Đề tài Giải pháp đẩy mạnh cho vay Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội

Ở các tỉnh có nền kinh tế kém phát triển, các chủ DNVVN qua đào tạo chiếm tỷ lệ rất thấp và hầu như là chưa qua đào tạo về mặt chuyên môn, còn công nhân chủ yếu là các lao động thủ công, mới chỉ qua đào tạo tay nghề ngắn hạn hoặc là những lao động chuyển từ sản xuất nông nghiệp sang. Do trình độ quản lý và tay nghề của lao động trong các DNVVN, đặc biệt là các DNVVN ở khu vực nông thôn còn kém nên hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh không cao, thiếu khả năng canh tranh với môi trường bên ngoài.

doc77 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 792 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp đẩy mạnh cho vay Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tệ (chủ yếu là USD), thường chiếm tỷ trọng cao hơn so với cho vay bằng VNĐ. Đây là xu hướng từ năm 2003, khi Chi nhánh NHNT-HN có chính sách cho vay ngoại tệ hỗ trợ xuất khẩu của thành phố Hà Nội. *** Tóm lại: Qua số liệu về Dư nợ cho vay DNVVN có thể thấy rằng, Chi nhánh NHNT-HN luôn chú trọng đẩy mạnh phát triển cho vay DNVVN. Dư nợ năm sau luôn cao hơn năm trước. Nó thể hiện chính sách phát triển cho vay DNVVN tại Chi nhánh, đồng thời cũng thể hiện sự chủ động tìm kiếm các khách hàng tiềm năng, các dự án, các phương án sản xuất kinh doanh khả thi của cán bộ tín dụng nhằm tạo điều kiện hỗ trợ kịp thời nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như mở rộng thị phần cho Chi nhánh NHNT-HN. 2.2.3.2.Tổng hợp về sự gia tăng số lượng DNVVN Bảng 7 : Số lượng khách hàng DNVVN của Chi nhánh NHNT-HN (2005-2007) Đơn vị: Doanh nghiệp Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Số lượng DNVVN 75 87 104 Tổng số doanh nghiệp 98 115 133 (Nguồn: Báo cáo kết qủa kinh doanh Chi nhánh NHNT-HN) Biểu đồ 5:Số lượng khách hàng DNVVN tại Chi nhánh NHNT-HN Qua số liệu bảng 7 ta thấy, số lượng các DNVVN có qun hệ tín dụng với Chi nhánh NHNT-HN có tăng đều đặn về số lượng theo các năm, nhưng tăng chưa nhiều. Cụ thể ta có thể thấy như sau: năm 2005 số DNVVN có quan hệ tín dụng với Chi nhánh là 75 doanh nghiệp, đến năm 2006 là 87 doanh nghiệp (tăng 12 doanh nghiệp), đến năm 2007 con số này là 103 doanh nghiệp ( tăng 17 doanh nghiệp sơ với năm 2006). Biểu đồ 5 thể hiện sự gia tăng về số lượng DNVVN có quan hệ tín dụng với Chi nhánh, sở dĩ có sự gia tăng về số lượng doanh nghiệp như vậy là do Chi nhánh đã có sự quan tâm đến việc mở rộng cho vay đối với loại hình doanh nghiệp này, thấy được sự phát triển của nó và đã có những chính sách mở rộng cho vay đối với loại hình DNVVN này. Thực trạng hoạt động c ủa DNVVN trên địa bàn thành Phố Hà Nội có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động cho vay của các NHTM trên địa bàn nói chung và Chi nhánh NHNT-HN nói riêng, Trên thực tế số DNVVN đăng k ý tài khoản thanh toán tại Chi nhánh NHNT-HN nhiều hơn rất nhiều so với số DNVVN vay vốn tại Chi nhánh. Bởi vậy, nhu cầu vay vốn của các DNVVN còn rất lớn, và đây là cơ hội để Chi nhánh tăng thị phần, tăng doanh thu đồng thời tăng uy tín của mình. 2.2.3.3.Tổng hợp về nợ quá hạn của DNVVN Bảng 8: Nợ quá hạn của DNVVN tại Chi nhánh NHNT-HN (2005-2007) Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu 2005 2006 2007 số lượng Tỷ trọng Số lượng Tỷ trọng Số lượng Tỷ trọng Nợ đủ tiêu chuẩn 355.025 97,26% 496.949 97,54% 575.165 99,22% Nợ quá hạn 10.002 2,74% 12.533 2,46% 4.522 0,78% Tổng dư nợ DNVVN 365.027 100% 509.482 100% 579.687 100% (Nguồn: Báo cáo kết qủa kinh doanh Chi nhánh NHNT-HN) Số liệu Bảng 10 cho chúng ta thấy, nợ quá hạn tại Chi nhánh NHNT-HN trong 3 năm vừa qua. Nợ quá hạn tại Chi nhánh luôn duy trì ở một tỷ lệ nhỏ so với tổng dư nợ: năm 2005 tỷ lệ nợ quá hạn chiếm 2,74%, năm 2006 tỷ lệ này là 2,46%, đến năm 2007 tỷ lệ nợ quá hạn tại Chi nhánh đã giảm đáng kể xuống còn 0,78%, và Chi nhánh NHNT-HN luôn có những biện pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng, giảm tỷ lệ nợ quá hạn. DNVVN có quan hệ tín dụng với Chi nhánh được đánh giá là có chất lượng tín dụng tương đối tốt, căn cứ thực tế nhận xét chất lượng tín dụng cho vay DNVVN là tương đối khả quan, ít có nguy cơ bùng phát nợ quá hạn. Bên cạnh đó dơ là DNVVN, nên số vốn yêu cầu vay là không lớn, TSĐB cho các khoản nợ xấu được đánh giá tương đối tốt nên khả năng thu hồi nợ đến hạn là không quá khó khăn. Như chúng ta biết, tỷ lệ nợ xấu trong khối DNVVN thường thấp vì các doanh nghiệp này thường không được Nhà nước bao cấp, hỗ trợ, mọi hoạt động của các doanh nghiệp này phải chịu mọi trách nhiệm cho tài sản của mình nếu làm ăn thua lỗ. Điều đó buộc các doanh nghiệp này luôn phải nỗ lực tìm kiếm thị trường, định hướng phát triển cho các sản phẩm dịch vụ của mình nhằm đạt được hiệu quả kinh doanh cao nhất, đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp và trả nợ cho ngân hàng. Mặt khác khi các DNVVN nộp hồ sơ xin vay vốn tại Chi nhánh NHNT-HN thì phải đảm bảo các yêu cầu hết sức khắt khe của Chi nhánh về các điều khoản nhằm đảm bảo tiền vay như: TSĐB, phương án sản xuất kinh doanh có tính khả thi cao, phương án trả nợ... Do đó giảm thiểu được các rủi ro dẫn đến doanh nghiệp làm ăn thua lỗ. 2.3.Đánh giá quá trình đẩy mạnh cho vay Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh NHNT-HN 2.3.1.Những kết quả đã đạt được Với sự nỗ lực không ngừng của tập thể cán bộ và ban lãnh đạo, Chi nhánh NHNT-HN đã đạt được rất nhiều kết quả đáng khích lệ trong công tác cho vay DNVVN. - Chi nhánh NHNT-HN đã thấy được tầm quan trọng của DNVVN đối với nền kinh tế nói chung và với hoạt động của Chi nhánh nói riêng. Vì vậy đã có chính sách nhằm tiếp cận, đầu tư vốn, cung cấp dịch vụ cho các DNVVN ngày một nhiều hơn, thể hiện qua tốc độc tăng trưởng hàng năm, năm sau luôn cao hơn năm trước - Chi nhánh ngày càng thu hút được nhiều DNVVN đến Chi nhánh vay vốn, đẩy nhanh mức dư nợ tín dụng đối với DNVVN. Số lượng các DNVVN chiếm tỷ lệ cao trong tổng số các doanh nghiệp có quan hệ tín dụng với Chi nhánh và tốc độ tăng trưởng về số lượng cũng khá ổn định. - Chất lượng tín dụng đối với các DNVVN cũng rất tốt, tỷ lệ nợ quá hạn giảm dần theo các năm. Dư nợ có tài sản đảm bảo chiếm tỷ lệ rất cao, điều này khẳng định khả năng an toàn trong việc cho vay DNVVN. - Doanh số cho vay và Dư nợ theo thành phần kinh tế có những chuyển biến tích cực, năm sau luôn cao hơn năm trước và đã tập trung vào các công ty Cổ phần và công ty TNHH còn các DNNN thì có sự sụt giảm. Điều này hoàn toàn phù hợp với xu thế phát triển của kinh tế đất nước và phù hợp với các chính sách cổ phần hoá DNNN của chính phủ. - Doanh số dư nợ và cho vay theo loại tiền của các DNVVN cũng phù hợp với mục tiêu khuyến khích cho vay ngoại tệ hỗ trợ xuất khẩu của thành phố Hà Nội mà Chi nhánh NHNT-HN đã triển khai thực hiện từ năm 2003. - Đẩy mạnh cho vay DNVVN đồng nghĩa với việc đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ ngân hàng khác như: hoạt động thanh toán trong và ngoài nước, hoạt động bảo lãnh, chi trả, tư vấn... Qua đó Chi nhánh NHNT-HN không những nâng cao được doanh số cho vay, dư nợ mà còn mở rộng được thị phần, nâng cao được uy tín và có thêm nhiều khách hàng mới. - Để đáp ứng nhu cầu của sự phát triển dịch vụ, Chi nhánh NHNT-HN cũng đã từng bước xây dựng được một đội ngũ cán bộ có trình độ nghiệp vụ cao, tinh thần phục vụ tốt, năng động, nhiệt tình với công việc. Nhờ đó hoạt động cho vay nói chung và cho vay DNVVN nói riêng được thực hiện một cách thuận tiện và nhanh chóng. Tóm lại: Bằng sự nỗ lực với tinh thần trách nhiệm cao, Chi nhánh NHNT-HN không chỉ tăng thu nhập và uy tín cho mình mà còn tạo ra một kênh cung cấp vốn lớn cho các DNVVN, giúp các doanh nghiệp này đáp ứng được những nhu cầu cấp thiết về vốn cho sản xuất và gián tiếp tạo công ăn việc làm cho nhiều lao động. 2.3.2.Những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động cho vay Doanh nghiệp vừa và nhỏ 2.3.2.1. Những hạn chế Bên cạnh những mặt đã đạt được của công tác cho vay DNVVN, thì tại Chi nhánh NHNT-HN vẫn còn những mặt hạn chế nhất định. - Về tỷ trọng cho vay DNVVN: Doanh số cho vay và dư nợ của DNVVN tuy vẫn tăng đều hàng năm xong tỷ tệ này còn thấp so với tổng dư nợ tín dụng nên chưa tạo ra được bước nhảy vọt. Doanh số cho vay và dư nợ của khối DNVVN này chỉ chiếm khoảng trên 20% so với tổng doanh số cho vay và dư nợ của Chi nhánh. - Về kỳ hạn cho vay: cho vay DNVVN vẫn chủ yếu tập trung vào cho vay ngắn hạn, còn cho vay trung cà dài hại còn chiếm tỷ lệ rất thấp và giảm đều hàng năm: năm 2005 tỷ lệ cho vay trung và dài hạn chiếm 31,09%, năm 2006 là 18,64% và năm 2007 là 12,07%. Do đó Chi nhánh chưa đáp ứng được hết các nhu cầu vay vốn trung và dài hạn của các DNVVN. - Về cơ cấu cho vay các doanh nghiệp: Như các số liệu ở trên chúng ta thấy việc cho vay các doanh nghiệp tư nhân và các doanh nghiệp khác chiếm một tỷ trọng quá nhỏ trong doanh số cho vay và cơ cấu dư nợ của chi nhánh. Trong khi đó nhu cầu vốn đối với các doanh nghiệp này cũng rất lớn, và cũng rất cần vay vốn để phát triển mở rộng sản xuất kinh doanh. - Về các phương thức cho vay: các phương thức cho vay DNVVN tại Chi nhánh NHNT-HN tuy đã có những thay đổi đáng kể song vẫn còn hạn chế. Chi nhánh cần mở rộng hơn nữa các phương thức cho vay nhằm tạo thuận tiện cho việc vay vốn của các DNVVN và cũng tạo điều kiện thuận lợi hơn chi Chi nhánh trong việc theo dõi các khoản vay và kiểm tra mục đích sử dụng vốn của các DNVVN. -Về cơ cấu tổ chức cán bộ: Hiện nay việc cho vay DNVVN tại Chi nhánh NHNT-HN vẫn thuộc nghiệp vụ của phòng Quan hệ khách hàng. Phòng ban này chịu trách nhiệm về các nghiệp vụ tín dụng đối với tất cả các doanh nghiệp bao gồm các doanh nghiệp lớn và DNVVN, bởi vậy chưa có tính chuyên môn hoá cao trong công tác cho vay DNVVN. 2.3.2.2.Nguyên nhân của những hạn chế trong cho vay DNVVN Một là: Nguyên nhân từ phía Chi nhánh NHNT-HN + Trước hết, tại Chi nhánh NHNT-HN vẫn luôn có chính sách chú trọng vào các đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp lớn. Hiện nay không chỉ có Chi nhánh NHNT-HN mà các NHTM khác nói chung đều đang chú trọng vào các chính sách đầu tư cho các dự án lớn, các doanh nghiệp lớn. Điều này hoàn toàn dễ hiều bởi các ngân hàng cũng là một đơn vị kinh doanh do đó luôn phải chú trọng đến vấn đề an toàn vốn vay, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi môi trường pháp lý và môi trường kinh tế còn có nhiều chỗ chưa đồng bộ. Cho vay doanh nghiệp lớn thường an toàn hơn vì các doanh nghiệp này thường có sự bảo lãnh của Nhà nước, có nền tảng tài chính vững vàng, có mạng lưới chi nhánh rộng khắp nên vấn đề TSĐB dễ dàng thảo mãn nhu cầu cho vay hơn. Thêm vào đó, với các doanh nghiệp lớn, Chi nhánh sẽ dễ dàng nắm bắt thông tin về hoạt động của doanh nghiệp hơn, từ đó dễ dàng theo dõi và kiểm tra được quá trình sử dụng vốn của doanh nghiệp. + Theo đặc điểm doanh nghiệp, khi các doanh nghiệp lớn vay vốn thường vay với số lượng lớn, như vậy sẽ làm doanh số cho vay tăng lên rất nhiều và mang lại cho Chi nhánh nguồn lớn nhuận lớn. Ngược lại đối với các DNVVN do khả năng tài chính hạn hẹp, giá trị tài sản không lớn, nhu cầu vay những món vay nhỏ, nên muốn đẩy mạnh doanh số cho vay thì Chi nhánh phải tốn nhiều chi phí thẩm định, giảm lợi nhuận khiến Chi nhánh ngần ngại trong việc cho vay DNVVN. + Theo quy định hiện nay, TSĐB là điều kiện bắt buộc để một DNVVN có thể vay vốn ngân hàng. Mà thông thường khách hàng chỉ được nhận một khoản vay tối đa bằng 70% giá trị TSĐB. Thêm vào đó, TSĐB lại là một vấn đề khó khăn đối với DNVVN điều này gây trở ngại cho các doanh nghiệp tiếp xúc với nguồn vốn ngân hàng. + Một nguyên nhân nữa xuất phát từ phía Chi nhánh ngân hàng là quy trình tín dụng. Các DNVVN hiện hay chủ yếu có nhu cầu vay vốn ngắn hạn trong thời gian gấp, nhưng theo đúng quy trình tín dụng thì phải tuân theo nhiều bước. Đặc biệt tại Chi nhánh NHNT-HN vẫn chưa có các quy định riêng dành cho DNVVN mà chỉ có quy trình tín dụng áp dụng chung cho các doanh nghiệp dẫn đến một khoản vay không lớn vẫn phải trải qua những bước phức tạp tương tự như khi vay một khoản vay lớn. Điều này gây khó khăn cho khách hàng và phức tạp cho cả các nghiệp vụ của Chi nhánh. + Trình độ thẩm định của các cán bộ vẫn còn có những hạn chế, có những trường hợp, cán bộ tín dụng không hiểu hết được về đặc thù kinh tế, kỹ thuật của từng ngành nghề kinh doanh nên đôi khi không đánh giá hết được rủi ro khi đầu tư, hoặc kéo dài thời gian thẩm định gây mất thời gian cho cả khách hàng và ngân hàng. + Thêm nữa, công tác Marketing tiếp xúc khách hàng còn hạn chế. Nhiều khách hàng chưa nắm được các quy định, thông tin về thủ tục, giấy tờ cần thiết khi đi vay vốn, nên thường gây mất thời gian, công sức đi lại nhiều lần, dẫn đến tâm lý ngại tiếp xúc với ngân hàng. Hai là, Nguyên nhân từ phía các DNVVN + Các DNVVN khi vay vốn tại ngân hàng phải có TSĐB, mà các doanh nghiệp này có quy mô nhỏ, tài sản thế chấp không nhiều nên rất khó tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng. +Sự phát triển của DNVVN chưa thực sự vững chắc, tăng trưởng mạnh về số lượng nhưng vẫn chưa tương ứng về chất lượng. + Báo cáo tài chính của DNVVN thường ít minh bạch, gây khó khăn và trở ngại cho Ngân hàng trong việc thẩm định và tiếp cận doanh nghiệp. Đồng thời cũng gây tâm lý lo ngại rủi khi tiếp cận cho ngân hàng. + Hiện nay, có rất nhiều DNVVN hoạt động chưa ổn định, sau một thời gian lại rút khỏi thị trường, thay tên đổi chủ _ ta thường gọi là các công ty ma, gây tâm lý lo ngại cho ngân hàng khi tiếp cận với các DNVVN. + Một số DNVVN thường hoạt động sản xuất kinh doanh còn hạn chế, khả năng sinh lời thấp, dự án phát triển kinh doanh thiếu tính khả thi, thiêus chiến lược kinh doanh, hoàn trả vốn khó khăn gây cho ngân hàng tâm lý ngại tiếp cận. Ba là, Nguyên nhân từ môi trường vĩ mô Hoạt động kinh doanh của ngân hàng là một loại hình kinh doanh đặc biệt: kinh doanh tiền tệ. Đây là một loại hình kinh doanh rất nhạy cảm với sự thay đổi của nền kinh tế trong và ngoài nước. + Hai bộ luật, Luật ngân hàng và Luật các TCTD đã tạo ra một hành lang phát lý cho hoạt động của NHTM, định hướng cho các ngân hàng hoạt động có hiệu quả. Tuy nhiên, hệ thống các văn bản liên quan tới hoạt động ngân hàng vẫn chưa thực sự đồng bộ. Giữa các luật ngân hàng và các bộ luật khác như Luật Dân sự, Luật đất đai, Luật hình sự, Luật doanh nghiệp, Luật thuế.. vẫn có những chỗ không khớp ảnh hướng tới hoạt động xác định TSĐB, Tài sản cầm cố thế chấp, quy định đảm bảo tiền vay.. gây khó khăn cho ngân hàng trong việc xử lý nghiệp vụ cho vay. + Nhà nước vẫn chưa có những biện pháp triệt để nhằm hỗ trợ sự phát triển của các DNVVN, do đó các DNVVN phát triển cũng gặp rất nhiều khó khăn. Chương 3: Giải pháp đẩy mạnh cho vay Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh ngân hàng Ngoại thương Hà Nội 3.1.Định hướng phát triển cho vay Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh NHNT-HN 3.1.1.Xu hướng phát triển của Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong thời gian tới Phát triển DNVVN là một phần quan trọng và mang tính chiến lược trong công cuộc phát triển kinh tế xã hội. Trong công cuộc phát triển kinh tế nhất là khi nước ta đã gia nhập WTO với những chính sách kinh tế mở cửa, việc phát triển DNVVN sẽ khuyến khích những người có tiền bỏ vốn vào đầu tư sản xuất kinh doanh, sẽ làm cho nền kinh tế trở nên đa dạng, phong phú và năng động hơn, đồng thời sẽ làm tăng tính cạnh tranh, tác động tích cực đến sự phát triển của nền kinh tế. DNVVN phát triển theo hướng đa dạng hoá ngành nghề và loại hình doanh nghiệp DNVVN có quy mô nhỏ, nên rất năng động trong việc chuyển dịch cơ cấu phát triển và chuyển hướng sản xuất. Các DNVVN đang tận dụng các nhu cầu về các mặt hàng thông thường phục vụ cuộc sống phù hợp với mức vốn đầu tư nhỏ, lại có thị trường phong phú để đưa ra nhưng chiến lược phát triển kinh doanh sao cho phù hợp. Bên cạnh đó DNVVN cũng từng bước đa dạng hoá về trình độ công nghệ, đổi mới và áp dụng những công nghệ hiện đại vào sản xuất kinh doanh. Để phù hợp với xu thế chung của thị trường và thế giới, cũng như là đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng, các DNVVN cũng từng bước áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến vào sản xuất, giúp nâng cao hiệu quả và chất lượng sản phẩm. Nhằm phát triển sản xuất kinh doanh, thu được lợi nhuận tối đa cho doanh nghiệp. Các DNVVN cũng có xu hướng liên kết với nhau và liên kết với các doanh nghiệp lớn khác nhằm tạo ra được các sản phẩm hoàn chỉnh trong một chuỗi sản xuất liên doanh, liên kết Việc liên kết với nhau và liên kết với các doanh nghiệp lớn khác sẽ giúp cho các DNVVN tận dụng được những thế mạnh của mình, và cũng giúp cung cấp nguyên vật liệu, đầu vào cho quá trình sản xuất của một số doanh nghiệp lớn, chuyên môn hoá các công đoạn trong quá trình sản xuất. Đây là một xu hướng phù hợp cho sự phát triển của các DNVVN nói riêng cũng như là sự phát triển kinh tế nước nhà nói chung. 3.1.2.Định hướng chung cho hoạt động kinh doanh của Chi nhánh NHNT-HN 3.1.2.1. Định hướng phát triển cụ thể cho năm 2008 Nguồn vốn Chi nhánh tiếp tục phát huy các thế mạnh về công nghệ và uy tín thương hiệu của một Ngân hàng đối ngoại trên địa bàn, đồng thời kết hợp với đa dạng hoá các hình thức các công cụ huy động vốn như kỳ phiếu, trái phiếu, phát triển các sản phẩm ngân hàng hiện đại, tích hợp nhiều tiện ích, mở rộng mạng lưới giao dịch, áp dụng chính sách lãi suất linh hoạt hấp dẫn, các nghiệp vụ hoán đổi lãi suất, quyền chọn... để cung cấp các sản phẩm huy động vốn ngày càng đa dạng và hiện đại hơn đến khách hàng, nâng cao tỷ trọng tiền gửi doanh nghiệp trên tổng huy động vốn từ khách hàng từ 26% năm 2006, 36% năm 2007 lên 40% năm 2008. Với việc mở thêm các địa điểm giao dịch và giao dịch tại trụ sở mới 344 Bà Triệu, dự kiếm cuối năm 2008 tổng nguồn vốn của Chi nhánh tăng 15% so với năm 2007, trong đó nguồn huy động từ dân cư và các tổ chức kinh tế đạt 7.500 tỷ đồng, tăng 19 % so với năm 2007. Tính trung bình trong giai đoạn 2005- 2010 tốc độ tăng trưởng huy động vốn của Chi nhánh dự kiến khoảng 16,4 % do sự phát triển không ngừng của các tổ chức tài chính, tín dụng và các tổ chức kinh tế trên địa bàn hiện nay làm gia tăng các loại hình đầu tư cạnh tranh với hoạt động gửi tiền của Ngân hàng. Vì vậy, bên cạnh các giải pháp về nghiệp vụ, Chi nhánh đã và sẽ tiếp tục nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, nâng cao chất lượng dịch vụ và văn minh trong giao tiếp, từng bước áp dụng mô hình quản lý và tổ chức giao dịch trong khối Ngân hàng bán lẻ theo chuẩn mực của một NHTM hiện đại. Cho vay Kế họach đến cuối năm 2008, Chi nhánh sẽ đạt mức dư nợ tín dụng tăng 20% so với năm 2007. Khống chế tỷ lệ nợ quá hạn dưới mức 2%, giảm dần tỷ lệ nợ xấu, nợ khó đòi. Tăng dần tỷ trọng cho vay trung và dài hạn đầu tư tài sản cố định trong cơ cấu tín dụnh của Chi nhánh , kế hoạch 2008 đạt 28% tổng dư nợ. Các mặt khác -Phát triển mạng lưới: Thực hiện theo chỉ đạo của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, dự kiến trong năm 2008, Chi nhánh sẽ tiến hành mở mới 04 phòng giao dịch, đưa sản phẩm dịch vụ và các tiện ích của Ngân hàng Ngoại thương tới gần hơn với khách hàng. -Tăng cường đào tạo và bổ sung cán bộ cho yêu cầu mở rộng quy mô hoạt động và đặc biệt là cổ phần hoá Ngân hàng Ngoại thương. Nâng cao chất lượng hoạt động, nâng cao vị thế của Ngân hàng Ngoại thương trong giai đoạn mới - giai đoạn cổ phần hoá. -Tiến hành các thủ tục cần thiết để xây mới trụ sở 78 Nguyễn Du 3.1.2.2.Mục tiêu cùng hệ thống ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đến năm 2010. -Đạt các chỉ tiêu theo thông lệ quốc tế về Ngân hàng (BIS), và các chỉ số an toàn vốn (CAR) theo tiêu chuẩn quốc tế. -Nâng cao năng lực quản lý điều hành với mục tiêu đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng, tạo ra các sản phẩm hiện đại phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế. -Phát triển mở rộng mạng lưới gắn liền với các sản phẩm mới trên nền tảng công nghệ hiện đại. -Giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống Ngân hàng Việt Nam, phấn đấu trở thành Ngân hàng lớn trong Khu vực. -Đẩy mạnh thể chế hóa, hoàn thiện và đưa vào ứng dụng mô hình tổ chức hiện đại, kiện toàn quy chế và quy trình hóa các nghiệp vụ hoạt động của Ngân hàng. -Cùng với Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam trở thành một tập đoàn tài chính đa dạng, có quy mô lớn ở Châu Á vào giai đoạn 2015-2020, có phạm vi hoạt động không những trong nước mà cả các thị trường tài chính lớn trên thế giới. 3.1.2.3.Định hướng phát triển riêng của Chi nhánh đến năm 2010 -Không ngừng tăng trưởng về nguồn vốn, mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng, áp dụng nhiều giải pháp để kinh doanh hiệu quả với mục tiêu tăng lợi nhuận. -Đi đầu ứng dụng và phát triển công nghệ trong quản lý kinh doanh. Dần từng bước lượng hóa và nâng cao chất lượng trong dịch vụ Ngân hàng. -Triển khai áp dụng mô thức quản trị mới trong Ngân hàng theo tiêu chuẩn quốc tế, chuẩn mực hóa quy trình và không gian giao dịch, phát triển mạng lưới hoạt động trên địa bàn Hà Nội, mở rộng hoạt động Ngân hàng bán buôn, bán lẻ. -Phát huy vai trò chủ đạo trên thị trường liên Ngân hàng và hoạt động kinh doanh ngoại tệ. -Thực hiện thắng lợi chủ trương cổ phần hóa theo chỉ đạo của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước với mục tiêu nâng cao năng lực quản trị điều hành và năng lực tài chính của Ngân hàng Ngoại thương trong những năm tới. 3.1.3.Định hướng đẩy mạnh cho vay DNVVN tại Chi nhánh NHNT-HN Trong định hướng phát triển tín dụng thì định hướng đẩy mạnh cho vay DNVVN tại Chi nhánh NHNT-HN cũng được xác định là một trong những định hướng quan trọng hàng đầu. Để đẩy mạnh và tạo điều kiện cho vay DNVVN, Chi nhánh đã thống nhất một số định hướng như sau: + Tiếp tục thực hiện chuyển dịch cơ cấu khách hàng theo hướng giảm tỷ trọng cho vay DNNN, tăng cho vay đối với khách hàng tư nhân, công ty Cổ phần, TNHH và các công ty có vốn đầu tư nước ngoài. + Đổi mới phương thức hoạt động và hình thức đầu tư theo hướng, chủ động tìm kiếm, tư vấn, hỗ trợ khách hàng DNVVN trong việc lập dự án đầu tư và chú trọng đến hiệu quả của dự án làm căn cứ chính trong việc xét duyệt cho vay. +Tăng trưởng tín dụng DNVVN phải đi đôi với chất lượng tín dụng của Chi nhánh. Khuyến khích tập trung vào các nhóm đối tượng khách hàng truyền thống, khách hàng ưu tiên, có uy tín, làm ăn có hiệu quả và đặc biệt nỗ lực tìm kiếm các khách hàng mới có tiềm năng. + Có các chính sách mới phát triển chuyên môn nghiệp vụ về cho vay DNVVN nhằm loại bỏ tư tưởng ngại tiếp cận các doanh nghiệp này, đồng thời chuyên môn hoá việc cho vay DNVVN để đạt hiệu quả cao hơn trong công tác thẩm định và cấp tín dụng. + Nghiên cứu các biện pháp để rút ngắn thời gian xét duyệt cho vay vốn đối với các DNVVN. 3.2.Các giải pháp nhằm đẩy mạnh cho vay đối với DNVVN tại Chi nhánh NHNT-HN 3.2.1.Nâng cao trình độ của cán bộ tín dụng Thực tế cho thấy chất lượng tín dụng phụ thuộc rất nhiều vào trình độ chuyên môn của các cán bộ tín dụng. Cán bộ tín dụng đóng vai trò hết sức quan trọng trong nghiệp vụ cho vay của ngân hàng, họ là những người trực tiếp tư vấn tiếp thị cho các sản phẩm dịch vụ tín dụng của ngân hàng đồng thời có trách nhiệm thẩm định dự án, kiểm tra, giám sát các khoản vay... Đối với khách hàng thì cán bộ tín dụng chính là bộ mặt của ngân hàng, đại diện cho ngân hàng. Nếu như cán bộ tín dụng có tác phong nhanh nhẹn, tinh thông nghiệp vụ, thái độ phục vụ tốt sẽ tạo ấn tượng tốt cho khách hàng về ngân hàng, tạo sự tin tưởng đối với khách hàng như vậy sẽ giữ được khách hàng cũ và thu hút được ngày càng nhiều hơn khách hàng mới đến với ngân hàng. Vì vậy việc nâng cao trình độ cán bộ tín dụng có tác dụng chủ yếu tới sự phát triển mạnh mẽ của ngân hàng cũng như của việc đẩy mạnh cho vay DNVVN. Để làm tốt công tác này, Chi nhánh NHNT-HN đã chú trọng ngay từ khâu tuyển dụng cán bộ. Các cán bộ được tuyển dụng phải là những người tinh thông và hiểu biết về lĩnh vực tài chính ngân hàng, có tư duy nhạy bén, tác phong nhanh nhẹn, có tính trung thực và nhiệt tình. Đặc biệt ưu tiên những người đã có kinh nghiệm trong lĩnh vực ngân hàng nhất là khâu thẩm định. Trong thời điểm hiện nay khi chính sách thành lập ngân hàng được nới lỏng, nhiều ngân hàng mới được hình thành, nhu cầu về nguồn nhân lực là rất lớn. Các ngân hàng đua nhau đưa ra những chính sách đãi ngộ nhằm thu hút được các cán bộ tốt, và giảm bớt được gánh nặng đào tạo. Tận dụng những ưu thế sẵn có của một trong những chi nhánh hàng đầu thuộc hệ thống ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Chi nhánh NHNT-HN luôn đưa ra những chính sách nhân sự hấp dẫn để thu hút nhân lực có trình độ cao, nhằm đáp ứng được nhu cầu của sự phát triển. Thêm vào đó, Chi nhánh NHNT-HN cũng thường xuyên mở lớp đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ của mình nhằm giúp cho các cán bộ nắm chắc hơn về quy trình nghiệp vụ, về phân tích tài chính, thẩm định dự án và quán lý rủi ro... Chi nhánh ngân hàng cũng khuyến khích các cán bộ của mình nâng cao hơn trình độ ngoại ngữ, tin học và tham gia các trương trình học sau đại học như Thạc sỹ, Tiến sỹ ở trong và ngoài nước nhằm giúp ích cho công tác chuyên môn của mình. Không chỉ có vậy, Chi nhánh còn luôn chú trọng tới việc sắp xếp và phân công lao động ở từng bộ phận sao cho hợp lý nhất, để tận dụng được nguồn nhân lực và đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ ở tất cả các khâu trong quá trình đầy mạnh cho vay DNVVN cũng như mọi khâu khác trong hoạt động của ngân hàng. 3.2.2.Hoàn thiện chính sách cho vay phù hợp với các DNVVN Như chúng ta đã biết thực tế vị trí của DNVVN ở nước ta là hết sức quan trọng. DNVVN tham hoạt động trong rất nhiều lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế. Bởi vậy đã tạo ra một nhu cầu rất lớn về việc vay vốn của khối các doanh nghiệp này. Song trên thực tế, quá trình vay vốn ngân hàng của các DNVVN cũng vẫn còn rất nhiều khó khăn, số lượng các DNVVN vay vốn tại Chi nhánh NHNT-HN còn rất hạn chế. Để khai thác thị trường đầy tiềm năng này, cũng như là mở rộng thị phần và tăng doanh thu trong hoạt động kinh doanh, Chi nhánh NHNT-HN cần phải có những chính sách thích hợp đối với khách hàng là DNVVN. 3.2.2.1.Đưa ra những chính sách về lãi suất linh hoạt và mềm dẻo đối với DNVVN Nói đến lãi suất là nói đến một khía cạnh rất quan trọng trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Lãi suất là một nguồn thu, là lợi nhuận của ngân hàng nhưng nó đồng thời cũng là chi phí về nguồn vốn đối với các doanh nghiệp. Chính bởi vậy nó không chỉ quyết định tính cạnh tranh của ngân hàng mà còn khuyến khích các doanh nghiệp vay vốn kinh doanh có hiệu quả hơn. Như chúng ta biết, nếu như các DNVVN được vay vốn với mức lãi suất thấp thì họ sẽ giảm đi được một phần chi phí sản xuất và cũng giảm bớt được gánh nặng trong việc trả lãi cho ngân hàng. Nhưng trong khi đó ngân hàng lại cần có một mức lãi suất thoả đáng để bù đắp cho những chi phí trong quá trình huy động vốn, trả lương cho cán bộ công nhân viên và đem lại lợi nhuận cho ngân hàng. Bởi vậy Chi nhánh NHNT-HN cần xây dựng một chính sách lãi suất thoả đáng, phù hợp với lợi ích của Chi nhánh và của khách hàng. Khi thực tế cho thấy việc cho vay DNVVN chứa đựng rất nhiều rủi ro, và cho vay DNVVN thường là những món vay nhỏ, để có được một lượng dư nợ lớn cần phải mở rộng quan hệ tín dụng với nhiều doanh nghiệp hơn. Điều đó dẫn đến thực tế là đẩy mạnh cho vay DNVVN sẽ tốn nhiều chi phí hơn so với việc cho vay doanh nghiệp lớn. Bởi vậy để cân bằng lợi ích giữa ngân hàng và khách hàng, Chi nhánh NHNT-HN cần phải thực hiện tốt khâu định giá tiền vay, để đưa ra một mức lãi suất thích hợp nhằm thu hút được khách hàng, cạnh tranh với các ngân hàng khác và đem lại lợi nhuận cao nhất có thể cho ngân hàng. Để đáp ứng các yêu cầu về lãi suất trên, Chi nhánh NHNT-HN có thể áp dụng lãi suất linh hoạt cho từng khoản vay với những đối tượng vay khác nhau. Cụ thể như: Chi nhánh có thể áp dụng mức lãi suất ưu đãi cho các khách hàng là khách hàng thường xuyên, khách hàng có uy tín, khách hàng truyền thống của Chi nhánh hay là những khách hàng có thông tin tài chính minh bạch. Đồng thời cũng có thể áp dụng những mức lãi suất không ưu đãi bằng, với những khách hàng không thường xuyên Tại Chi nhánh NHNT-HN hiện nay cũng đã áp dụng việc phân loại khách hàng theo các tiêu chuẩn: A,B,C... tuy nhiên việc phân loại này vẫn còn máy móc và kém linh hoạt. 3.2.2.2.Áp dụng các kỳ hạn cho vay linh hoạt sao cho phù hợp với chu kỳ kinh doanh của DNVVN Hiện nay, các DNVVN vay vốn tại Chi nhánh NHNT-HN chủ yếu chỉ là vay vốn ngắn hạn. Nguồn vốn vay này chỉ có thể đáp ứng cho các nhu cầu về mua nguyên vật liệu, thanh toán... những nhu cầu ngắn hạn. Tuy nhiên các DNVVN cũng rất cần nguồn vốn trung và dài hạn để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, trang thiết bị máy móc hiện đại. Nhưng việc tiếp xúc với nguồn vốn trung và dài hạn của các DNVVN là rất khó khăn vì họ gặp phải vướng mắc về TSĐB khi vay vốn. Một việc quan trọng nữa là Chi nhánh NHNT-HN cần phải nghiên cứu xác định kỳ hạn trả nợ đối với những khoản vay trung và dài hạn sao cho phù hợp với sự phát triển của DNVVN, để các doanh nghiệp này có thể trả nợ đúng hạn khi việc sản xuất kinh doanh của họ bắt đầu có khả năng sinh lời. Bởi khi bắt đầu đầu tư thì các DNVVN này rất khó có đủ khả năng để có thể trả được các khoản nợ ngân hàng. Cơ sở để xác định kỳ hạn cho vay dựa vào việc đánh giá đối với từng khách hàng, từng loại hình kinh doanh và từng thời điểm nhất định. Nếu như ngân hàng xác định được kỳ hạn cho vay và trả nợ đối với từng khoản vay một các hợp lý thì sẽ giúp cho bản thân ngân hàng có thể thu được lãi và gốc đúng kỳ hạn, tránh tình trạng nợ quá hạn tăng cao hay mất vốn. Đồng thời khi đó các DNVVN cũng có khả năng đẩy mạnh sản suất kinh doanh, làm ăn phát triển, có khả năng trả nợ ngân hàng, tránh được sức ép từ phía ngân hàng khi không trả nợ đúng hạn. Từ đó, ngân hàng sẽ tạo được lòng tin cho khách hàng, thu hút được ngày càng nhiều hơn các DNVVN đến vay vốn, điều này đồng nghĩa với việc lợi nhuận của ngân hàng sẽ tăng lên, thị phần của ngân hàng được mở rộng, uy tín của ngân hàng được nâng cao. Không chỉ có Chi nhánh ngân hàng có lợi từ chính sách kỳ hạn cho vay hợp lý, mà chính các DNVVN cũng có điều kiện thuận lợi hơn cho việc mở rộng và phát triển sản xuất kinh doanh. Do đó, trong quá trình xét duyệt cho vay các DNVVN, Chi nhánh NHNT-HN cần bàn bạc với khách hàng, nghiên cứu phương án kinh doanh, phương án trả nợ sao cho phù hợp nhất đối với mỗi khoản vay. 3.2.3. Đơn giản hoá thủ tục cho vay. Khi đi vay vốn tại ngân hàng hiện nay, các DNVVN vẫn phải trải qua những thủ tục hết sức phức tạp, và mất khá nhiều thời gian trong khi nhu cầu vay vốn của các DNVVN thuờng là những nhu cầu tức thời, cần vốn gấp. Tại Chi nhánh NHNT-HN, để nhận được vốn vay, thì phải trải qua rất nhiều bước, mặc dù quy trình này đã được rút ngắn trong những năm gần đây để giúp cho khách hàng thuận tiện hơn, tiết kiệm thời gian hơn. Tuy nhiên trong quy trình tín dụng được áp dụng đó, vẫn có những chỗ còn rườm rà, nên rút ngắn để làm giảm thời gian, chi phí cho cả khách hàng lẫn ngân hàng. Chi nhánh có thể rút ngắn thời gian thẩm định và tái thẩm định dự án đối với các khoản vay nhỏ của các khách hàng truyền thồng đang có quan hệ tốt với ngân hàng, như vậy sẽ giảm được thời gian và chi phí thẩm định và cũng giúp cho các doanh nghiệp này sớm nhận được vốn vay để kịp thời phát triển sản xuất. Đồng thời Chi nhánh NHNT-HN cũng phải tích cực giới thiệu và hướng dẫn cho các DNVVN các phương thức vay vốn tại ngân hàng, cách thức và các yêu cầu về giấy tờ, hồ sơ vay vốn. Đưa ra các thông tin cần thiết giúp cho các DNVVN hoàn thiện tốt hồ sơ, tránh tình trạng các doanh nghiệp ngại tiếp xúc với ngân hàng do phải làm hồ sơ giấy tờ phức tạp. 3.2.4.Nâng cao chất lượng thẩm định và đẩy mạnh công tác kiểm tra giám sát Thẩm định dự án là một khâu hết sức quan trọng trong hoạt động tín dụng của bất cứ ngân hàng nào. Quá trình thẩm định diễn ra tốt, dự án thẩm định được đánh giá có hiệu quả cao, có khả năng trả nợ, thì khoản vay đó sẽ giảm bớt được độ rủi ro cho mỗi dự án. Công tác thẩm định được thực hiện chính xác sẽ làm giảm nguy cơ mất vốn cho ngân hàng. Muốn công tác thẩm định được thực hiện một cách hiệu quả thì Chi nhánh NHNT-HN cần phải có một đội ngũ cán bộ thẩm định tốt, am hiểu về mọi lĩnh vực kinh doanh. Bởi vậy việc thường xuyên bồi dưỡng nâng cao trình độ cho các cán bộ tín dụng là hoàn toàn cần thiết. Chi nhánh có thể thường xuyên tổ chức các khoá học ngắn ngày nhằm bổ xung kiến thức nâng cao trình độ cho cán bộ của mình, gửi các cán bộ của mình đi thực tế tại nước ngoài, khuyến khích và tạo điều kiện cho các cán bộ thường xuyên cập nhật thông tin trên các phương tiện truyền thông đại chúng như: báo chí, tài liệu, Internet.... Chi nhánh NHNT-HN có thể thực hiện chuyên môn hoá công tác cho vay DNVVN bằng cách mở một phòng ban, hay một tổ cụ thể chuyên về cho vay DNVVN. Việc thành lập phòng hoặc tổ riêng phụ trách việc cho vay DNVVN sẽ giúp cho các cán bộ chuyên môn hoá hơn về các nghiệp vụ của mình, như vậy có thể làm giảm thời gian trong công tác thẩm định và xét duyệt dự án, đồng thời các cán bộ này sẽ nắm bắt tốt hơn, đi sâu hơn vào các phương thức kinh doanh của loại hình doanh nghiệp này, để từ đó có thể kiến nghị đưa ra được những phương thức thích hợp nhằm đẩy mạnh việc cho vay DNVVN tại Chi nhánh. Và cũng qua đó, các cán bộ này cũng có thể kiểm tra giám sát hoạt động của các doanh nghiệp vay vốn tốt hơn. Việc kiểm tra và giám sát các khoản vay cũng là một công việc hết sức quan trọng, công tác này giúp ngân hàng có thể đảm bảo được các khoản vay sẽ trả gốc và lãi đúng hạn. Các cán bộ tín dụng cần phải đôn đốc kiểm tra giám sát khoản vay từ lúc bắt đầu giải ngân, nhằm ngăn ngừa khả năng sử dụng vốn sai mục đích, kiểm tra khả năng phát triển của dự án, xém xét quá trình luân chuyển vật tư, quá trình sản xuất và hình thành hàng hoá, khả năng tiêu thụ sản phẩm, kiểm tra TSĐB, đánh giá tình hình hoạt động kinh doanh và tình hình tài chính cụ thể của doanh nghiệp vay vốn để có những bước chuẩn bị giải quyết khi gặp vấn đề trong quá trình cho vay vốn. Thông qua quá trình kiểm tra giám sát các doanh nghiệp vay vốn, cán bộ tín dụng có thể tư vấn cho doanh nghiệp một phần trong khả năng của mình để giúp cho doanh nghiệp hoạt động tốt hơn. Việc kiếm tra giám sát sẽ giúp cho việc nâng cao hiệu quả thu hồi vốn của ngân hàng. Đối với những khoản vay đủ tiêu chuẩn, được đánh giá là có khả năng thu hồi cả vốn lẫn lãi đúng theo kỳ hạn trong hợp đồng tín dụng, các cán bộ tín dụng cần chú ý đôn đốc, nhắc nhở việc trả nợ đúng hạn. Đối với các khoản vay có nguy cơ không trả được nợ do những nguyên nhân khách quan như thời tiết, môi trường kinh tế thay đổi đột ngột... Các cán bộ tín dụng cần phối hợp với chuyên gia tư vấn để giúp cho khách hàng tháo gỡ vướng mắc của mình, tạo điều kiện để doanh nghiệp tiếp tục hoạt động sản xuất và trả nợ cho ngân hàng. Đối với các khoản vay có nguy cơ mất vốn do bị phá sản hoặc một số lý do khác thì cán bộ tín dụng phải nhanh chóng tìm cách thu hồi nợ thông qua TSĐB một cách hiệu quả nhất. Bên cạnh đó, Chi nhánh NHNT-HN còn cần phải tăng cường kiểm tra giám sát nột bộ nhằm giúp các cán bộ nâng cao ý thức nghiệp vụ đồng thời đảm bảo chất lượng cho hoạt động tín dụng của ngân hàng. 3.2.5.Đa dạng hoá các hình thức cho vay DNVVN Hình thức cho vay của các ngân hàng sẽ quyết định số lượng DNVVN đến vay vốn tại ngân hàng. Các hình thức cho vay chính là sản phẩm dịch vụ của ngân hàng, nếu như sản phẩm dịch vụ đó không đa dạng, không đáp ứng được với các nhu cầu khác nhau của khách hàng thì sẽ không thu hút được khách hàng. Các hình thức vay vốn cũng chính là chìa khoá, là động lực để cạnh tranh với các ngân hàng khác nhất là trong thời buổi hiện nay khi mà các NHTM mở ra ngày một nhiều hơn. Hiện nay tại Chi nhánh NHNT-HN chưa thực sự có những sản phẩm riêng cho loại hình DNVVN, bởi vậy Chi nhánh cần phải có những biện pháp cụ thể nhằm mở rộng thêm việc cho vay DNVVN. - Chi nhánh có thể mở rộng việc chiết khấu các giấy tờ có giá, vì theo như thực tế cho thấy các DNVVN nắm giữ rất nhiều các loại giấy tờ có giá chưa đến hạn thanh toán. Bởi thế ngân hàng có thể mở rộng việc chiết khấu các giấy tờ này. Các DNVVN có thể mang các giấy tờ này đến ngân hàng để chiết khấu trước hạn nhằm có thêm một lượng vốn bổ sung cho quá trình sản xuất kinh doanh của mình. Và như vậy Chi nhánh sẽ có thêm một loại sản phẩm dịch vụ nữa phục vụ cho các DNVVN, đồng thời cũng tăng thêm thu nhập cho ngân hàng. - Chi nhánh NHNT-HN cũng có thể mở thêm hình thức cho vay đảm bảo bằng các khoản phải thu. Như chúng ta biết, trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp cũng có những trường hợp sau khi cung ứng dịch vụ một thời gian nhất định doanh nghiệp mới nhận được tiền cho sản phẩm dịch vụ đấy, vấn đề này gây khó khăn trong việc vốn luân chuyển của doanh nghiệp. Bởi vậy Chi nhánh có thể mở thêm hình thức cho vay được đảm bảo bằng các khoản phải thu này. Các DNVVN có thể vay những khoản vốn nhỏ, theo một tỷ lệ nhất định nào so với khoản phải thu của doanh nghiệp. Như vậy sẽ giúp cho Chi nhánh có thêm một sản phẩm mới phục vụ cho đối tượng khách hàng DNVVN, đồng thời cũng tạo thêm nguồn thu cho ngân hàng và sự thuận lợi cho khách hàng. Bên cạch đó Chi nhánh NHNT-HN cũng phải không ngừng nghiên cứu đưa ra các sản phẩm mới nhằm thu hút sự quan tâm từ phía khách hàng là DNVVN. 3.2.6.Tăng cường vai trò tư vấn và tạo mối quan hệ tốt giữa Chi nhánh với DNVVN Chi nhánh NHNT-HN phải chủ động trong việc tìm kiếm khách hàng và tư vấn cho khách hàng của mình về các lợi ích mà khách hàng được hưởng khi sử dụng dịch vụ của ngân hàng. Khi ngân hàng đóng vai trò làm tư vấn cho doanh nghiệp về việc sử dụng vốn vay sao cho hiệu quả cũng có nghĩa là sẽ giúp cho doanh nghiệp trả nợ đủ và đúng hạn cho ngân hàng. Để thực hiện được vai trò tư vấn của mình, cán bộ của Chi nhánh ngân hàng cần phải cũng cấp thêm cho mình các kiến thức xã hội, kiến thức kinh doanh, thị trường và sản phẩm... có như vậy mới thực sự giúp được khách hàng, tư vấn được cho khách hàng một cách chính xác nhất. Từ đó mới tạo được mối quan hệ hai chiều giữa ngân hàng và khách hàng. Khi đó các DNVVN đã được ngân hàng cho vay vốn kinh doanh và lại được tư vấn để làm ăn có hiệu quả nên sẽ hoàn toàn tin tưởng ngân hàng. Bên cạnh đó ngân hàng cũng sẽ thu hút được các khách hàng lâu năm, đồng thời cũng thu được lợi nhuận từ hoạt động cho vay. Thông qua mối quan hệ hai chiều được thiết lập, Chi nhánh có thể đẩy mạnh việc cho vay DNVVN và cũng đáp ứng được nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp này một các tốt nhất. Ngoài ra ngân hàng còn có thể tư vấn cho khách hàng thông qua mạng Internet Banking của mình, hoặc mở ra những kênh trả lời trực tuyến, tư vấn trực tuyến cho khách hàng, để khách hàng có thể hiểu rõ hơn về hoạt động của ngân hàng. 3.3.Một số kiến nghị nhằm đẩy mạnh cho vay DNVVN 3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ và các Bộ ban ngành có liên quan Bất kỳ một hoạt động kinh tế nào, bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào đều chịu sự giám sát chặt chẽ của chính phủ, NHTM và DNVVN cũng vậy, họ đều chịu những ràng buộc bởi những chính sách phát triển, chính sách ổn định của Chính phủ bởi vậy đôi khi còn gây khó khănh trong các hoạt động vay, cho vay của NHTM và DNVVN. Bởi vậy chính phủ và các Bộ ban ngành liên quan cần có những chính sách cụ thể và thiết thực hơn nữa để đẩy mạnh cho vay DNVVN. Sau đây là một số kiến nghị với Chính phủ và các bộ ban ngành có liên quan: Một là, Đối với các DNVVN, họ rất khó để tiếp cận với nguồn vốn dài hạn của ngân hàng do họ thường không có TSĐB đủ tiêu chuẩn cho các khoản vay. Bởi vậy Chính phủ và các bộ ban ngành có liên quan nên có những chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp này như: có những chính sách hỗ trợ trực tiếp về vốn, về lãi suất tín dụng, điều kiện vay vốn.. hay những hỗ trợ gián tiếp như thành lập hội liên hiệp các DNVVN, hay thành lập các quỹ bảo lãnh tín dụng đối với DNVVN, nhằm giúp cho các doanh nghiệp này có khả năng tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng đễ dàng hơn. Hai là, Xây dựng định hướng phát triển cụ thể cho DNVVN. Nhà nước cần tạo ra một hành lang pháp lý công bằng và minh bạch đối với DNVVN, làm mất dần khoảng cách giữa doanh nghiệp tư nhân với DNNN. Bên cạnh đó Nhà nước cần đưa ra những định hướng phát triển cụ thể cho từng vùng, miền từng thành phần kinh tế, từng loại hình doanh nghiệp trong thời gian tới để giúp cho các DNVVN có những chuẩn bị phát triển sao cho phù hợp với các chính sách và định hướng của Nhà nước. Hơn nữa Nhà nước nên khuyến khích phát triển các donah nghiẹp sản xuất hàng hoá thủ công mỹ nghệ, các mặt hàng truyên thống, đặc trưng của từng địa phương, để các doanh nghiệp này phát triển sản xuất và giữ được bản sắc, tinh hoa riêng của dân tộc. Ba là, Chính phủ nên thực hiện việc cải cách, sửa đổi các quy định, thủ tục về thuế sao cho vừa đảm bảo được nguồn thu Quốc gia vừa đảm bảo để các DNVVN có được nguồn thu thích hợp và không gặp khó khăn trong việc thực hiên nghĩa vụ thuế với Nhà nước Bốn là, Tạo điều kiện thuận lợi cho các DNVVN thực hiện minh bạch hoá thông tin tài chính của mình, nhằm dễ dàng cho việc vay vốn ngân hàng. Cụ thể là Nhà nước nên có các chính sách về hỗ trợ phát triển dịch vụ kiểm toán, bởi vì kiểm toán là một trong những dịch vụ kinh doanh góp phần làm minh bạch hoạt động tài chính của các doanh nghiệp. Năm là, Hỗ trợ các DNVVN về thông tin và quảng bá, phát trển thương hiệu. Nhà nước có thể đưa ra các thông tin cụ thể, các dự báo, phân tích kinh tế nhằm làm định hướng cho các DNVVN phát triển. Bên cạch đó, Nhà nước cũng nên hỗ trợ cho các DNVVN có thể tiếp xúc với môi trường kinh doanh trong và ngoài nước bằng cách mở các triển lãm, hội trợ quảng bá sản phẩm cho các DNVVN ở trong và ngoài nước, nhằm nâng cao uy tín và thương hiệu của DNVVN. Sáu là, Cải cách thủ tục hành chính theo hướng có lợi cho DNVVN. Những thủ tục hành chính rườm rà là một trở ngại gây tâm lý ngại tiếp xúc với ngân hàng của các DNVVN. Trên thực tế, hiện nay các thủ tục vay vốn của ngân hàng phải trải qua rất nhiều khâu với những giấy tờ phức tạp, điều này gây cản trở đối với việc vay vốn ngân hàng của các DNVVN. Bởi vậy cơ quan Nhà nước và các cấp chính quyền liên quan cần triệt để nghiên cứu những biện pháp nhằm giảm thiểu một cách tối đa nhất những giấy tờ không cần thiết, thực hiện tốt công tác “một cửa” nhưng vẫn đảm bảo được tính pháp lý và an toàn cho các hoạt động kinh doanh. Bảy là, Các cấp các ngành các địa phương cần nhanh chóng triển khai hoàn thiện các đề án quy hoạch, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sử dụng nhà ở để các DNVVN có cơ sở làm TSĐB, tạo thuận lợi cho việc vay vốn tại ngân hàng. 3.3.2.Kiến nghị đối với Ngân hàng nhà nước NHNN là cơ quan quyền lực pháp lý cao nhất trong lĩnh vực ngân hàng, bởi cậy NHNN cần phát huy vai trò chủ đạo của mình nhằm nâng cao hiệu quả cho hoạt động của NHTM. Một là, Cải cách cơ chế cho vay sao cho phù hợp với DNVVN. Để đẩy mạnh cho vay DNVVN, NHNN nên đưa ra những chính sách riêng cho các doanh nghiệp này, sao cho phù hợp với đặc thù riêng của DNVVN. NHNN cần phải đổi mới cơ chế cấp tín dụng, ban hành những chính sách thông thoáng hơn phù hợp với DNVVN. NHNN cũng cần có những quy định cụ thể hơn về việc chiết khấu thương phiếu, giấy tờ có giá, bổ sung một số điều về đảm bảo tiền vay đối với DNVVN. Hai là, NHNN cần nâng dần chất lượng cung cấp thông tin thông qua việc phối kết hợp chặt chẽ giữa Bộ tài chính, Bộ kế hoạch và đầu tư, các cơ quan thuế, các cấp, các ngành, các địa phương... để thu thập thông tin và đưa ra những thông tin nhanh nhất và chính xác nhất phục vụ cho việc đẩy nhanh quá trình cho vay vốn đối với các DNVVN. Ba là, NHNN cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát các NHTM trong quá trình hoạt động để kịp thời tìm ra những sai sót, những vướng mắc phát sinh trong khi thực hiện nghiệp vụ của NHTM. Nhanh chóng đưa ra các biện pháp giải quyết và xử lý, tránh làm ảnh hưởng đến quá trình hoạt động của NHTM. Bốn là, NHNN phải tích cực cải cách tín dụng và phát triển thị trường vốn. NHNN không nên quá gò ép các NHTM phải thực hiện theo những quy định chung cứng nhắc về tín dụng mà chỉ đưa ra các định hướng giúp các NHTM phát triển, như vậy các NHTM mới có thể đưa ra những mức lãi suất linh hoạt, những hình thức cho vay linh hoạt phù hợp có tính chất cạnh tranh. Có như vậy thì các NHTM mới có điều kiện để đẩy mạnh Cho vay DNVVN. 3.3.3.Kiến nghị với Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Chi nhánh NHNT-HN, chịu sự chỉ đạo và giám sát trực tiếp của NHNT Việt Nam. Do đó việc đẩy mạnh cho vay DNVVN trên địa bàn quản lý của Chi nhánh NHNT-HN cần phải có sự hỗ trợ và định hướng của NHNT-Việt Nam. Một là, NHNT-VN cần phải đưa ra những chính sách và chỉ đạo cụ thể đối với việc đẩy mạnh cho vay DNVVN, đồng thời đưa ra những quy định rõ ràng về việc ưu đãi đối với đối tượng khách hàng này. Hai là, Chính thức ban hành “Quy chế cho vay DNVVN” để Chi nhánh NHNT-HN có những căn cứ cụ thể để thực hiện các quy trình nghiệp vụ của mình. Ba là, Có định hướng phát triển nguồn nhân lực sao cho phù hợp với yêu cầu của việc đẩy mạnh cho vay DNVVN. Bốn là, Cung cấp thông tin tín dụng cho Chi nhánh một cách nhanh chóng và chính xác nhất nhằm đảm bảo tính an toàn cho các khoản vay. 3.3.4. Kiến nghị đối với DNVVN Trên thực tế việc cho vay đối với các DNVVN gặp khó khăn chủ yếu là do bản thân các doanh nghiệp chưa đáp ứng được các yêu cầu khi vay vốn tại Chi nhánh NHNT-HN. Bởi vậy Chi nhánh có một số kiến nghị với DNVVN cụ thể như sau: Một là, Nguồn vốn vay từ ngân hàng là một nguồn vay có mức lãi suất thấp, và là nguồn tài trợ quan trọng cho hoạt động sản xuất kinh doanh của DNVVN. Chính bởi vậy các doanh nghiệp cần phải có những định hướng phát triển rõ ràng, đưa ra những phương án kinh doanh khả thi, nhằm sử dụng nguồn vốn một cách hiệu quả nhất. Tránh tình trạng, các doanh nghiệp sau khi vay vốn lại sử dụng vốn sai mục đích, dẫn tới rủi ro cao cho cả doanh nghiệp và ngân hàng. Hai là, DNVVN nên tự nâng cao năng lực của bản thân mình. Các doanh nghiệp phải tự có định hướng nhằm nâng cao nguồn VCSH cho mình bằng cách huy động các thành viên góp vốn hay thực hiện quá trình cổ phần hoá để thu hút nguồn vốn trong dân cư, nhằm tạo ra nguồn lực vững chắc phát triển sản xuất kinh doanh. Như vậy sẽ giúp cho các doanh nghiệp có khả năng đáp ứng yêu cầu của ngân hàng khi tham gia vay vốn. Điều này cũng làm tăng khả năng tiếp cận vốn ngân hàng của DNVVN. Bên cạnh đó, bản thân DNVVN cũng phải có những định hướng mới cho sản xuất, nắm bắt được yêu cầu thị trường để giúp cho hoạt động của mình ngày một phát triển hơn. Ba là, DNVVN phải quan tâm tới chất lượng lao động của mình, yếu tố con người là một yếu tố vô cũng quan trọng, nó quyết định thành công hay thất bại của một phương án sản xuất. Khi những người lao động của doanh nghiệp có đủ năng lực thì các dự án của doanh nghiệp đưa ra mới thực sự có tính khả thi và đem lại hiệu quả cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải tăng cường liên kết với các trường đại học, cao đẳng nhằm tìm kiếm nguồn nhân lực và hỗ trợ việc làm cho các sinh viên mới tốt nghiệp. Đây cũng là một cách để thu hút các lao động có trình độ tốt vào làm trong doanh nghiệp. Kết luận Trước sự phát triển của đất nước, và xu thế mở cửa hội nhập của nền kinh tế, đặt ra cho các doanh nghiệp nói chung và DNVVN nói riêng những cơ hội vô cùng to lớn để phát triển và đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhưng bên cạnh đó các doanh nghiệp này cũng phải chịu sức ép khi thiếu vốn mở rộng sản xuất. Thực tế cho thấy tín dụng ngân hàng là một kênh dẫn vốn quan trọng, không thể thiếu trong quá trình phát triển của doanh nghiệp. Tuy nhiên việc tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng của DNVVN vẫn còn có rất nhiều hạn chế. Đứng trước thực tế trên, các NHTM đã và đang thực hiện các biện pháp nhằm giảm thiểu các hạn chế đó. Tại Chi nhánh NHNT-HN cũng đã có những hoạt động hết sức tích cực nhằm đẩy mạnh cho vay đối với DNVVN và cũng đã có những bước tiến đáng khích lệ. Song vẫn còn có rất nhiều khó khăn mà trong thời gian tới Chi nhánh phải giải quyết triệt để nhằm đáp ứng tốt hơn nữa nhu cầu vay vốn chính đánh của các DNVVN. Thông qua việc nghiên cứu thực trạng cho vay DNVVN của Chi nhánh NHNT-HN trong thời gian qua, em đã mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động cho vay DNVVN tại Chi nhánh NHNT-HN. Tuy nhiên với kiến thức và thời gian thực tập còn hạn chế, nên nội dung của bài phân tích sẽ không tránh khỏi thiếu sót cần bổ sung. Vậy em kính mong nhận được sự góp ý của Chi nhánh NHNT-HN và các thầy cô giáo để khoá luận của em được hoàn thiện và đầy đủ hơn. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Phan Thị Thu Hà và Chi nhánh NHNT-HN đã nhiệt tình giúp đỡ em hoàn thành khoá luận tốt nghiệp này! Danh sách chữ viết tắt DNVVN : Doanh nghiệp vừa và nhỏ DNNN : Doanh nghiệp nhà nước CTCP : Công ty cổ phần TNHH : Trách nhiệm hữu hạn KTTT : Kinh tế thị trường VCSH : Vốn chủ sở hữu NHTM : Ngân hàng thương mại HĐTD : Hợp đồng tín dụng TSCĐ : Tài sản cố định CBCNV : Cán bộ công nhân viên DTBB : Dự trữ bắt buộc NHNN : Ngân hàng nhà nước TCTD : Tổ chức tín dụng NHNT : Ngân hàng Ngoại thương NHNT-HN : Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội VNĐ : Việt Nam đồng TSĐB : Tài sản đảm bảo GTVT : Giao thông vận tải QHKH : Quan hệ khách hàng QLRR : Quản lý rủi ro GHTD : Gia hạn tín dụng Danh mục bảng biểu, sơ đồ, Biểu đồ Bảng 1: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của Chi nhánh NHNT-HN Bảng 2: Tỷ trọng dư nợ của các loại hình doanh nghiệp Bảng 3: Dư nợ cho vay DNVVN theo quy mô doanh nghiệp Bảng 4: Tỷ trọng dư nợ cho vay DNVVN phân theo kỳ hạn Bảng 5: Tỷ trọng dư nợ cho vay DNVVN phân theo loại hình doanh nghiệp Bảng 6: Dư nợ cho vay DNVVN theo loại tiền tại Chi nhánh NHNT-HN Bảng 7 : Số lượng khách hàng DNVVN của Chi nhánh NHNT-HN Bảng 8: Nợ quá hạn của DNVVN tại Chi nhánh NHNT-HN Sơ đồ 1: Sơ đồ cơ cấu tổ chức Chi nhánh NHNT-HN Sơ đồ 2: Chính sách cho vay của ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Biểu đồ 1: Lãi từ hoạt động kinh doanh của Chi nhánh NHNT-HN Biểu đồ 2: Tỷ trọng dư nợ theo loại hình doanh nghiệp tại 31/06/2007 Biểu đồ 3: Dư nợ cho vay phân theo quy mô của Chi nhánh NHNT-HN Biều đồ 4: Dư nợ cho vay DNVVN phân theo kỳ hạn Biểu đồ 5: Tỷ trọng dư nợ cho vay DNVVN phân theo loại tiền Biểu đồ 6: Số lượng khách hàng DNVVN tại Chi nhánh NHNT-HN Danh sách tài liệu tham khảo Ngân hàng thương mại. Chủ biên:PGS.TS. Phan Thị Thu Hà. NXB Đại học Kinh tế quốc dân - 2007. Giáo trình tài chính doanh nghiệp. Chủ biên:PGS.TS. Lưu Thị Hương. NXB Thống kê - 2005. Nghiệp vụ Ngân hàng trung ương. Chủ biên: Hoàng Xuân Quế. NXB Thống kê – 2005. Giải pháp phát triển Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam. Chủ biên: Nguyễn Đình Hương. Học viện Hành chính quốc gia – 2002. vai trò của các Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong phát triển kinh tế Nhật Bản - Khả năng hợp tác với Việt Nam. Chủ biên: Lê Văn Sang. Khoa học xã hội – 1997. Tạp chí Ngân hàng các số 2005, 2006, 2007. Báo cáo kết quả kinh doanh Chi nhánh NHNT- HN 2005, 2006, 2007. Báo thướng niên của NHNT-VN Luật các Tổ chức tín dụng nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Quy chế cho vay do ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7703.doc
Tài liệu liên quan