Đề tài Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam vào thị trường mỹ

MỤC LỤC LỜI GIỚI THIỆU 1 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN 3 1. Khái niệm lợi thế cạnh tranh. 3 2. Mô hình kim cương Porter. 3 2.1 Những điều kiện về năng lực. 3 2.2 Những điều kiện và nhu cầu. 4 2.3 Những ngành công nghiệp hỗ trợ và liên quan. 4 2.4 Chiến lược, cấu trúc của các xí nghiệp và sự cạnh tranh. 4 2.5 Vai trò về cơ hội, vận may rủi 4 2.6 Vai trò của chính phủ. 5 3. Khái niệm về Marketing và Marketing quốc tế. 5 4. Vai trò của marketing quốc tế. 5 5. Các loại hình marketing quốc tế. 6 5.1 Marketing Xuất Khẩu (Export Marketing). 6 5.2 Marketing tại nước sở tại (The Foreign Marketing). 6 5.3 Marketing đa quốc gia (Multinational Marketing). 7 6. Các chiến lược Marketing-mix quốc tế. 7 6.1 Chiến lược sản phẩm và xúc tiến quốc tế. 7 6.2 Chiến lược về giá. 7 6.3 Chiến lược phân phối. 7 CHƯƠNG II THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU ĐỒ GỖ CỦA VIỆT NAM . 8 1. Thực trạng xuất khẩu đồ gỗ của các doanh nghiệp Việt Nam 8 2. Phân tích điểm mạnh yếu của đồ gỗ Việt Nam thông qua mô hình kim cương Porter. 8 2.1 Yếu tố thâm dụng. 8 2.2 Ngành công nghiệp phụ trợ. 15 2.3 Yếu tố nhu cầu. 18 2.4 Chiến lược cơ cấu cạnh tranh của các công ty. 21 2.5 Vai trò của chính phủ. 22 CHƯƠNG III: PHÂN TÍCH THỊ TRƯỜNG MỸ 24 1. Thị trường và phân khúc thị trường. 24 1.1 Kinh tế. 24 1.2 Hệ thống luật pháp: 24 1.3 Về hệ thống thuế. 30 1.4 Thủ tục hải quan. 31 1.5 Các rào cản thị trường phi luật pháp. 31 1.6 Hệ thống phân phối. 32 1.7 Đối thủ cạnh tranh. 32 1.8 Phân khúc thị trường. 33 2. Phân tích SWOT về hoạt động marketing khi xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam vào Hoa Kỳ. 33 2.1 Điểm mạnh. 33 2.2 Điểm yếu. 34 2.3 Cơ hội. 34 2.4 Thách thức. 36 2.5 SWOT 37 CHƯƠNG IV CHIẾN LƯỢC ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU ĐỒ GỖ VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG MỸ 39 1. Chiến lược sản phẩm 39 2. Đánh giá tính khả thi của chiến lược. 41 3. Giải pháp hỗ trợ thực hiện. 42 3.1 Về bộ máy Marketing của công ty. 42 3.2 Về bộ phận thiết kế. 43 3.3 Thực hiện việc giảm chi phí sản xuất. 44 3.4 Gia nhập chuỗi liên kết đồ gỗ toàn cầu. 45 3.5 Tham gia hội chợ tại Hoa Kỳ. 45 3.6 Giải pháp mua hàng từng bước. 47 KẾT LUẬN 48 ================ LỜI GIỚI THIỆU 1. Lý do chọn đề tài Từ sau khi hình thành vào năm 1975, ngành công nghiệp gỗ và đồ gỗ tại Việt Nam không ngừng lớn mạnh và tới nay đã trở thành một trong những ngành công nghiệp xuất khẩu chủ lực tại Việt Nam ( đứng thứ ba sau dệt may và giày dép). Tuy nhiên, có một thực trạng đáng buồn là ngành công nghiệp này ở nước ta vẫn còn rất nhỏ lẻ và manh mún, số lượng doanh nghiệp nhỏ và vừa công nghệ non kém còn rất nhiều, một số doanh nghiệp đạt yêu cầu về công nghệ thì đa số là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Thêm vào đó là sự thiếu hụt trong nguồn nhân lực và sự yếu kém trong công tác marketing đã và đang tước đi rất nhiều cơ hội của ngành công nghiệp này. 2. Mục tiêu nghiên cứu Tập thể nhóm đã nỗ lực thực hiện bài nghiên cứu này trước là để phân tích những ưu và nhược điểm trong sản xuất và cung ứng, sau là trên nền bức tranh sáng tối ấy, chúng em đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy những điểm mạnh và khắc phục những hạn chế trong ngành chế biến và xuất khẩu đồ gỗ ở Việt Nam. Những giải pháp này được đề xuất dưới dạng một chiến lược Marketing hoàn chỉnh (bao gồm cả 4P) và một số biện pháp nhằm khắc phục những hạn chế nội tại trong các doanh nghiệp sản xuất đồ gỗ ở Việt Nam. 3. Đối tượng và giới hạn của để tài. Là các công ty sản xuất và xuất khẩu đồ gỗ hiện có mặt tại Việt Nam. Cùng với sản phẩm và các chiến lược xuất khẩu và Marketing của họ. Đề tài chỉ giới hạn trong các số liệu nghiên cứu từ năm 2006 đến nay. 4. Phương pháp nghiên cứu. Trong quá trình nghiên cứu chúng em thực hiện các phương pháp sau đây để thu thập thông tin. - Thông tin thứ cấp: Thông qua một số các bài viết trên các nguồn như báo tạp chí chuyên ngành có đề cập đến hoạt động xuất khẩu, internet và truyền hình. - Thông tin sơ cấp: Chúng em có thực hiện một cuộc điều tra khảo sát về ý muốn của người tiêu dùng tại các tiểu bang của nước Mỹ. Phỏng vấn các anh chị phụ trách mảng Kinh Doanh xuất nhập khẩu và mảng Marketing tại các công ty sản xuất đồ gỗ xuất khẩu lớn trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. 5. Tính mới của đề tài. Trong đề tài này, chúng em có đề xuất một ý tưởng mới về sản phẩm đồ gỗ là đồ gỗ tự lắp ghép, sau điều tra nhu cầu thị trường tại Hoa Kỳ, loại đồ gỗ này được đa số các ứng viên yêu thích. 6. Cấu trúc đề tài. Đề tài gồm có 6 phần Phần 1: Giới thiệu khái quát về đề tài. Phần 2: Chương 1, cơ sở lý luận về lợi thế cạnh tranh và Marketing quốc tế. Phần 3: Chương 2, giới thiệu về ngành sản xuất và xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam Phần 4: Chương 3, phân tích thực trạng đồ gỗ Việt Nam. Phần 5: Chương 4, đề xuất chiến lược và giải pháp. Phần 6: Kết luận.

doc61 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2768 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam vào thị trường mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
càng đa dạng hơn về sản phẩm chứ không phải chỉ là các mẫu mã sản phẩm thông thường như hiện nay. Các loại đồ gỗ phòng ngủ ngày nay không còn chứa nhiều lợi nhuận như trước nữa trong khi đó, các sản phẩm đồ gỗ mang phong cách Trung Hoa cổ điển đời nhà Minh, nhà Thanh… hay các sản phẩm đồ gỗ tự lắp ghép lại rất được ưa chuộng, đồ gỗ dùng ngoài trời cũng hứa hẹn sẽ mang lại nhiều sức hấp dẫn. Chiến lược cơ cấu cạnh tranh của các công ty. Khác với tình trạng hoạt động manh mún, rời rạc trước đây, các doanh nghiệp sản xuất đồ gỗ đang có xu hướng hợp tác với nhau để giữ vững thị trường, đáp ứng những đơn hàng lớn từ phía bạn hàng . Ông Lưu Qúy Ly Chủ Doanh Nghiệp gỗ Thanh Ly nói: “Liên kết giữa các doanh nghiệp bây giờ đã khá hơn. Đơn hàng lớn ngày một nhiều trong khi các doanh nghiệp nhỏ lại khó có thể đáp ứng được những đơn hàng đó, vì vậy buộc phải liên kết.” Việc liên kết đã hình thành nhóm Doanh nghiệp gỗ sẽ ký được nhiều hợp đồng lớn với khách hàng . Với mỗi đơn hàng lớn vượt quá năng lực của doanh nghiệp, họ sẽ tìm đối tác liên kết để chia sẻ từng công đoạn sản xuất. Nỗ lực này đã tăng cường khả năng đáp ứng các đơn hàng lớn, vì vậy uy tín của các doanh nghiệp ngày càng cao. Ngành gỗ hiện có 2.000 doanh nghiệp chế biến mà hầu hết là những doanh nghiệp nhỏ và vừa. Theo Ông Ly, việc hợp tác không chỉ giúp doanh nghiệp chủ động nguồn nguyên liệu cho sản xuất mà còn giúp hạ giá gỗ đầu vào do tập trung thay vì manh mún như hiện nay. Ông Ly cho biết thêm, do nhận thức được những lợi thế của liên kết nên các doanh nghiệp đang hợp tác theo hướng: các doanh nghiệp nhỏ hơn làm vệ tinh cho các doanh nghiệp lớn; hình thành các nhóm doanh nghiệp để cùng trao đổi kinh nghiệm và giúp nhau sản xuất, kinh doanh; hoặc tham gia liên doanh. Hiện tại các doanh nghiệp mạnh, trường vốn thì hình thành tập đoàn chế biến gỗ xuất khẩu còn chúng tôi những doanh nghiệp nhỏ như Doanh nghiệp Đinh Việt Quang ; Doanh nghiệp Công Cúc và Cơ sở Anh Đức .v v...còn có nhiều vệ tinh khác. Một điển hình về liên kết là Cụm Công nghiệp Gỗ Hố Nai ở tỉnh Đồng Nai. Trong năm đầu mới hình thành cụm , chỉ có 5 doanh nghiệp nhưng tới nay có tới gần 60 doanh nghiệp cùng hợp tác để sản xuất và kinh doanh. Ông Ly cho hay: “Chúng tôi sẽ liên kết các lâm trường, chủ rừng với các công ty chế biến gỗ trong nước nhằm giám sát nguồn gốc gỗ, giúp doanh nghiệp sản xuất chế biến gỗ thấy rõ tiềm năng kinh tế, lợi ích thực sự nếu đạt được các tiêu chuẩn quản lý rừng bền vững”. Vai trò của chính phủ. Xuất khẩu gỗ đang là một trong những ngành ưu tiên hàng đầu vì thế nhà nước ta có những chính sách rất tích cực để khuyến khích cho hoạt động xuất khẩu thành phẩm, nhập khẩu nguyên liệu thông qua việc miễn, giảm thuế (hiện nay, tất cả các mặt hàng gỗ nội ngoại thất xuất khẩu đều được áp dụng mức thuế bằng không). Chính sách bảo vệ rừng lại càng được nhà nước đặc biệt chú ý với cơ chế quản lý rừng chặt chẽ, chế tài nghiêm khắc với các trường hợp vi phạm, công tác trồng rừng nguyên liệu, đơn cử như việc Chính phủ đã yêu cầu các địa phương rà soát chặt chẽ nguồn đất các lâm trường quốc doanh đang quản lý để chuyển đổi phần lớn diện tích đang sử dụng kém hiệu quả vào mục tiêu trồng rừng công nghiệp.  Thống kê sơ bộ cho thấy cả nước còn đến 6,1 triệu hecta đất có thể trồng rừng. Trong đó hơn 2,2 triệu ha rừng đã được trồng. Mới đây nhất, nhà nước đã ban hành chính sách tiền tệ làm tăng giá đồng đô rất thuận lợi cho việc xuất khẩu. Tuy hiên, hiện nay, do tình hình lạm phát tăng cao, chính sách thu hẹp tiền tệ đang gây nên rất nhiều kho khăn cho việc huy động vốn. CHƯƠNG III: PHÂN TÍCH THỊ TRƯỜNG MỸ Thị trường và phân khúc thị trường Kinh tế. Là một nền kinh tế lớn nhất trên thế giới, theo quỹ tiền tệ quốc tế tổng sản phẩm nội địa (GDP) của Mỹ được ước tính cho năm 2010 là trên 14,657,800 triệu đô la tuy nhiên nước Mỹ vừa trải qua một cuộc đại suy thoái và đang trên đường phục hồi sau chấn thương. Đã có nhiều tín hiệu tích cực từ sự bình phục này như tỷ lệ thất nghiệp tháng 2 năm nay chỉ còn 8,6% giảm 0,4% so với năm ngoái và chính phủ Hoa kỳ cũng đưa ra rất nhiều chính sách tích cực khác để phục hồi kinh tế. Hệ thống luật pháp: Hoa Kỳ nổi tiếng là đất nước có hệ thống luật pháp khoa học và chặt chẽ nhất. Ở đây có rất nhiều đạo luật liên bang bảo vệ người tiêu dùng. Mỗi đạo luật được thực thi và giám sát bởi một cơ quan chính phủ liên bang như Ủy ban An toàn Sản phẩm Tiêu dùng Hoa Kỳ, Cơ quan Quản lý Dược phẩm và Thực phẩm ủy ban thương mại liên bang (FTC), Bộ trưởng Bộ giao thông vận tải (DOT) và Cục an toàn giao thông đường cao tốc quốc gia (NHTSA), Bộ Nông nghiệp. Mỗi cơ quan có thể chịu trách nhiệm một hay nhiều bộ luật khác nhau. Tất nhiên việc xuất khẩu đồ gỗ sang Mỹ không gặp nhiều thủ tục phức tạp như hàng thực phẩm, nhưng vẫn rất cần chú ý một số các điều luật liên quan chặt chẽ đến loại hàng hóa này bao gồm: Các tiêu chuẩn sản phẩm tiêu dùng của Uỷ ban an toàn tiêu dùng (CPSC) về an toàn tiêu dùng. Luật về trách nhiệm đối với sản phẩm. Theo thông luật bảo vệ người tiêu dùng (Common Law Consumer Protection) hay còn gọi là Luật về trách nhiệm đối với sản phẩm (Products Liability Law), cơ quan luật pháp Hoa Kỳ yêu cầu các nhà sản xuất, phân phối và bán lẻ phải có trách nhiệm đối với thương tật và thiệt hại do những khuyết tật của sản phẩm gây ra cho người sử dụng hoặc những người ở gần sản phẩm đó. Trách nhiệm sản phẩm thường dựa trên các nguyên tắc pháp lý về sự bất cẩn, vi phạm bảo hành hoặc trách nhiệm tuyệt đối.   Đạo lụât Lacey. Chính phủ Mỹ có thể áp dụng Luật Lacey để áp đặt các hình thức phạt khắt khe đối với các cá nhân và công ty không nhận thức được sản phẩm gỗ của họ có nguồn gốc bất hợp pháp. Các hình thức phạt quy định theo luật này bao gồm phạt hành chính, tịch thu hàng hóa buôn lậu, phạt hình sự hoặc bỏ tù. Một hành vi vi phạm đạo luật Lacey có thể dẫn đến các cáo buộc khác về buôn lậu hoặc rửa tiền. Đạo luật Lacey sẽ được áp dụng với tất cả các sản phẩm gỗ và động, thực vật hoang dã xuất khẩu. Đạo luật về cải tiến an tòan tiêu dùng. Đạo luật này đã được Quốc hội Mỹ thông qua và chính thức có hiệu lực từ ngày 15/8/2008. Văn bản quy định những điều kiện liên quan đến nhập khẩu một số mặt hàng chiếm thị phần xuất khẩu lớn của Việt Nam. Từ ngày 15/8/2009 tới, một số quy định mới trong Đạo luật về cải tiến an toàn sản phẩm tiêu dùng sẽ tác động trực tiếp đến việc sản phẩm dệt may và đồ nội thất của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ trong thời gian tới. Ông Richard O'Brien, Giám đốc Chương trình Quốc tế và Đối ngoại Liên Chính phủ, Uỷ ban An toàn sản phẩm tiêu dùng Hoa Kỳ (CPSC) cho rằng, để hạn chế tối đa rủi ro hàng hóa bị từ chối nhập khẩu vào Hoa Kỳ vì lý do không an toàn cho người tiêu dùng, các doanh nghiệp trong lĩnh vực dệt may và đồ gỗ Việt Nam cần cập nhật những qui định mới nhất trong việc nhập khẩu hàng dệt may và đồ gỗ vào thị trường Hoa Kỳ nói chung và đáp ứng được những quy định trong Đạo luật "Cải tiến an toàn sản phẩm tiêu dùng" (CPSIA) nói riêng.  Ông cũng nhấn mạnh: "Đây là một đạo luật rất phức tạp, có tính bắt buộc chứng nhận tiêu chuẩn cao hơn so với luật cũ, nếu vi phạm có thể dẫn đến các mức phạt dân sự và hình sự, đồng thời Chính phủ Mỹ có thể ra lệnh tiêu hủy sản phẩm nếu vi phạm".  Việc kiểm định và cấp giấy chứng nhận đạt chuẩn phải được thực hiện bởi một cơ quan đánh giá độc lập do CPSC công nhận. Giấy chứng nhận này phải kèm theo sản phẩm hay chuyến hàng xuất khẩu sản phẩm và phải có sẵn để cho CPSC và Hải quan Mỹ kiểm tra khi có yêu cầu. Đối với sản phẩm đồ gỗ nhập khẩu, theo ông Richard O'Brien, việc nhập khẩu đồ gỗ nội thất vào Hoa Kỳ tương đối dễ, không cần xin giấy phép nhập khẩu hay một một loại giấy tờ đặc biệt nào. Tuy nhiên, mặt hàng này cũng có một số quy định khá chặt chẽ đối với các sản phẩm nội thất dành cho trẻ em, đồ nội thất có thành phần dệt và đồ nội thất chiếu sáng.  Cụ thể, đối với các loại giường cũi cho trẻ em, có những quy định rất chặt chẽ liên quan đến chiều cao của thanh bao quanh, khoảng cách giữa các bộ phận của cũi, kích cỡ bên trong, chi tiết hoàn thiện, các linh kiện bằng kim loại và phải có hướng dẫn tháo lắp đối với những bộ phận tháo ghép.  Ngoài ra, nhà nhập khẩu các loại cũi cho trẻ em phải duy trì hồ sơ lưu trữ trong vòng 3 năm kể từ ngày sản xuất hoặc nhập khẩu sản phẩm này. Hộp carton đóng gói cũi và trên cũi phải dán nhãn với những thông tin: tên, địa điểm kinh doanh của nhà sản xuất, nhập khẩu, phân phối hoặc bán hàng...  Nhãn hàng phải lưu ý người sử dụng dùng các loại đệm với kích cỡ cụ thể cao bao nhiêu, dài bao nhiêu, rộng bao nhiêu và lưu ý này phải viết bằng chữ hoa với chiều cao ít nhất là 1/4 inch và phải rõ ràng, dễ đọc, tương phản với nền chữ. Nhãn phải đảm bảo không dễ bị tẩy xoá, mất dấu và tồn tại lâu dài cùng với sản phẩm. Ngoài các đạo luật liên bang này, cần phải hiểu về sự đa dạng và quy mô của thị trường Mỹ với 50 tiểu bang. Tiểu bang này có thể khác với tiểu bang nọ. Ví dụ luật của California buộc đồ gỗ phải bảo đảm an toàn khi sử dụng , một cái ghế mà người tiêu dùng mới mua về chưa bao lâu mà đã gãy, người ngồi ghế bị té ngã, thì người bán sẽ bị kiện ra toà. Một ví dụ khác nữa là một số tiểu bang buộc một số loại đồ gỗ phải được làm bằng loại gỗ bắt cháy chậm, hoặc cho phủ thêm loại hóa chất giúp cho đồ gỗ khó bốc cháy khi gặp mồi lửa. Những chuyện như vầy thì các nhà sản xuất đồ gỗ Việt Nam cần quan tâm và bàn bạc với người nhập hàng bên Mỹ. Chứng chỉ/tiêu chuẩn Mỹ. Chứng nhận vệ sinh dịch tễ: Ổ rơm hay đồ bao bọc bằng gỗ khi nhập vào Mỹ phải có giấy chứng nhận vệ sinh dịch tễ. Giấy chứng nhận này có thể do nhà xuất khẩu cung cấp. Giấy chứng nhận cần xác nhận rằng các sản phẩm không bị nhiễm bệnh hay dịch của gỗ. Quy định này do Văn phòng điều tra sức khỏe động thực vật ban hành tại các điều khoản của 7 CFR 300 và 7 CFR 319. Giấy chứng nhận xử lý nhiệt cũng được yêu cầu đối với việc nhập khẩu các nguyên liệu đóng gói bằng gỗ. Ngoài ra còn những vấn đề khác như: các quy tắc vệ sinh dịch tễ và các yêu cầu về chứng chỉ vệ sinh dịch tễ đối với đồ nội thất được nhồi đệm quá phiền phức hay các quy định kiểm tra gỗ thông của Mỹ khác với quy định của EU. Tiêu chuẩn về đồ gỗ của Mỹ: Hiệp hội ngành gỗ CEI Bois đã chuyển đến ban tư vấn những phàn nàn liên quan đến các khó khăn mà các thành viên gặp phải trong việc tuân thủ một số tiêu chuẩn của Mỹ: Gỗ thông xẻ khung: Chất lượng của các bộ phận của gỗ xẻ phải được Ủy ban tiêu chuẩn gỗ Mỹ thử nghiệm và công nhận trên cơ sở vị trí địa lý của khu vực trồng. Gỗ thông đã được cưa (HS 4407): hệ thống ALS yêu cầu kiểm tra kỹ thuật thiết yếu và giám sát chất lượng hàng tháng tại xưởng cưa đối với cấp độ xây dựng. Gỗ ván sàn: Chi phí vận tải cao hơn do việc hạn chế khối lượng vận tải (21 tấn/xe chở). Theo các nhà xuất khẩu và nhập khẩu của Mỹ, quy định vận tải của Mỹ không cho phép các xe có trọng lượng vượt quá 21 tấn. Tiêu chuẩn của ALDS: Các tiêu chuẩn của ALDS (Ủy ban tiêu chuẩn gỗ Mỹ) về quy tắc phân loại gỗ tuy không bắt buộc thì các nhãn hàng vào Mỹ cũng nên xem xét việc tôn trọng các tiêu chuẩn của Mỹ để tiêu thụ hàng hóa của mình tại Mỹ. Việc tôn trọng các tiêu chuẩn này sẽ gây ra các chi phí bổ sung cho các công ty xuất khẩu, bởi vì họ sẽ phải tiến hành những cuộc thử nghiệm mới và phải lắp đặt máy móc mới. Cùng với chương trình chứng nhận gỗ chưa được xử lý, Ủy ban ALSC cũng quản lý chương trình chứng nhận dán nhãn chất lượng cho gỗ đã qua xử lý được sản xuất theo tiêu chuẩn do Hiệp hội bảo tồn gỗ Mỹ ban hành và giám sát, chương trình dán nhãn gỗ nguyên liệu đóng gói không có nguồn gồc công nghiệp do Hiệp ước bảo vệ gỗ quốc tế quy định. Từ tháng 7/2001, chương trình đóng gói gỗ không có nguồn gốc công nghiệp đã được áp dụng. Theo một số công ty, cần phải bỏ nhiều chi phí để đáp ứng các tiêu chuẩn phân loại của Mỹ. Để có thể xuất khẩu gỗ chưa được xử lý sang Mỹ, các tiêu chuẩn của Mỹ yêu cầu tiệt trùng cụ thể và các thiết bị để tiệt trùng lại rất đắt. Hơn thế, máy móc thiết bị sản xuất phải được văn phòng do Mỹ ủy quyền kiểm tra. Các công ty thường miễn cưỡng xuất trình kỹ thuật này bởi họ không biết liệu công việc kinh doanh của mình với Mỹ có thành công hay không. Canada cũng áp dụng quy định tương tự và chính tình trạng này đã làm hạn chế việc xuất khẩu của các nước vào thị trường Bắc Mỹ. Quy tắc dán nhãn. Hàng gỗ nội thất cần được dán nhãn theo đúng Luật dán nhãn và đóng gói hợp lý -15 CFR, mục 500-503. Luật dán nhãn và đóng gói hợp lý yêu cầu mỗi kiện hàng hóa tiêu dùng dành cho hộ gia đình (mặt hàng mà được đưa vào đạo luật) phải mang nhãn hiệu hàng hóa, theo đó: Tuyên bố xác định hàng hóa. Tên và địa chỉ của nơi sản xuất, đóng gói hoặc phân phối. Khối lượng tịnh của sản phẩm về mặt trọng lượng, kích thước hay số đém (kích thước phải được đo bằng đơn vị inch và cm). Liên quan đến đồ nội thất gia đình, Ủy ban Thương mại Liên bang đã thông qua một hướng dẫn liên ngành công nghiệp đồ gỗ gia dụng. Hàng nội thất và các bộ phận của nó phải tuân thủ với các quy định cụ thể với mục đích bảo vệ người tiêu dùng (16CFR). Hướng dẫn này dự báo từng nhãn hàng hóa cụ thể miêu tả đồ gỗ và hàng nhái cũng như nhãn hiệu liên quan đến đặc điểm của hàng hóa. Nhãn hiệu cần chứa đựng các thông tin về kiểu dáng và nguồn gốc xuất xứ hàng hóa. Hướng dẫn này cũng cần điều chỉnh việc sử dụng một số thuật ngữ cụ thể, ví dụ từ “new” (mới). Thông tin đầy đủ của cuốn hướng dẫn này có thể tham khảo trên website của Ủy ban thương mại Liên bang. Các quy định này không bắt buộc pahỉ tuân thủ đối với thủ tục qua hải quan nhưng phải tuân thủ nếu muốn bán hàng tại Mỹ. Bên cạnh đó, đạo luật các chất có khả năng gây hại của Liên bang còn bổ sung một số yêu cầu đối với mặt hàng gỗ gia dụng dùng cho trẻ em (giường) (xem 16CFR 1508; 16CFR 1500; 16CFR 1513). Các nhà nhập khẩu hang nhồi đệm cần phải chú ý rằng một số nước đã quy định nhãn bổ sung đối với đồ gỗ cho trẻ em hoặc các dạng khác của đồ gỗ nội thất. Đạo luật hàng vải dễ cháy cũng quy định các tiê chuẩn an toàn cháy nổ cụ thể. Đạo luật này chỉ được áp dụng đối với vải được dùng để sản xuất trang phục (vải thuộc về trang trí thuộc về tiêu chuẩn tự nguyện). Các nước thành viên đã báo cáo rằng cấp độ liên bang đối với hàng vải trang trí đã bị bắt buộc phải áp dụng tại cấp độ bang (như Califonia, Masachusett). Phân tích luật pháp. Các quy định của Mỹ về gỗ và đồ gỗ như sau: HTS 94: Đồ nội thất: Bao gồm các loại ghế, đồ đạc dụng cụ trong bệnh viện; các đồ đạc trong nhà, văn phòng, giường tủ, bàn ghế, đệm; đèn và các tám ngăn xây dựng làm sẵn… Các đồ dùng này có thể làm hoàn toàn bằng kim loại, gỗ, nhựa, hay làm khung có bọc da, vải hoặc các vật liệu khác. Đối với danh mục hàng này, việc nhập khẩu phải: Phù hợp với các tiêu chuẩn sản phẩm tiêu dùng của Uỷ ban an toàn tiêu dùng (CPSC) về an toàn tiêu dùng. Đối với đệm: phù hợp với các tiêu chuẩn Underwriter’s Laboratory (UL), do CPSC quản lý. Các đồ có thành phần là vải dệt phải ghi theo các quy định TFPLA về xác định nguồn gốc vải. Những văn bản pháp luật điều tiết chế độ nhập khẩu hàng hóa thuộc nhóm HTS94: Số văn bản Loại biện pháp áp dụng Cơ quan nhà nước điều hành 15 USC 1191-1204 15 USC 1263 15 USC 70-77 16 CFR 1610, 1611, 1615, 1616, 1630-1632 19 CFR 1112b Luật về hàng dệt may dễ cháy Quy chế an toàn tiêu dùng TFPIA-Luật về hàng dệt may Tiêu chuẩn hàng dệt may dễ cháy Quy chế về nhãn mác dệt may FTC, CPSC, USCS FTC, CPSC, USCS FTC, CPSC, USCS   FTC, CPSC, USCS Về hệ thống thuế. Mức thuế ở Mỹ nói chung là thấp. Đối với đồ gỗ thuộc mã HS 44, thuế quan thay đổi từ 0 đến 10,7%. Trên thực tế, thuế đánh vào gỗ dán cao nhất (8 và 10,7%). Thuế suất được áp dụng cho hàng gỗ nội thất (mã HS94) đa số là 0% và có một số mặt hàng đệm giường bằng lông vịt có mức thuế 9 và 13% (HST 94043080 và 94049085 và 13%). Một số công ty sản xuất gỗ lâm sản nhà đã phàn nàn về gánh nặng thuế phụ thu đánh vào các nhà nhập khẩu, điều này sẽ làm tăng mức thuế nhập khẩu. Cụ thể: Phí xử lý hàng hóa (MPF) (0,21%) theo giá FOB, trị giá từ 25 USD đến 485 USD. Phí này do Hải quan Mỹ và Puerto Rico thu. Thuế bảo quản cầu cảng (HMT) (0,125%) giá FOB Loại khác: phí thanh quản và tiền đặt cọc (bond) nộp cho Hải quan. Biểu thuế nhập khẩu của Mỹ được đăng trên mạng của Ủy ban Thương mại Quốc tế của Mỹ là: www.usitc.gov Thủ tục hải quan. Đối với mặt hàng gỗ và sản phẩm gỗ (HST44), các thủ tục rời bến được cho là quá nhiều khó khăn cho các nhà xuất khẩu. Hải quan Mỹ đã thay đổi phân loại gỗ dán (HS 4412) và nhiều loại đã bị tăng thuế từ 0% lên 8%. Còn với hàng gỗ nội thất (HS 94), thủ tục hải quan không quá khó khăn. Việc nhập khẩu hàng gỗ và gỗ nội thất phụ thuộc phạm vi điều chỉnh của các quy định chung như được xác định trong các bộ luật của các quy định liên bang (các văn bản nhập khẩu – 19 CRF 141; điều tra Hải quan – 19 CFR 151 và thuế Hải quan 19 CFR – 159). Tất cả hàng hóa được nhập vào Mỹ phải được dán nhãn xuất xứ. Hải quan Mỹ có một yêu cầu chung cho việc ghi nước xuất xứ vào tất cả các mặt hàng ngoại nhập vào Mỹ. Các mặt hàng này phải được dán nhãn dễ đọc với tên tiếng Anh của nước xuất xứ trừ phi pháp luật có quy định khác. Trong các sản phẩm gỗ, chỉ gỗ xẻ, rào gỗ, gỗ lát nền là không cần dán nhãn xuất xứ. Nhãn mác xuất xứ phải dễ đọc và phải dán ở mặt dễ nhận thấy, đồng thời phải khó tẩy xóa và lâu bền cùng sản phẩm. Tuy nhiên bất kỳ một biện pháp hợp lý trong dãn nhãn đều được chấp nhận kể cả mác dính. Chỉ có một điều kiện duy nhất đó là mác dính luôn phải dính trên sản phẩm và chỉ có thể bị phá hủy bởi các hành động có chủ ý. Các hàng hóa được yêu cầu phải dán nhãn xuất xứ nếu nhập vào Mỹ mà không có nhãn mác xuất xứ sẽ phảỉ nộp thuế phụ thu hoặc bị phá hủy theo yêu cầu điều tra của hải quan trước khi đưa vào Mỹ. Các nhà xuất khẩu nên dán nhãn xuất xứ vào sản phẩm một cách chính xác để tránh bị phạt và nộp phí bổ sung Các rào cản thị trường phi luật pháp. Người tiêu dùng Mỹ cũng rất quan tâm các yếu tố về môi trường và xã hội. Ngoài cơ cấu pháp luật nghiêm khắc cho việc bảo vệ môi trường, người tiêu dùng cũng sẽ ưu tiên những mặt hàng gỗ có chứng nhận rừng FSC, hoặc những sản phẩm khác có nguồn gốc xuất xứ bảo đảm cho việc bảo tồn, thân thiện với môi trường. Ngoài ra, họ có thể tẩy chay không sử dụng hàng hóa của một nước hay một công ty nếu biết được sản phẩm này vi phạm các nguyên tắc xã hội như không đảm bảo quyền lợi của người lao động, sử dụng lao động trẻ em hay các nguyên tắc xã hội khác. Hệ thống phân phối. Hệ thống các cửa hàng phân phối sản phẩm đồ gỗ tại Hoa kỳ rất phong phú và rộng khắp. Ngoài hệ thống thông thường là các siêu thị, họ còn thực hiện rất chuyên nghiệp việc bán hàng trên mạng nên các nhà nhập khẩu thường yêu cầu đối tác có khả năng cung cấp số lượng lớn và rút ngắn thời gian giao hàng. Một lô hàng sản xuất thường mất hai tháng, vì thế thời gian từ khi đặt hàng đến khi tung ra thị trường là khoảng từ 4-5 tháng, như thế là quá lâu, nhiều doanh nhân Mỹ yêu cầu rút ngắn thời gian sản xuất một lô hàng xuống còn 20-25 ngày. Các nhà phân phối uy tín và được khách hàng Mỹ tin tường nhất là WalMart, Target… Theo phân tích thống kê về các kênh phân phối hàng đồ gỗ nội thất nhà bếp tại Mỹ thì có 25% là qua các thương buôn, 25% qua những nhà thầu xây dựng, 20% thông qua chuỗi phát triển nhà ở, 10% qua các nhà phân phối khác (gồm nhà bán sỉ và bán lẻ), 10% qua các chuyên gia về nhà bếp, 5% thông qua các nhóm mua chung, và 5% còn lại thông qua các cửa hàng nội thất, trung tâm thương mại, các nhà thiết kế, đặt hàng qua mail hoặc thương mại điện tử. Đối thủ cạnh tranh. Thị trường Mỹ cũng là thị trường mở nên cạnh tranh rất ác liệt và nước có lao động rẻ là Trung Quốc đã chiếm lĩnh thị phần lớn nhất. Nhờ có hiệp định thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ từ cuối năm 2001, mặt hàng đồ gỗ Việt Nam mới có cơ hội thâm nhập sâu hơn vào thị trường Mỹ, mặc dù xuất hiện muộn nhưng Việt Nam đã nhanh chóng vươn lên top đầu những quốc gia xuất gỗ sang Mỹ với tốc độ tăng trưởng cực cao. (128% năm) Bảng 3.1 Xuất khẩu đồ gỗ (xét theo NAICS 337) của các nước sang Mỹ. Đơn vị tính: 1000 dollars Country 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 1 China 6,783,608 8,349,617 10,264,957 12,293,792 14,031,511 14,787,766 14,007,115 2 Canada 3,789,997 3,835,598 4,014,248 4,049,299 4,022,962 3,685,948 3,233,126 3 Vietnam 79,038 177,222 373,932 683,856 890,844 1,197,572 1,422,950 4 Mexico 1,091,150 1,129,125 1,315,933 1,392,769 1,465,957 1,349,515 1,239,455 5 Italy 1,289,872 1,340,895 1,202,969 1,059,054 913,464 942,174 812,277 6 Taiwan 815,780 773,195 778,273 741,997 780,186 783,818 772,943 Nguồn: United States International Trade Commission Hiện nay, sản phẫm gỗ là một trong những sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt Nam (đứng thứ 3 sau dệt may và giày dép) nên hầu như tất cả các doanh nghiệp nếu có khả năng kinh doanh xuất khẩu thì đều chú ý đặc biệt trong việc xuất khẩu sang Hoa Kỳ mà tiêu biểu nhất là các công ty đồ gỗ Đức Thành, gỗ Trường Thành, SAVIMEX … đều đã xuất khẩu thành công sang thị trường này và xây dựng được thương hiệu trong lòng khách hàng. Trong đó, Trường Thành là công ty rất đáng chú ý vì qui mô và chiến lược kinh doanh rất thành công. Trong việc thực hiện xuất khẩu trực tiếp sang Hoa Kỳ, các doanh nghiệp Việt Nam nên chú ý và học hỏi công ty này. Trong tương lai, khi nhu cầu về đồ gỗ ngày càng gia tăng thì áp lực cạnh tranh tại thị trường Hoa Kỳ về sản phẩm này càng mạnh. Vì thế, các công ty Việt cần nhanh chóng xác định phân khúc và lợi thế cạnh tranh của mình. Phân khúc thị trường. Tại Hoa Kỳ, sản phẩm gỗ Việt hướng vào phân khúc trung bình. Nhu cầu tại phân khúc này đang càng mở rộng, đây chính là cơ hội rất lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam. Sản phẩm của nước ta chủ yếu hướng đến các đối tượng cá nhân hoặc hộ gia đình có thu nhập từ 45.000 đến 300.000 USD/năm, đây là đối tượng chiếm đa số trong dân số Mỹ, ngoài ra, sản phẩm của cúng ta cũng hướng đến các công sở, cơ quan để phục vụ một lượng nhu cầu không nhỏ về thiết bị văn phòng ở đây. Phân tích SWOT về hoạt động marketing khi xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam vào Hoa Kỳ Điểm mạnh. Các khách hàng của công ty Việt thường là bạn hàng lâu năm, có uy tín và trên thị trường Hoa Kỳ nên các đơn hàng thường rất ổn định. Công ty Việt Nam có những chính sách duy trì tốt được mối quan hệ với khách hàng với người lao động và công chúng. Có nhiều kinh nghiệm về xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ. Sản phẩm Việt Nam có chất lượng tốt. Lực lượng công nhân đông đảo, sáng tạo. Nhà cung cấp đa số là các tổ chức nước ngoài nhưng đều là bạn hàng lâu năm và chất lượng rất ổn định. Điểm yếu. Công tác R&D chưa tốt. Công nghệ chưa đồng bộ, còn nhiều yếu kém, máy móc lạc hậu, xuống cấp. Chưa chú trọng công tác R&D. Bộ phận thiết kế còn yếu dẫn đến là chưa có các mẫu mã riêng. Chưa có kinh nghiệm về kinh doanh trên thị trường. Marketing còn rất yếu cụ thể là: Chưa có thương hiệu. Không có các dịch vụ đi kèm sản phẩm. Chưa có kênh phân phối tại Hoa Kỳ. Chưa đầu tư cho nghiên cứu thị trường. Chưa chú trọng thực hiện việc xúc tiến thương mại. Quảng bá thương hiệu còn yếu. Cơ hội. Hoa kỳ là một đất nước lớn, thu nhập cao, là thị trường đầy hứa hẹn. bên cạnh đó, chính phủ Hoa Kỳ vẫn duy trì chính sách phát triển kinh tế bất chấp những dấu hiệu phục hồi (duy trì mức lãi suất 0 – 0,2%). Nhu cầu về đồ gỗ có xu hướng tăng. Theo nhận định của Hawa, Hội mỹ nghễ và chế biến gỗ thành phố Hồ Chí Minh thì người tiêu dùng thế giới đang có xu hướng chuyển từ đồ nội thất cao cấp sang đồ nội thất trung bình cũng là phân khúc hướng tời của các công ty Việt Nam. Nhà nước ta có những chính sách rất tích cực để khuyến khích cho hoạt động xuất khẩu thành phẩm, nhập khẩu nguyên liệu thông qua việc miễn, giảm thuế, trồng rừng nguyên liệu, giáo dục và các ưu đãi vay vốn khác… Tân cảng Cái Mép nước sâu vừa được đưa vào hoạt động vào ngày 16/3/2010 cho phép xuất khẩu trực tiếp hàng hóa sang Hoa Kỳ và châu Âu mà không phải qua một nước thứ ba nào. Chính sách tỷ giá mới làm tăng giá USD, thuận lợi cho xuất khẩu vì doanh thu xuất khẩu chiếm hơn 80% trong tổng doanh thu của Công ty, và nhập khẩu nguyên vật liệu chiếm đến hơn 50% cũng bằng ngọai tệ là đô la Mỹ. Sau khi gia nhập WTO, ngành gỗ xuất khẩu của Việt Nam được giảm thuế nhập khẩu gỗ nguyên liệu và thuế xuất khẩu thành phẩm. Trung Quốc, đối thủ cạnh tranh chính của ta đang để lại ấn tượng rất xấu trong lòng công chúng Mỹ vì sự không đảm bảo về chất lượng và an toàn. Đồ nội thất bằng gỗ của nước này lại đang bị Hoa Kỳ áp mức thuế chống bán phá giá rất cao. Ngoài ra có thông tin cho biết, chính phủ Trung Quốc sẽ cắt giảm sự tăng trưởng của ngành gỗ và đồ gỗ, ngành này hiện bị đánh thuế xuất khẩu. Một số đối thủ khác cũng gặp khó khăn như Canada đang chịu mức thuế chống phá giá khó cạnh tranh về giá với sản phẩm từ Việt Nam, Mehico cũng giảm sản lượng xuất khẩu (620.690 ngàn USD năm 2006 còn 536.168 ngàn USD năm 2008), Indonesia, đã từng là nước đứng thứ 8 trong các quốc gia xuất khẩu đồ gỗ vào Mỹ với 2% thị phần, cũng chuyển hướng sang thị trường khác do chất lượng khó cạnh tranh với các nước “chiếu trên”. Đồ gỗ Việt Nam được người tiêu dùng Hoa Kỳ đánh giá là có chất lượng tốt hơn của Indonexia và Thái Lan, kiểu dáng đẹp và giá khá cạnh tranh. Hội đồng xuất khẩu gỗ cứng Hoa Kỳ (AHEC) thì cho rằng Việt Nam là nước dẫn đầu trong khối ASEAN về uy tín và mặt hàng, sản lượng sản phẩm gỗ xuất khẩu. Môi trường công nghệ, cơ sở vật chất và các ngành công nghiệp hỗ trợ trong nước ngày càng được cải thiện, có khả năng cung cấp các yếu tố đầu vào với chất lượng đạt tiêu chuẩn và giá cả thấp hơn. Thách thức. Cạnh tranh ngày càng gay gắt tại Hoa Kỳ. Thị trường có đòi hỏi cao hơn về chất lượng, an toàn. Các đạo luật hạn chế nhập khẩu của Hoa Kỳ mà cụ thể là đạo luật LACEY và đạo luật về Cải tiến an toàn sản phẩm tiêu dùng. Nguy cơ bị kiện bán phá giá. Giá dầu thô liên tục tăng cao do Mỹ, Anh, đe doa tấn công Li Bi, Nhật Bản lại đang tăng mạnh nhu cầu dầu để cung cấp điện và phục vụ việc tái thiết đất nước. Dự báo trong năm nay, nguồn cung dầu sẽ thiếu 400.000 tấn. Đại thiên tai ở Nhật tác động đến kinh tế Nhật và thế giới. Để tránh mức thuế chống bán phá giá quá cao, Trung Quốc đang có chiến dịch đầu tư sang Việt Nam rồi lại từ đó, tấn công thị trường trong nước ta và cả thị trường Mỹ. Tuyển dụng lao động khó. Do nhu cầu cao mà số lượng trường đào tạo chuyên ngành lâm nghiệp còn ít. Trên địa bàn cả nước hiện nay chỉ có 5 trường và chỉ có duy nhất trường Hà Nam dạy chế biến gỗ. Nguồn cung phụ thuộc nhiều vào nước ngoài. Trước đây, việc thu mua nguyên liệu phần lớn từ Indonesia và Malaysia, nhưng hiện nay, giá cả không còn cạnh tranh so với Nam Mỹ, và Châu Phi. Tuy nhiên, khi thu mua từ Nam Mỹ và Châu Phi, với cự ly vận chuyển xa hơn, sẽ có rủi ro về cước vận chuyển tăng cao và đặc biệt với thời gian vận chuyển dài sẽ ảnh hưởng đáng kể đến ngân lưu và vốn lưu động phải tăng cao. Hơn nữa do cung cầu còn tạm thời là chưa cân đối nên trung bình mỗi năm giá nguyên liệu tăng khoảng 10-20 % tùy chủng loại. Mặt khác, do yêu cầu của thị trường nên nguyên liệu của các công ty phải có chứng nhận FSC nên giá cả luôn cao hơn. SWOT. Cơ hội Quy mô thị trường mở rộng. Chính sách thuận lợi của Mỹ. Chính sách khuyến khích Xuất khẩu. Cảng Cái Mép hoạt động Nhu cầu tăng. Giá USD tăng. Khó khăn của Trung Quốc. Nhận định tốt từ khách hàng. Công nghệ trong nước phát triển. Thách thức Cạnh tranh gay gắt. Đòi hỏi cao về chất lượng. Luật hạn chế nhập khẩu. Nguy cơ bị kiện bán phá giá Giá đầu vào biến động. Khủng hoảng kinh tế. Đại thiên tai tại Nhật Trung quốc đầu tư tại Việt Nam. Tuyển dụng lao động khó. Cung phụ thuộc nước ngoài. Điểm mạnh Bạn hàng lâu năm, đơn hàng thường ổn định. Quan hệ tốt với lao động và công chúng. Có nhiều kinh nghiệm xuất khẩu. Chất lượng tốt. Lao động đông, có tay nghề. Nhà cung cấp lâu năm, chất lượng ổn định. Duy trì tốt các mối quan hệ với khách hàng, từng bước tiếp cận trực tiếp thị trường Hoa Kỳ. Áp dụng các công nghệ tiên tiến đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Quảng bá về chất lượng thương hiệu, an toàn sức khỏe cho công chúng Mỹ. Khẳng định chất lượng vượt qua các rào cản về chất lượng, an toàn sức khỏe. Thực hiện nghiêm túc chứng nhận nguồn gốc xuất xứ. Dự trữ nguyên liệu có biến động giá. Duy trì mối quan hệ tốt với nhân viên và các nhà cung ứng hiện có. Điểm yếu Chưa có bộ phận thiết kế. Chưa có kinh nghiệm về thị trường. Marketing còn yếu. Công nghệ yếu. Trong thời gian trước mắt, vẫn tiếp tục hình thức xuất khẩu trung gian nhưng dần phải xuất khẩu trực tiếp, xây dựng thương hiệu, cải thiện công tác Marketing. Nhanh chóng và tích cực hơn trong việc bảo trì và mua máy mới. Không thể bỏ quên thị trường nội địa. Có chính sách tuyển dụng hấp dẫn. Tìm kiếm thêm các nhà cung ứng mới để chủ động hơn trong nguồn hàng. CHƯƠNG IV CHIẾN LƯỢC ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU ĐỒ GỖ VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG MỸ Chiến lược sản phẩm Thị thường Mỹ luôn là một thị trường có sức tiêu thụ lớn và tiềm năng. Để xâm nhập vào thị trường này, các doanh nghiệp xuất khẩu đặc biệt là các doanh nghiệp Việt Nam đã tiến hành các cuộc nghiên cứu thị trường tại đây. Như đã trình bày ở trên, kết quả của các cuộc nghiên cứu cho thấy : Về vật liệu sản phẩm, người Mỹ cũng thích nguyên liệu gỗ cứng, tốt nhất là gỗ của Bắc Mỹ. Sản phẩm phải hoàn thiện như kiểu dáng, nước sơn, cách trang trí, đánh bóng, độ mịn bề mặt, bản lề và các phụ kiện chắc chắn, độ khít sản phẩm, đóng mở tiện lợi dễ dàng… Đối với người tiêu dùng Mỹ, kiểu dáng bên ngoài quan trọng hơn so với chất liệu sản phẩm. Nước sơn phủ bên ngoài phải thật đẹp và kiểu dáng phải tinh tế và thanh nhã. Nhà cửa thiết kế hiện đại nên đồ gỗ trang trí nội thất cũng phải mang phong cách đó. Trang trí không nên rườm rà mà chủ yếu là các đường thẳng và các nắm tay cầm to hình tròn bằng gỗ hoặc bằng đồng. Tất cả đều đi thành bộ với nhau như giường, bàn ghế, tủ áo quần, tủ đựng thuốc, tủ đựng đồ tắm, tủ đựng chăn, tủ trang điểm, khung gương… Ngoài ra, người tiêu dùng Hoa Kỳ cũng có đòi hỏi ngày càng đa dạng hơn về sản phẩm chứ không phải chỉ là các mẫu mã sản phẩm thông thường như hiện nay. Các sản phẩm đồ gỗ mang phong cách Trung Hoa cổ điển đời nhà Minh, nhà Thanh… hay các sản phẩm đồ gỗ tự lắp ghép lại rất được ưa chuộng, đồ gỗ dùng ngoài trời cũng hứa hẹn sẽ mang lại nhiều sức hấp dẫn. Đặc biệt, nhóm cũng đã tiến hành một cuộc nghiên cứu về nhu cầu sử dụng sản phẩm đồ gỗ nội thất theo cách tự lắp ráp. Theo thống kê và phân tích, nhóm có kết luận như sau : Kết quả khảo sát cho thấy, tất cả các đáp viên đều thích sử dụng đồ nội thất được làm từ gỗ. Đặc biệt, trong 2 người Mỹ thì sẽ có 1 người thích sử dụng đồ gỗ nội thất Việt Nam. Tuy nhiên, khi được hỏi về các thương hiệu đồ gỗ nội thất của Việt Nam, chỉ 25% đáp viên biết đến một số thương hiệu Việt Nam và thương hiệu được biết đến nhiều nhất là Hoàng Anh. Điều này chứng tỏ rằng, nhu cẩu sử dụng đồ gỗ nội thất, cụ thể là đồ gỗ Việt Nam, của người Mỹ là rất cao, nhưng thương hiệu đồ gỗ Việt Nam còn khá xa lạ với người tiêu dùng Mỹ. Cũng qua cuộc khảo sát trên, các đáp viên cho biết, khi lựa chọn đồ gỗ nội thất, họ quan tâm nhất đến dịch vụ bán hàng. Và hai yếu tố quan trọng tiếp theo là chất lượng sản phẩm và thiết kế của sản phẩm. Đặc biệt, giá là yếu tố thứ tư họ quan tâm đến. Và cuối cùng, thương hiệu là yếu tố ít được chú trọng nhất. Ngoài ra, bảng câu hỏi khảo sát nhằm thăm dò ý kiến người tiêu dùng về việc sử dụng đồ gỗ nội thất lắp ráp. Kết quả cho thấy, 75% đáp viên thích lắp ráp đồ gỗ nội thất. Đây là một tiềm năng rất đáng được khai thác. Từ kết quả của cuộc khảo sát, ta có thể rút ra được kết luận như sau :Người tiêu dùng Mỹ rất thích sử dụng đồ gỗ nội thất được làm bằng gỗ. Để có thể thành công trong lĩnh vực này, doanh nghiệp cần sở hữu cho riêng mình các sản phẩm có thiết kế đẹp với chất lượng cao. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần phải đầu tư mạnh vào dịch vụ hỗ trợ khách hàng cũng như bán hàng. Và một điều may mắn cho các doanh nghiệp Việt Nam là người tiêu dùng Mỹ ít quan tâm tới giá cả và thương hiệu. Điều đó tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam, các doanh nghiệp ít được người tiêu dùng Mỹ biết đến, có thể xâm nhập vào thị trường Mỹ. Đặc biệt, yếu tố giá cũng ít được chú trọng hơn. Do đó, doanh nghiệp Việt Nam gặp ít khó khăn và áp lực hơn trong việc định giá sản phẩm đồ gỗ nội thất. Từ kết luận trên, nhóm đề ra chiến lược sản phẩm cụ thể như sau : Nên sử dụng các loại gỗ cứng để sản xuất sản phẩm. Các thiết kế sản phẩm phải đẹp, mang phong cách sang trọng. Ngoài ra, nước sơn, độ bóng của phẩm cũng phải được đặc biệt chú trọng. Chỉ sản xuất sản phẩm ở cấp độ chi tiết. Các chi tiết này phải có khớp nối để có thể lắp ráp các chi tiết lại với nhau một cách thuận tiện thành một sản phẩm hoàn chỉnh. Bên cạnh đó, thị hiếu của người Mỹ là thích các sản phẩm đồng bộ. Do đó, các sản phẩm khác nhau trong cùng một bộ sản phẩm sau khi được lắp ráp cũng phải có cùng phong cách thiết kế để có thể tạo thành một bộ sản phẩm hoàn chỉnh. Tuy nhiên, vấn đề là ở việc đa dạng hóa sản phẩm để đáp ứng nhiều hơn nhu cầu của khách hàng. Doanh nghiệp sản xuất phải có các sản phẩm có kiểu dáng khác nhau nhưng cùng phong cách thiết kế. Do vậy, trước mắt, để thực hiện chiến lược trên, mỗi doanh nghiệp nên chọn một phong cách đặc trưng riêng biệt với một kích thước chuẩn chung cho tất cả các bộ sản phẩm. Từ đó, doanh nghiệp sẽ thiết kế nên những bộ sản phẩm khác nhau. Các bộ sản phẩm này chỉ mang tính chất gợi ý cho khách hàng. Khách hàng có thể chọn lựa theo ý thích của mình. Ví dụ : Một doanh nghiệp chọn phong cách cổ điển của Trung Quốc. Do đó, tất cả các chi tiết sản phẩm đều phải theo phong cách cổ điển này. Để tạo nên một cái bàn, doanh nghiệp nghiên cứu và thiết kế ra được 3 kiểu chân bàn (với ký hiệu mỗi kiểu chân bàn lần lượt là A, B và C) và 5 kiểu mặt bàn (với ký hiệu mỗi kiểu mặt bàn là 1, 2, 3, 4 và 5). Từ việc kết hợp chân bàn và mặt bàn (ví dụ như 1A, 2A hoặc 1B, 2B…), khách hàng có thể sở hữu 15 kiểu bàn khác nhau để lựa chọn. Cũng tương tự với việc tạo ra một cái bàn, doanh nghiệp cũng phải sản xuất các chi tiết nhỏ kết hợp với nhau để tạo nên được một chiếc ghế. Và bước sau cùng là việc kết hợp các chiếc ghế này với một chiếc bàn để có được bộ bàn ghế hoàn chỉnh theo ý muốn của khách hàng. Nhờ vậy mà khách hàng có rất nhiều lựa chọn trong việc sở hữu một bộ sản phẩm theo sở thích của mình. Đây là điểm mới mà các doanh nghiệp tại thị trường Mỹ chưa đáp ứng được. Đánh giá tính khả thi của chiến lược. Dựa trên cơ sở vững chắc trong nhu cầu người tiêu dùng bao gồm cả các thông tin sơ cấp và thứ cấp, sản phẩm mới này là hoàn toàn phù hợp với sở thích của người tiêu dùng Hoa Kỳ nên các doanh nghiệp Việt nam có thể không lo về đầu ra. Hơn thế nữa, loại sản phẩm này lại cũng không đòi hỏi cao về công nghệ, chúng ta hoàn toàn có thể áp dụng các công nghệ hiện có để sản xuất nó. Theo đó, chúng em tin rằng sản phẩm này có tính khả thi cao. Giải pháp hỗ trợ thực hiện. Về bộ máy Marketing của công ty. Tổ chức phòng Marketing. Như đã nói ở trên, đa số các dong nghiệp đồ gỗ Việt Nam chưa chú ý lằm đến việc tiếp thị cho sản phẩm của mình tại thị trường nước ngoài. Có thể nói, lợi ích mà hoạt động Marketing đem lại cho công ty là rất dài lâu chứ không phải là tức thời, vì thế, doanh nghiệp Việt cần có chính sách đầu tư thích đáng hơn cho bộ phận Marketing nói chung và hoạt động Marketing xuất khẩu nói riêng. Về việc bồi dưỡng kiến thức: Do chỉ xuất khẩu gián tiếp, các quy định của Hoa Kỳ về việc nhập khẩu như thuế, thủ tục hải quan… chưa được các công ty nắm bắt thấu đáo. Đây là vấn đề cần phải được khắc phục ngay vì ngoài việc hiểu về khách hàng cũng cần phải biết đến luật pháp của Hoa Kỳ để tránh các nguy cơ có thể xảy đến mà gần nhất là việc có thể bị kiện bán phá giá. Hiện nay, trình độ ngoại ngữ của các công ty có thể không đủ cho việc thực hiện kinh doanh trực tiếp tại nước ngoài. Vì vậy việc đầu tư xây dựng một lớp người mới có kỹ năng sử dụng ngoại ngữ trong giao tiếp và kinh doanh là cần thiết, điều này cũng hoàn toàn phù hợp với mục tiêu tập trung cho phát triển nguồn nhân lực, hiện đại hóa công ty. Chức năng phòng Marketing. Chính sách nghiên cứu thị trường. Khi thực hiện kinh doanh trực tiếp ở nước ngoài, doanh nghiệp nhất thiết phải thực hiện nghiên cứu thị trường để có những thông tin về nhu cầu, khách hàng, đối thủ cạnh tranh cũng như các yếu tố khác của môi trường kinh doanh. Nghiên cứu thị trường không những giúp nắm bắt cơ hội mà còn giúp doanh nghiệp có được những chuẩn bị cần thiết cho các biến động. Hơn nữa, thị trường Hoa Kỳ lại là thị trường lớn với nhu cầu đa dạng và thường xuyên thay đổi, đối thủ cạnh tranh nhiều và mạnh, vì thế không thể lơ là việc nghiên cứu thị trường. Chúng ta vẫn không quên thất bại tại thị trường Mỹ của IKEA, một trong những công ty sản xuất đồ gia dụng hàng đầu thế giới do không thích ứng với nhu cầu khác lạ của người Mỹ, vào năm 1995, chỉ hai năm sau khi thực hiện kinh doanh tại đây, công ty Thụy Điển này đã phải đóng 2 trong số 21 cửa hàng tại Bắc Mỹ, sa thải hàng loạt nhân viên và gánh chịu những thất bại nặng nề khác mà một kế hoạch Marketing rầm rộ cũng không giúp cải thiện được tình hình. Nhà nước cần phải hỗ trợ các công ty Việt Nam thực hiện nghiên cứu thị trường, không thể chỉ thực hiện việc nghiên cứu tại bàn như trước đây nữa vì nhìn chung, tỷ lệ phản hồi chính xác sẽ không cao nếu chỉ dựa vào khảo sát qua thư điện tử. Các công ty có thể tận dụng các cổng thương mại điện tử, các sàn giao dịch B2B (Business to Business), cũng như thường xuyên tiếp xúc với Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam để được hỗ trợ và cung cấp thông tin kịp thời về thị trường. Chính sách bán hàng. Ngoài ra, để tránh rơi vào khó khăn khi khách hàng bị phá sản, thay đổi nhà cung cấp hay sử dụng lợi thế về quy mô như Walmark, Carrefour… để ép giá, công ty Việt Nam nên thực hiện chính sách không bán quá 30% sản lượng cho bất kỳ một đối tác nào dù giá chào mua có tốt đến đâu. Thiết kế showroom cũng vô cùng quan trọng. Phòng trưng bày phải được bố trí sao cho có thể trưng bày được một sản phẩm đã lắp ráp hoàn chỉnh và một vài các mẫu mã được thiết kế cho sản phẩm đó, các mẫu mã khác có thể giới thiệu đến khách hàng qua catalogue. Vì thế, thiết kế các catalogue này cũng là một công việc rất cần chú ý, công ty vừa phải tìm kiếm những doanh nghiệp in ấn thiết kế catalogue chuyên nghiệp, hiện đại và với giá cả phải chăng, Các catalogue này còn đòi hỏi tiêu chuẩn cao về thẩm mỹ và phải chứa hết tất cả các mẫu chi tiết của công ty. Về bộ phận thiết kế. Công tác thiết kế là công tác tạo ra rất nhiều giá trị gia tăng và mang đến nhiều lợi nhuận cho công ty. Nhận thức được tầm quan trọng của việc này. Chúng ta cần đầu tư thích đáng hơn cho việc đào tạo đội ngũ thiết kế chuyên nghiệp, tạo ra các sản phẩm mang nét riêng của Việt Nam. Vì hiện nay, hầu hết các công ty sản xuất đồ gỗ xuất khẩu đều thực hiện công tác gia công là chính, ngành thiết kế đồ gỗ ở Việt Nam chưa thật sự phát triển nên việc thiết kế sản phẩm có thể bắt đầu bằng thuê chuyên gia người nước ngoài và tổ chức các chuyến đi sang các nước Âu Mĩ để khảo sát và học hỏi các mẫu sản phẩm mới. Hoạt động thiết kế này là điều công ty hoàn toàn có khả năng thực hiện và nếu làm được nó sẽ tạo thêm một lượng lớn giá trị gia tăng cũng như góp phần không nhỏ xây dựng thương hiệu tạo lợi thế cạnh tranh mạnh mẽ. Thực hiện việc giảm chi phí sản xuất. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường Hoa Kỳ đặc biệt là với các sản phẩm giá rẻ như của Trung Quốc, tối thiểu hóa chi phí của mình để tăng lợi thế cho sản phẩm là việc làm cần thiết. Để thực hiện việc giảm chi phí có thể triển khai các phương án sau: Thiết lập một quy trình sản xuất cụ thể, chặt chẽ và đồng bộ, đảm bản thực hiện công việc đúng ngay từ đầu để ngăn ngừa chi phí phát sinh do các sai sót, hư hỏng. Có kế hoạch huấn luyện về việc giảm giá vốn hàng bán cũng như quản lý nguyên liệu thô cho toàn bộ các cán bộ quản lý sản xuất và công nhân. Liên doanh hay hỗ trợ vốn với các nhà cung cấp để hạn chế rủi ro về biến động giá nguyên liệu đầu vào. Vấn đề giảm chi phí sản xuất trong 3 năm sắp tới đây của công ty sẽ là rất quan trọng vì việc phát triển sản phẩm mới sẽ đòi hỏi chi phí Marketing, chi phí lãi vay và chi phí nhân sự đều tăng rất cao. Cần phải nói là hiện nay, các doanh nghiệp xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam hoạt động còn rất rời rạc, nên nhanh chonh1 khắc phục điều này và các doanh nghiệp phải nên chia sẽ kinh nghiệm với nhau. Gia nhập chuỗi liên kết đồ gỗ toàn cầu. Để tiếp cận các nhà phân phối lớn và uy tín, ngoài chính sách quảng bá thương hiệu, các doanh nghiệp đồ gỗ Việt Nam phải phấn đấu đạt tiêu chuẩn tham gia tổ chức VFTN, thuộc GFTN – một mạng lưới toàn cầu liên kết chủ rừng, nhà chế biến đồ gỗ và các chuỗi bán hàng trên thế giới, các tập đoàn siêu thị như Carrefour, Homebase… Tổ chức này chính là cầu nối cho công ty đến gần hớn với các nhà phân phối cũng như thị trường Hoa Kỳ. Tham gia hội chợ tại Hoa Kỳ. Tham gia hội chợ là biện pháp xúc tiến rất cần thiết. Công ty lần đầu tham gia trưng bầy tại hội chợ ở Hoa Kỳ phải đối mặt với rất nhiều khó khăn nên chúng ta cần phải có sự chuẩn bị ngay từ bây giờ. Để có được một vị trí gian hàng tại hội chợ uy tín, công ty phải đăng ký từ một thời gian rất lâu trước đó vì các hội chợ đều có khuynh hướng ưu tiên cho những doanh nghiệp đã quen nhiều năm. Lập kế hoạch tài chính. Dự trù tất cả các chi phí dùng cho việc tham dự hội chợ như chi phí thuê gian hàng, thiết kế, hàng hư hỏng, vận chuyển, quảng bá, tiếp thị, quà, cho người đi, tiếp khách, thuê nhân sự tại chỗ v.v… thông thường các chi phí này vào khoảng 13 – 15 ngàn USD. Lựa chọn hàng mẫu trưng bày. Không nên trưng bày quá nhiều mà chỉ đưa ra những mẫu hàng phù hợp với xu hướng tiêu dùng chung của thị trường, và đại diện được cho khả năng sản xuất của mình về loại sản phẩm, độ tinh xảo, chất lượng, kiểu dáng, nguyên liệu… Catalogue, quà tặng và các tài liệu quảng bá khác sẽ góp pần quảng bá rất tích cực cho công ty. Các catalogue khi mang sang Hoa Kỳ ngoài việc chứa đầy đủ các thông tin về sản phẩm, nó cũng phải cung cấp địa chỉ công ty, cách đặt hàng thuận lợi và nhất thiết phải được thiết kế bằng tiếng Anh. Thiết kế gian hàng. Gian hàng công ty cần phải được thiết kế chuyên nghiệp và tốt nhất là nên thuê các nhà thiết kế tại Hoa Kỳ đảm nhiệm. Quảng bá về việc tham gia hội chợ. Để có thể thu hút được nhiều khách đến thăm và giao dịch phải quan tâm đến việc quảng bá về sự có mặt của công ty tại hội chợ, kinh phí hỗ trợ xúc tiến thương mại của nhà nước cần phải dành một phần để quảng bá về sự có mặt của Việt Nam tại hội chợ. Hiệu quả nhất là đăng tin và/hoặc quảng cáo trên danh bạ hội chợ hoặc các tạp chí chuyên ngành gắn với hội chợ. Khi tham gia hội chợ các doanh nghiệp Việt Nam nên tập trung tại một chỗ, điều đó góp phần khẳng định và quảng bá mạnh mẽ thương hiệu gỗ Việt. Thành công của các doanh nghiệp Việt Nam tham gia trưng bầy tại Hội chợ đồ gỗ tại thành phố High Point, Bang Bắc Carolina hồi tháng 4 năm 2004 một phần là nhờ làm tốt công tác quảng bá về sự tham gia của Việt Nam tại hội chợ. Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ đã tiếp cận được với Tạp chí chuyên ngành về đỗ gỗ Furniture Today của Hoa Kỳ để đăng tin trước khi diễn ra hội chợ quảng bá về tiềm năng xuất khẩu của ngành đồ gỗ Việt Nam và sự tham gia lần đầu tiên của các doanh nghiệp Việt Nam tại hội chợ. Các lưu ý khác: Trường hợp đến trễ và không có được vị trí tốt, công ty chỉ nên thuê một chỗ nhỏ để làm Marketing. Chú ý đến việc đặt thẻ ra vào hội chợ và đặt khách sạn, càng sớm càng rẻ và nên đặt dôi ra một số ngày để sau khi hội chợ kết thúc có thời gian để chúng ta thăm đối tác, tạo mối quan hệ. Hàng sang Hoa Kỳ hay bị ách ở cảng vì vậy, công ty nên thực hiện thủ tục tạm nhập tái xuất. Hầu hết các hội chợ tại Hoa Kỳ đều không cho phép bán lẻ tại Hội Chợ, và phải dọn dẹp tất cả các sản phẩm cũng như dụng cụ tự mang đến hội chợ. Nếu vi phạm sẽ bị phạt rất nặng. Cần xác định rõ trách nhiệm và chi phí vận chuyển thiết bị và vật tư từ kho đến gian hàng vì một số hội chợ quy định công việc này phải do chính đơn vị tổ chức hội chợ thực hiện. Giải pháp mua hàng từng bước Ngày nay, với nhiều tiện ích mang lại của thương mại điện tử. Chắc chắn rằng các doanh nghiệp sẽ sở hữu một website cho riêng mình. Đặc biệt, các doanh nghiệp muốn khai thác nhu cầu trên cần bổ sung trên website mình một chương trình có tính năng nhằm hỗ trợ bán hàng và hỗ trợ khách hàng lắp ghép các chi tiết trong một sản phẩm cũng như các sản phẩm trong một bộ sản phẩm. Việc lắp ghép này được chia thành 2 giai đoạn : Giai đoạn 1 : Ghép các chi tiết để tạo nên một sản phẩm Bước 1 : Khách hàng chọn từng chi tiết cấu thành nên một sản phẩm. Máy tính sẽ giúp khách hàng ghép chúng lại với nhau thành một sản phẩm mô phỏng hoàn chỉnh. Nếu chưa hài lòng về sản phẩm trên, khách hàng sẽ bắt đầu chọn lại các chi tiết ấy cho tới khi được sản phẩm mà mình thích. Bước 2 : Chọn các tiết để lắp ghép thành một sản phẩm khác trong một bộ sản phẩm. Tương tự bước 1, khách hàng sẽ lắp ghép được một sản phẩm vừa ý khác trong bộ sản phẩm. Tương tự như vậy cho đến khi lắp ghép được tất cả các sản phẩm trong một bộ sản phẩm. Khách hàng sẽ chuyển sang giai đoạn hai. Giai đoạn 2 : Ghép các sản phẩm để tạo nên một bộ sản phẩm Ở giai đoạn này, khách hàng chỉ việc tiến hành chọn các sản phẩm muốn có trong một bộ sản phẩm. Hệ thống máy tính sẽ giúp khách hàng ghép chúng lại với nhau để tạo ra một bộ sản phẩm mô phỏng. Nếu chưa hài lòng, khách hàng sẽ chọn các sản phẩm khác để ghép chúng lại cho tới khi có được bộ sản phẩm như sở thích. Bên cạnh việc tạo nên một chương tình này trên các website, tại các điểm bán hàng, doanh nghiệp cần thiết lập hệ thống máy tính chuyên biệt với chương trình lắp ghép mô phỏng này để hỗ trợ các khách hàng mua hàng tại điểm bán. KẾT LUẬN Thị trường sản xuất hàng đồ gỗ nội thất của Việt Nam hoàn toàn có năng lực nhưng lại chưa nắm được thị hiếu, nhu cầu của đối tượng khách hàng mà mình nhắm tới. Trong những năm vừa qua, việc các doanh nghiệp chủ động liên kết với nhau để thực hiện đáp ứng đơn hàng của nước ngoài, cũng như việc phối hợp với các chủ rừng để đạt được chứng chỉ rừng đã cho thấy ngành đồ gỗ nội thất Việt Nam đã nhìn nhận tầm quan trọng của việc giao thương và hội nhập quốc tế. Đề tài nghiên cứu nhắm thẳng tới sự vấn đề cấp thiết này. Với mong muốn tìm ra giải pháp giúp đồ gỗ nội thất của Việt Nam ngày càng được ưa chuộng hơn trên thị trường Hoa Kỳ, một thị trường lớn của doanh nghiệp Việt Nam, nhóm nghiên cứu đã kết hợp việc nghiên cứu các mô hình cạnh tranh với khảo sát thị hiếu thực tế của người tiêu dùng tại Mỹ, từ đó phân tích cơ hội, thách thức, vận may rủi để có được cái nhìn thấu đáo nhất cho vấn đề. Một tương lai tốt đẹp cho ngành xuất khẩu đồ gỗ nội thất của nước nhà sẽ không còn xa một khi doanh nghiệp sản xuất có được chiến lược phù hợp và đầu tư đúng mức cho việc nghiên cứu thị trường để nắm bắt thị hiếu nhanh chóng. TÀI LIỆU THAM KHẢO Trung tâm Thương mại Quốc tế UNCTAD/WTO (ITC)và Cục Xúc tiến Thương mại Việt Nam (VIETRADE) – Nguyên tắc Marketing dành cho các nhà xuất khẩu đồ gỗ Mỹ nghệ. GS,TS Hồ Đức Hùng – Quản Trị Marketing – 2008 ThS Trần Hoàng Dũng – Tiếp thị cơ bản – NXB Đại Học Kinh Tế thành phố Hồ Chí Minh. Kotler, Di Maulo, Armstrong - Marketing từ lý thuyết đến thực tiễn – NXB Gaёtan Morin. Kotler, Dubois – Quản trị marketing – NXB Public Union - 1982 Michael E.Porter, Lợi thế cạnh tranh quốc gia, 2008, Nhà xuất bản trẻ Roman G. Hiebing, Scott W.Cooper – Xây dựng kế hoạch Marketing – NXB interEditions - 10/1994 Tin tức lúc 20 giờ trên FBNC Website: www.savimex.com www.truongthanh.com www.dtwoodvn.com www.usitc.gov www.bbc.co.uk www.vtca.vn www.vietbao.vn www.marketing.thus.ch www.vn-seo.com www.imccorp.com.vn www.eia-global.org www.chebiengovn.com www.vietnam-ustrade.org www.iwf2004.com www.vntrades.com PHỤ LỤC Bảng câu hỏi khảo sát SURVEY ON WOODEN INTERIOR FURNITURE PRODUCTS Please complete the questions in the pages that follow and submit it to: nckhdogo2011@hotmail.com Thank you for taking the time to complete and submit this survey. Your insight and information are very valuable to us in making informed decisions about ameliorating the exportation of Vietnamese wooden furniture products into American market. Use the space below to provide additional comments on how we might improve our job. ….. Should you have any further questions or concerns about this survey or any of its questions, please contact us at : nckhdogo2011@hotmail.com Please return your complete survey in an email message sent to nckhdogo2011@hotmail.com . Thank you very much. Do you like furniture products made of wood? Yes No Have you heard of wooden furniture products made in Vietnam? Yes No (switch to question number 5) Have you ever heard of these Vietnamese brands of wooden interior furniture products? Duc Thanh. Truong Thanh. Savimex. Hoang Anh. Chulai. Others:................................. Do you like Vietnamese wooden furniture product? Yes No Please evaluate the importance of the following factors which impact your choice of buying a wooden interior furniture product: Not very Important important High quality. 1 2 3 4 5 Low price. 1 2 3 4 5 Credible brand. 1 2 3 4 5 Good design. 1 2 3 4 5 Good service. 1 2 3 4 5 Do you like setting up a wooden furniture product by yourself from individual parts ( for example: you can make a table just like you want it from the various table tops and table legs we provide)? Yes No Do you like choosing individual components in a wooden table set from various models? ( combining different styles of tables and chairs) Yes No Please kindly provide us with some additional information about yourself. Personal information : Name : ……………………………………. DOB : ……………….. Gender : ………. City : ……………………………………… State : ……………….. Occupation : ……………………………… Thank you very much for your time, effort and kind help.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docDay manh xuat khau do go Viet Nam vao thi truong My.doc
Tài liệu liên quan