảm xuống. Nên chỉ có bằng cách giảm giá cả của sức lao động xuống thì nhà tư bản mới không bị tổn thất. Nếu không thì việc rút ngắn thời gian lao động bao giờ cũng gắn liền với sự thay đổi của năng suất lao động và cường độ lao động.
Kéo dài thời gian lao động: Giả sử thời gian lao động cần thiết là 4 giờ, hay giá trị của sức lao động là 4 đồng, thời gian lao động thặng dư là 4 giờ và giá trị thặng dư là 4 đồng. Toàn bộ ngày lao động là 8 giờ, và biểu hiện trong sản phẩm là 8 đồng. Nếu ngày lao động được kéo dài thêm 2 giờ và giá cả sức lao động không thay đổi, thì đại lượng tương đối của giá trị thặng dư không đổi, giá trị thặng dư sẽ giảm xuống. Như vậy, giá trị thặng dư tăng lên là nguyên nhân làm đại lượng tương đối của giá trị sức lao động giảm. Khi kéo dài ngày lao động cho đến một điểm nhất định, thì sự hao mòn sức lao động tăng lên, người lao động cần nhiều tư liệu sinh hoạt hơn để bù đắp hao mòn đó, do đó, giá cả của sức lao động phải tăng lên, nhưng ngay cả khi giá cả của sức lao động có tăng lên thì giá trị của sức lao động cũng giảm đi tương đối so với giá trị thặng dư.
4. Sự thay đổi cùng lúc của ngày lao động, sức sản xuất và cường độ của lao động.
Có hai trường hợp quan trọng sau cần phải nghiên cứu:
(a) Sức sản xuất của lao động giảm xuống, đồng thời ngày lao động bị kéo dài.
Chúng ta nói đến sức sản xuất của lao động giảm xuống là nói đến những ngành lao động mà sản phẩm quyết định giá trị của sức lao động, như ngành nông nghiệp, sức sản xuất của lao động đã giảm xuống do độ màu mỡ của đất kém đi, và giá cả sản phẩm đó đắt lên một cách tương ứng.
Khi sức sản xuất của lao động giảm đi, thì như phân tích ở trên, giá trị của sức lao động sẽ tăng lên, thời gian lao động cần thiết tăng lên, làm thời gian lao động thặng dư giảm đi, giá trị thặng dư cũng vì thế mà giảm xuống. Nếu như ngày lao động được kéo dài để giá trị thặng dư được sinh ra khi đó đúng bằng lượng giá trị thặng dư trước đó, thì đại lượng của nó vẫn giảm xuống tương đối so với giá trị sức lao động. Và nếu tiếp tục kéo dài thời gian lao động thì có thể cả hai đại lượng tuyệt đối và tương đối của giá trị thặng dư có thể tăng lên.
(b) Cường độ và năng suất lao động tăng lên cùng với việc rút ngắn ngày lao động.
Khi cường độ và sức sản xuất của lao động tăng lên có nghĩa là thời gian lao động cần thiết được rút ngắn lại, đồng thời, thời gian lao động thặng dư được kéo dài ra, giá trị thặng dư đựơc sinh ra tăng lên. Và do đó, có thể rút ngắn ngày lao động đến khi thời gian lao động thặng dư không còn nữa, nhưng cả khi sức sản xuất và cường độ của lao động có tăng đi nữa, giới hạn thời gian lao động cần thiết vẫn sẽ được nới rộng, bởi vì, càng ngày con người càng có nhu cầu sinh sống, hoạt động phong phú hơn, đồng thời một phần lao động thặng dư ngày nay sẽ được tính vào lao động cần thiết, cụ thể là phần lao động cần thiết cho việc thành lập quỹ dự trữ và quỹ tích luỹ xã hội. Năng suất lao động càng phát triển, thì lại càng có thể rút ngắn thời gian lao động, và ngày lao động càng rút ngắn lại thì cường độ lao động càng có thể tăng lên.
IV. Các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư.
Từ quá trình nghiên cứu trên, ta có thể khẳng định, giá trị thặng dư là một bộ phận của giá trị mới do sức lao động tạo ra, dư ra ngoài giá trị sức lao động, là lao động không được trả công, nhưng trên bề mặt xã hội nó lại được biểu hiện ra là một khoản dôi ra ngoài toàn bộ tư bản ứng trước, gọi là lợi nhuận. Nhưng do phân công lao động, tư bản cũng được chia thành tư bản công nghiêp, tư bản thương nghiệp, tư bản cho vay… nên lợi nhuận cũng được chia thành những hình thái cụ thể như: lợi nhuận công nghiệp, lợi nhuận thương nghiệp, lợi tức, địa tô…
1. Lợi nhuận
Để sản xuất ra bất kỳ sản phẩm nào, thì con người cũng đều phải bỏ ra những chi phí nhất định. Đối với nhà tư bản do không trực tiếp tham gia vào quá trình lao động sản xuất, nên họ không quan niệm, sản xuất ra sản phẩm là phải bỏ ra chi phí về lao động như những lao động trực tiếp tham gia vào quá trình lao động sản xuất, mà họ cho rằng chỉ cần bỏ ra một lượng chi phí nhất định về tư bản (vốn) gồm: một phần để mua tư liệu sản xuất (c) và một phần để thuê sức lao động của công nhân (v), tổng những chi phí đó, họ gọi là chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa (k): k=c+v
Và họ khẳng định rằng chính chi phí tư bản của họ tạo ra giá trị. Khẳng định đó trái ngược với kết luận được rút ra từ những phân tích trên là: chỉ có chi phí về lao động mới tạo ra giá trị sản phẩm. Và khi đó, cơ cấu sản phẩm theo quan điểm của nhà tư bản là k+m, chứ không phải là c + v + m như đã được khẳng định. Đến đây, nguồn gốc thực sự sinh ra giá trị thặng dư đã bị che lấp, nhà tư bản khẳng định rằng chính chi phí sản xuất hay vốn ứng trước của hắn đã sinh ra m, và m sẽ mang một hình thái biến tướng mới mà Mác gọi là lợi nhuận (p), do đó cơ cấu sản phẩm là: k+p.
Cần phân biệt giữa giá trị thặng dư và lợi nhuận. Chúng có những khác nhau cơ bản cả về chất và lượng. Giá trị thặng dư thì sinh ra từ v(tức là từ lao động của công nhân), còn lợi nhuận thì được coi là đã được sinh ra từ c+v(từ tư bản ứng trước). Nếu như hàng hoá trên thị trường được bán đúng giá thì về lượng m=p, nếu giá cả lớn hơn giá trị thì mp.
Trong nền kinh tế tư bản, mặc dù lợi nhuận là mục đích trực tiếp và tối cao của các nhà tư bản, nhưng khi bắt đầu đầu tư vào một ngành sản xuất kinh doanh nào đó, thì cái mà nhà tư bản quan tâm đến trước hết là tỷ suất lợi nhuận. Tỷ suất lợi nhuận là tỷ số tính theo phần trăm giữa giá trị thặng dư mà nhà tư bản đã bóc lột được của công nhân làm thuê so với tổng tư bản ứng trước. Ký hiệu là p,. Vì thế là có công thức:
p’
=
m
c+v
x
100%
P, không phản ánh trình độ bóc lột, mà nó chỉ phản ánh nơi đầu tư vốn có lợi nhất cho nhà tư bản về lượng.
2. Lợi nhuận thương nghiệp.
Bản chất của lợi nhuận thương nghiệp là: 1phần của giá trị thặng dư mà nhà tư bản nông nghiệp đã bóc lột của công nhân làm thuê trong quá trình sản xuất và nhường lại cho nhà tư bản thương nghiệp. Vì nhà tư bản thương nghiệp đã đứng ra đảm nhiệm khâu bán hàng cho nhà tư bản công nghiệp.
Vậy, vì sao mà nhà tư bản công nghiệp lại nhường một phần giá trị thặng dư của mình cho nhà tư bản thương nghiệp? Lý do là: nhà tư bản thương nghiệp đã đứng ra đảm nhiệm khâu bán hàng, để nhà tư bản công nghiệp rảnh tay tập trung vào sản xuất. Nhờ đó thu được nhiều lợi nhuận. Hơn nữa, khi tham gia vào quá trình đó, nhà tư bản thương nghiệp cũng phải ứng vốn ra để kinh doanh, do họ cũng muốn có lợi nhuận.
Nhường bằng cách nào ? Nhà tư bản công nghiệp nhường bằng cách bán hàng hoá cho nhà tư bản thương nghiệp với giá bán buôn hay giá trị công nghiệp, giá bán này nhỏ hơn giá trị hàng hoá, bằng chi phí sản xuất cộng lợi nhuận công nghiệp. Rồi nhà tư bản thương nghiệp đem hàng hoá bán cho người tiêu dùng theo giá bán lẻ bằng giá trị hàng hóa hay bằng chi phí sản xuất cộng lợi nhuận công nghiệp và lợi nhuận thương nghiệp.
3. Lợi tức:
Bản chất của lợi tức là 1 phần của giá trị thặng dư được tạo ra trong lĩnh vực sản xuất mà các nhà tư bản hoạt động trả cho nhà tư bản cho vay về món tiền mà nhà tư bản cho vay đã bỏ ra cho nhà tư bản hoạt động sử dụng.
Lợi tức là 1 tỷ lệ phần trăm rất nhỏ so với tổng giá trị của tư bản cho vay. Và nó được coi là giá cả của tư bản cho vay, do nhà tư bản hoạt động trả cho nhà nước tư bản cho vay để được sử dụng tư bản cho vay.
4. Địa tô tư bản chủ nghĩa:
Dưới chủ nghĩa tư bản có hình thức sở hữu độc quyền về đất đai, nó cho phép địa chủ có quyền chiếm hữu một phần giá trị thặng dư do những hoạt động diễn ra trên mảnh đất ấy sinh ra, không kể đất đai đó được dùng trong nông nghiệp, cho xây dựng, cho đường sắt hay cho bất kỳ một mục đích sản xuất nào khác. Địa tô chỉ là một phần của giá trị thặng dư sau khi đã trừ đi phần lợi nhuận của tư bản kinh doanh nông nghiệp.
Như thế, có thể nói lợi nhuận công nghiệp, lợi nhuận thương nghiệp, lợi tức, địa tô chỉ là các phần khác nhau của giá trị thặng dư -được sinh ra từ lao động của người công nhân làm thuê - phân giải thành.
Phần 2. ý nghĩa thực tiễn rút ra được khi nghiên cứu về giá trị thặng dư đối với nước ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
1. Nghiên cứu để có nhận thức đúng về giá trị thặng dư là nhằm tránh những nghi ngờ về con người đi lên chủ nghĩa xã hội mà nước ta đang thực hiện.
Sau khi mô hình CNXH ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, các học giả tư sản đã thừa cơ đẩy mạnh công kích, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin; nhiều nhà khoa học ở các nước XHCN cũng hoài nghi, thậm chí phê phán, đòi xét lại các nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong đó có học thuyết giá trị thặng dư. Họ làm như vậy là bởi vì họ không hiểu được cốt lõi lý luận của Mác, nhất là không nắm được phương pháp duy vật biện chứng của Mác trong nghiên cứu và trình bày học thuyết giá trị thặng dư. Do đó, việc nghiên cứu về giá trị thặng dư sẽ giúp tránh được những sai lầm như thế.
Hơn nữa, như Ph. Ăng-ghen đã nói: “Nhờ hai phát hiện ấy (chủ nghĩa duy vật lịch sử và lý luận giá trị thặng dư) chủ nghĩa xã hội đã trở thành một khoa học, và giờ đây vấn đề trước hết là phải tiếp tục nghiên cứu nó trong mọi chi tiết và mọi mối quan hệ tương hỗ của nó”, điều đó có nghĩa là việc nghiên cứu về giá trị thặng dư không bao giờ là thừa. Đặc biệt, hiện nay, chủ nghĩa tư bản đã và đang có sự thay đổi, có sự điều chỉnh để bảo vệ cho chính mình, mà những chính sách điều chỉnh ấy đã làm cho sự bóc lột trở nên ngày càng tinh vi hơn, bản chất bóc lột được che giấu. Nếu như không nghiên cứu về lý luận giá trị thặng dư này và đặt nó trong tình hình mới, nhằm bổ sung, hoàn chỉnh lý luận giá trị thặng dư, cho phù hợp với tình hình mới, thì chúng ta rất dễ có những nghi ngờ.
2. Việc nghiên cứu về mặt chất và lượng của giá trị thặng dư giúp chúng ta thấy được thực chất của giá trị thặng dư, từ đó không đồng nhất giá trị thặng dư với sự bóc lột, tránh có những nhận thức sai lầm về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đang được áp dụng ở nước ta hiện nay.
Hiện nay, nước ta đang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, với mục đích phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH, phục vụ và nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo từng bước xây dựng thành công CNXH. Phát triển kinh tế thị trường ở nước ta là sử dụng các hình thức và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, khuyến khích tinh thần năng động, sáng tạo của người lao động, giải phóng sức sản xuất, thúc đẩy công nghiệp hoá hiện đại hoá, nhưng là để đi lên CNXH. Với mục đích đó thì vấn đề đặt ra là các hoạt động kinh tế phải có lợi nhuận cao, mà lợi nhuận là hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư, để có lợi nhuận cao thì phải sản xuất ra một lượng giá trị thặng dư cao tương ứng. Việc nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư sẽ cho ta những giải pháp để tăng khối lượng giá trị thặng dư cua nền kinh tế.
Nghiên cứu về giá trị thặng dư sẽ góp phần thay đổi nhận thức sai lầm trước đây về giá trị thặng dư, coi nó là phạm trù riêng của CNTB, đồng nhất nó với sự bóc lột cần phải xoá bỏ. Việc nghiên cứu sẽ cho nhận thức đúng đắn rằng: “giá trị thặng dư là phạm trù chung của bất kỳ chế độ xã hội nào có thời gian lao động lớn hơn thời gian lao động xã hội cần thiết”. Và cái quyết định sự bóc lột không phải là lượng giá trị thặng dư được sinh ra nhiều hay ít, mà là việc phân phối giá trị thặng dư đã được tạo ra nó như thế nào. Từ đó, những định kiến về kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản tư nhân sẽ được cải thiện, những người làm kinh tế tư nhân sẽ không còn phải e dè, mà tự do phát huy năng lực của mình góp phần vào việc phát triển kinh tế.
3. Nghiên cứu giá trị thặng dư có ý nghĩa trong việc đề ra các chính sách kinh tế phù hợp.
Nghiên cứu về quá trình sản xuất giá trị thặng dư tương đối trong đó có việc áp dụng kỹ thuật trong sản xuất, sẽ giúp xây dựng, hoàn chỉnh các chính sách, chiến lược phát triển khoa học – công nghệ, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Khi nghiên cứu về giá trị thặng dư, ta thấy sự tác động của quy luật giá trị thặng dư sẽ làm cạnh tranh càng trở nên gay gắt, dẫn tới sự phân hoá giàu nghèo. Vì vậy, phải có những chính sách (như xoá đói giảm nghèo, điều tiết thu nhập dân cư) để hạn chế đặc điểm này.
4. Việc nghiên cứu giá trị thặng dư còn có ý nghĩa trong việc quản lý các doanh nghiệp khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường.
- Cần tiến hành phân cấp quản lý Nhà nước, đặc biệt là việc phân cấp quản lý Nhà nước về kinh tế. Nhằm nâng cao hiệu quả quản lý kinh tế của Nhà nước tránh sự quản lý chồng chéo, gây ra sự phiền hà đối với việc kinh doanh của các doanh nghiệp. Nhất là, trong việc quản lý đăng ký kinh doanh của các doanh nghiệp, hiện nay còn có nhiều cơ quan thuộc các cấp khác nhau quản lý việc đăng ký kinh doanh, gây tình trạng lộn xộn, khiến việc lắm về số lượng, việc kiểm tra giám sát, kinh doanh của các doanh nghiệp khó khăn. Cần phải quy định riêng một cơ quan làm công việc này.
- Hiện nay, trong lĩnh vực quản lý nguồn vốn đầu tư còn nhiều bất cập: không theo kịp đòi hỏi của thực tiễn đặt ra, lỏng lẻo trong khâu kiểm tra, giám sát việc thực hiện nguồn vốn đầu tư, gây những hiện tượng lãng phí, tham nhũng… Vì vậy, phải chú trọng nâng cao năng lực quản lý vốn đầu tư bằng cách: nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ về quản lý hoạt động đầu tư cho các cán bộ chuyên trách. Thường xuyên kiểm tra trình độ của các cán bộ này. Khi giải quyết bất kỳ một vấn đề gì của hoạt động đầu tư, một mặt phải dựa trên ý kiến, nguyện vọng, lực lượng, tinh thần chủ động, sáng tạo của các đối tượng bị quản lý, mặt khác có một trung tâm quản lý tập trung và thống nhất với mức độ phù hợp, không quan liêu, có sự phân cấp trong việc quản lý hoạt động vốn đầu tư
- Kiện toàn hệ thống pháp luật và các chính sách kinh tế vĩ mô để nâng cao năng lực quản lý của Nhà nước. Hệ thống pháp luật phải thông thoáng, thống nhất, một mặt phải đảm bảo việc trả lương tương xứng cho người lao động( và việc mua bảo hiểm xã hội cho người lao động) của các doanh nghiệp, mặt khác phải định hướng dư luận, bảo vệ những người có thu nhập cao chính đáng. Các chính sách kinh tế vĩ mô, phát huy đúng tác dụng điều tiết nền kinh tế, tránh những tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường, khuyến khích sản xuất phát triển…
- Hiện nay, chúng ta đang phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu, trong đó có sở hữu tư nhân, nghĩa là nền kinh tế ở nước ta vẫn còn bóc lột ở mức độ nào đó. Để giảm sự tiêu cực đó, nhà nước cần thực hiện chế độ phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế( hay phân phối theo mức độ đóng góp); phải thực hiện tốt các chính sách xã hội như phúc lợi xã hội, các ưu đãi xã hội, bảo hiểm xã hội…
- Bên cạnh những ưu đãi đối với hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nước ngoài hiện nay ở nước ta, cũng cần phải xây dựng hoàn chỉnh và thực hiện nghiêm túc hơn luật kinh doanh đối với những doanh nhân này, tránh tình trạng coi thường pháp luật Việt Nam của những người này.
- Trong các doanh nghiệp tư nhân cần phải tăng cường sự hoạt động của các tổ chức, đoàn thể Đảng, Công Đoàn, Đoàn Thanh niên…đề bảo vệ quyền lợi chính đáng của công nhân. Đặc biệt là đối với các doanh nghiệp liên doanh, hay các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài, cần nâng cao năng lực hoạt động cũng như tư cách đạo đức của những người làm công tác công đoàn.
kết luận
Kinh tế thị trường luôn gắn liền với các phạm trù, các quy luật kinh tế của nó, trong đó có phạm trù "giá trị thặng dư", vì vậy, trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay thì sự tồn tại của phạm trù "giá trị thặng dư" là một tất yếu khách quan. Do đó, việc nghiên cứu về "giá trị thặng dư" là một điều cần thiết.
Qua quá trình phân tích mặt chất và mặt lượng của giá trị thặng dư có thể đi đến kết luận: "giá trị thặng dư là cái chung cho những xã hội có thời gian lao động vượt khỏi thời gian lao động tất yếu", nó không phải là phạm trù riêng của CNTB, sự tồn tại của "giá trị thặng dư" là một tất yếu khách quan trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay. Phạm trù "giá trị thặng dư" có ý nghĩa quan trọng đối với việc phát triển kinh tế, phát triển cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH, cũng như việc cải thiện đời sống của nhân dân. Việc nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư có ý nghĩa quan trọng, giúp chúng ta có nhận thức đúng đắn, phân biệt giữa giá trị thặng dư và vấn đề bóc lột, để xây dựng thành công CNXH phát triên kinh tế, nền sản xuất xã hội phải sản xuất ra giá trị thặng dư đồng thời phải phân phối lượng giá trị thặng dư ấy một cách công bằng loại bỏ sự bóc lột trong xã hội: áp dụng quá trình sản xuất giá trị thặng dư: kết hợp sức lao động và tư liệu sản xuất tạo ra giá trị thặng dư vào nền sản xuất xã hội của nước ta trong giai đoạn này. Nghiên cứu giá trị thặng dư còn ý nghĩa trong việc quản lý các doanh nghiệp, giúp Đảng và Nhà nước xây dựng những chủ trương phát triển kinh tế đồng thời đảm bảo công bằng xã hội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 10227.doc