Đề tài Giải pháp chủ yếu tạo lập vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh ở Công ty cổ phần May Thăng Long

Vốn tự có là nguồn vốn thuộc sở hữu của các chủ sở hữu doanh nghiệp mà doanh nghiệp không phải cam kết thanh toán. doanh nghiệp về mặt pháp lý là người sở hữu nguồn vốn này có toàn quyền sử dụng chúng, tỷ trọng vốn chủ sở hữu so với tổng nguồn vốn phản ảnh mức độ sở hữu và chủ động của doanh nghiệp trong kinh doanh. Ở mỗi loại hình sở hữu doanh nghiệp khác nhau thì nguồn vốn này cũng có nguồn khác nhau: - Đối với doanh nghiệp nhà nước: thì nguồn vốn này là vốn ngân sách, ngân sách nhà nước cấp một phần vốn ban đầu thì doanh nghiệp bắt đầu hoạt động trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh tiếp sau đó, doanh nghiệp có trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn của ngân sách nhà nước cấp. Bên cạnh đó trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cũng có thể có được nguồn tài trợ của nhà nước thông qua việc cấp tài sản như nhà xưởng, máy móc thiết bị

doc90 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1013 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp chủ yếu tạo lập vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh ở Công ty cổ phần May Thăng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
heo hình thức tín chấp, các hợp đồng cầm cố thế chấp tài sản không nhiều, công ty đặt được niềm tin trong lòng các ngân hàng, do đó mà công ty đã tận dụng khai thác triệt để nguồn tạo lập này nhằm mục đích cho cả đầu tư và bổ sung nguồn vốn thiếu hụt. S Vay dài hạn Với doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc như công ty May Thăng Long thì dây chuyền sản xuất, máy móc thiết bị là những bộ phận thiết yếu, có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo cho quá trình sản xuất được hoàn thành. Những dây chuyền này có thời gian sử dụng lâu dài, cũng chính vì thế mà giá trị của nó rất đắt, chỉ bản thân công ty với nguồn vốn chủ sở hữu không đủ khả năng mua sắm, vì còn phải chi cho nhiều mục đích khác nữa. Do đó mà công ty đều hướng tới các nguồn vay dài hạn. Với nguồn dài hạn công ty có khả năng chi trả hàng năm, mà không phải lo tới kỳ hạn thanh toán. Trong bảng 6 ở trên cho thấy nguồn vay dài hạn của công ty chiếm tỷ trọng khá lớn, năm 2002 chiếm 34,77% trong tổng nợ của doanh nghiệp, giá trị tuyệt đối là 30.954 triệu đồng. Sang các năm sau tỷ trọng này có giảm xuống nhưng vẫn còn ở mức cao. Năm 2003 vay dài hạn ngân hàng là 26.810 triệu đồng chiếm 27,24% trong tổng nợ. Năm 2004 giảm xuống còn 25.480 triệu tương đương 23,11%. Sở dĩ có sự giảm xuống này là do nhu cầu cho đầu tư tài sản cố định giảm xuống. Mặt khác có thể doanh nghiệp đã tìm được nguồn khác thay thế như hình thức thuê tài chính. Đây là hình thức mới mẻ ở nước ta đã được công ty áp dụng trong việc thuê tài sản. Công ty đã thực hiện thuê ô tô các loại như ô tô 7 – 8 chỗ, ô tô 16 chỗ, ô tô tải nhằm phục vụ cho nhu cầu vận chuyển của mình. ở đây đối tác với công ty là công ty cho thuê tài chính, công ty áp dụng hình thức cho thuê vận hành. Sử dụng hình thức này công ty được sử dụng tài sản trong thời hạn hợp đồng, chỉ mất khoản tiền thuê nhất định mà không phải bỏ ra một khoản tiền lớn để đầu tư mua nó, tránh được tình trạng thiếu hụt vốn. Tuy nhiên hình thức này mới chỉ dừng lại ở mức độ thấp: các tài sản thuê là ô tô, chưa được mở rộng sang các tài sản khác. Do hình thức này còn mới mẻ và ở nước ta thị trường này chưa thực sự phát triển nên việc áp dụng còn hạn chế. S Vay ngắn hạn Với sản phẩm may mặc công ty phải chuẩn bị một số lượng lớn các nguyên phụ liệu với nhiều chủng loại và nhiều kích cỡ màu sắc khác nhau như vải các loại, chỉ, nhãn, hộp, cúc, túi PE, khoá Những nguyên liệu may doanh nghiệp chủ yếu nhập khẩu từ nước ngoài nên khả năng dự trữ là thấp, một số các nguyên phụ liệu doanh nghiệp cũng tìm được nguồn hàng trong nước nhưng chỉ chiếm tỷ trọng thấp, còn lại là hầu hết nhập từ nước ngoài, do đó nhu cầu đầu tư cho tài sản lưu động thường xuyên là rất lớn. Trong khi đó nguồn vốn chủ sở hữu, nguồn bổ sung từ lợi nhuận giữ lại chưa cao, chưa đáp ứng được nhu cầu đầu tư, nên biện pháp vay nợ ngân hàng đóng vai trò quan trọng. Vay ngắn hạn ngân hàng công ty có thể đáp ứng được nhu cầu đầu tư trực tiếp kịp thời và thường xuyên cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Do công ty có quan hệ thường xuyên với các ngân hàng nên có thể có các hình thức vay phù hợp đáp ứng cho nhu cầu sản xuất, như vay theo hạn mức các thời hạn theo chu kì kinh doanh hay theo nguồn hàng 6 tháng, 9 tháng, , vay thấu chi, vay từng lần. Thông qua bảng 6 ở trên cho thấy hàm lượng vay ngắn hạn ở công ty có tỷ trọng cao nhất so với các nguồn vay nợ khác. Năm 2002 vay ngắn hạn ngân hàng là 40.848 triệu chiếm 45,89% tổng nợ. Tỷ trọng này tăng dần qua các năm: đến 2003 là 58.008 triệu tương đương 58,94%; năm 2004 tăng 19% so với năm trước tương đương với 69.010 triệu. Để nhận thấy rõ hơn ta có biểu mô tả sự biến động dư nợ ngân hàng qua các năm: Biểu đồ 1: Thống kê dư nợ ngân hàng qua các năm 2002 - 2003 Rõ ràng nhìn trên biểu đồ ta thấy nhu cầu về vốn lưu động của công ty ngày càng tăng, và mức tăng cũng nhanh, chứng tỏ quy mô sản xuất của công ty đang ngày càng mở rộng vì nhu cầu cho nguyên phụ liệu nhiều hơn, số lượng công việc lớn hơn. Tuy nhiên với tỷ trọng nợ ngắn hạn lớn như hiện nay công ty gặp khó khăn trong công tác thanh toán. ÊVay đối tượng khác Ngoài hình thức tạo lập vốn từ phía ngân hàng, công ty còn tiến hành huy động vốn qua phương thức huy động trực tiếp. Công ty nhận vốn gửi từ phía các khách hàng là tổ chức cá nhân trong và ngoài công ty, cam kết trả trong thời gian hạn định với mức lãi suất qui đinh tuỳ vào thời hạn. Đây cũng là hình thức huy động tích cực thay vì vay ngân hàng công ty trực tiếp nhận tiền gửi và cuối kỳ thanh toán cả gốc và lãi. Công ty có các chiến lược huy động cụ thể nhằm thu hút được lượng tiền nhàn rỗi trong các tổ chức dân cư: lãi suất công ty áp dụng trong thời điểm này là 0,85%/ tháng, mức huy động thấp nhất là 200.000, với các thời hạn từ 6 tháng, 12 tháng và các năm, trả gốc vào cuối kỳvới mỗi lần gửi và thanh toán đều thực hiện ghi sổ sách, chứng từ xác nhận tạo cơ sở vững chắc niềm tin cho khách hàng. Thông qua hình thức vay này một phần vốn huy động cho sản xuất kinh doanh đầu tư cho tài sản lưu động được đảm bảo. Mặc dù nguồn vốn này còn nhỏ lẻ nhưng công ty có thể chủ động hơn trong công tác huy động đồng thời tạo thêm được nhiều cơ hội kinh doanh mới. Ê Tín dụng thương mại Như đã được đề cập trong phần tổng quan, tín dụng thương mại là hình thức tạo lập vốn thông qua việc sử dụng các nguồn phải trả nhà cung cấp và nguồn trả trước của khách hàng. Hình thức tạo lập này được nhiều doanh nghiệp sử dụng vì nó có ưu thế nhất định như vừa có ngay hàng hóa phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình lại vừa có được mối quan hệ làm ăn lâu dài với các bạn hàng. Tuy nhiên việc sử dụng hình thức này phải xuất phát từ hai phía đối tác, vì nó liên quan đến quyền lợi kinh doanh của mỗi bên, do đó mà tỷ trọng thường thấp hơn so với hình thức tín dụng ngân hàng. Tạo lập vốn bằng tín dụng thương mại ở công ty May Thăng Long chiếm tỷ trọng không cao mặc dù chỉ đứng sau hình thức vay ngân hàng. Công ty chỉ có hình thức nợ thanh toán nhà cung cấp trong tín dụng thương mại. Năm 2002 tỷ trọng của hình thức này là 13,7% trong cơ cấu tổng nợ của doanh nghiệp. Sang năm 2003 có giảm xuống còn 9,22% tương đương với 9.071 triệu. Năm 2004 cũng giảm xuống còn 9,19% với số tuyệt đối là 10.135 triệu. Qua các năm tỷ trọng giảm xuống, nhưng ở năm 2002 là năm có mức cao nhất thì tỷ trọng vẫn chiếm vị trị nhỏ trong cơ cấu tổng nợ. Sở dĩ như vậy là vì các nguyên phụ liệu cho sản xuất kinh doanh của công ty đa phần là nhập khẩu từ các nước về như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Thái Lan, Đài Loanchỉ có một số ít được cung ứng trong nước. Các hàng hoá nhập khẩu thường thì phải thanh toán tiền ngay, trực tiếp mở L/C qua ngân hàng chứ ít được mua chịu. Đa số các khoản tín dụng thương mại có thời hạn dưới 1 năm. Đây là một thiệt thòi đối với công ty bởi vì nguồn vốn này có chi phí thấp, có nhiều lợi thế. Ê Nguồn khác: Nguồn này bao gồm các khoản phải nộp ngân sách nhà nước nhưng chưa nộp như thuế và các khoản phải nộp khác; tiền lương chưa trả công nhân viên và một số khoản khác nữa. Đây cũng là nguồn quan trọng vì khi chưa đến hạn trả công ty có thể sử dụng vào các mục đích khác tạm thời đang thiếu hụt hoặc giải quyết các nhu cầu cấp bách. Tuy nhiên nguồn này chỉ mang tính chất tạm thời. Theo bảng 6 thì tổng các nguồn này chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nợ của doanh nghiệp. Năm 2001 chỉ có 5,64% tương ứng với 5015 triệu đồng. Tỷ trọng này giảm xuống còn 4,6 % năm 2003 (tương ứng 4535 triệu đồng). Sang 2004 chiếm 4,99% trong tổng nợ, số tuyệt đối là 5609 triệu đồng. Cơ cấu của các khoản mục này nhỏ chứng tỏ doanh nghiệp thực hiện tốt các khoản phải trả như nghĩa vụ thuế với nhà nước, trách nhiệm với cán bộ công nhân viên trong công ty. Xét một cách tổng quan giá trị và tỷ trọng của nợ phải trả trong tổng nguồn vốn của doanh nghiệp lớn hơn rất nhiều so với nguồn vốn chủ sở hữu cho thấy các phương thức huy động nợ rất quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Tuỳ thuộc vào nhu cầu từng loại tài sản mà công ty đã có các phương thức tài trợ phù hợp. Với tài sản cố định, bản chất là loại tài sản có giá trị lớn, có thời gian sử dụng lâu dài, năm khấu hao nhiều như nhà cửa, máy móc, trang thiết bị, do đó mà doanh nghiệp thường áp dụng hình thức vay nợ dài hạn và hình thức thuê tài chính. Ngược lại tài sản lưu động có tuổi thọ ngắn, thời gian sử dụng nhanh, hầu hết mang tính chu kỳ như nguyên vật liệu cho sản xuất, các phụ gia khácvốn đầu tư cho tài sản lưu động có vòng quay nhanh, thời gian thu hồi nhanh và hầu hết không phải lập quỹ khấu hao. Đầu tư vào tài sản lưu động công ty thường sử dụng các nguồn vốn vay ngắn hạn, vốn huy động trực tiếp, các nguồn tín dụng thương mại và một số các nguồn khác. Công ty May Thăng Long là một doanh nghiệp may mặc với sản lượng hàng năm rất cao do đó mà nhu cầu đầu tư cho tài sản lưu động là rất lớn. Các nguồn vốn này ngày càng trở lên thiết yếu và đóng vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. Trên đây chúng ta đã có những tìm hiểu về tình hình tạo lập và các phương thức tạo lập vốn của công ty trong thời gian qua từ sự tăng giảm từng nguồn cho tới việc sử dụng các nguồn đó để tài trợ cho các hoạt động đầu tư như thế nào. Có nguồn được tài trợ là quan trọng nhưng để nguồn tài trợ đó có hiệu quả, mang lại giá trị tăng thêm cho chủ sở hữu thì vấn đề sử dụng vào mục đích nào, hiệu quả vốn đạt được bao nhiêu mới là kết quả đích thực. 2.2.3 Thực trạng sử dụng vốn của công ty Tạo lập vốn và sử dụng vốn là hai mặt của quản trị tài chính doanh nghiệp. Chúng có mối quan hệ tương hỗ tác động lẫn nhau. Nếu như tạo lập vốn là cơ sở tiền đề cho việc sử dụng vốn thì sử dụng vốn là kết quả tác động ngược trở lại một cách tích cực hoặc tiêu cực đến công tác tạo lập vốn. Nếu việc sử dụng vốn có hiệu quả thì nguồn vốn huy động không những được bảo toàn mà còn đem lại giá trị tăng thêm cho chủ sở hữu, ngược lại việc sử dụng không hiệu quả không những làm thất thoát vốn, nguồn huy động không trả được thậm chí còn đưa doanh nghiệp vào tình trạng không có khả năng thanh toán, dẫn đến phá sản. Có nhiều chỉ tiêu đánh giá hiệu quả việc sử dụng vốn, sau đây chúng ta xem xét một số các chỉ tiêu cơ bản: Hiệu suất sử dụng VCĐ = DT trong kỳ/ VCĐ sử dụng bq trong kỳ Hàm lượng VCĐ = Vốn sd bq trong kỳ/ DT thuần trong 1 kỳ Hiệu quả sd VCĐ = Lợi nhuận ròng / VCĐ sd bq trong kỳ Hiệu suất sử dụng VLĐ = DT trong kỳ / VCĐ sử dụng bq trong kỳ Kỳ thu tiền bq = ( các khoản phải thu x 360)/ DT thuần Hiệu quả sd VLĐ = Lợi nhuận ròng / VLĐ sd bq trong kỳ Thông qua các báo cáo tài chính ta có bảng đánh giá tình hình sử dụng vốn của công ty trong các năm vừa qua: Đơn vị: % Chỉ tiêu 2003 2004 1. Hiệu suất sử dụng VCĐ 228,57 229,12 2. Hàm lượng VCĐ 43,75 44,78 3. Hiệu quả sd VCĐ 1,96 2,05 4. Hiệu suất sử dụng VLĐ 202,93 197,44 5. Kỳ thu tiền bình quân 68,2 67,95 6. Hiệu quả sd VLĐ 1,74 1,70 Ba chỉ tiêu đầu là chỉ tiêu đánh giá tình hình sử dụng vốn cố định, cho thấy qua 2 năm các chỉ tiêu tăng dần chứng tỏ công ty sử dụng vốn cố định có hiệu quả tăng dần, tuy nhiên mức tăng không đáng kể. Hiệu suất sử dụng vốn cố định là 229,12% hay 2,29 tức là công ty trong 1 đồng vốn cố định tạo ra 2,29 đồng doanh thu. Chỉ tiêu hàm lượng vốn cố định cũng cho thấy hàm lượng của vốn cố định trong doanh thu. Năm 2004 là 44,78% tức là trong 1 đồng doanh thu có 0,44 được lấy từ vốn cố định. Cả hai chỉ tiêu này đều cho thấy vốn cố định có tỷ lệ cao trong doanh thu, cũng như trong giá thành sản phẩm của công ty. Phần còn lại là của vốn lưu động, chiếm tỷ lệ nhiều hơn bởi vì nó cấu thành lên sản phẩm. Nếu như chỉ tiêu hiệu suất sử dụng chỉ cho ta thấy quy mô của sử dụng vốn thì chỉ tiêu hiệu quả vốn cố định phản ánh chất lượng sử dụng vốn cố định, đây mới là chỉ tiêu chủ yếu để doanh nghiệp đánh giá lượng vốn cố định mà mình đầu tư mang lại cho mình bao nhiêu đồng lợi nhuận. Năm 2003 chỉ tiêu này đạt 1,96% ở vốn cố định và 1,74% ở vốn lưu động. Đây là tỷ lệ thấp cho thấy việc sử dụng vốn cố định và vốn lưu động của công ty đạt chất lượng kém. Một đồng vốn cố định mà công ty bỏ ra chỉ đem về 0,0196 đồng lợi nhuận, và một đồng vốn lưu động doanh nghiệp bỏ ra chỉ đem về 0,0174 đồng lợi nhuận. Trong phần cơ cấu nguồn vốn của công ty đã chỉ rõ sự phân bổ vốn của doanh nghiệp vào các loại tài sản cố định và tài sản lưu động. Công ty đầu tư vào tài sản cố định cũng với một lượng không nhỏ đạt 46% trong tổng nguồn vào năm 2004, nhằm đổi mới máy móc thiết bị nhà xưởng, xây dựng lại nhà máy, cơ sở hạ tầng. Số còn lại được đầu tư vào tài sản lưu động. Tuy nhiên hiệu quả của việc đầu tư này vẫn chưa đem lại kết quả tích cực, phản ánh cơ cấu phân bổ chưa hợp lý giữa các loại tài sản. 2.3 Đánh giá thực trạng tạo lập vốn ở công ty May Thăng Long 2.3.1 Những kết quả đạt được Trong nền kinh tế thị trường vốn ngày càng đóng vai trò quan trọng, do đó công tác tạo lập vốn ngày càng trở lên bức thiết và khó khăn hơn. Trong những năm qua công ty đã sử dụng một số các phương thức tạo lập vốn nhằm phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh và đã đạt được một số các kết quả. Công ty đã và đang sử dụng các phương thức tạo lập vốn từ nguồn vốn chủ sở hữu, từ nguồn tín dụng ngân hàng, từ nguồn huy động trực tiếp, nguồn tín dụng thương mại và một số hình thức khác từ các nguồn phải trả. Thông qua các hoạt động này doanh nghiệp đã đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh được diễn ra liên tục thông suốt. Là một doanh nghiệp may mặc có tầm cỡ với tổng số 7 xí nghiệp thành viên và hệ thống dây chuyền sản xuất cùng hơn 3000 công nhân, mỗi ngày doanh nghiệp sản xuất một khối lượng lớn sản phẩm, yêu cầu đặt ra là phải đảm bảo đủ nguyên phụ liệu cho sản xuất không để bị gián đoạn ở bất cứ khâu nào. Qua các năm doanh thu của doanh nghiệp đều tăng, tuy chưa cao nhưng cũng là kết quả của công tác tạo lập vốn, đã cung cấp đủ kịp thời đảm bảo sự triển khai liên tục các hoạt động nhập khẩu và mua bán nguyên phụ liệu máy móc thiết bị phụ trợ cho sản xuất kinh doanh. Trong các phương thức tạo lập vốn mà doanh nghiệp sử dụng thì hình thức tín dụng ngân hàng chiếm tỷ trọng cao nhất. Công ty đã tận dụng tối đa lợi thế về thuế, và khai thác tốt mối quan hệ với các ngân hàng do đó được vay với hợp đồng lớn và giảm được chi phí vay. Đồng thời cùng với uy tín của doanh nghiệp hình thức huy động trực tiếp cũng được triển khai và tạo được nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh. Trong thời gian qua công tác tạo lập vốn của công ty đã không chỉ đảm bảo cung cấp đủ vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, mà còn có các dự án đầu tư xây dựng mới và cải tạo cơ sở hạ tầng, nâng cấp xí nghiệp. Năm 2004 bằng nguồn vay dài hạn ngân hàng đầu tư, công ty đã thực hiện đầu tư nâng cấp cải tạo xí nghiệp 3 và 4 hơn 6 tỷ đồng. Cũng từ nguồn vay dài ngân hàng đầu tư phát triển công ty đầu tư cải tạo xí nghiệp may Hà Nam hơn 12 tỷ đồng. Và đã từng bước cải tiến dây chuyền sản xuất, áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Công ty đã đầu tư 1,44 tỷ đồng để nhập dây chuyền sản xuất áo sơ mi cao cấp, một mặt hàng chủ đạo của công ty, nhờ đó mà năng xuất lao động đã tăng lên, góp phần tăng doanh thu. Trên đây là một số các kết quả mà công ty may Thăng Long đã đạt được từ công tác tạo lập vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong bối cảnh kinh tế hiện nay khi mà sự biến động kinh tế ngày càng trở lên khó dự đoán thì việc xác định nhu cầu vốn và nguồn tài trợ cũng ngày trở lên khó khăn và khó xác định. Ngoài những kết quả đạt được công ty còn có những hạn chế nhất định. 2.3.2 Những hạn chế. Công tác huy động vốn là nội dung quan trọng trong quản trị tài chính doanh nghiệp cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên để thực hiện được thành công trong công tác tạo lập vốn thì nó còn chịu tác động của nhiều yếu tố và không phải lúc nào cũng dễ dàng. Công tác tạo lập vốn của công ty May Thăng Long còn gặp phải một số những hạn chế. Xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng đây còn là những mặt tồn tại bất cập ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trước hết là hạn chế về cơ cấu vốn. Từ thực trạng tạo lập vốn của doanh nghiệp cho thấy tỷ lệ huy động nợ chiếm hơn 80% trong cơ cấu vốn. Đây là một tỷ lệ rất cao tức là chỉ còn dưới 20% là huy động từ nguồn vốn chủ sở hữu. Việc duy trì tỷ lệ nợ này kéo dài trong nhiều năm dù đó không phải là cơ cấu vốn hợp lý chứ chưa xét đến cơ cấu vốn tối ưu. Mặc dù việc sử dụng nợ có ưu điểm là doanh nghiệp không phải chia sẻ quyền kiểm soát mà vẫn đảm bảo đủ vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng doanh nghiệp lại bị đặt vào tình trạng rủi ro rất cao, dễ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán khi thị trường có nhiều biến động bất lợi, hoặc sẽ không có khả năng vay thêm khi công ty có những cơ hội tốt trong tương lai. Việc tận dụng mối quan hệ với ngân hàng cũng ở mức độ nhất định, ngân hàng cũng không dễ dàng cho vay khi tỷ lệ nợ đã quá cao mà không có khả năng thanh toán, mặt khác uy tín của doanh nghiệp cũng bị ảnh hưởng không nhỏ. Đây là mặt hạn chế rất lớn của công ty mà trong thời gian qua chưa được nghiêm túc xem xét. Nguồn tạo lập từ phương thức tín dụng thương mại là phương thức rẻ tiện dụng và có lợi nhiều cho doanh nghiệp nhưng vẫn chưa được khai thác triệt để. Sở dĩ như vậy vì hầu hết các nguồn đầu vào của doanh nghiệp đều nhập khẩu từ nước ngoài, khó có thể gia hạn thanh toán. Mặt tồn tại của công ty còn ở chỗ công ty chưa tìm được cho mình nguồn nguyên phụ liệu nội địa phù hợp, nguyên nhân có thể do khách quan là nguồn nguyên phụ liệu trong nước chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh của công ty, nhưng mặt khác công ty chưa có sự quan tâm và đầu tư xứng đáng để thiết lập nguồn nguyên phụ liệu trên mảnh đất màu mỡ như nước ta. Tạo lập vốn thông qua hình thức thuê tài chính mới chỉ dừng lại ở các hợp đồng thuê ô tô của các công ty tài chính và ngân hàng quân đội, chứ chưa có sự chuẩn bị cho các tài sản giá trị khác. Một mặt do hình thức này còn mới mẻ ở Việt Nam, chúng ta chưa có thị trường tài chính ổn định và phát triển, các công ty tài chính còn ở quy mô nhỏ, chưa mạnh dạn đầu tư mới nên khả năng thu hút của thị trường còn thấp. Nhưng mặt khác công ty chưa có chiến lược trong dài hạn để mạnh dạn đầu tư mới, sử dụng hình thức này đòi hỏi công ty phải có sự phân tích kỹ lưỡng các chỉ tiêu tài chính, các giá trị hiện tại và tương lai để có quyết định đầu tư đúng đắn. Chúng ta đã khẳng định tầm quan trọng của công tác tạo lập tức là làm thế nào để có vốn để đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Cùng với công tác tạo lập vốn thì hiệu quả sử dụng vốn chính là kết quả cuối cùng của công tác tạo lập vốn. Nếu tạo lập vốn là con đường dài khởi tạo từ khâu đầu tiên trong quá trình luân chuyển vốn T – H – T’ thì hiệu quả sử dụng vốn là quá trình rải nhựa cho con đường đó. Nó càng bằng phẳng thì T’ càng lớn, con đường càng dễ đi. Nhưng thực trạng hiệu quả sử dụng của công ty cho thấy được vấn đề sử dụng vốn của công ty còn có nhiều bất cập, hiệu quả sử dụng vốn chưa cao. Đây là mặt tồn tại rất lớn mà hiện nay công ty chưa cải thiện được. Mặc dù chuyển sang hình thức cổ phần hoá, công ty May Thăng Long vẫn chưa phát huy được thế mạnh của mình. Hoạt động tạo lập vốn của doanh nghiệp thông qua nguồn vốn chủ sở hữu vẫn còn ở mức hạn chế. Việc phát hành cổ phiếu tạo kênh huy động vốn chưa đem lại hiệu quả thiết thực. Hiện nay công ty mới chỉ thực hiện phát hành đợt I, và hầu hết là cho các cán bộ công nhân viên công ty, chưa có sự hấp dẫn thu hút đầu tư bên ngoài, do đó phương thức tạo lập này còn chưa được khai thác triệt để. Có thực trạng này một mặt do thị trường tài chính nước ta chưa có sự phát triển để tạo tiền đề cho hướng đi lên của doanh nghiệp, hoạt động của thị trường chứng khoán còn manh mún mới chỉ tập trung chủ yếu cho các doanh nghiệp lớn và tên tuổi. Mặt khác công ty mới chuyển sang hình thức cổ phần được hơn 1 năm, đây mới chỉ là bước đệm đầu tiên trong hoạt động tài chính của doanh nghiệp nên còn nhiều khó khăn. Trên đây là một số mặt hạn chế trong công tác tạo lập vốn của công ty May Thăng Long. Những nguyên nhân cũng đã được nêu ra và phân tích nhưng chủ yếu còn phụ thuộc rất lớn vào các chiến lược hoạt động của doanh nghiệp. Công ty cần có chiến lược cụ thể và định hướng hoạt động nhằm thực hiện tốt hơn nữa hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, quan trọng là có các phương thức tạo lập vốn hợp lý đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Chương III: Giải pháp chủ yếu trong việc tạo lập vốn ở CTCP May Thăng Long 3.1 Định hướng hoạt động của công ty trong thời gian tới Là doanh nghiệp có bề dày phát triển công ty cổ phần May Thăng Long đã có hơn 45 năm xây dựng và trưởng thành, và trong thời gian tới công ty vẫn đang tiếp tục tìm hướng đi cho mình Trong nền kinh tế thị trường khi mà xu thế phát triển toàn cầu đang ngày càng diễn ra hết sức mãnh liệt, đã tạo ra nhiều cơ hội thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển, nhưng cùng với sự phát triển đó là sự cạnh tranh cũng ngày càng gay gắt, đặt các doanh nghiệp trước những thách thức to lớn. Công ty May Thăng Long cũng như các doanh nghiệp khác cũng đang hối hả bước vào nền kinh tế với nhiều định hướng phát triển, trước hết phải phân tích được những cơ hội và thách thức của mình, trong lĩnh vực hàng dệt may. 3.1.1 Cơ hội và thách thức Là một lĩnh vực được coi là thế mạnh của đất nước, ngành dệt may đã và đang tạo rất nhiều nguồn thu cho nhà nước. Nước ta có nhiều cơ hội thuận lợi cho phát triển may mặc như thuận lợi về nguồn lao động dồi dào, nguồn nguyên nhiên liệu phong phú, với tiền thân là ngành thủ công truyền thống Nền kinh tế phát triển bước sang giai đoạn mới cùng với tiến bộ khoa học và kỹ thuật, mức sống con người cũng ngày càng nâng cao các yêu cầu và nhu cầu cũng ngày càng tăng lên các quan hệ kinh tế cũng ngày càng mở rộng, các mối quan hệ kinh tế giữa các thành phần kinh tế cũng ngày càng khăng khít và ràng buộc lẫn nhau, đã mở ra nhiều cơ hội mới cũng như đặt doanh nghiệp trước nhiều trở ngại thách thức: 3.1.1.1 Cơ hội Vẫn là những thuận lợi của ngành dệt may công ty May Thăng Long có nhiều cơ hội trong việc thu hút nguồn nhân lực, có khả năng khai thác được nhiều nguồn nguyên nhiên liệu trong nước, phục vụ cho nhu cầu sản xuất. Ngành may mặc là ngành đi theo thời đại không bao giờ là cũ là lạc hậu, do đó con đường phía trước với công ty rất rộng mở. Trong tiến trình hội nhập kinh tê, tin vui đến với các ngành kinh tế nói chung trong đó ngành dệt may có nhiều cơ hội hơn cả, đó là việc Việt Nam được đàm phán gia nhập WTO. Cùng với việc gia nhập tổ chức lớn uy tín này chúng ta có cơ hội tăng cường vị thế quốc tế và bảo vệ quyền lợi khi tham gia xây dựng những qui định của WTO. Hàng hoá dịch vụ của Việt Nam sẽ được trao đổi bình đẳng như hàng hoá và dịch vụ của các nước khác, khả năng xuất khẩu của chúng ta sẽ cao hơn rất nhiều so với trước đây, các qui định về hạn ngạch và thuế sẽ được cải thiện. Đây là cơ hội rất lớn đối với hàng dệt may nói chung và với công ty may Thăng Long nói riêng vì khi đó thị phần cho hàng may mặc xuất khẩu của công ty cũng được nới rộng, ở các thị trường lớn như EU, Mỹ, Nhật Bảnviệc giao lưu hợp tác kinh tế được mở rộng, doanh nghiệp có cơ hội thu hút nhiều dự án đầu tư hơn. Đặc biệt ngày 1/1/2005 hạn ngạch dệt may được rỡ bỏ theo thoả thuận của các nước thành viên trong WTO như vậy các nước xuất khẩu sang EU sẽ có nhiều cơ hội hơn để tham gia chiếm lĩnh thị trường “màu mỡ” này mà không hạn chế về số lượng. Đây là cơ hội rất lớn nhưng không phải là dễ dàng để chúng ta thực hiện. Bên cạnh những thuân lợi luôn kèm theo những thách thức của nó, thậm chí những thách thức đó còn bao trùm lên những cơ hội chúng ta có vướt qua được những rào cản đó thì cơ hội mới thực sự đến với mình. 3.1.1.2 Thách thức Có thể nói cơ hội của chúng ta có nhiều nhưng những rào cản và những thách thức thì còn nhiều hơn. Với bất kể lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh nào nằm trong kinh tế thị trường thì điều trước hết cần lo lắng là làm sao tạo được vị thế cạnh tranh trên thương trường, đặt cho mình một chỗ đứng vững chắc. Với sản phẩm may mặc công ty may Thăng Long đã và đang vấp phải nhiều sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường quốc tế, các đối thủ lớn như Trung Quốc, ấn Độ, Thuỵ Điểnmà đặc biệt là Trung Quốc. Hàng hoá của Trung Quốc khách quan mà nhận xét đã tràn ngập trên khắp đất nước ta ở tất cả các lĩnh vực, do đó cũng khẳng định được tính thị trường của chúng rất cao. Đây là thách thức lớn không chỉ đối với riêng công ty May Thăng Long mà còn cho toàn ngành may nói chung. Đặc biệt một khi hạn ngạch được bãi bỏ các nhà sản xuất có chi phí thấp và hiệu suất cao sẽ được tự do xuất khẩu theo khả năng cung ứng của họ và nhiều chuyên gia dự báo Trung Quốc là nước hưởng lợi nhiều nhất và nước này sẽ giành vị trí thống soái trên thế giới. Báo cáo WTO cho rằng xuất khẩu của Trung Quốc và ấn Độ sẽ tăng mạnh trong năm nay. Tại thị trường dệt may Mỹ, tỷ trọng của Trung Quốc năm nay sẽ tăng lên 50% từ mức 16% năm 2002, tỷ trọng của ấn Độ tăng từ 4% lên 15%. Tại thị trường dệt may EU tỷ trọng Trung Quốc sẽ tăng từ 20% lên 29% và tỷ trọng của ấn Độ tăng từ 5% đến 9%. Vậy tại sao mặt hàng Trung Quốc lại chiếm lĩnh được thị phần nhiều như vậy? Bởi vì Trung Quốc có khả năng nhập khẩu máy móc thiết bị hiện đại trong lĩnh vực dệt may, nguồn nguyên phụ liệu sản xuất sản phẩm dệt may với chất lượng cao có thể mua trực tiếp ngay trong nước, giảm thiểu được chi phí và thời gian là một thuận lợi rất lớn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Không chỉ gặp thách thức trước cạnh tranh trên thị trường quốc tế mà trên thị trường nội địa sự cạnh trạnh cũng diễn ra hết sức gay gắt. số lượng các doanh nghiệp dệt may ngày càng nhiều công ty có nhiều đối thủ mạnh như May 10, May Đức Giang, May Việt TiếnĐều là các doanh nghiệp trực thuộc tổng công ty dệt may Việt Nam được cạnh tranh tự do trên thị trường trong nước một thị trường đang được đánh giá cao, các công ty cũng đang lỗ lực để thu hút thị phần về phía mình. Cùng một loại snar phẩm các mặt hàng của các công ty này luôn đứng cạnh nhau trong các cửa hiệu các hội chợ triển lãm và tất nhiên khi quyết định chọn lựa sản phẩm khách hàng sẽ chọn sản phẩm có chất lượng tốt và giá thành thấp và mẫu mã đẹp. Đây chính là thách thức thực tế nhất đối với công ty. ở thị trường nội địa không chỉ có các đối thủ là các doanh nghiệp trong nước mà sự cạnh tranh còn bao gồm cả với các mặt hàng nhập khẩu từ nước ngoài vào. Việc chúng ta gia nhập WTO đã mang lại nhiều cơ hội nhưng đó cũng là thách thức mà chúng ta phải đối mặt. Việt Nam sẽ phải cắt giảm thuế quan và các rào cản phi thuế quan, áp dụng chế độ đãi ngộ quốc gia với các doanh nghiệp nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam. Năm 2005 thực hiện xóa bỏ định lượng nhập khẩu. 1/6/2006 sẽ bỏ toàn bộ các biện pháp bảo hộ thuế. Như vậy các doanh nghiệp trong nước nếu không có sự chuẩn bị tốt rất có thể các doanh nghiệp của ta sẽ phải tụt hậu, thậm chí trong cuộc chiến cạnh tranh sẽ bị thua ngay trên “sân nhà”. Đơn cử như sản phẩm may mặc Trung Quốc nhập khẩu vào thị trường nước ta, đã chiếm lĩnh rất nhiều thị phần vì sản phẩm của họ có giá thành hợp lý, có mẫu mã đẹp. Như vậy để tồn tại trong nền kinh tế thị trường thì cạnh tranh là thách thức cơ bản và lâu dài, mà bất kể một doanh nghiệp nào cũng gặp phải. Công ty may Thăng Long cũng không nằm ngoài qui luật đó. Thách thức đặt ra đòi hỏi công ty phải tăng năng xuất lao động và giảm giá thành sản phẩm. Cùng một chi phí như vậy nhưng thay vì làm ra các sản phẩm thông dụng thì phải làm ra các sản phẩm có chất lượng cao để tăng mức tiêu thụ. Điều này hoàn toàn phụ thuộc vào công tác quản lý đổi mới kỹ thuật mà ở đây vốn là khâu yếu nhất. Mặt khác nền kinh tế phát triển kèm theo nhu cầu và yêu cầu của con người ngày càng tăng lên. Đặc biệt với những sản phẩm có tính chất thời vụ và thời trang như sản phẩm may mặc thì những thay đổi này là rất lớn. Điển hình như việc nhập khẩu vào thị trường EU rào cản đầu tiên chính là những qui định về chất lượng, sau đó là các yêu cầu về yếu tố môi trường và trách nhiệm xã hội. Chất lượng được tiêu chuẩn hoá với các chỉ tiêu về an toàn sản phẩm đòi hỏi các yếu tố cấu thành cũng được tiêu chuẩn hoá. Các sản phẩm muốn được người tiêu dùng chấp nhận thì phải đáp ứng được thị hiếu của họ. Người tiêu dùng có nhiều tầng lớp khác nhau, ở các lứa tuổi khác nhau thì thị hiếu cũng khác nhau, thị hiếu còn khác nhau ở các mùa trong năm. Sức cạnh tranh của doanh nghiệp chính là ở điểm nắm bắt được thị hiếu này. Muốn vậy phải có chiến lược đầu tư tìm hiểu thị trường, mua sắm thiết bị cần thiết để phục vụ cho sản xuất. ở đây vốn lại thực sự đóng vai trò quan trọng. Trên đây là những cơ hội và thách thức của công ty trong nền kinh tế hội nhập đầy sôi động. Công ty phải đánh giá được những điểm mạnh và điểm yếu của mình để cùng với những cơ hội và thách thức đó có hướng phát triển phù hợp 3.1.2 Định hướng hoạt động của công ty Công ty xác định vấn đề giữ vững và mở rộng thị trường là vấn đề sống còn đảm bảo doanh thu lợi nhuận và thu nhập của người lao động, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của công ty. Một trong những định hướng hàng đầu doanh nghiệp thực hiện đó là tăng dần tỷ lệ nội địa hoá. Đây là mặt hạn chế mà trước đây doanh nghiệp chưa tìm thấy, trong khi tập trung rất nhiều nguồn lực cho xuất khẩu thì thị trường tiềm năng trong nước lại không được khai thác. Năm 2004 doanh thu đạt 142,7 tỷ thì doanh thu từ hàng xuất khẩu xấp xỉ 124 tỷ chiếm 86,8%; tức là chỉ còn 13,1% cho thị trường nội địa. Đây là con số quá khiêm tốn. Vậy làm thế nào để tăng dần tỷ lệ nội địa hoá? Tăng tỷ lệ nội địa hoá tức là đưa sản phẩm của công ty ngày càng chiếm thị phần trong nước, được người tiêu dùng bình chọn. Để làm được như vậy thì doanh nghiệp phải khai thác được thị trường trong nước cần gì. 3 câu hỏi mấu chốt của bài toán kinh tế: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai, phải được giải đáp cụ thể. Muốn vậy phải có sự đầu tư đồng bộ từ khâu tìm hiểu thị trường (sản xuất cái gì), đến việc thiết kế tìm các nguyên phụ liệu phù hợp, sử dụng máy móc công nghệ nào để sản xuất ( sản xuất như thế nào), và cuối cùng đưa đến “tay” người tiêu dùng. Đây là quá trình dài đòi hỏi sự đầu tư nhiều nguồn lực, đặc biệt là vốn. Bên cạnh hướng mục tiêu phát triển vào thị trường trong nước, công ty vẫn phải đảm bảo giữ vững thị trường xuất khẩu với những khách hàng truyền thống như EU, Nhật, Mỹ Đặc biệt chú trọng thị trường bán FOB, xác định đây là con đường phát triển lâu dài của công ty. Đầu tư xây dựng mạng lưới các nhà thầu phụ, nắm bắt thông tin, xây dựng hệ thống sáng tác mẫu mốt để chào hàng. Gắn việc sản xuất sản phẩm may với sản phẩm dệt và sản xuất nguyên phụ liệu để thúc đẩy toàn diện sự phát triển sản xuất kinh doanh. Khai thác thị trường tại chỗ giảm chi phí nhập khẩu rút ngắn thời gian cung ứng. Thực tế nhập khẩu nguyên phụ liệu đầu vào như hiện nay thì đây quả là vấn đề khó khăn mà doanh nghiệp phải đối diện. Riêng nguyên liệu may doanh nghiệp nhập 100% từ nước ngoài (Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc), còn nguyên phụ liệu năm 2003 tổng giá trị sử dụng là 147.450 m2 thì trị giá nguyên phụ liệu trong nước chỉ có 2368 m2 chiếm1,6%. Trước những thách thức to lớn trong nền KTTT muốn tồn tại được doanh nghiệp phải tạo được sức mạnh cạnh tranh. Định hướng hoạt động của công ty là phải nâng cao khả năng cạnh tranh cả trên thị trường quốc tế và thị trường trong nước. Tâm lý chung của bất kể khách hàng nào đều muốn có sản phẩm có chất lượng cao, giá thành thấp và mẫu mã đẹp. Đó chính là sức mạnh cạnh tranh của doanh nghiệp. Để làm được điều đó thì yêu cầu đặt ra công ty phải có dây chuyền sản xuất tiên tiến, có đội ngũ công nhân viên kỹ thuật, lành nghề. Trong xu hướng phát triển hiện nay chúng ta có thuận lợi là được ứng dụng những tiến bộ khoa học mà không phải mất thời gian và chi phí nghiên cứu, chúng ta chỉ phải trả tiền để mua công nghệ hiện đại và chi phí cho việc sử dụng chúng. Nhưng để làm được điều đó thiết thực doanh nghiệp phải có nguồn vốn đầu tư lớn. Do đó đòi hỏi công ty phải đưa ra được các chiến lược phù hợp nhằm thu hút vốn đầu tư tạo lập thêm nhiều nguồn mới để phát triển sản xuất. Trên đây là những định hướng cơ bản hoạt động của công ty trong thời gian tới, để cụ thể hoá công ty tiến hành hoạch định các chỉ tiêu hoạt động cho các năm tiếp theo: Bảng 7: Chỉ tiêu hoạt động của công ty trong thời gian tới Chỉ tiêu 2005 2006 Doanh thu thuần 283.200.000 337.031.800 Giá vốn hàng bán 250.530.834 302.708.238 Lợi nhuận gộp 32.689.166 34.323.562 Chí phí bán hàng 8.798.996 9.641.450 Chí phí quản lý 11.787.996 12.481.372 Chi phí hoạt động sxkd 20.586.346 22.122.822 Kết quả hoạt động sxkd 12.102.820 12.200.740 Thu nhập trước thuế 6.602.820 7.200.740 Mức chi trả cổ tức 13% 14% Vốn điều lệ 23.306.700 23.206.700 Bước sang năm 2005 đã được 1 quý và cũng đã đạt được các kết quả khích lệ. Công ty đang tiếp tục phấn đấu để đạt mục tiêu kế hoạch đề ra. 3.2 Giải pháp chủ yếu tạo lập vốn ở công ty Trước những cơ hội và thách thức của thị trường, công ty cũng đã tìm cho mình hướng phát triển mới và các mục tiêu cụ thể trong thời gian tới. Để đạt được điều đó thiết thực công ty phải tìm được cho mình hướng đi đúng đắn trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vấn đề đầu tiên chính là các chiến lược tạo lập vốn và giải pháp để thực hiện sao cho có hiệu quả nhất. Sau khi đã nghiên cứu thực trạng công tác tạo lập vốn kết hợp tìm hiểu môi trường hoạt động của công ty em xin mạnh dạn có các giải pháp nhằm tạo lập vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. 3.2.1 Nguồn vốn chủ sở hữu Đây là nguồn tạo lập công ty đã sử dụng rất hạn chế trong thời gian vừa qua. Chuyển sang hình thức cổ phần công ty cần có các chiến lược khai thác các điểm mạnh của hình thức này. Do công ty chưa thực sự có tiềm lực mạnh về tài chính nên trong thời gian đầu công ty có thể tạo kênh huy động vốn thông qua việc phát hành cổ phiếu trong nội bộ công ty, sau đó phấn đấu để tham gia niêm yết trên thị trường chứng khoán. Bằng việc phát hành này công ty có điều kiện để cân bằng cơ cấu vốn, nâng cao tỷ lệ nguồn vốn chủ sở hữu. Mặt khác trong thời gian đầu công ty còn được ưu đãi về thuế. Công ty cần có các chiến lược chào bán cổ phần rộng rãi tới các thành viên trong công ty và các nhà đầu tư tiềm năng, điều này là thiết thực để nâng cao uy tín cho doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho việc niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán khi thị trường bảng II được đưa vào vận hành. Do thị trường chứng khoán ở nước ta còn chưa phát triển nên việc đưa cổ phiếu ra niêm yết còn có nhiều khó khăn đòi hỏi công ty cần có sự đầu tư lâu dài, nâng cao giá trị cổ phiếu bên trong, tạo uy tín bên ngoài, là cơ sở để cổ phiếu có giá trị tiềm năng thu hút được nhà đầu tư. Tuy nhiên việc tham gia vào thị trường chứng khoán có đạt được kết quả như mong muốn hay không còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khách quan khác. Bên cạnh đó công ty có thể xem xét việc tách cổ phiếu. Việc tách cổ phiếu không làm ảnh hưởng đến vốn của công ty, không làm ảnh hưởng đển quyền lợi của các cổ đông song có thể làm cho cổ phiếu của công ty dễ tiếp cận với nhà đầu tư. Cùng với việc phát hành cổ phiếu mới, công ty có thể sử dụng phương thức tạo lập vốn qua nguồn vốn chủ sở hữu bằng việc giữ lại lợi nhuận tái đầu tư. Đây là nguồn tài trợ quan trọng vì doanh nghiệp giảm được chi phí giảm bớt được sự phụ thuộc vào bên ngoài. Do đó trong thời gian tới một mặt công ty cần có các biện pháp nâng cao kết quả kinh doanh đồng thời thuyết phục đại hội đồng cổ đông đồng ý cho giữ lại lợi nhuận, tái đầu tư trở lại vào sản xuất. 3.2.2 Nguồn tín dụng ngân hàng Đây là phương thức đã được công ty sử dụng rất nhiều trong thời gian vừa qua. Trong bối cảnh kinh tế hiện nay việc tạo lập vốn qua kênh tín dụng này là nhanh chóng và tiện lợi nhất, có thể đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Công ty đã thực hiện huy động trên 80% nguồn nợ từ hình thức này do đó mà để có các hợp đồng tiếp theo là vấn đề khó khăn. Do đó công ty phải thường xuyên duy trì được mối quan hệ tốt đẹp với các ngân hàng quen thuộc đồng thời tìm được nguồn mới. Vấn đề quan trọng là phải đảm bảo uy tín doanh nghiệp, tránh tình trạng nợ quá hạn gây mất khả năng thanh toán. Tuy nhiên trong tình trạng nợ tín dụng ngân hàng như hiện nay công ty cần có các giải pháp tối ưu nhằm giảm thiểu tỷ trọng này. Thiết nghĩ đây sẽ là nguồn huy động cuối cùng để công ty sử dụng phòng khi có những bất lợi thị trường xảy ra doanh nghiệp vẫn có nguồn để trang trải. 3.2.3 Mở rộng các hình thức thuê tài sản Hiện nay công ty mới chỉ áp dụng hình thức thuê tài sản đối với tài sản là ô tô tải, ô tô vận chuyển 7- 8 chỗ, 16 chỗ. Còn với các tài sản loại khác thì công ty chưa sử dụng, nghĩa là đối với những máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất mà có nhu cầu sử dụng nhiều thì công ty thường tự đầu tư mua sắm bằng nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn vay dài hạn. Thực ra trong điều kiện khoa học kỹ thuật như hiện nay có rất nhiều máy móc dây chuyền mới hiện đại công ty vẫn chưa có khả năng đầu tư thay thế vì giá trị của nó rất lớn. Do đó để đầu tư một dây chuyền sản xuất hiện đại là vấn đề hết sức khó khăn, không chỉ đối với công ty may Thăng Long mà còn với hầu hết các doanh nghiệp khác. Thiết nghĩ với sự ra đời của các công ty cho thuê tài chính trong và ngoài hệ thống ngân hàng thì công ty nên sử dụng hình thức này. Thay vì phải trả một khoản tiền lớn để đầu tư mua sắm máy móc thiết bị thì hàng tháng công ty chỉ phải trả tiền thuê đủ để bù đắp chi phí mua tài sản và đem lại thu nhập cho bên thuê. Trong khi đó công ty vẫn được sử dụng tài sản cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh không làm ứ đọng vốn mà còn phát huy hiệu quả cao hơn. các quy định thuê được thoả thuận giữa hai bên. sau khi kết thúc hợp đồng thuê nếu công ty thấy tài sản còn cần thì có thể mua lại nguyên tài sản đó với giá phù hợp theo thị trường. Còn nếu không cần sử dụng nữa thì công ty có thể chấm dứt hợp đồng và thực hiện thuê các tài sản khác. Theo hình thức thuê này công ty có thể đăng kí thuê tài sản mà mình có nhu cầu cho công ty tài chính, đây là mặt thuận lợi vì nó đảm bảo cho nhu cầu hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Tuy nhiên trước khi có quyết định thuê hay mua mới công ty phải tính toán NPV và IRR của từng phương án để đưa ra quyết định phù hợp, vì nó còn phụ thuộc vào vòng đời của tài sản và giá trị tài sản. 3.2.4 Thực hiện liên doanh liên kết Một đặc điểm quan trọng của hình thức này là vốn nhận được từ liên doanh liên kết không thuộc bên nợ phải trả mà được tính vào nguồn vốn chủ sở hữu. Nhất là trong giai đoạn hiện nay khi nguồn vốn chủ sở hữu của công ty còn có tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn. Mặt khác vốn do các bên đóng góp không nhất thiết phải bằng tiền nên công ty có thể kêu gọi sự liên doanh dưới hình thức góp tài sản cố định bằng máy móc thiết bị dây chuyền sản xuất, hoặc bằng quyền sử dụng đất Ngoài ra với hình thức liên doanh liên kết cũng rất thích hợp để công ty có thể gia tăng năng lực sản xuất. Công ty có thể thực hiện liên doanh dưới hình thức : - Cùng hợp tác kinh doanh với 1 doanh nghiệp khác có thể là doanh nghiệp may mặc hoặc doanh nghiệp cung cấp. Hình thức này có lợi cho cả hai bên bởi vì khi đã hình thành liên doanh thì hai bên có thể bổ sung cho nhau cùng nhau phát triển. Bởi vì các nguyên phụ liệu của công ty hầu hết là nhập khẩu từ nước ngoài nên nếu có thể mời liên doanh được với các đối tác này, hoặc với nhà đầu tư nước ngoài thì là kế hoach tốt. Công ty có cơ hội nâng cao khoa học kỹ thuật và máy móc công nghệ hiện đại từ đó có khả năng mở rộng sản xuất kinh doanh và nâng cao thị phần. - Thực hiện liên doanh hợp tác dưới hình thức góp vốn, không tham gia trực tiếp vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận sẽ được phân chia theo tỷ lệ vốn góp. Thông qua hình thức này công ty sẽ có vốn để đầu tư vào tài sản cố định và tài sản lưu động phục vụ cho sản xuất. Việc tạo lập vốn thông qua hình thức này cần duy trì trong thời gian dài nhằm đảm bảo cho công ty có nguồn vốn ổn định phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. 3.2.5 Nguồn huy động trực tiếp Công ty có thể huy động nợ trực tiếp thông qua phát động các kỳ huy động với lãi suất hấp dẫn từ tất cả các cán bộ công nhân viên trong và ngoài công ty. Hình thức này công ty đang sử dụng có hiệu quả, mặc dù lượng huy động chưa cao song công ty nên có các hình thức hấp dẫn thông qua việc cân đối lãi suất, kỳ hạn trả nợ, hình thức thanh toán để thu hút khách hàng. Công ty có thể sử dụng phương thức tạo lập vốn thông qua việc phát hành trái phiếu. Phương thức này giúp công ty chủ động khai thác trực tiếp nguồn vốn sẵn có và tiềm năng của các tổ chức cá nhân trong nền kinh tế để phục vụ cho nhu cầu vốn kinh doanh. Việc phát hành trái phiếu phải được đặt trong những điều kiện nhất định, nó chỉ thực sự đạt hiệu quả cao khi lạm phát được kiềm chế ở mức thấp và mức lãi suất huy động thích hợp với một thị trường chứng khoán hoạt động có hiệu quả. Tuy nhiên trong điều kiện hiện nay mới chỉ có một số ít doanh nghiệp đủ khả năng phát hành trái phiếu ra công chúng. Đối với công ty may Thăng Long thì trước hết nên có các hình thức phát hành trái phiếu trong nội bộ công ty, nhằm huy động từ nguồn vốn nhàn rỗi trong nội bộ công ty, tạo tiền đề cho việc phát hành trái phiếu sau này. Đây cũng là hình thức vay cán bộ công nhân viên. Song để phương thức này có hiệu quả công ty phải xây dựng kế hoạch cụ thể, xác định khối lượng huy động, thời hạn của trái phiếu, mức lãi suất và hình thức thanh toán. 3.2.6. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn Chúng ta đã khẳng định tầm quan trọng của công tác tạo lập vốn thì vấn đề sử dụng vốn lại là yếu tố quan trọng hơn cả. Có vốn mà không biết sử dụng vốn thì việc tạo lập vốn trở lên vô ích. Do đó giải pháp quan trọng hàng đầu trong công tác tạo lập vốn thiết nghĩ là phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Do hiệu quả sử dụng vốn chưa cao nên tốc độ tăng trưởng của lợi nhuận sau thuế của công ty chưa nhiều. Nó làm hạn chế việc bổ sụng lợi nhuận vào vốn kinh doanh, từ đó làm ảnh hưởng rất lớn đến các yếu tố khác. vì vậy để cho khối lượng lợi nhuận tích luỹ lớn hơn so với hiện nay tạo ra sự an toàn hơn cho vốn chủ sở hữu giảm bớt sự phụ thuộc vào vốn vay ngân hàng thì trong thời gian tới công ty cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Điều này trước hết cần phải chú trọng đến công tác phân bổ vốn sao cho hợp lý để đạt tới cơ cấu vốn tối ưu, đồng thời thực hiện tiết kiệm trong chi tiêu, tăng nhanh vòng quay của vốn lưu động. Trên đây là những giải pháp tạo lập vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần may Thăng Long. Ngoài các hình thức đã được nêu rõ ở trên công ty còn có thể sử dụng một số các hình thức khác như từ các nguồn phải trả như các khoản phải trả nhà cung cấp (tín dụng thương mại), các khoản phải trả nhà nước (thuế, các khoản phải trả khác). Đây là các hình thức mà doanh nghiệp vẫn đang sử dụng nhưng chỉ chiểm tỷ trọng nhỏ trong cơ cấu nguồn của doanh nghiệp. Đặc biệt với hình thức tín dụng thương mại là phương thức có lợi cho doanh nghiệp, công ty cần có các kế hoạch hợp lý tạo uy tín doanh nghiệp nhằm khai thác tối đa nguồn tài trợ này. Nền kinh tế thị trường có nhiều biến động với nhiều cơ hội và thách thức to lớn đối với công ty. Sử dụng phương thức tạo lập nào là sự biến đổi linh hoạt của đội ngũ cán bộ quản lý tài chính của công ty, cho phù hợp với điều kiện thị trường và nhu cầu sản xuất kinh doanh. Do đó mà trình độ của đội ngũ cán bộ tài chính cũng có tác động không nhỏ tới hiệu quả của công tác tạo lập vốn. Muốn công tác tạo lập vốn thành công thiết nghĩ công ty có các chiến lược đào tạo cán bộ, bởi nếu có đội ngũ cán bộ giỏi về nghiệp vụ có tính sáng tạo nhanh nhạy để có thể thích ứng nhanh trước sự thay đổi của môi trường thì quá trình sản xuất kinh doanh của công ty luôn được đảm bảo đủ vốn. 3.3. Một số kiến nghị Để các giải pháp trên có thể thực hiện được nhằm tạo lập vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty may Thăng Long trong thời gian tới, nếu chỉ bằng sự lỗ lực của bản thân công ty thì chưa đủ mà cần phải có sự hỗ trợ của nhà nước và các cơ quan cấp trên. Bởi vì các cơ quan này vừa là cơ quan cấp trên vừa là nơi ban hành các quy định các văn bản pháp luật mà sự tồn tại của chúng có thể tạo điều kiện thuận lợi hoặc gây bất lợi cho hoạt động tạo lập vốn của công ty. Do đó một số những kiến nghị được đưa ra với hi vọng được các cơ quan này quan tâm nhằm giảm bớt những khó khăn về tài chính cho công ty, tạo điều kiện cho công ty đa dạng hoá nguồn vốn đáp ứng yêu cầu tồn tại và phát triển của mình. 3.3.1. Kiến nghị với nhà nước Nền kinh tế thị trường nước ta còn đặt dưới sự kiểm soát chặt chẽ của nhà nước, do đó mà các chính sách và các quy định nhà nước có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đặc biệt là công tác quản lý thị trường, trong đó có công tác tạo lập vốn. Nhà nước quản lý thị trường bằng các công cụ chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá, các quy định được thể chế thành pháp luật. Có những qui định nới lỏng tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển nhưng cũng có quy định nhằm bảo hộ cho quyền lợi của nhà nước mà thắt chặt hoạt động. Đơn cử như khi nền kinh tế có lạm phát chính phủ sử dụng chính sách thắt chặt tiền tệ, điều này làm giảm lượng tiền cung ứng trên thị trường. Nếu doanh nghiệp có chiến lược huy động trong thời gian này thì sẽ gặp khó khăn với chi phí vốn cao, nguồn thấp. Hoạt động tạo lập vốn cho doanh nghiệp có vai trò quan trọng, có tác động rất lớn tới hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhà nước cần có các chiến lược nhằm thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, sự tác động có thể trực tiếp hoặc gián tiếp. Trong môi trường kinh tế cạnh tranh ngày nay, đặc biệt với sự nỗ lực gia nhập WTO nhà nước phải đảm bảo môi trường đầu tư thuận lợi và hấp dẫn hơn, nhà nước cần có các chính sách tích cực hơn nữa trong việc thu hút đầu tư, mở rộng quan hệ đối ngoại. Đây sẽ là tiền đề cơ bản để công tác tạo lập vốn của doanh nghiệp được diễn ra thuận lợi. Công tác tạo lập vốn của doanh nghiệp chịu sự tác động rất lớn từ các yếu tố thị trường như thị trường chứng khoán, thị trường thuê tài chính. Nhà nước cần có sự tập trung phát triển các thị trường này, vì đây là kênh tập trung vốn có chất lượng và hiệu quả. Các doanh nghiệp có thể tạo lập vốn từ các thị trường này một cách hiệu quả. 3.3.2 Kiến nghị với tổng công ty Công ty may Thăng Long trực thuộc tổng công ty dệt may Việt Nam, cùng với các công ty khác chịu sự quản lý của tổng công ty. Mặc dù chuyển sang hình thức cổ phần hoá nhưng các hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty vẫn có sự tác động rất lớn từ tổng công ty. Việc phân bổ các hạn ngạch xuất khẩu sang thị trường Mỹ, các quy định về công tác tổ chức và công tác tạo lập vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, bản thân công ty cần có sự quan tâm hơn nữa từ tổng công ty nhằm giảm bớt những khó khăn về tài chính và môi trường kinh doanh. Tổng công ty là cơ quan bao trùm lên tổng thể các doanh nghiệp dệt may việt nam, do đó sự tác động của công ty có ảnh hưởng rất lớn. Tổng công ty nên có các hình thức tổ chức giới thiệu sản phẩm của toàn ngành, giới thiệu sản phẩm tới các bạn bè trên thế giới. Đồng thời có các buổi dự thảo thu hút đầu tư trong và ngoài nước, tạo tiền đề cơ sở cho hoạt động thu hút vốn của doanh nghiệp được diễn ra thuận lợi. Kết luận. Là sinh viên chuyên ngành tài chính doanh nghiệp,trong quá trình học tập em đã được tìm hiểu những vấn đề cơ bản về vốn trong doanh nghiệp và các phương thức tạo lập vốn. Qua thời gian tìm hiểu thực tế tại công ty cổ phần may Thăng Long em đã có nhận thức được tầm quan trọng của công tác tạo lập vốn đối với một doanh nghiệp. Trên cơ sở “học đi đôi với hành, lý luận phải gắn với thực tiễn”, em đã lựa chọn đề tài “giải pháp tạo lập vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh ở công ty cổ phần may Thăng Long” cho chuyên đề tốt nghiệp. Về cơ bản quá trình nghiên cứu đề tài và viết chuyên đề tốt nghiệp đã giúp em nâng cao kiến thức và đạt được những kết quả quan trọng. Về lý luận trước hết em đã có những khái quát chung về vốn, các đặc trưng về vốn và làm sáng tỏ được tầm quan trọng của vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tiếp đó em đã đi sâu vào nghiên cứu về nguồn vốn và các phương thức tạo lập vốn mà một doanh nghiệp có thể sử dụng trong nền kinh tế thị trường, đồng thời phân tích được các nhân tố tác động tới công tác tạo lập vốn. Trong thời gian thực tập tại công ty may Thăng Long em đã có sự tìm hiểu về công tác tạo lập vốn của công ty, về từng nguồn vốn và phương thức tạo lập mà công ty đã sử dụng trong thời gian qua và có những đánh giá chung về các kết quả đạt được và các mặt còn hạn chế của công ty. Trên cơ sở phân tích những cơ hội và thách thức của công ty trong nền kinh tế,và xuất phát từ định hướng hoạt động của công ty trong thời gian tới, em đã đưa ra các giải pháp tạo lập vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, với mong muốn sẽ góp phần hoàn thiện công tác tạo lập vốn của công ty. Trong quá trình nghiên cứu do hạn chế về mặt thời gian và kiến thức, bài viết không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được các thầy cô và các bạn góp ý kiến để em có thể hoàn thiện đề tài này và bổ sung những kiến thức còn thiếu sót. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Nguyễn Thị Thu Thảo và các anh chị trong phòng kế toán công ty may Thăng Long đã giúp em hoàn thành chuyên đề này. Sinh viên thực hiện Mai Thị Thu Hằng Danh mục tài liệu tham khảo Giáo trình tài chính doanh nghiệp – PGS. TS Lưu Thị Hương – Nhà xuất bản thống kê 2003 Giáo trình luật kinh tế – PGS. Nguyễn Hữu Viện – Nhà xuất bản đại học quốc gia Hà Nội 2001 Quản trị tài chính doanh nghiệp – PGS. Vũ Duy Hào, Đàm Văn Huệ – Nhà xuất bản thống kê 2003. Tạp chí thông tin tài chính số 18 (9/2004); số 24 (12/2004) Tạp chí tài chính doanh nghiệp số 4/2003; số 6/2003; số 10/2004 Tạp chí kinh tế phát triển số 83 (5/2004); số 85 (7/2004); số 89 (11/2004) Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 2 (2/2004); số 6 (6/2004) Tạp chí tài chính ngân hàng số 1/2001 Mạng vietnamnet: vnn.vn.com Báo đầu tư chứng khoán

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6993.doc
Tài liệu liên quan