Chúng ta đang có những thuận lợi cơ bản, đó là những thành tự ban đầu của công cuộc đổi mới mang lại, những nguồn lực trong nước và ngoài nước đang được hội tụ lại cho một khách vọng chung của cả dân tộc quyết tâm phấn đấu xây dựng một quốc gia giàu mạnh. Trong dòng chảy sôi động của kỹ nguyên châu Á - Thái Bình Dương, chắc chắn các nguồn nội lực Việt Nam sẽ hội nhập tích cực với dòng chảy của luồng vốn luân chuyển trênthế giới để tạo ra một sức tỏa sáng cho một quá trình cùng phát triển của khu vực đi theo hướng Rồng bay.
45 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1587 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp cho việc tạo, huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vốn đầu tư phát triển toàn xã hội lại càng có một vị trí hết sức then chốt. Vì thế mà Đảng và Nhà nước ta luôn luôn quan tâm đến việc thực hiện huy động và sử dụng các nguồn vốn đầu tư phát triển ở trong nước cũng như nước ngoài.
Nhờ đó, từ năm 1995 đến năm 2000, thực hiện vốn đầu tư phát triển toàn xã hội (tính theo giá so sánh năm 1994) ngày một tăng cao. Từ 60,75 ngàn tỷ đồng năm 1995 lên 67,49 ngàn tỷ đồng năm 1996, 79,20 ngàn tỷ đồng năm 1997, 75,58 ngàn tỷ đồng năm 1998, 80,90 ngàn tỷ đồng năm 1999 và ước tính 91,80 ngàn tỷ đồng năm 2000.
Có thể nói, kết quả thực hiện huy động vốn đầu tư phát triển toàn xã hội giai đoạn 1996 - 2000 nhìn chung liên tục tăng với tốc độ cao, trừ năm 1998 có giảm chút ít so với năm 1997, do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính của các nước trong khu vực. Nếu so với 1995, năm 1996 tăng 11,1%, 1997 tăng 30,4%, 1998 tăng 24,4%; 1999 tăng 31,8% và năm 2000 ước tính tăng 48,1%.
Tính chung tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện của cả giai đoạn 1996 - 2000 thì cả nước đạt 394,1 ngàn tỷ đồng, tăng 66,7% so với cả giai đoạn 1991 - 1995.
Tỷ trọng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội giai đoạn 1996 - 2000 chiếm trong GDP bình quân là 28,6%/năm.
Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội giai đoạn 1996 - 2000 đã tập trung vào những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội chủ yếu của đất nước như phát triển nông nghiệp và nông thôn, xoá đói giảm nghèo, phát triển nguồn nhân lực, khoa học và công nghệ, phát triển kết cấu hạ tầng, phát triển các khu công nghiệp và dịch vụ v.v.. Nhờ tăng vốn đầu tư, mà số lượng công trình hoàn thành đưa vào sử dụng cũng như năng lực của hầu hết các ngành sản xuất, dịch vụ, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đều được nâng lên, tạo ra một số năng lực sản xuất mới, là cơ sở thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội ở giai đoạn sau, giai đoạn 2001 - 2005.
Thật vậy, 5 năm qua cả nước đã làm mới được 1.200 km và nâng cấp 3.790 km đường quốc lộ, làm mới 115.000 mét cầu đường bộ, nâng cấp 200 km đường sắt, mở rộng cảng Hải Phòng, cảng Sài Gòn, Cửa Lò, Đà Nẵng, Quy nhơn v.v.. Nâng cấp các sân bay Nội Bài, Tân Sơn Nhất, Đà Nẵng. Hệ thống bưu chính viễn thông phát triển khá, tất cả các tỉnh, thành và các huyện đều có tổng đài điện tử và qua tuyến cáp quang, vi ba số, mật độ điện thoại đến nay đạt 3,6 máy/100 dân. Hệ thống thuỷ lợi được nâng cấp, đặc biệt là vùng đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng. Diện tích được tưới nước và tạo nguồn nước tăng thêm 82 vạn ha, tiêu úng tăng 43,3 vạn ha. Kết cấu hạ tầng ở các thành phố, đô thị và nông thôn được nâng cấp. Cơ sở vật chất ngành giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, y tế, văn hoá xã hội, du lịch, thể dục, thể thao và các ngành dịch vụ khác đều được tăng cường. Trong số các nguồn vốn cấu thành nên tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thì nguồn vốn Nhà nước có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất.
Cụ thể tốc độ tăng trưởng của nguồn vốn Nhà nước so với năm 1995 như sau:
%
Vốn Nhà nước
Chia ra
Vốn ngân sách tập trung
Vốn của các DNNN
Vốn tín dụng ưu đãi
1996
31
16,1
12,1
157
1997
64
38,8
29,4
279
1998
75
42,3
85,9
190
1999
114
71,5
72,2
428
2000
140
72,4
95,5
574
Trong khi các nguồn vốn thuộc vốn Nhà nước đều có tốc độ tăng nhanh (đặc biệt là nguồn vốn tín dụng ưu đãi) thì nguồn vốn ngoài quốc doanh qua các năm 1996 - 2000 lại có chiều hướng ngày càng giảm sút, mặc dù năm 2000 có tăng hơn 1999 nhưng vẫn ở mức thấp so với 1995. Nếu lấy năm 1995 làm gốc so sánh thì năm 1996 giảm 1,1%, năm 1997 giảm 8,4%, năm 1998 giảm 10,9%, năm 1999 giảm 10,5% và ước tính năm 2000 giảm 1,8%.
Trong tổng số vốn đầu tư ngoài quốc doanh thì vốn trong khu vực dân cư chiếm tỷ trọng lớn, trên 80%, còn vốn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chỉ chiếm dưới 20%.
Cùng với tình trạng trên, vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) giai đoạn 1996 - 2000 cũng giảm sút (trừ năm 1997 so với 1995 tăng 26,1%). Cụ thể so với 1995 năm 1996 giảm 1,7%); 1998 giảm 3,9%; 1999 giảm 25,8%; và ước tính năm 2000 giảm 14,9%.
Tuy nhiên, tính chung cho cả giai đoạn 1996 - 2000 so với giai đoạn 1991 - 1995, thì tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội vẫn tăng lên 1,67 lần. Trong đó: vốn Nhà nước tăng lên 2,34 lần (vốn ngân sách tăng lên 1,85 lần; vốn tín dụng ưu đãi tăng lên 3,91 lần; vốn các doanh nghiệp Nhà nước tăng lên 2,37 lần); vốn ngoài quốc doanh tăng lên 1,51 lần. Về cơ cấu tỷ trọng các nguồn vốn đầu tư giai đoạn 1996 - 2000, chỉ có nguồn vốn Nhà nước là ngày càng tăng, từ tỷ trọng 38,3% năm 1995 lên 61,9% năm 2000. Còn vốn ngoài quốc doanh từ tỷ trọng 29,4% đã giảm xuống còn 19,5%. Và tỷ trọng của nguồn vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài giai đoạn 1996 - 2000 cũng giảm từ 32,3% xuống còn 18,6% trong thời gian tương ứng.
Về cơ cấu vốn đầu tư phát triển toàn xã hội phân theo ngành kinh tế cũng đã có những chuyển biến theo chiều hướng tích cực.
Tỷ trọng vốn đầu tư dành cho ngành nông, lâm nghiệp, thuỷ lợi, thủy sản chiếm trong tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội có xu hướng tăng dần. Năm 1998 là 9,1%, 1999 là 15,6% và ước tính năm 2000 khoảng 15,8%.
Điều này phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn, đã tạo điều kiện thuận lợi cho nông nghiệp phát triển liên tục, đảm bảo an toàn lương thực quốc gia, xuất khẩu lương thực mỗi năm từ 3 đến 4 triệu tấn.
Tỷ trọng vốn đầu tư cho ngành công nghiệp cũng khá lớn. Từ năm 1998 - 2000, bình quân mỗi năm chiếm từ 45% đến 46% tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội. Vốn đầu tư cho giao thông vận tải, bưu điện cũng được chú trọng, giai đoạn 1996 - 2000 vốn đầu tư cho ngành này bình quân hàng năm ở mức 16% đến 17% tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội. Nhờ vậy mà kết cấu hạ tầng kỹ thuật phát triển mạnh, nhất là hệ thống đường giao thông, cầu cống, bến cảng, sân bay, hệ thống đường giao thông nông thôn được cải tạo nâng cấp hàng chục vạn km đường, 95% số xã có đường ôtô vào đến trung tâm. Hệ thống thông tin liên lạc được thông suốt. Những kết quả trên đây đã có tác dụng đẩy nhanh phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất văn hoá, tinh thần cho nhân dân, tạo môi trường tốt để thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Cùng với việc tăng cường đầu tư cho các ngành sản xuất vật chất, xây dựng cơ sở hạ tầng, vốn đầu tư vào các ngành giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, y tế - xã hội, văn hoá - thể thao nhìn chung đều tăng lên. Cụ thể là: đầu tư cho giáo dục - đào tạo năm 1998 chiếm 2%, 1999: 2,3% và năm 2000 chiếm khoảng 2,5%. Tương ứng với thời gian trên đầu tư cho y tế - xã hội là 1,5%, 1,7% và khoảng 2%; đầu tư cho khoa học - công nghệ: 0,4%, 0,3%, và khoảng 1,4%.
Xét theo vùng lãnh thổ, đầu tư giai đoạn 1996 - 2000 tương đối hợp lý, do đó góp phần từng bước khắc phục sự phát triển không đồng đều giữa các vùng.
Có thể nói thực hiện vốn đầu tư phát triển toàn xã hội giai đoạn 1996 - 2000 đã đem lại nhiều thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, góp phần làm ổn định và nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo an ninh chính trị và trật tự xã hội, tạo đà cho đất nước tiến vào con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được việc thực hiện vốn đầu tư phát triển toàn xã hội giai đoạn 1996 - 2000 còn bộc lộ một số tồn tại, yếu kém có liên quan đến nhiều mặt, nhiều lĩnh vực cần sớm được khắc phục đó là:
- Tỷ lệ huy động vốn đầu tư còn thấp so với tiềm năng và khả năng về vốn của nền kinh tế. Đặc biệt là việc huy động vốn trong dân cư và vốn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
- Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI) có xu hướng giảm dần, trong khi đó lại chỉ tập trung đầu tư vào một số lĩnh vực và một số ít tỉnh, thành phố có cơ sở kết cấu hạ tầng phát triển nhằm nhanh chóng thu lợi nhuận.
- Đầu tư theo ngành và vùng lãnh thổ cũng còn những bất hợp lý. Chẳng hạn như: đầu tư cho giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, ytế - xã hội còn ở mức thấp so với nhu cầu và so với các nước trong khu vực. Đầu tư theo vùng và lãnh thổ vẫn còn mang tính dàn trải và đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn cũng còn nhiều bất cập, biểu hiện ở chỗ chưa chú ý đầu tư để nâng cao chất lượng sản phẩm. Chưa đầu tư thoả đáng cho nghiên cứu khoa học phục vụ nông nghiệp, công nghệ sinh học, hệ thống giống cây, giống con, sơ chế bảo quản nông sản hàng hoá sau thu hoạch, vì vậy sản phẩm sản xuất ra giá thành cao, tiêu thụ khó...
Đây là những vấn đề đòi hỏi phải sớm được nghiên cứu điều chỉnh sao coh hợp lý hơn để có thể tạo nên một sức mạnh tổng hợp thúc đẩy sự phát triển toàn diện của đời sống kinh tế - xã hội.
1.2. Nguồn vốn từ khu vực tư nhân.
Nguồn vốn từ khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phân tích luỹ của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã. Theo đánh giá sơ bộ, khu vực kinh tế ngoài Nhà nước vẫn sở hữu một lượng vốn tiềm năng rất lớn mà chưa được huy động triệt để.
Cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước, một bộ phận không nhỏ trong dân cư có tiềm năng vốn do có nguồn thu nhập gia tăng hoặc do tích luỹ truyền thống. Nhìn tổng quan, nguồn vốn tiềm năng trong dân cư không phải là nhỏ, tồn tại dưới dạng vàng, ngoại tệ, tiền mặt... Nguồn vốn này xấp xỉ bằng 80% tổng nguồn vốn huy động của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Thực tế phát hành trái phiếu chính phủ và trái phiếu của một số ngân hàng thương mại quốc doanh cho thấy, chỉ trong thời gian ngắn đã huy động được hàng ngàn tỷ đồng và hàng chục triệu USD từ khu vực dân cư.
Vốn của dân cư phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu của các hộ gia đình. Quy mô của nguồn tiết kiệm này phụ thuộc vào:
- Trình độ phát triển của đất nước (ở những nước có trình độ phát triển thấp thường có quy mô và tỷ lệ tiết kiệm thấp).
- Tập quán tiêu dùng của dân cư
- Chính sách động viên của Nhà nước thông qua chính sách thuế thu nhập và các khoản đóng góp đối với xã hội.
Với khoảng vài vạn doanh nghiệp ngoài Nhà nước (doanh nghiệp tư nhân, Công ty cổ phần, Công ty TNHH, các hợp tác xã) đang và sẽ đi vào hoạt động, phần tích luỹ của các doanh nghiệp này sẽ đóng góp đáng kể vào tổng quy mô vốn của toàn xã hội.
Thực hiện chính sách đổi mới, cơ chế cởi mở nhằm huy động mọi nguồn lực cho đầu tư được thực hiện, trong những năm gần đây các loại hình doanh nghiệp dân doanh có những bước phát triển mạnh mẽ. Hoạt động đầu tư từ khu vực này gia tăng mạnh mẽ.
1.3. Thị trường vốn.
Thị trường vốn có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế của các nước có nền kinh tế thị trường. Nó là kênh bổ sung các nguồn vốn trung và dài hạn cho các chru đầu tư - bao gồm cả Nhà nước và các loại hình doanh nghiệp. Đây được coi là một lợi thế mà không một phương thức huy động vốn nào có thể làm được.
Bằng việc phát hành và mua bán chứng khoán vốn manh mún, rải rác trong dân cư và các tổ chức kinh tế sẽ được huy động nhằm đáp ứng những nhu cầu về đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. So sánh với hình thức huy động vốn qua ngân hàng, thị trường vốn huy động tiền rộng rãi hơn, phương thức tín dụng linh hoạch, đa dạng, có thể đáp ứng nhanh chóng những nhu cầu khác nhau của người cần vốn, đảm bảo về hiệu quả và thời gian lựa chọn.
Thông qua thị trường vốn, chính phủ trung ương và chính quyền địa phương cũng có thể huy động vốn cho ngân sách hoặc đầu tư vào các công trình của mình bằng việc phát hành các loại chứng khoán; khoản nợ như trái phiếu, công trái... Xét về mặt kinh tế, hình thức huy động vốn này của Nhà nước là rất tích cực. Nó góp phần vào việc kiểm chế lạm phát do chính phủ không phải phát hành thêm tiền giấy vào lưu thông nhằm phục vụ cho nhu cầu chi tiêu của mình.
Mặt khác, đứng trên góp độ hiệu quả, thị trường vốn thực sự trở thành một cái van điều tiết hữu hiệu các nguồn vốn từ nơi sử dụng kém hiệu quả sang nơi sử dụng có hiệu quả hơn. Trên thị trường vốn, bấtcứ khoản vốn nào được sử dụng đều phải trả giá, do vậy người sử dụng vốn phải quan tâm đến việc sinh lợi của mỗi đồng vốn. Thị trường vốn nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng không chỉ được coi là một kênh huy động vốn của nền kinh tế mà nó còn góp phần tích cực trong việc khắc phục tình trạng khan hiếm vốn và sự lãng phí trong quá trình sử dụng vốn của toàn xã hội.
2. Nguồn vốn nước ngoài.
Có thể xem xét nguồn vốn đầu tư nước ngoài trên phạm vi rộng hơn đó là đồng lưu chuyển vốn quốc tế (International Capital). Về thực chất, các dòng lưu chuyển vốn quốc tế là biểu thị quá trình chuyển giao nguồn lực tài chính giữa các quốc gia trên thế giới. Trong các dòng lưu chuyển vốn quốc tế, dòng từ các nước phát triển đổi vào các nước đang phát triển thường được các nước thuộc thế giới thứ ba đặc biệt quan tâm. Dòng vốn này diễn ra dưới nhiều hình thức. Mỗi hình thức có đặc điểm, mục tiêu và điều kiện thực hiện riêng, không hoàn toàn giống nhau. Theo tính chất lưu chuyển vốn, có thể phân loại các nguồn vốn nước ngoài chính như sau:
- Tài trợ phát triển chính thức (ODF- official development finance) nguồn này bao gồm: Viện trợ phát triển chính thức (ODA- official development finance) và các hình thức tài trợ phát triển khác. Trong đó, ODA chiếm tỷ trọng chủ yếu trong nguồn ODF. Vì vậy trong phạm vi giáo trình này, khi đề cập đến nguồn tài trợ phát triển chính thức chỉ đề cập đến nguồn ODA.
- Nguồn tín dụng từ các ngân hàng thương mại
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
- Nguồn huy động qua thị trường vốn quốc tế
2.1. Nguồn vốn ODA.
Đây là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các chính phủ nước ngoài cung cấp với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển. So với các hình thức tài trợ khác, ODA mang tính ưu đãi cao hơn bất cứ nguồn ODF nào khác. Ngoài các điều kiện ưu đãi về lãi suất, thời hạn cho vay dài, khối lượng vốn vay tương đối lớn, bao giờ trong ODA cũng có yếu tố không hoàn lại (còn gọi là thành tố hỗ trợ) đạt ít nhất 25% (trường hợp đạt mức 100% là viện trợ không hoàn lại).
Yếu tố không hoàn lại (thành tố hỗ trợ) của từng khoản vay được xác định dựa vào các yếu tố lãi suất , thời hạn cho vay, thời gian ân hạn, số lần trả nợ trong năm và tỷ suất chiết khấu.
Thời gian qua, vịêc thu hút ODA phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá ở Việt Nam đã diễn ra trong bối cảnh trong nước và quốc tế có rất nhiều thuận lợi. Kể từ 1993 tới hết năm 2000, Việt Nam đã tổ chức được tám hội nghị các nhà tài trợ với tổng số vốn cam kết là 17,54 tỷ USD. Với quy mô tài trợ khác nhau, hiện nay ở Việt Nam có trên 45 đối tác hợp tác phát triển song phương và hơn 350 tổ chức quốc tế và phi chính phủ đang hoạt động.
Mặc dù có tính ưu đãi cao,song sự ưu đãi cho loại vốn này thường đi kèm các điều kiện và ràng buộc tương đối khắt khe (tính hiệu quả của dự án, thủ tục chuyển giao vốn và thị trường...). Vì vậy, để nhận được loại tài trợ hấp dẫn này với thiệt thòi ít nhất, cần phải xem xét dự án trong điều kiện tài chính tổng thể. Nếu không việc tiếp nhận viện trợ có thể trở thành gánh nặng nợ nần lâu dài cho nền kinh tế. Điều này còn hàm ý rằng, ngoài những yếu tố thuộc về nội dung dự án tài trợ, còn cần có nghệ thuật thoả thuận để vừa có thể nhận vốn, vừa bảo tồn được các mục tiêu có tính nguyên tắc.
2.2. Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại.
Điều kiện ưu đãi dành cho loại vốn này không dễ dàng như đối với nguồn vốn ODA. Tuy nhiên, bù lại nó có ưu điểm rõ ràng là không có gắn với các ràng buộc về chính trị, xã hội. Mặc dù vậy, thủ tục vay đối với nguồn vốn này thường là tương đối khắt khe, thời gian trả nợ nghiêm ngặt, mức lãi suất cao là những trở ngại không nhỏ đối với các nước nghèo.
Do được đánh giá là mức lãi suất tương đối cao cũng như sự thận trọng trong kinh doanh ngân hàng (tính rủi ro ở nước đi vay, của thị trường thế giới và xu hướng lãi suất quốc tế), nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại thường được sử dụng chủ yếu để đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu và thường là ngắn hạn. Một bộ phận của nguồn vốn này có thể được dùng để đầu tư phát triển. Tỷ trọng của nó có thể gia tăng nếu triển vọng tăng trưởng của nền kinh tế là lâu dài, đặc biệt là tăng trưởng xuất khẩu của nước đi vay là sáng sủa. Đối với Việt Nam, việc tiếp cận đối với nguồn vốn này vẫn còn khá hạn chế.
2.3. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước nogài có đặc điểm cơ bản khác với các nguồn vốn nước ngoài khác là việc tiếp nhận nguồn vốn này không phát sinh nợ cho nước tiếp nhận. Thay vì nhận lãi suất trên vốn đầu tư, nhà đầu tư sẽ nhận được phần lợi nhuận thích đáng khi dự án đầu tư hoạt động có hiệu quả. Đầu tư trực tiếp nước ngoài mang theo toàn bộ tài nguyên kinh doanh vào nước nhận vốn nên có thể thúc đẩy phát triển ngành nghề mới, đặc biệt là những ngành đòi hỏi cao về kỹ thuật, công nghệ hay cần nhiều vốn. Vì thế, nguồn vốn này có tác động cực kỳ to lớn đối với quá trình công nghiệp hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tốc độ tăng trưởng nhanh ở nước nhận đầu tư.
Kinh nghiệm phát triển hiện đại của một số nước Đông á cho thấy rằng đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của các quốc gia này. Vấn đề hiệu quả sử dụng vốn FDI tuỳ thuộc chủ yếu vào cách thức huy động và quản lý sử dụng nó tại nước tiếp nhận đầu tư chứ không chỉ ở ý đồ của người đầu tư.
Đóng góp cho ngân sách Nhà nước của khu vực đầu tư nước ngoài cũng rất đáng kể. Đặc biệt, nguồn vốn đầu tư nước ngoài đã góp phần tích cực vào việc hoàn chỉnh ngày càng đầy đủ và tốt hơn hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông vận tải, bưu chính viễn thông... Bước đầu hình thành được các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao góp phần thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đô thị hoá các khu vực phát triển, hình thành các dân cư mới, tạo việc làm cho hàng vạn lao động tại các địa phương.
2.4. Thị trường vốn quốc tế.
Với xu thế quốc tế hoá và khu vực hoá hoạt động kinh tế, chính phủ cũng như các nhà đầu tư khác có thể lựa chọn nhiều hình thức huy động vốn trên thị trường vốn quốc tế. Một trong những hình thức huy động vốn trên thị trường quốc tế được nhiều chính phủ lựa chọn là phát hành các trái phiếu quốc tế. Đây là hình thức chính phủ phát hành các chứng chỉ vay nợ (được gọi là trái phiếu quốc tế) ra thị trường vốn quốc tế. Đây là hình thức vay vốn trực tiếp mà không phải qua các tổ chức trung gian (như ngân hàng) cho nên chi phí đi vay sẽ ít hơn đi vay thương mại. Đồng thời đi vay bằng hình thức này thì tính độc lập về mặt tài chính của chính phủ sẽ cao hơn. Tuy nhiên, cũng cần có một số điều kiện khi một chính phủ muốn phát hành trái phiếu quốc tế, trong đó hệ số tín nhiệm là quan trọng. Chính nhờ các ưu thế của việc phát hành trái phiếu quốc tế mà nhiều chính phủ đã sử dụng chúng để huy động vốn phục vụ nhu cầu đầu tư trong nước. Nhiều nước cũng khá thành công trong việc huy động nguồn vốn này. Do đó họ không chỉ phát hành một lần mà thực hiện nhiều đợt khác nhau, thu hút một khối lượng lớn cho nhu cầu chi tiêu của ngân sách Nhà nước.
Tuy nhiên phát hành trái phiếu quốc tế cũng có những hạn chế riêng của nó như phải tuân thủ các thông lệ quốc tế về trình tự, thủ tục phát hành, thanh toán trái phiếu. Những thủ tục này khá phức tạp đòi hỏi phải có sự chuẩn bị lâu dài và kỹ càng về mọi mặt. Một vấn đề quan trọng khác là tính bất khả kháng trong thanh toán gốc và lãi khi đến hạn, nhà phát hành không được phép trả được nợ hoặc trả nợ không đúng hạn sẽ ảnh hưởng đến uy tín của nhà phát hành, ảnh hưởng đến đợt phát hành tiếp theo cũng như các khoản vay nước ngoài khác.
Về ưu điểm:
+ Có thể huy động vốn với số lượng lớn trong thời gian dài để đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế mà không bị ràng buộc bởi các điều kiện về tín dụng. Bên cho vay khó sử dụng quan hệ cho vay để gây sức ép với nước huy động vốn trong các quan hệ khác.
+ Tạo điều kiện cho Việt Nam tiếp cận với thị trường vốn quốc tế. Với việc trực tiếp tham gia thị trường vốn quốc tế, đây sẽ là cơ hội tốt để thúc đẩy thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển trong tương lai.
+ Khả năng thanh toán cao do có thể mua bán, trao đổi trên thị trường thứ cấp, chính vì vậy hình thức này tương đối hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Lý do này cho phép người phát hành có thể có được mức lãi suất ưu đãi hơn so với các hình thức vay nợ khác.
+ Đối với hình thức huy động này, người đi vay có thể tăng thêm tính hấp dẫn bằng cách đưa ra một số yếu tố kích thích như: cho phép chuyển đổi trái phiếu thành cổ phiếu hoặc nếu mua đợt này sẽ được ưu tiên mua trong nhưngxđợt phát hành sau. Với những yếu tố kích thích như trên thì có thể khuyến khích nhiều người mua trái phiếu hơn.
Tuy nhiên, bên cạnh đó thì hình thức phát hành trái phiếu ra thị trường vốn quốc tế vẫn còn một số trở ngại đối với Việt Nam. Đó cũng là nhược điểm hay hạn chế của biện pháp huy động vốn này.
+ Hệ số tín nhiệm của Việt Nam rất thấp, thậm chí Việt Nam chưa được các tổ chức quốc tế xếp hạng độ tín nhiệm. Chính vì vậy, nếu phát hành thì trái phiếu của Việt Nam sẽ phải chịu lãi suất ở mức cao.
+ Việt Nam vẫn còn quá ít kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Bên cạnh đó, so với một số hình thức huy động vốn khác thì thời gian chuẩn bị vẫn còn tương đối dài.
Bởi vậy, để phát hành trái phiếu ra thị trường vốn quốc tế Việt Nam phải nghiên cứu, xem xét kỹ lưỡng. Lựa chọn cẩn thận loại hình trái phiếu phát hành, thời gian đáo hạn, thị trường phát hành và nhà bao tiêu phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Hơn nữa, cũng cần cân nhắc thận trọng giữa việc huy động vốn qua phát hành trái phiếu với các hình thức huy động vốn khác, như đầu tư trực tiếp và vay nợ qua hệ thống ngân hàng. Ngoài ra, bên cạnh việc xây dựng dự án cho việc phát hành trái phiếu, Việt Nam cũng cần phải xây dựng một kế hoạch chi tiết cho việc sử dụng vốn huy động có hiệu quả.
- Chính sách động viên của Nhà nước thông qua chính sách thuế thu nhập và các khoản đóng góp đối với xã hội.
Với khoảng vài vạn doanh nghiệp ngoài Nhà nước (doanh nghiệp tư nhân, Công ty cổ phần, Công ty TNHH, các hợp tác xã) đang và sẽ đi vào hoạt động, phần tích luỹ của các doanh nghiệp này sẽ đóng góp đáng kể vào tổng quy mô vốn của toàn xã hội.
Thực hiện chính sách đổi mới, cơ chế cởi mở nhằm huy động mọi nguồn lực cho đầu tư được thực hiện, trong những năm gần đây các loại hình doanh nghiệp dân doanh có những bước phát triển mạnh mẽ. Hoạt động đầu tư từ khu vực này gia tăng mạnh mẽ.
Phần III: Giải pháp cho việc tạo , huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển ở nước ta .
1. Điều kiện tạo , huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển có hiệu quả.
1.1. Tạo lập và duy trì năng lực tăng trưởng nhanh và bền vững cho nền kinh tế:
Đặt trong bối cảnh tổng quát và dài hạn , năng lực tăng trưởng của nền kinh tế là yếu tố quan trọng xác định triển vọng huy động các nguồn vốn đầu tư có hiệu quả.Vấn đề tăng trưởng ở đây được nhìn nhận như một yếu tố tạo sức hấp dẫn ngày càng lớn đối với vốn đầu tư cả trong nước và ngoài nước. Vấn đề này liên quan đến một nguyên tắc mang tính chủ đạo trong việc thu hút vốn đầu tư :vốn đầu tư càng được sử dungj hiệu quả thì khả năng thu hút nó càng lớn . Thực chất của mối quan hệ này nằm trong mối quan hệ nhân quả của các sự vật. Thứ nhất , với năng lực tăng trưởng được bảo đảm, năng lực tích luỹ của nền kinh tế mới có khả năng gia tăng. Khi đó quy mô các nguồn vốn trong nước có thể huy động sẽ được cải thiện .Thứ hai , triển vọng tăng trưởng càng cao cũng sẽ là tín hiệu tối tốt thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
Thực tiễn Việt Nam trong những năm qua, ở chừng mực nhất định đã chứng minh cho mối quan hệ này,Từ thực hiện chính sách đổi mới , mở cửa, bên cạnh việc thoát khỏi khủng hoảng , nênf kinh tế Việt Nam còn đạt được mức tăng trưởng kinh tế cao liên tục( bình quân GDP hàng năm trong giai đoạn 1991-1997 là trên 8%, có những giai đoạn cá biệt 2 năm liên tục trên 9%mỗi năm) . Tốc độ xuất khẩu đạt khoảng trên 20% /năm. Điều đó làm cho khả năng huy động , khai thác và sử dụng các nguồnvốn đầu tư được mở rộng hơn. Tốc độ gia tăng quy mô vốn đầu tư phát triển là rất đáng kể(giai đoạn 1991-1995 đạt mức 29.1%/năm). Tỷ trọng vốn đầu tư phát triển so với GDP cũng có xu hướng gia tăng mạnh mẽ( năm 1991 là 17.6% thì đến năm 1997 là 30.9% GDP). Trong đó cả nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài đều có sự chuyển biến về quy mô và tốc độ gia tăng.
Để tạo lập và duy trì năng lực tăng trưởng của nền kinh tế nhằm thu hút có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế, trong thời gian tới , Việt nam cần :
+Tăng cường phát triển sản xuất kinh doanh và thực hành tiết kiện cả trong sản xuất lẫn trong tiêu dùng của toàn xã hội. Có các biện pháp hữu hiệu để sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư. Đây vừa là mục tiêu, vừa là điều kiện để phát triển và là cơ sở đảm bảo việc gia tăng khả năng huy động các nguồn vốn.
+Đối với tất cả các nguồn vốn đầu tư , phải xác định yếu tố hiệu quả là việc yêu cầu về mặt chất lượng của việc huy động vốn trong lâu dài. Với vai trò trung tâm điều chỉnh và định hướng quá trình đầu tư phát triển của nền kinh tế, hiệu quả của nguồn vốn đầu tư nhà nước phải đặc biệt chú trọng. Các dự án sử dụng vốn nhà nước phải được đánh giá trên các tiêu chuẩn hiệu quả, phải được quản lí chặt chẽ nhằm đảm bảo thời hạn xây dựng, giá cả và chất lượng công trình.Cần hạn chế hơn nữa về cơ chế quản lí đầu tư. Tiếp tục cải cách doanh nghiệp nhà nước, tăng cường tính hiệu quả của khu vực kinh tế này.
+Các dự án sử dụng vốn vay phải có phương án trả nợ vững chắc, xác định rõ trách nhiệm trả nợ, không được gây thêm gánh nặng nợ nần không trả được.Phải sử dụng nguồn vốn ODA có hiệu qủ trên cơ sở kiểm tra, quản lí chặt chẽ chống lãng phí ,tiêu cực. Cần có nhận thức vàcách hiểu đúng đắn về vốn ODA. Không nên coi đó là nguồn viên trợ thuần tuý, dẫn đến sử dụng kém hiệu quả,lãng phí , không trả được nợ và cuối cùng là bị lệ thuộc vào bên ngoài. Cần phải quán triệt quan điểm mà đại diện chính phủ Việt nam phát biểu tại hội nghị các nhà tài trợ lần đầu tiên được tổ chức tại Pari: điều quan trọng là các nguồn vốn bên ngoài phải được sử dụng có hiệu quả, chính phủ chịu trách nhiệm điều phối và sử dụng viện trợ nước ngoài vời nhận thức sâu sắc rằng nhân dân VN sẽ là người chịu cái giá phải trả cho sự thất bại nếu nguồn vốn naỳ không được sử dụng có hiệu quả". Kẽ dĩ nhiên, nguồn vốn này sử dụng không có hiệu quả thì không chỉ sẽ chồng chất nợ nần mà còn khó có thể juy động được thêm các nguồn vốn mới.
+Để tăng cường hiệu quả của nền kinh tế , cần phải tạo môi trường hoạt động bình đẳng cho tất cả các nguồn vốnđầu tư: đầu tư trong nước , đầu tư nước ngoài , đầu tư của nhà nước và đầu tư của khu vực tư nhân.Xây dựng một hệ thống pháp luật thống nhất và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế , xoá bỏ tư tưởng bao cấp về vốn đầu tư, khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân bỏ vốn ra đầu tư.Phải lấy hiệu quả kinh tế làm thước đo của đầu tư.
1.2. Đảm bảo ổn định môi trường kinh tế vĩ mô:
Sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô luôn được cou là điều kiện tiên quyết của mọi ý định và hành vi đầu tư.Về nguyên tắc , để thu hút các nguồn vốn đầu tư để ngày càng đáp ứng tốt hơn các yêu cầu phát triển của đất nước , phải đảm bảo được nền kinh tế đó trước hết là nơi an toàn cho sự vận động của nó và sau nữa là nơi có năng lực sinh lợi cao.
Sự an toàn của vốn đòi hỏi môi trường kinh tế vĩ mô ổn định , không gặp rủi ro do các yếu tố chính trị xã hội hay môi trường kinh doanh gây ra. Đối với vốn nước ngoài , nó còn đòi hoi năng lực trả nợ tối thiểu của nước nhận đầu tư. Một tốc độ tăng trưởng tối thiểu để chủ nợ thu hồi lạI vốn.
Tuy nhiên sự ổn định kinh tế vĩ mô ở đây phảI thoả mãn yêu cầu gắn liền với năng lực tăng trưởng của nền kinh tế , hay ổn định trong tăng trưởng. Tức là nền kinh tế có thể chủ động kiểm soát được quá trình tăng trưởng, chủ động táI lập được trạng tháI cân bằngmới và đó cũng đồng thời là việc tạo ra cơ sở cho sự ổn định lâu dàI và vững chắc . Để thoả mãn được yêu cầu này là một việc khó khăn và phức tạp, nó liên quan chặt chẽ đến hoạt động điều tiết vĩ mô của chính phủ.
Có thể đưa ra một số điều kiện cụ thể có tính nguyên tẵc liên quan đến ổn định kinh tế vĩ mô và yeéu tố thu hút các nguồn vốn đầu tư .
ổn định giá trị tiền tệ : đây là một vấn đề quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng huy động vốn của các nguồn vốn đầu tư , ổn định giá trị tiền tệ opử đây bao gồm cả việc kiềm chế lạm ohát và khắc phục hậu quả của tình trạng giảm phát nếu xảy ra đối với nền kinh tế .Trong cả hai trường hợp nó đều tác động tiêu cực đến nhu cầu đầu tư và đến sự tăng trưởng kinh tế. Để đạt yêu cầu ổn định giá trị tiền tệ , cần phải tạo ra sự đồng bộ các yếu tố của nền kinh tế thị trường bao gồm cả lĩnh vực sản xuất vật chất , hệ thống tài chính và cơ chế phân phối , lưu thông tương ứng.
Bên cạnh đó , hoạt động của ngân sách nhà nước cũng có ý nghĩa quan trọng . Ngân sách nhà nước mà thâm hụt triền miên cũng sẽ đi kèm với tình trạng lạm pháp vao và mất ổn định. Vì vậy, kiểm soát được mức thâm hụt ngân sách có thể coi là một mục tiêu tài chính trung tam hướng tới sự ổn định kinh tế vĩ mô. Một mặt , thuế và chi ngân sách ( bao gồm cả chi thường xuyên và chi cho đầu tư của nhà nước ) là công cụ quan trọng trong việc ổn định giá trị tiền tệ. Mặt khác thuế và công cụ tài chính khác cũng là một trong những chính sách quan trọng trong việc khuyến khích đầu tư và tái đầu tư từ lợi nhuận.Do đó, khi sử dụng các công cụ này trong việc ổn định giá trị tiền tệ , đồng thời phải đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước để đáp ứng chi tiêu đàu tư của chính phủ . Tiếp tục cải cách hành chính để có thể giảm tương đối chi tiêu thường xuyên trong tổng chi ngân sách . Từng bước tăng quy mô và tỷ trọng cungx như hiệu quả nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước.
Lãi suất và tỷ giá hối đoái : Lãi suất và tỷ giá hối đoái không chỉ ảnh hưởng đến hoạt độgn thu hút các nguồn vốn đầu tư thông qua việc tạo lập ổn định kinh tế vĩ mô mà còn có tác động đến dòng chảy của các nguồn vốn đầu tư và mức lợi nhuận thu được tại một thị trường xác định.
Đối với lãi suất , về mặt lú thuyết lãi suất càng cao thì xu hướng tiết kiệm càng lớn và từ đó tiềm năng của các nguồn vốn đầu tư càng cao.Ban cạnh đó, nếu mức lãi suất trên thị trường nội dịa mà cao tương đối so với mức lãi suất quốc tế thì còn đồng nghĩa với việc hấp dẫn trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Trong điều kiện toàn cầu hoá và mở cửa của nền kinh tế thế giới, mức lãi suất tương đối cao tại thị trường trong nước còn là công cụ hữu hiệu để chính phủ bảo vệ được nguồn vôn của nước mình , ngăn chặn được nạn đáo thoát vốn ra nước ngoài.
Tuy nhiên, bản thân yếu tố lãi suất cũng có yếu tố hai mặt đó là: khi tăng lãi suất cũng có nghĩa là chi phí sử dụng vốn trong đầu tư cao hơn. Điều này sẽ giảm phần lợi nhuận thực của nhà đàu tư.Tác động kích thíc huy độngvốn với lãi suất cao xét trên góc độ này có chiều hướng ngợc lại.Vì vậy, khi sử dụng công cụ lãi suất phảo hết sức cẩn trọng để xác đinh mức lãi suất phù hợp,có tác động tích cực đến hiệu quả huy động vốn.
Đối với tỷ giá hối đoái, thực tế cho thấy rằng giá trị của đồng nội tệ càng giảm (tỷ giá giảm) thì khả năng thu hút lợi từ nội tệ càng lớn .Một nước có khả năng xuất khẩu càng cao, khả năng trả nợ của nó cũng được bảo đảm hơn, mức độ rủi ro trong đầu tư giảm xuống và từ đó sẽ khuyến khích các nhà đầu tư bỏ vốn vào kinh doanh. Tuy nhiên , khi xem xét tỷ giá hối đoái trong chiến lược huy động vốn của một nền kinh tế mở , giá trị các đồng tiền trên thế giới không chỉ ảnh hưởng đén khả năng vay bà trả nợ thông qua viêcj làm tíc cực hoá cán cân thương mại mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến khối lượng nợ phải trả.Việc vay nợ tính theo một đồng ngoại tệ dang có xu hướng mạnh lên đồng nghĩa với việc phải trả một khối lượng nợ cả gốc và lãi) thực tế lớn hơn giá trị danh nghĩa trên hợp đồng ( đồng tiền vay có xu hướng giảm giá thì tình huống ngược lại).Vì vậy, một tỷ giá phù hợp với tình hình phát triển của đất nước sẽ có vai trò to lớn đối với việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài .Tuy nhiên, bài toán này chỉ có thể giải được đúng đáp số khi đặt nó trong sự cân nhắc về lợi ích tổng thể và dài hạn của nền kinh tế.
Về lâu dài, cần phỉ thực hiện tốt chức năng hoạch định chiến lược phát triển kinh tế xã hội của nhà nước trong mối quan hệ mật thiết với lĩnh vực thu hút các nguồn vốn đầu tư .Cần phải nâng cao chất lượng quy hoạch tổng thể , có chính sách huy động đồng bộ các nguồn vốn , phù hợp với quy hoạch ngành , lãnh thổ , và lĩnh vực ưu tiên . Nâng cao năng lực và hiệuquả quản lý đầu tư gắn liền với việc hoàn thiện bộ máy tổ chức , đơn giản hóa các thủ tục hành chính về đầu tư và xây dựng. Các cơ chế chính sách về đầu tư phải thống nhất, đồng bộ, dễ hiểu và dễ thực hiện.
Nhanh chóng cải thiện và đồng nhất môi trường đàu tư đẻ tạo điều kiện cho việc khai thác các nguônf vốn đầu tư phát triển trong các thành phần kinh tế .Coi trọng các hoạt động kế toán, kiểm toán , tư pháp hỗ trợ và đảm bảo kinh doanh lành mạnh, chống tham nhũng .Tiếp tục xây dựng bà hoàn thiện khung pháp luật phù hợp với kinh tế thị trường , nhằm đảm bảo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, minh bạch , nhất quán, và phù hợp với thông lệ quốc tế.
1.3. Xây dựng các chính sách huy động các nguồn vốn có hiệu quả
Bên cạnh tiềm năng tăng trưởng và sự ônt định kinh tế vĩ mô, để có thể huy động có hiệu quả các nguồn vốn cho đầu tư cần phải có các chính sách và giải pháp hợp lý và đồng bộ.Các chính sách và giải pháp này phải đáp ứng được các yêu cầu có tính nguyên tắc như sau:
+ Các chính sách và giải pháp huy động vốn cho đầu tư phải gắn liền với chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong từng giai đoạn và phải thực hiện được các nhiệm vụ của chính sách tài chính quốc gia .việc thực hiện các chính sách và giải pháp khai thác và huy động vốn phải có sự tính toán tổng hợp về khả năng cung ứng vốn và khả năng tăng trưởng các nguồn vốn trên cơ sở giải quyết hợp lý các mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng .Các chính sách về đầu tư phải đảm bảo khuyến khích , định hướng các hoạt động thu hút cung ứng vốn nhằm huy động tổn lực của nênd kinh tế cho công nghiệp hoá đất nước.
+Phải đảm bảo mối quan hệ hợp lý giữa nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vỗn đầu tư nước ngoài . Cần quán triệt nguyên tắc : vốn tring nước là quyết định và vốn nước ngoài là quan trọng. Trongquá trinhd phát triển kinh tế , nguồn vốn trong nước có một số ưu thế so với nguồn vốn nước ngoài đó là: ổn định, bền vững, giảm thiểu được những hậu quả sấu đối với nền kinh tế do tác động của thị trường tài chính tiền tệ và kinh tế của các nước khác trên thế giới . Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá thì nguồn vốn nước ngoài vẫn có tầm quan trọng trong tương quan cơ cầu cụ thể .Còn trong dài hạn , việc huy động vốn nước ngoài là nhằm tận dụng tối đa các lợi thế so sạnghs cỉa đất nước , nhanh chóng tạo năng lực tích luỹ nội địa cao để đảm bảo vai trò quyết định của vốn đầu tư trong nước đối với tăng trưởng kinh tế.
+Cần phải đa dạng hoá và hiện đại hoá các hình thức và phương tiện huy động vốn, Tiếp tục mở rộng các hình thức tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước từ khu vực dân cư qua các hình thức phát hành trái phiếu với lãi suất và thời hạn hấp dẫn .Thành lập và phát triển hệ thống quỹ đầu tư và quỹ hỗ trợ phát triển .Từng bước tiến tới gia nhập thị trường vốn trong và ngoài nước để huy động vốn cho đầu tư phát triển.
+Các chính sách huy động vố ợhải được tiến hành đồng bộ cả về nguồn vốn và biện pháp thực hiện . Đảm báo sự bình đẳng , fắn bó và tạo điều kiện lấn nhau cùng phát triển giữa các nguồn vốn. Cần tiếp tục đổi mới các chính sách huy động vốn một cách vững chắc , ổn định và bền vứng nhưng vẫn khuyến khích các doanh nghiệp và dân cư bỏ vốn ra đầu tư . Vần quán triệt quan điểm chiến lược thu nhưng không làm suy yếu các nguồn thu quan trọng mà phải bồi dưỡng , phát triển và mở ropọng các nguồn thu một cách vững chắc , lâu bền.
2. Giải pháp cho việc tạo , huy động sử dụng vốn đầu tư phát triển có hiệu quả .
2.1. Đối với nguồn vốn trong nước
2.1.1. Nguồn vốn nhà nước:
*Hình thành nguồn đầu tư trong ngân sách.
Biện pháp quan trọng nhất để tăng thu là thu đúng thu đủ các khoản thu trong nước: cải tiến hệ thống thuế làm cho đại diện thu thuế tăng lên, nhưng thuế suất đơn giản hóa. Kết quả làm giảm được tình trạng trốn lậu thuế, tăng nguồn thu cho ngân sách đáp ứng nhu cầu chi tiêu thường xuyên và chi đầu tư đồng thời tránh được các khoản lạm thu gây phiền hà đến đến làm ăn và sinh hoạt của nhân dân. Đồng thời phải tinh giảm bộ máy hành chính nhà nước để giảm bớt chi phí và chi tiêu tiết kiệm , quản lý chặt chẽ, tránh lãng phí, thất thoát.
Để sử dụng nguồn vốn này có hiệu quả cần phải thực hiện một số biện pháp sau:
+ Cần tránh tình trạng đầu tư dàn trải , dở dang nhiều , dễ bị tác động bởi cơ chế "xin- cho" , dễ lãng phí , thất thoát , cần phải khắc phục.Vì nguồn vốn đầu tư từ NSNN thường có hiệu quả kinh tế trực tiếp tương đối thấp , thường ít năng động nên việc sử dụng nguồn vốn này cần phải cân nhắc kĩ lưỡng, chỉ nên đầu tư vào những công trình , dự án , lĩnh vực quan trọng có ý nghĩa quốc gia ,quốc tế , mang tín định hướng cho toàn bộ nền kinh tế mà các thành phần kinh tế khác không đủ năng lực đầu tư, hoặc đầu tư không mang lại hiệu quả kinh tế trực tiếp cao.
+ Đầu tư phát triển một số công trình công nghiệp then chốt, bảo đảm giữa các "cao điểm" trong nền kinh tế của khu vực kinh tế quốc doanh, các công trình liên quan đến an ninh quốc phòng. Tuy tỷ trọng đầu tư này có thể không cao, nhưng cần được cân nhắc kỹ lưỡng, chuẩn bị chu đáo để tăng nhanh hiệu quả đầu tư.
+ Điều chỉnh các mất cân đối trong đầu tư cả nước, nhất là trong vùng kinh tế còn có khó khăn, chưa thật hấp dẫn về kinh tế, nhưng lại rất quan trọng về an ninh, quốc phòng, về giải quyết các vấn đề xã hội.
+ Nâng cấp và phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội, nhất là trong lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực và bảo đảm xã hội, tạo ra môi trường thuận lợi cho sự đồng đều về cơ hội phát triển cho mọi thành viên trong xã hội, ưu tiên xứng đáng cho những người có công với cách mạng, người các dân tộc thiểu số người nghèo.
+ Từng bước xóa bỏ triệt để cơ chế bao cấp trong lĩnh vực cấp phát và quản lý đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước. ở những khâu có điều kiện sẽ tổ chức dùng nhiều nguồn vốn đan xen. Chẳng hạn ngay trong ngành giao thông, thông tin, ngành điện...
2.1.2. Nguồn vốn tín dụng:
Đối với nguồn vốn tín dụng thương mại , cần dỡ bỏ dần những trở ngại trong công tác huy động vốn , lựa chọn dự án dầu tư cho vay. Việc thống nhất quản lý các nguồn vốn tín dụng ưu đãi của nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để quản lý và cho vay có hiệu quả .Nguồn vốn này càn dùng để đầu tư vào các dự án trọng điểm , quan trọng thuộc các thành phần kinh tế , vào những lĩnh vực khuyến khích đầu tư và trên địa bàn ưu tiên đầu tư.Việc lựa chọn và khuyến khích các dự án đầu tư có hiệu quả , đờn giản hoá các thủ tục cho vay vốn và cấp phát vốn vay sẽ tạo điều kiện để phát huy tốt tác dụng của nguồn vốn này trong việc cơ cấu lại nguồn vốn , đầu tư theo hướng phát huy tối đa nguồn nội lực.
2.1.3.Nguồn vốn đầu tư phát triển của các doanh nghiệp nhà nước
Nguồn vốn khấu hao cơ bản phải được quản lý thống nhất theo hướng đảm bảo khấu hao nhanh , đảm bảo khấu hao đủ nguồn vốn để đầu tư khi tài sản đã đượckhấu hao hết . Việc phân bố lợi nhuận phải dựa trên cơ sở nguyên tắc bảo toàn vốn , tránh hiện tượng "lãi giả khấu lỗ thật", ăn vào vốn và cuối cùng nguồn vốn khấu hao không đủ để tái đầu tư đơn giản , phục chế tài sản ban đầu. Cần có chính sách khuyến quá trình tái đầu tư từ lợi nhuận của doanh nghiệp.
Cần tiếp tục đẩy mạnh cổ phần, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước sẽ giúp các doanh nghiệp huy động được nguồn vốn nhàn rỗi , hoặc đang sử dụng kém hiệu quả trong xã hội.Nhà nước chỉ nên giữ lại các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực quan trọng, then chốt , quyết định, có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.
- Cùng với quá trình hình thành các tập đoàn kinh tế, cần xây dựng cơ chế chính sách đồng bộ để tránh hình thành nên tầng lớp trung gian, gây khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của cơ sở, các bộ chuyển nhanh sang chức năng quản lý nhà nước và bỏ cơ chế chủ quản để các doanh nghiệp tự chủ trong bảo toàn và phát triển vốn.
Với một số khoản đầu tư nào đó, doanh nghiệp được huy động vốn và sử dụng vốn. Việc tổ chức đấu thầu và xét thầu do cơ sở chịu trách nhiệm không do Bộ chủ quản hoặc cấp trên phê duyệt. Các bộ chỉ làm chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực mình phụ trách như về tài chính, qui hoạch, công nghệ, môi trường... mà không can thiệp sâu vào hoạt động kinh doanh.
2.1.3. Nguồn vốn từ khu vực tư nhân
Tuy tốc đồ tăng trưởng của nguồn vốn này tăng khá nhanh trong những năm qua nhưng vẫn chưa tương xứng với sự phát triển của đất nước nên cần phải tổ chức tốt hơn nữa hoạt động tín dụng ngân hàng , có mức lãi suất hợp lý để cơ thể huy động được nhiều hơn nữa những nguồn vốn vẫn còn nằm rải rác trong các tầng lớp dân cư.
Để huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn tiết kiệm của dân cư cần phải khuyến khích tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho các thành phần kinh tế đầu tư nhằm tăng tỷ lệ đầu tư trực tiếp và gián tiếp của dân cư sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của việc sử dụngđồng vốn nói chung .Do vậy , nhà nước cần phải có những điều chỉnh trong luật khuyến khích đầu tư trong nước cho phù hợp hơn nữa , việc đánh thuế các doanh nghiệp phải đảm bảo công bằng , hệ thống cho vay phải đa dạng , linh hoạt...để kích thích dân tưk bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh .Nếu không , chỉ có một phần tiết kiệm của dân được huy động vào tín dụng, còn một phần sẽ bị đông cứng dưới dạng tiền trong hầu baodưới dạng tiền trong hầu bao mà thôi, hoặc chủ yếu dùng để mua sắm những tài sản không có khả năng sinh lời hoặc sinh lời không đáng kể.Do đó, ngoài việc tạo điều kiện, hành lang pháp lý thuận lợi,nhà nước cần tập trung đầu tư vào những công trình mang tính hướng dẫn, phụ trợcần thiết, nhằm nâng dần ty lệ đầu tư trực tiếp và gián tiếp trong tổng nguồn tiết kiệm dân cư.
2.1.4.Thị trường vốn
Mặc dù tỷ lệ tiết kiệm của dân cư trong các năm gần đây tăng khá nhanh nhưng các nguồn vốn nằm rải rác trong dân vẫn còn rất lớn , nên để huy động được nguồn vốn này thì trong thời gian tới , chúng ta cần phải phát triển mạnh hơn nữa thị trường vốn mà cốt lõi là việc phát triển thị trường chứng khoán VN. Để đạt được điều đó, chúng ta cần phải thực hiện một số biện pháp sau:
+Mở rộng và phát huy thành quả của bước thử nghiệm sở giao dịch chứng khoán ra cả nước, mở rộng thị trường chứng khoán thứ cấp nhưng đồng thời vẫn phải tập trung hoá thị trường chứng khoán sơ cấp nhằm khơi dậy sự đầu tư sôi nổi nhưng vẫn kiểm soát được số chứng khoán đã phát hành và đang lưu chuyển trên thị trường.
+Hoàn thiện hơn nữa mô hình phát triển của thị trường chứng khoán VN.Thị trường chứng khoán VN phải là tổ chức thu hút các nguồn đầu tư dài hạn từ trong và ngoài nước trực thuộc ngân hàng trung ương.
Những môi giới được sàng lọc , lựa chọn từ thực tiễn hoạt động qua giai đoạn mở rộngvà thử nghiệm sẽ là những môi giới được hoạt động tại thị trường chứng khoán VN.Trong đó mỗi môi giới được chuyên môn hoá về một loại chứng khoán.
+Cơ cấu hoạt động của thị trường chứng khoán VN nên phân chia làm 2 bộ phận quan hệ mật thiết với nhau.Bộ phận chuyên trách phát hành tập trung giúp nhà nước kiểm soát số chứng khoán đã phát hành vào lưu thông. Còn bộ chuyên trách khâu lưu thông thì tập trung quản lý trọng điểm một số loại chứng khoán có gía trị lớncủa những công ty , tập đoàn, kinh tế lớn và của những ngành kinh tế mũi nhọn có ảnh hưởng nhiều mặt của quốc kế dân sinh.
+ Cần phải liên kết thị trường chứng khoán với thị trường tiền ngân hàng, thị trường hối đoái và thị trường trái phiếu kho bạc nhà nước.
2.2. Đối với nguồn vốn nước ngoài
2.2.1.Nguồn vốn ODA
Đối với nguồn vốn ODA cần phải khắc phục sự yếu kém, chậm trễ trong việc chuẩn bị và thẩm định dự án, đấu thầu, giải phóng mặt bằng... nhằm đẩy nhanh quá trình giải ngân và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn .Cụ thể cần phải tăng cường công tác quy hoạch , nâng cao chất lượng xây dựng các công trình dự án ODA để củ động bố trí nguồn tiền đền bù , giải phóng mặt bằng; giảm các thủ tục không cần thiết gây chậm trễ trong khâu hình thành , thẩm định , phê duyệt dự án, rút vốn , mua sắm thiết bị; sửa đổi cơ chế tài chính đối với các dự án ODA; quy định rõ chức năng nhiệm vụ của các cơ quan trong việc quả lý , điều phối và sử dụng vốn ODA theo nguyên tắc một cửa ; Bồi dưỡng nghiệp vụ xây dựng , thẩm định dự án và tăng cường cán bộ có phẩm chất , đủ trình độ tham gia quản lý dự án ODA.
2.2.2.Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI:
a. Giải pháp trước mắt :
+ Rà soát lại những khoản chi phí có liên quan trực tiếp đến vốn đầu tư FDI, vì những lợi ích lâu dài bỏ những loại phí bất hợp lý làm tăng giá thành hàng hoá sản xuất tại Vn.
Xem lại các sắc thuế , tránh đánh thuế trùng khiến cho sản xuất sản phẩm ở VN cao giá hơn giá nhập khẩu như lắp ráp xe máy, xe hơi,xe máy hoạt động sân gôn.
Tiếp tục xem xét giảm tiền thuê đất và hạ mức lương tối thiểu quy định ở những thành phố , thị trấn của các tỉnh miền núi , miền trung...vì chính sự thu hút mạnh mẽ vốn ở những nơi này sẽ tạo ra những trung tâm kinh tế mới , kích thích tăng trưởng ở nhữnt vùng khó khăn.
+Xây dựng những trung tâm đào tạo nguồn nhân lực ở từng vùng, đặc biệt chú ý đào tạo đội ngũ công nhân có tay nghề cao ,những nhà quản lý giỏi.
b. Những giải pháp dài hạn
+Tiến tới lập một luật đầu tư duy nhất áp dụng chung cho cả trong nước và nước ngoài.
+ Dần tới việc áp dụng chung một khung giá chi phí và dịch vụ chung thống nhất như cước phí vận tải , điện ,nước, khách sạn... tạo môi trường cạnh tranh trong kinh doanh bình đẳng cho các nhà đầu tư hoạt động trên lãnh thổ VN.
+Xây dựng , nâng cấp cơ sở hạ tầng để tạo điều kiện thuận lợi cho việc ăn ở , đi lại... cho các nhà đầu tư nước ngoài khi vào VN.
+Xây dựng cơ chế cấp giấy phép và quản lý hoạt dộng đầu tư phù hợp với các chiẩn mửctong khu vực và quốc tế để đảm bảo tính minh bạch , rõ ràng , tính cạnh tranh của môi trường đầu tư VN.
2.2.3. Đối với nguồn vốn tín dụng ngân hàng thương mại và thị trường vốn quốc tế:
+Đối với thị trường vốn quốc tế , chúng ta còn tiếp cận rất hạn chế.Để có thể tham gia vào thị trường này , chúng ta cần phải phát triển mạnh thị trường tài chính trong nước.
+ Thị trường vốn quốc tế đối với Vn còn rất là mới mẻ và phức tạp. Cho nên các đề án phát hành trái phiếu chính phủ và trái phiếu công ty ra nước ngoài cần phải đọc xem xét một cách kỹ lưỡng , thận trọng.Với việc tham gia vào thị trường vốn quốc tế sẽ là cơ hội tốt để thị trường chứng khoán VN phát triển trong tương lai.
3. Chiến lược phát triển kinh tế những năm tới
Mục tiêu của VN trong giai đoạn 2001-2005 là đảm bảo tăng trưởng khinh tế từ 6.7-7.2% , nhu cầu đầu tư của toàn xã hội trong giai đoạn này vào khoảng 55-57 tỉ USD . Trong đó nguồn vốn trong nước chiếm khoảng 64-70%, nguồn vốn nước ngoài bao gồm ODA và FDI chiếm phần còn lại khoảng 30-36 % .Như vậy , ước tính tỷ lệ đầu tư sé đạt trung bình khoảng 28-29% so với GDP. Và hệ số ICORcủa nền kinh tế phải được duy trì vào khoảng 4,2.Cơ cấu đầu tư dự tính sẽ được phân bổ như sau : 15% tổng vốn đầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp, , 45-47% vào các ngành công nghiệp có lợi thế .Để đạt được yêu cầu này , cần phải có sự định hướng của nhà nước thông qua nguồn vốn ngân sách, thông qua chính sách ưu đãi đầu tư các ngành , các khu vực đầu tư có hiệu quả cao trong hiện tại cũng như lâu dài đối với nền kinh tế .việc thu hút nguồn vốn đầu tư xã hội cũng được quan tâm ,trong đó khả năng khu vực tư nhân sẽ chiếm tỷ trọng cao nhất ,khoảng 28% ( 16 tỉ USD ) NSNN khoảng 21%(12 tỷ USD, trong đó khoảng 3 tỷ vốn vay ODA) , FDI chiếm khoảng 16% tương đương khoảng 9 tỉ USD , ngoài ra đầu tư tín dụng nhà nước cũng ở mức tương đương với các doanh nghiệp nhà nước . Như vậy , điều đặt ra cho nền kinh tế những mục tiêu trong việc nâng cao hiệu quả tạo, huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển kinh tế, phải có một cơ cấu đầu tư phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế, chiến lược công nghiệp hoá , hiện đại hoá, nhằm đảm bảo cho khả năng tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế , đưa Việt nam vươn lên trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020.
KếT luận
Để đẩy mạnh công nghiệp hoá , hiện đại hoá , làm cho dân giàu, nước mạnh , xã hội công bằng , văn minh trong điều kiện hiện nay thì vốn đầu tư phát triển đóng vai trò cực kỳ quan trọng , vốn là yếu tố sống còn,không thể thiếu được đối với sự phát triển của bất kỳ quốc gia nào.Cho nên nghiên cứu ý nghĩa vận dụng các lý thuyết về đầu tư trong việc taọ, huy độngvà sử dụng vốn đầu tư phát triển có ý nghĩa quan trọng .
Qua việc nghiên cứu đề tài này , chúng em muốn đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào sự phát triển của đất nước bằng việc rút ra được những thành tựu mà VN đã đạt được trong thời gian qua trong việc vận dụng các lý thuyết đầu tư vào việc tạo, huy động và sử dụng vốnđầu tư phát triển đất nước hiện nay để tiếp tục phát huy những thành quả đã đạt được, đồng thời cũng tìm nhưng tồn tại, hạn chế mà chúng còn vướng mắc để tử đó đưa ra những giải pháp khắc phục và nâng cao hơn nữa khả năng,tạo , huy động và sử dụng vốn một cách có hiệu quả hơn.
Nền kinh tế thế giới và khu vực đang trong quá trình chuyển biến căn bản.Ngày nay quốc gia nào muốn phát triển cũng phải hòa nhập vào qúa trình đó. Đổi mới công nghệ không ngừng tác động tới cấu trúc nền sản xuất trên cơ sở những thành tựu khoa học mới đang trở thành xu thế chung của thời đại.uá trình đó. Nhưng muốn hội nhập một cách tự tin và có hiệu quả thì phải tích tụ và tập trung vốn, tạo cho mình một nội lực vững vàng tích luỹ từ nội bộ của nền kinh tế cộng với sự hỗ trợ đắc lực của nguồn vốn từ bên ngoài.
Chúng ta đang có những thuận lợi cơ bản, đó là những thành tự ban đầu của công cuộc đổi mới mang lại, những nguồn lực trong nước và ngoài nước đang được hội tụ lại cho một khách vọng chung của cả dân tộc quyết tâm phấn đấu xây dựng một quốc gia giàu mạnh. Trong dòng chảy sôi động của kỹ nguyên châu á - Thái Bình Dương, chắc chắn các nguồn nội lực Việt Nam sẽ hội nhập tích cực với dòng chảy của luồng vốn luân chuyển trênthế giới để tạo ra một sức tỏa sáng cho một quá trình cùng phát triển của khu vực đi theo hướng Rồng bay.
Mục lục
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35440.doc