Có thể nói, thành quả của kinh tế tri thức là rất lớn lao, nó đánh dấu một cột mốc mới đầy khích lệ trong nỗ lực tạo lập nền tảng vật chất và tinh thần ngày càng tăng cho con người. Thế nên, việc nắm bắt đúng xu thế phát triển của nền kinh tế tri thức, đồng thời đưa ra những đối sách thích hợp trong chiến lược kinh tế có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với những triển vọng phát triển của mỗi quốc gia hiện nay.
Trong số các nước OECD, Mỹ là nước có những bước khởi đầu thành công nhất trong việc tiến đến nền kinh tế tri thức. Các ngành công nghệ cao đã trở thành động lực tăng trưởng của nền kinh tế Mỹ và thu hút một lực lượng lao động lớn. Nền kinh tế tri thức ở Mỹ là một nền kinh tế có xu hướng toàn cầu mạnh mẽ và được quản lý và vận hành theo một cơ chế hết sức linh hoạt. Bên cạnh đó, những yếu tố của nền kinh tế tri thức cũng đã phát triển và đạt mức khá cao trong nhiều nước EU, những ngành dựa trên tri thức hiện nay đã chiếm tới trên 50% GDP và trở thành những ngành quan trọng nhất. Tuy nhiên, theo các chuyên gia thì mặc dù EU vẫn là một trong những cái nôi chủ yếu của khoa học và công nghệ trên thế giới song họ vẫn thua kém Mỹ trong một số lĩnh vực như công nghệ thực phẩm gen, công nghệ vũ trụ, công nghệ thông tin và nhất là Internet. Có thể nói, cho đến nay, tình hình chuyển sang nền kinh tế tri thức ở EU chậm hơn so với Mỹ.
Những nét cơ bản của nền kinh tế tri thức cũng đang dần xuất hiện, mặc dù chậm hơn và ở trình độ thấp hơn so với các nước EU và Mỹ, ở một số nước châu Á. Trong thời gian qua, Nhật Bản đã đạt được những kết quả đáng kể trong việc tiến đến nền kinh tế tri thức, thể hiện ở chỗ Nhật Bản vẫn liên tục đạt được những thành tựu khoa học và công nghệ to lớn. Tuy nhiên, kinh tế tri thức ở Nhật Bản hiện vẫn chưa thể hiện một cách rõ nét và ở nhiều phương diện vẫn còn thua xa so với Mỹ và các nước EU. Mặc dù là nơi sinh ra những công ty điện tử đứng đầu thế giới nhưng Nhật Bản lại xếp vị trí thứ 14 xét về sức cạnh tranh công nghệ thông tin trong khi Mỹ vẫn chiếm vị trí số 1.
112 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1743 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp để xây dựng thành công nền kinh tế tri thức ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nền kinh tế tri thức của Việt Nam. Trong tương lai, trước xu hướng phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật và công nghệ thông tin đòi hỏi trình độ của lực lượng lao động phải không ngừng được nâng cao. Những việc làm cơ bắp và sức lực sẽ ngày càng giảm, thay vào đó là việc làm trí óc, có hàm lượng tri thức và đòi hỏi kỹ năng ngày càng phổ biến. Trước tình hình đó, Việt Nam cần coi việc phát triển hệ thống giáo dục theo hướng thích nghi với những điều kiện của một xã hội tri thức là một trong những ưu tiên hàng đầu của chính sách phát triển trong thời gian tới. Chính phủ cần có những chính sách khuyến khích các tổ chức và cá nhân đầu tư vào lĩnh vực giáo dục. Hệ thống giáo dục hàng năm đào tạo ra hàng chục nghìn sinh viên, nhưng trong số này nhiều người mới chỉ được đào tạo các kiến thức và kỹ năng hết sức cơ bản. Để khắc phục tình trạng trên, chúng ta cần bắt đầu tiến hành cơ cấu lại hệ thống giáo dục theo định hướng thị trường, đáp ứng kịp thời các đòi hỏi mới của thị trường, tránh tình trạng sinh viên sau khi ra trường không tìm được việc làm do không đáp ứng được các tiêu chuẩn của công việc.
Một vài học giả nước ngoài đã ví von rằng Việt Nam tiếp cận với nền kinh tế tri thức giống như cậu học sinh cấp một muốn thi thẳng vào đại học. Sự so sánh trên bắt nguồn từ lý do nước ta có xuất phát điểm rất thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Tuy không có khả năng sớm tiến thẳng vào nền kinh tế tri thức nhưng chúng ta hoàn toàn có thể tận dụng xu thế phát triển dựa trên tri thức để thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam tiến lên. Để làm được điều đó, chúng ta phải nỗ lực tranh thủ và tiếp thu các thành tựu của xu hướng mới đang diễn ra trên thế giới bằng cách đẩy mạnh quan hệ với bên ngoài thông qua mậu dịch quốc tế, đầu tư trực tiếp nước ngoài, mua giấy phép công nghệ nước ngoài, trao đổi chuyên gia; phổ biến nhanh chóng các thành tựu đó vào càng nhiều khía cạnh kinh tế và xã hội càng tốt, đồng thời tập trung tạo ra những tiền đề sẵn sàng đảm bảo nắm bắt thành công những cơ hội sẽ xuất hiện trong tương lai.
Chương III
giải pháp để xây dựng thành công nền kinh tế tri thức ở Việt nam.
Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Đại hội Đảng lần thứ VIII đã quyết định phải đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá để đến năm 2020, nước ta về cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Trong thời gian tới, kinh tế thế giới sẽ có những biến động to lớn không lường trước được, theo chiều hướng chuyển mạnh sang nền kinh tế tri thức, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, khoảng cách giữa các nước giàu nghèo có thể còn gia tăng. Đó là một thách thức lớn đối với các nước đang phát triển nói chung và với Việt Nam nói riêng. Nếu không biết tận dụng cơ hội nâng cao năng lực nội sinh, đổi mới cách nghĩ, cách làm, bắt kịp tri thức mới của thời đại, đi thẳng vào nền kinh tế dựa vào tri thức và công nghệ cao thì sẽ bị tụt hậu xa.
Tuy nhiên, theo quan điểm của Đảng và Nhà nước thì chúng ta không thể rập khuôn theo mô hình công nghiệp hoá mà các nước đi trước đã tiến hành. Cũng không nên hiểu công nghiệp hoá chủ yếu là xây dựng công nghiệp mà phải hiểu đây là sự chuyển nền kinh tế từ tình trạng lạc hậu, năng suất, chất lượng và hiệu quả thấp, dựa vào phương pháp sản xuất nông nghiệp, lao động thủ công là chính sang nền kinh tế có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao, theo phương pháp sản xuất công nghiệp, dựa vào tiến bộ khoa học và công nghệ mới nhất. Như vậy, nền kinh tế tri thức là cơ hội quý giá để Việt Nam đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nước ta không thể chần chừ, bỏ lỡ cơ hội lớn này mà phải đi thẳng vào nền kinh tế tri thức để rút ngắn khoảng cách với các nước. Vì vậy, công nghiệp hoá ở nước ta phải đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ lớn lao, đó là chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp và từ kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức. Hai nhiệm vụ ấy phải được thực hiện đồng thời, lồng ghép vào nhau, hỗ trợ nhau và bổ sung cho nhau. Điều đó có nghĩa là phải nắm bắt các tri thức và công nghệ mới nhất của thời đại để hiện đai hoá nông nghiệp, nông thôn đồng thời phát triển nhanh các ngành công nghiệp và dịch vụ dựa vào tri thức, khoa học và công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành kinh tế tri thức. Chúng ta không thể chờ công nghiệp hoá hoàn thành cơ bản rồi mới chuyển sang nền kinh tế tri thức như các nước đi trước đã trải qua. Đây là lợi thế của các nước đi sau. Chiến lược phát triển của chúng ta là chiến lược dựa vào tri thức và thông tin, chiến lược đi tắt đón đầu với mũi nhọn là công nghệ thông tin.
Thời cơ và thách thức.
Thời cơ.
Đối với một nước đang phát triển như Việt Nam, quá trình hình thành kinh tế tri thức vừa đem lại những cơ hội, đồng thời vừa đặt ra những thách thức không nhỏ. Thời cơ lớn nhất là thông qua phát triển kinh tế tri thức, chúng ta có điều kiện đi tắt, đón đầu được công nghệ và tri thức hiện đại, áp dụng ngay vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Các công nghệ, tri thức khoa học hiện đại mang đặc điểm là tác động nhanh chóng, xuyên suốt các lĩnh vực của đời sống xã hội, cho nên có thể tận dụng các kênh thông tin và mạng Internet để tiếp cận, nắm bắt.
Hơn nữa Việt Nam có một lợi thế là nguồn nhân lực trẻ rất dồi dào, có khả năng nâng cao trình độ học vấn nhanh. Đây là yếu tố rất quan trọng trong việc xây dựng nền kinh tế tri thức. Con người Việt Nam vốn đã được rèn luyện, không hề chịu khuất phục trước bất cứ một thử thách gian nan nào để tồn tại và phát triển. Chỉ có điều, từ bản lĩnh quật cường chống ngoại xâm chuyển thành bản lĩnh tiến công vào nghèo nàn và lạc hậu, từ trí tuệ vận dụng trong chiến tranh “lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều” chuyển thành trí tuệ chiếm lĩnh khoa học và công nghệ, trí tuệ của quản lý sản xuất kinh doanh, chiếm lĩnh thương trường và thị trường và thị trường trong hội nhập kinh tế và cạnh tranh thương mại trong bối cảnh toàn cầu hoá và với sự phát triển ảnh hưởng mạnh mẽ của nền kinh tế tri thức đòi hỏi con người Việt Nam phải dám nhìn lại mình, thấy được những yếu điểm của mình để khắc phục và rèn luyện.
Báo cáo của Uỷ ban liên hiệp về khoa học - công nghệ vì sự phát triển (1998) đã khuyến cáo : các nước đang phát triển từ những xuất phát điểm khác nhau đều cần xây dựng một kết cấu hạ tầng thông tin quốc gia để phục vụ các mục tiêu phát triển, hướng tới một xã hội tri thức đổi mới. Chính vì vậy, chiến lược phát triển của nước ta, không thể nào khác, phải là chiến lược dựa vào tri thức và thông tin, chiến lược đi tắt đón đầu với những nền kinh tế mũi nhọn. Trước hết là công nghệ tin học và viễn thông, công nghệ sinh học, công nghệ siêu vật liệu, công nghệ nanô (nanotechnology). Điều quan trọng là những ngành kinh tế mũi nhọn ấy không đứng tách biệt và vượt trội, chỉ là mấy ngành tự chúng mang lại hiệu quả cao và lợi ích nhiều, mà còn phải hơn thế, những ngành mũi nhọn đó phải là động lực thúc đẩy và thâm nhập vào mọi lĩnh vực hoạt động trên quy mô lan rộng cả nước, mang lại sự chuyển biến toàn diện, sâu sắc và mạnh mẽ của cả nền kinh tế, tác động trực tiếp và lâu bền đến sự phát triển xã hội.
ở đây có một vấn đề lớn đặt ra: Nông thôn Việt Nam với gần 70% cư dân làm nông nghiệp vẫn đang chiếm một tỷ trọng rất lớn về giá trị sản phẩm và về lao động trong nền kinh tế, đang hết sức cam go trong vấn đề chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động để thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thì vấn đề kinh tế tri thức được nêu lên có phải là suy nghĩ viển vông không ? Nếu nhìn nhận thật tỉnh táo và với một tư duy đổi mới và mạnh dạn thì không phải vậy.
Chúng ta không nên quan niệm việc hướng tới nền kinh tế tri thức đi liền với loại bỏ kinh tế cũ truyền thống. Ngược lại, trong sản xuất và kinh doanh nông nghiệp, việc sử dụng công nghệ cao được đặc biệt chú trọng, dần dần tiến đến đạt yêu cầu 70% sản phẩm có hàm lượng tri thức cao thì phải chăng, đó cũng là phương hướng tiến tới nền kinh tế tri thức trong hoàn cảnh của nước ta. Ngày nay công nghệ tin học viễn thông đã được ứng dụng rộng rãi để thiết lập các cơ sở dữ liệu và các kho thông tin phong phú trong mọi lĩnh vực, mọi cơ quan chỉ đạo và quản lý sản xuất, mọi doanh nghiệp. Chúng cũng đang được sử dụng tích cực để trợ giúp con người trong nhiều hoạt động trí tuệ, đặc biệt trong việc tìm kiếm và phát hiện tri thức để góp vào những quyết định trong kinh doanh, sản xuất. Từ chỗ cung cấp những thông tin và tri thức kịp thời mà làm tăng khả năng của con người cũng như các tổ chức trong việc phản ứng nhanh, linh hoạt, thích nghi một cách nhanh chóng và có thể tự thay đổi trước những biến động khôn lường của môi trường. Điều này có ý nghĩa lớn đối với nền kinh tế nông nghiệp nước ta.
Hơn nữa, nếu bản chất của nền kinh tế tri thức thể hiện ở chỗ của cải vật chất có được chủ yếu từ sự nắm bắt những gì chưa biết không phải từ những gì đã biết, môi trường lý tưởng để nuôi dưỡng cái gì chưa biết chính là sự phát triển nhanh của việc ứng dụng công nghệ tin học, thì việc có ý thức chủ động đưa dần công nghệ tin học, viễn thông vào sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn là biểu hiện sự nhìn xa, trông rộng cần thiết chứ không phải là suy nghĩ viển vông.
2. Thách thức:
Nền kinh tế tri thức không xuất phát từ nhu cầu của các nước nông nghiệp đang bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá, những nước đang phát triển như nước ta. Nhưng trong điều kiện toàn cầu hoá về kinh tế, quá trình chuyển biến có ý nghĩa toàn cầu từ một nền kinh tế và xã hội công nghiệp sang nền kinh tế tri thức đang lôi cuốn tất cả mọi quốc gia, trong đó có nước ta, bằng cách này hay cách khác, tham gia vào dòng chảy của sự chuyển biến đó. Vì chưa có điều kiện để tham gia một cách thật chủ động nên những thiệt thòi và rủi ro là không thể tránh khỏi. Nhưng mặt khác, dòng chảy của sự chuyển biến lần này chứa đựng trong nó những thành tựu to lớn của khoa học và công nghệ, của trí tuệ loài người về kinh tế xã hội mà chúng có thể khai, tiếp thu, sử dụng để đẩy nhanh sự phát triển, bứt lên khỏi xuất phát điểm quá thấp hiện nay, đạt tới những mục tiêu mong muốn.
ở nước ta có một thực trạng là đến nay 92,7% lao động nông nghiệp chưa được đào tạo nghề, trong đó phụ nữ chiếm đa số và cũng mỗi năm, người lao động nông nghiệp có tới từ 5 đến 6 tháng nông nhàn, tức là thất nghiệp và bán thất nghiệp. Theo báo cáo phát triển con người năm 1999 của UNDP, GDP ngang giá sức mua đầu người của Việt Nam đứng thứ 133 trong tổng số 174 nước, thuộc nhóm 50 nước nghèo nhất thế giới. Trong vòng 20 năm tới, dù có đạt tốc độ tăng trưởng cao liên tục thì Việt Nam cũng chỉ đạt mức GDP đầu người bằng mức của Thái Lan và 2/5 mức của Malaisia trong thời điểm hiện tại. Như vậy, nền kinh tế Việt Nam đang ở một vị trí xuất phát rất thấp và còn một khoảng cách xa để bắt kịp các nền kinh tế tiên tiến trong khu vực và thế giới. Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, tỉ trọng nông nghiệp của nước ta năm 1986 chiếm 41% GDP và thu hút khoảng 74% lao động, năm 1998 còn chiếm xấp xỉ 25% GDP và thu hút khoảng 70% lao động. Đó là một tỷ trọng quá cao và tốc độ chuyển giảm quá thấp. Điều này cho thấy tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta diễn ra quá chậm so với tiến hành của những nước đã phải trải qua thời kỳ công nghiệp hoá như nước ta. Ví như Hàn Quốc vào đầu thập niên 60, tức là vào thời điểm bắt đầu công nghiệp hoá, tỷ trọng nông nghiệp chiếm khoảng 40% GDP và trên 50% lao động thì giữa thập niên 80 giảm xuống còn khoảng 10 – 15% GDP và từ 10- 20% trong lao động xã hội, đến năm 1998 thì chỉ còn 4,8% trong GDP và 9% trong lao động xã hội. Như vậy trong 30 năm, Hàn Quốc đã giảm tỷ trọng nông nghiệp trong nền kinh tế của họ đạt tới cái chuẩn để trở thành một nước công nghiệp. Hoặc như Malaixia, trong vòng 20 năm, từ năm 1976 đến năm 1997, tỷ trọng giá trị sản phẩm nông nghiệp từ 26,8% giảm xuống còn 12,1%. Cũng trong thời gian ấy, Indônêxia từ 29,7% giảm xuống còn 16%, Philippin từ 29,3% giảm xuống còn 18,7%. Còn ta, từ 48,6% giảm xuống còn 26,2%, tức là tỷ trọng giá trị sản phẩm nông nghiệp trong GDP của nước ta vẫn ở mức cao nhất và tốc độ giảm chậm nhất.
Những con số đó nói lên điều tất yếu trước mắt là Việt Nam phải bằng cách này hay cách khác tìm ra con đường để bứt lên. Nếu không bứt lên thì nguy cơ bị gạt ra khỏi xu thế của sự phát triển hoặc bị nhấn chìm trong quá trình toàn cầu hoá không phải là không thể xảy ra. Bứt lên bằng cách nào nếu không muốn nói đó chính là sự nhanh nhạy nắm bắt những thành tựu tiên tiến nhất của khoa học và công nghệ để cố gắng vận dụng vào thực tiễn của ta, tạo ra những buớc đột phá trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, nâng cao chất lượng, hiệu qủa của nền kinh tế, tạo sự cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Quá trình ấy cũng chính là quá trình tiếp cận với nền kinh tế tri thức, chuẩn bị những điều kiện để đón nhận và tham gia vào một thực tế vô cùng sinh động và hấp dẫn của thế kỉ XXI, đồng thời cũng là sự thách đố nghiệt ngã đối với con người Việt Nam trước thềm thiên niên kỷ mới.
Khi nói đến việc chủ động hội nhập vào nền kinh tế tri thức toàn cầu hoá, điều trước hết là phải cập nhật được với những quan niệm mới, ý tưởng mới về quản lý sản xuất kinh doanh, quản lý xã hội, tổ chức các hoạt độngcủa con người đang vận hành guồng máy kinh tế xã hội đó. Để cập nhật được những cái mới đó, thì việc hết sức cần thiết lại là nhận thức cho rõ và khắc phục bằng được những nhược điểm cố hữu của “con người tiểu nông”, sản phẩm của nền kinh tế cổ truyền lạc hậu vẫn tiềm tàng dai dẳng đang là trở ngại cho sự phát triển.
Người Việt Nam hiện nay mắc phải nhược điểm trọng danh hơn thực, một ví dụ hiển hiện là tệ mua bán, làm giả điểm, bằng cấp, xin học hàm, chạy học vị. Ngày nay người ta học để lấy bằng nhiều hơn là học để biết, để có tri thức phục vụ Tổ quốc; chỉ biết con đường tiến thân duy nhất cho riêng mình qua con đường thi cử, chỉ thích làm thầy, mặc dù là thầy dốt, mà không chịu làm thợ, dù là thợ giỏi. Cho nên có hiện tượng lạm phát bằng cấp, học vị nhưng lại thiếu trầm trọng những nhà quản lý, nhà doanh nghiệp có năng lực, biết điều hành và tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh, quản lý các hoạt động xã hội. Hiện tượng thừa thầy thiếu thợ có lẽ là một minh chứng khá tiêu biểu cho tâm lý nói trên, số thạc sĩ, tiến sĩ, thực tập sinh được đào tạo trong những năm gần đây nhiều gấp đôi công nhân có tay nghề.
Tóm lại có thể nhìn nhận một cách khách quan những nhược điểm cố hữu trong quan niệm của người Việt Nam là: chậm đổi mới, không có thói quen tính toán hiệu quả, thiếu đầu óc thực tế, lại ham chuộng hình thức, chạy theo hư danh viễn vông, kém khả năng và kinh nghiêm hợp tác, góp sức cùng nhau thực hiện một mục tiêu, một kế hoạch lớn, cho nên ít xây dựng được ê-kíp mạnh về một lĩnh vực nào đó, thường chỉ có nhiều cá nhân giỏi làm việc riêng lẻ mà không hợp lại thành tập thể hùng mạnh xuất sắc. Tất cả những nhược điểm trên đều sẽ trở thành những lực cản không cho phép ta tiến nhanh.
Chỉ ra những đặc điểm cả con người tiểu nông đối diện với thách thức mới không hề làm ảnh hưởng đến tính tự tôn dân tộc, ngược lại, chính vì để cho niềm tự hào Việt Nam không bị mai một trước một thế giới đang biến động dữ dội, phải dám có tinh thần tự chỉ trích, tự phê bình để có thể thích nghi được với thách thức mới đó. Không vượt qua chính mình, không thể đến được với nền kinh tế tri thức. Có lẽ vì chưa vượt qua được chính mình cho nên trên nhiều lĩnh vực, nền kinh tế nước ta vẫn giẫm chân mãi ở tình trạng ngheo thông tin và tri thức, chưa có sự bứt phá để vươn lên so với khu vực và thế giới .
Giải pháp để xây dựng thành công nền kinh tế tri thức ở Việt nam.
Trong thời điểm hiện nay, Việt Nam không thể rập khuôn bất cứ một mẫu hình của quốc gia nào trong quá trình chuyển sang nền kinh tế tri thức. Những bản sắc riêng biệt của môi trường kinh tế – văn hoá - xã hội của Việt nam quy định những đặc điểm riêng biệt của Kinh tế tri thức ở Việt Nam. Để có thể hoạch định chiến lược, xác định các công việc cụ thể, Việt nam cần phải có những nghiên cứu sâu sắc về các điểm mạnh và yếu của đất nước trong bối cảnh nền kinh tế tri thức, trong bối cảnh các lợi thế so sánh không còn xuất phát từ các nguồn lực vật thể mà còn xuất phát chủ yếu từ tri thức, từ kỹ năng của con người.
Tuy nhiên, bước chuyển sang nền kinh tế tri thức của các nước trên thế giới đều thực hiện các công việc sau:
Mỗi nước cần có một kế hoạch, một chiến lược tổng thể về phát triển nền kinh tế tri thức. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, Nhà nước luôn có một vai trò tối quan trọng để khởi xướng và thúc đẩy những mầm móng của nền kinh tế tri thức. Trong thời gian tới, Việt Nam cần nhanh chóng phải có một chiến lược hoặc một tầm nhìn tổng quan cho quá trình biến môi trường kinh tế – xã hội của đất nước trở nên thân thiện hơn với sự đổi mới, sáng tạo và hấp thu tri thức trong và ngoài nước. Chiến lược phát triển kinh tế tri thức không phải là chiến lược về công nghệ cao hay một chiến lược về công nghệ thông tin và liên lạc viễn thông. Nếu không có một môi trường kinh tế xã hội phù hợp thì những khoản đầu tư, mua sắm khổng lồ dành cho công nghệ cao ở một nước đang phát triển như Việt Nam ở mức tối đa cũng chỉ có thể hình thành một vài ốc đảo công nghệ cao chứ không thể phát triển kinh tế – xã hội một cách toàn diện. Thay vào đó, mục tiêu phát triển hướng tới kinh tế tri thức là tăng cường việc sử dụng hữu hiệu mọi tri thức trong nền kinh tế – xã hội. Điều này đòi hỏi phải có sự tương tác tốt hơn giữa các chính sách, thể chế, công nghệ , người dân và Chính phủ. Chiến lược này sẽ mang tri thức tới mọi người, từ những người nông dân cho đến các nhà khoa học, từ doanh nghiệp cho đến Chính phủ để có được sự phát triển bền vững.
Về dài hạn, cần phải phát triển các kết cấu hạ tầng tối cần thiết về công nghệ thông tin và nguồn nhân lực của kinh tế tri thức. Nhà nước cần can thiệp cải cách mạng mẽ hơn hai lĩnh vực then chốt của kinh tế tri thức, đó là giáo dục và nghiên cứu khoa học. Thất bại trong lĩnh vực này sẽ dẫn đến sự phát triển chậm trong tất cả các lĩnh vực khác. tuy nhiên, mọi sự can thiệp của Nhà nước vào lĩnh vực này đều phải dựa trên định hướng thị trường và có sự tham gia của người dân và khu vực tư nhân.
Hầu hết các chiến lược hướng về kinh tế tri thức của các nước đều cho thấy sự nhấn mạnh vào “tinh thần kinh doanh”. Tuy nhiên, các biện pháp và chính sách thiết yếu để xây dựng kinh tế tri thức này hiện chưa được quan tâm thích đáng tại Việt Nam. Để từng bước xây dựng kinh tế tri thức, chúng ta không thể không xây dựng một văn hoá “tinh thần kinh doanh” rộng khắp.
Sau đây, tác giả xin đề xuất một số giải pháp dựa trên sự nghiên cứu bước chuyển sang nền kinh tế tri thức của các quốc gia trên thế giới, các chính sách và biện pháp tiến hanh của các nước đi trước nhằm từng bước xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức ở Việt Nam.
Tiếp tục đổi mới quản lý xã hội.
Tăng cường sử dụng tri thức phục vụ phát triển đòi hỏi phải có một cơ chế quản lý xã hội phù hợp nhằm tạo ra môi trường khích thích kinh tế hướng đầu tư vào tri thức và khai thác một cách có hiệu quả tri thức cho phát triển kinh tế - xã hội. Điều này đòi hỏi Việt Nam trước hết cần phải kết thúc nhanh sự chuyển từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình chuyển đổi cần chú trọng đổi mới và hình thành các thể chế cần thiết cho việc vận hành có hiệu quả cơ chế kinh tế thị trường và có khả năng thích ứng nhanh nhạy với những thay đổi của toàn cầu nhằm phát huy lợi thế so sánh, hình thành và phát triển lợi thế cạnh tranh, đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững. Đổi mới quản lý xã hội phải bao hàm những nội dung chủ yếu sau:
Xác định lại một cách rõ ràng hơn vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường theo hướng vừa mở rộng tối đa cho thị trường phát huy tác dụng trong huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả nguồn lực cho phát triển vừa đảm bảo sự điều tiết hữu hiệu của Nhà nước.
Trước hết, cần hoàn thiện khung pháp lý và thể chế cho huy động mọi nguồn lực phục vụ phát triển. Môi trường kinh doanh phải mang tính cạnh tranh lành mạnh và trở thành động lực cho sự phát triển trên cơ sở tạo cơ hội bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế, trong đó khu vực kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của đất nước.
Thứ hai, cần điều chỉnh vai trò kinh tế của Nhà nước, trực tiếp là vai trò của khu vực doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Vai trò của kinh tế Nhà nước thông qua doanh nghiệp nhà nước cần được tập trung một cách thích đáng vào những lĩnh vực lựa chọn cảu nền kinh tế như kết cấu hạ tầng. Quản lý vốn của Nhà nước tại các doanh nghiệp Nhà nước cần phải tăng cường một cách chặt chẽ hơn.
Thứ ba, cần cải thiện dịch vụ công về cả số lượng và chất lượng. Trước hết, phải đổi mới một cách sâu sắc hệ thống giáo dục đào tạo và y tế thông qua việc mở rộng sự tham gia đầu tư của mọi thành phần kinh tế, trong đó có khu vực tư nhân, tăng cường đầu tư và quản lý vốn đầu tư của Nhà nước trên mọi lĩnh vực, nâng cao chất lượng dịch vụ và hiện đai hoá hệ thống giáo dục đào tạo và y tế.
Thứ tư, cần đổi mới bộ máy hành chính Nhà nước theo hướng tinh giản nhưng nâng cao hiệu quả của bộ máy Nhà nước, đảm boả cơ chế thị trường hoạt động hiệu quả, hạn chế tình trạng quan liêu, cửa quyền và tham nhũng.
Khuyến khích phát triển và phát huy vai trò của các tổ chức xã hội như công đoàn, các tổ chức nghề nghiệp, các tổ chức xã hôi phi lợi nhuận nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người dân tham gia ngày càng tích cực và trực tiếp vào quản lý xã hội.
Tiếp tục đẩy mạnh mở cửa nền kinh tế và mở cửa xã hội, hội nhập với khu vực và thế giới trên tinh thần chủ động, tiếp thu tinh hoa của thế giới và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Ngoài ra, cần đẩy mạnh trao đổi thương mại với thế giới trong bối cảnh tự do hoá thương mại toàn cầu, thu hút tối đa FDI và mở cửa vững chắc cho đầu tư nước ngoài phù hợp với khả năng kiểm soát và điều tiết tài chính của Nhà nước. Song song với việc tiếp tục mở rộng hợp tác song phương, cần chủ động chuẩn bị và tham gia tích cực vào các cơ chế hợp tác đa phương để không những bảo vệ mà còn nâng cao lợi ích quốc gia trong cuộc tranh đua phát triển ngày càng gay gắt hơn.
Củng cố và phát huy thông tin đại chúng như là sự phản ánh nhu cầu và nguyện vọng của xã hội, là một kênh thể hiện quyền lực của nhân dân trong một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đồng thời là kênh truyền tải thông tin và tri thức cho người dân vì sự phát triển.
Xây dựng kết cấu hạ tầng công nghệ – thông tin hiện đại.
Cơ sở hạ tầng thông tin – viễn thông quốc gia là một yếu tố cực kỳ quan trọng tạo tiền đề để thu hẹp khoảng cách tri thức và phát triển giữa các quốc gia và trong một nước.
Hiện trạng cơ sở hạ tầng thông tin – viễn thông Việt Nam.
Mạng viễn thông: Nhờ chính sách khuyến khích đổi mới và hiện đại hoá công nghệ trong ngành viễn thông ngay từ đầu những năm 1990, Việt Nam đã nhanh chóng xây dựng được một mạng viễn thông tương đối hiện đại, gồm các hệ thống truyền dẫn đường trục quan trọng dọc theo đất nước, mạng điện thoại cơ bản đã được số hoá.
Internet được chính thức hoạt động từ tháng 11 năm 1997, tuy nhiên, Internet ở Việt Nam phát triển chậm hơn so với mặt bằng khu vực vì giá cược truy cập còn cao, thiếu cơ sở pháp lý cho những giao dịch trên mạng, tốc độ đường truyền còn chậm và dịch vụ này nhìn chung còn khá mới mẻ với quảng đại quần chúng.
Bảng 7: So sánh giá cước viễn thông của Việt Nam và các nước
Loại hình viễn thông
Đơn vị tính
Thái Lan
Trung Quốc
Việt Nam
Điện thoại di động
USD/tháng
33,04
35,67
47,69
Điện thoại quốc tế
USD/Phút
0,857
0,875
1,870
Đường Internet 64K
USD/tháng
879
1,248
1,446
Nguồn: Báo tuổi trẻ, thứ tư, ngày 21/8/2002, trang 3
Khai thác dịch vụ: chưa khai thác và sử dụng hết các loại hình dịch vụ rất phong phú của các hệ thống chuyển mạch số hiện có và chưa phổ cập rộng rãi tới khách hàng. Dịch vụ truyền số liệu với tốc độ thấp nhưng không có khả năng nâng cấp cho các dịch vụ băng rộng. Dịch vụ thông tin còn hạn chế.
Về chính sách, hiện nay đã có nhiều cải tiến nhưng nhìn chung các dịch vụ thông tin còn hạn chế trong khu vực Nhà nước. Nhà nước nắm độc quyền phát triển và khai thác mạng thông tin liên lạc, nắm quyền sở hữu hoàn toàn các mạng thông tin liên lạc, nắm quyền kiểm soát các gateway, nắm quyền định giá cước thống nhất. Do vậy, giá cước dịch vụ nói chung còn khá cao so với các nước trong khu vực, làm hạn chế lượng người và thời gian sử dụng. Cho đến nay thì chưa có những chính sách và thiếu khung pháp lý và chính sách cho sự tham gia cảu các thành phần kinh tế vào việc phát triển cơ sở hạ tầng thông tin viễn thông.
Định hướng phát triển công nghệ thông tin và viễn thông đến năm 2010.
Tạo lập môi trường toàn xã hội cần đến thông tin – tri thức và sử dụng công nghệ thông tin, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân tiếp cận và sử dụng thông tin như một tài nguyên quan trọng nhất để nâng cao tri thức và cải thiện chất lượng sống.
ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ phát triển kinh tế, đặc biệt là việc tin học hoá nhanh và có hiệu quả các dịch vụ tài chính – ngân hàng, xây dựng và phát triển thương mại điện tử.
Hiện đại hoá, liên kết các mạng trong nước trên cơ sở công nghệ viễn thông tiên tiến. Xây dựng và phát triển ngành công nghiệp công nghệ phần mềm tin học như một ngành kinh tế kỹ thuật mũi nhọn, có tính chiến lược và định hướng xuất khẩu.
Tạo ra và cung cấp các dịch vụ viễn thông, đặc biệt là các dịch vụ Internet, có chất lượng và giá cả cạnh tranh thông qua việc tạo điều kiện để các thành phần kinh tế khác nhau từng bước được tham gia cung cấp các dịch vụ viễn thông và thông tin.
Phát triển cơ sở hạ tầng thông tin – viễn thông quốc gia.
Về phát tiển hạ tầng truyền thông và Internet, xây dựng và phát triển mạng viễn thông công cộng tiên tiến, hiện đại có dung lượng, tốc độ, tính hiệu quả, độ an toàn và chất lượng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội đất nước.
Thực hiện cáp quang hóa trên cơ sở công nghệ SDH, tiếp tục xây dựng mới và mở rộng các tuyến cáp quang liên tỉnh, phấn đấu dến năm 2005 đạt 100% các tuyến truyền dẫn liên tỉnh bằng cáp quang.
Mở rộng diện phục vụ, phát triển viễn thông nông thôn cho các vùng sâu, vùng xa, không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ. Tiếp tục mở rộng phạm vi phủ sóng cho hệ thống thông tin di động tới các huyện, thị trên toàn quốc. Phát triển mạnh các dịch vụ đa phương tiện, dịch vụ băng rộng ở một số tỉnh thành phố lớn.
Tăng cường các biện pháp nhằm phổ biến rộng rãi dịch vụ Internet trong toàn dân. Điều chỉnh giá tính cước Internet theo hướng đảm bảo cạnh tranh và ở mức trung bình trong khu vực. Ban hành các chính sách và quy chế chính thức về kinh doanh và sử dụng dịch vụ Internet.
Về xây dựng các cơ sở dữ liệu và hệ thống thông tin điện tử quốc gia, trong giai đoạn từ nay đến 2010, tập trung xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia mang tính chiến lược nhằm phục vụ các nhu cầu quản lý Nhà nước và các nhu cầu về thông tin của nhân dân. Ngoài những cơ sở dữ liệu quốc gia, cần đẩy mạnh xây dựng các cơ sở dữ liệu ngành, doanh nghiệp và các hệ thống thông tin khác. Đồng thời xây dựng các thư viện quốc gia, các trung tâm thông tin – tư liệu của Trung ương và thành phố lớn thành các điểm truy cập tới các siêu lộ thông tin quốc gia và toàn cầu. Từng bước áp dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của Chính phủ théo mô hình Chính phủ điện tử.
Về xây dựng và hoàn thiện chính sách và thể chế, mở rộng từng bước cho cạnh tranh trong việc cung cấp các dịch vụ viễn thông và tiến tới xoá bỏ hạn chế đối với các dịch vụ đường dài và quốc tế.
Ban hành các chính sách và cơ chế để tạo thuận lợi cho việc trao đổi thông tin, đặc biệt là các dịch vụ thông tin trên mạng; có các chính sách hỗ trợ để phổ cập các dịch vụ viễn thông đến đông đảo công chúng, hỗ trợ về cước phí cho các trường học, tổ chức nghiên cứu phát triển.
Xây dựng và ban hành tiêu chuẩn, quy chế quản lý; ban hành các tiêu chuẩn về mạng và thiêt bị để thuận lợi cho việc kết nối; ban hành các quy chế để có thể dễ dàng tiếp cận các dịch vụ thông tin, các nguồn cung cấp thông tin của Nhà nước và phát triển thương mại điện tử.
Tóm lại, công nghệ thông tin là chìa khoá để đi vào nền kinh tế tri thức. Muốn rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển, chúng ta cần phải khắc phục khoảng cách về công nghệ thông tin. Đến năm 2010, trình độ công nghệ thông tin nước ta phải đạt đến mức tiên tiến trong khu vực mà hiện nay đang còn tụt hậu khá xa. Điều này đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực rất lớn và với tiềm năng trí tuệ của dân tộc và có những chính sách và cơ chế phù hợp, nhất định chúng ta sẽ đạt đạt được mục tiêu.
Đầu tư vào giáo dục - đào tạo để phát triển nguồn nhân lực.
Định hướng phát triển giáo dục và đào tạo gắn với nhu cầu về tri thức.
Giáo dục và đào tạo được coi là quốc sách hàng đầu nhằm phát triển nguồn nhân lực phát triển nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển xã hội nói chung. Giáo dục và đào tạo vừa phải đáp ứng yêu cầu trước mắt của nền kinh tế dựa trên tài nguyên là chủ yếu, vừa phải chuẩn bị và hướng tới nền kinh tế tri thức. Điều đó có nghĩa là Việt Nam phải phổ cập giáo dục cơ bản, tăng cường dạy nghề và đồng thời phải chuẩn bị ngay điều kiện cho việc hình thành một nền giáo dục suốt đời, tạo điều kiện cho mỗi cá nhân được tiếp tục học tập suốt đời để bắt kịp với hững thay đổi nhanh chóng trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập.
Để đáp ứng được nhiệm vụ nêu trên, phải tiến hành đổi mới giáo dục và đào tạo với trọng tâm là nâng cao chất lượng của người học để đáp ứng những yêu cầu phát triển mới, bao gồm trang bị những tri thức mới, hiện đại, khả năng vận dụng những tri thức đó vào thực tiễn, khả năng sáng tạo trong công việc, năng động và dám đương đầu với rủi ro.
Những chính sách và biện pháp phát triển giáo dục và đào tạo.
Thứ nhất, đẩy mạnh huy động mọi nguồn lực cho phát triển giáo dục đào tạo.
Thực hiện đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư phát triển, Nhà nước cần ưu tiên hàng đầu cho việc bố trí ngân sách giáo dục, bảo đảm tỷ lệ ngân sách Nhà nước chi cho giáo dục tăng dần theo yêu cầu phát triển của sự nghiệp giáo dục. Muốn phát triển nền giáo dục Việt Nam hiện đại, tiên tiến thì ngân sách chi cho giáo dục phải đạt mức cao hơn. ở nhiều nước châu á, ngân sách chi cho giáo dục cao hơn ngân sách chi cho quốc phòng như Singapore, do vậy, nền giáo dục của họ nhanh chóng tiếp cận với các công nghệ giáo dục hiện đại trên thế giới và chất lượng giáo dục được nâng lên.
Xây dựng và thực thi các chính sách khuyến khích nhằm huy động các nguồn tài chính ngoài ngân sách Nhà nước phục vụ cho phát triển giáo dục, đặc biệt khuyến khích các doanh nghiệp tham gia đào tạo nghề. ở Việt Nam, mức chi cho giáo dục còn thấp, Nhà nước cần có những chính sách đầu tư cho giáo dục bằng cách tạo ra môi trường pháp lý để thu hút vốn từ các nhà đầu tư nước ngoài. Cần tranh thủ sự hợp tác hỗ trợ song phương và đa phương, đẩy mạnh việc vay vốn từ các ngân hàng, từ nguồn vốn ODA, đồng thời có chủ trương phát hành các cổ phiếu, đầu tư vốn 100% vốn nước ngoài nhằm thu hút vốn đầu tư cho giáo dục. Bằng cách đó, áp lực về ngân sách chi cho giáo dục đào tạo có thể giảm. Tuy nhiên, có nguồn vốn đầu tư cho giáo dục đào tạo là quan trọng nhưng việc phân bổ, sử dụng nó sao có hiệu quả lại càng quan trọng hơn. ở đây cần xét đến các mục tiêu ưu tiên, các đối tượng và các vùng được ưu tiên được nêu ra trong chiến lược phát triển giáo dục đào tạo dài hạn và điều chỉnh cơ cấu phân bố ngân sách hợp lý.
Thứ hai, nâng cao chất lượng giáo dục. Chất lượng giáo dục là khâu quan trọng của hệ thống giáo dục. So với các nước trong khu vực, Việt Nam chưa có trường đại học đạt tiêu chuẩn đào tạo chất lượng cao. Trong điều kiện của nước ta hiện nay thì nên tập trung đầu tư cho một số trường trọng điểm ở những thành phố lớn và những khu vực phát triển kinh tế. Công nghệ giáo dục, đào tạo hiện nay luôn đổi mới, cần ứng dụng các công nghệ hiện đại đó vào quá trình đào tạo, thay đổi lối dạy truyền thống theo kiểu nhồi nhét kiến thức bằng việc phát huy tính sáng tạo và chủ động của người học, sử dụng máy tính trong đào tạo một cách phổ cập để khai thác tri thức bên ngoài.
Thứ ba, điều chỉnh cơ cấu đào tạo cho phù hợp với quá trình phát triển kinh tế – xã hội trong thời gian tới. Để tránh lãnh phí nguồn lực qua đào tạo, Bộ giáo dục đào tạo cần bám sát yêu cầu của thị trường lao động và mục tiêu phát triển để giao chỉ tiêu đào tạo cho từng trường. Điều chỉnh cơ cấu đào tạo là công việc phải làm thường xuyên, chứ không phải khi nhìn thấy hậu quả của sự mất cân đối cơ cấu đào tạo, thấy phản ứng tiêu cực của thị trường lao động mới điều chỉnh. Trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì lực lượng lao động khoa học công nghệ cần phải được đào tạo gấp. Trong nhiều năm ở Việt Nam, các thí sinh chủ yếu thi vào các ngành kinh tế, do đó các trường đại học kỹ thuật và khoa học tự nhiên gặp nhiều khó khăn trong công tác đào tạo, hậu quả là lực lượng lao động khoa học công nghệ thiếu và yếu về chất lượng.
Thứ tư, tạo điều kiện bình đẳng tiếp cận giáo dục đào tạo đối với các vùng khó khăn và người nghèo. Vấn đề công bằng trước các cơ hội giáo dục phải được đặt ra. Sự chênh lệch về mức độ phát triển giữa nông thôn và thành thị dẫn tới yêu cầu cần đầu tư mức cao hơn cho giáo dục ở nông thôn. ở Việt Nam cũng như nước ngoài, nhiều nhà khoa học nổi tiếng và có đóng góp to lớn đối cho nền khoa học và công nghệ thế giới lại xuất thân từ nông thôn hay không được hưởng cơ hội giáo dục chính quy mà kiến thức có được phải qua con đường tự học. Cho nên, quyền bình đẳng trước các cơ hội được giáo dục không thể bị xem nhẹ. Vấn đề đặt ra là Nhà nước cần phải có các chính sách hỗ trợ học sinh nghèo học giỏi.
Thứ năm, đa dạng hóa hình thức giáo dục. Trong những năm qua, Việt nam đã mở rộng hình thức giáo dục bằng cách cho phép thành lập các trường dân lập ở các cấp học từ phổ thông đến đại học. ở nước ngoài, trường tư thục là chủ yếu, Nhà nước chỉ tập trung hỗ trợ cho một số trường công nhưng cơ sở vật chất giữa trường công và trường tư đạt tiêu chuẩn hiện đại như nhau, chất lượng giáo dục giữa trường công và trường tư không chênh lệch lớn. Thậm chí, một số trường tư được đánh giá cao về chất lượng đào tạo và có uy tín trong nước và quốc tế. Còn ở Việt Nam, sự chênh lệch giữa trường công và trường tư là khá lớn, rất ít các trường dân lập có đầy đủ cơ sở vật chất và thiết bị giảng dạy, chất lượng đào tạo của trường dân lập còn thua kém so với các trường công lập. Cho phép mở các trường dân lập là một chủ trương đúng đắn, mở nhiều trường dân lập sẽ tạo cơ hội cho nhiều người được tiếp cận với nền giáo dục và nâng cao tri thức, thắt chặt quy mô đào tạo giáo dục là một giải pháp không hợp lý trong nền kinh tế tri thức. Tuy nhiên, mở đến mức nào, bao nhiêu trường và chất lượng ra sao thì cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng. ở Việt nam hiện nay, các trường dân lập đều không có mặt bằng, phải đi thuê phòng học, mất đi môi trường sư phạm cần thiết, thiết bị giáo dục lạc hậu, phòng học chật chội, không đủ điều kiện dạy và học và chắc chắn chất lượng giáo dục bị ảnh hưởng.
Đã đến lúc phải đặt ra các tiêu chuẩn nghiêm ngặt cho việc thành lập các trường dân lập, từ phổ thông cho tới cao đẳng, đại học. Các tiêu chuẩn cần chú ý tới là cơ sở vật chất, nhất là cơ sở hạ tầng, cảnh quan sư phạm, đội ngũ giáo viên, chương trình và chất lượng đào tạo nhằm hình thành nên một hệ thống trường học các cấp có chất lượng và hiệu quả, nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt nam trong 10 năm tới.
Thứ sáu, đổi mới giáo dục đại học theo hướng nâng cao chất lượng đào tạo và gắn kết giữa giảng dạy, nghiên cứu và sản xuất, đáp ứng nhu cầu xã hội.
Nâng cao chất lượng đào tạo của các trường đại học và cao đẳng. Tiến hành đáng giá phân loại các trường đại học, xây dựng một số trường đại học trọng điểm chất lượng cao, có uy tín trong khu vực; nâng cấp và từng bước tiêu chuẩn hoá đội ngũ giảng viên trong các trường đại học; cải cách mạnh mẽ việc tuyển sinh đại học và cao đẳng; tăng cường các điều kiện học tập trong các trường đại học và cao đẳng, trước hết là ở các trường trọng điểm về cung cấp đầy đủ tài liệu, thiết bị, nâng cấp thư viện, phòng thí nghiệm, có cơ sở thực hành; nhanh chóng áp dụng công nghệ thông tin để cải tiến cách dạy, cách học, xây dựng cơ sở hạ tầng thông tin trong trường học để mở rộng trao đổi thông tin.
Kết hợp hai chức năng đào tạo và nghiên cứu khoa học, tăng cường cơ sở vật chất thiết bị nghiên cứu khoa học, thông tin khoa học và công nghệ cho các trường đại học, cao đẳng; tăng cường đầu tư kinh phí nghiên cứu khoa học cho các trường đại học; ban hành quy chế thúc đẩy hoạt động nghiên cứu như cân đối giữa thời gian nghiên cứu và giảng dạy.
Gắn kết đào tạo, nghiên cứu với sản xuất kinh doanh, khuyến khích liên kết giữa trường và doanh nghiệp trong hỗ trợ đào tạo và ứng dụng kết quả nghiên cứu; cho phép thành lập doanh nghiệp trong trường và mở trường trong doanh nghiệp lớn nhằm thúc đẩy việc đào tạo và áp dụng kết quả nghiên cứu trong sản xuất.
Thứ bảy, tăng cường giáo dục trung học chuyên nghiệp và dạy nghề.
Mở rộng mạng lưới các trường trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, đặc biệt là các trường gắn với địa bàn dân cư, đào tạo theo các ngành nghề thích hợp với lao động ở địa phương. Đa dạng hoá các loại hình trường đào tạo nghề, gồm cả dài hạn và phát triển mạnh đào tạo nghề ngắn hạn, đặt biệt ở nông thôn để thực hiện đưa tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất và chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang các ngành nghề khác. Tiến hành xây dựng một số trường trung học chuyên nghiệp trọng điểm trong một số ngành và ở một số địa phương..
Gắn kết quá trình đào tạo ở nhà trường với đào tạo tại các doanh nghiệp, cải tiến quá trình giảng dạy, thực hiện đào tạo học vấn và kỹ năng cơ bản tại trường và kỹ năng chuyên nghiệp tại cơ sở sản xuất kinh doanh. Tăng cường các môn học cần thiết trong nền kinh tế mới như tin học và ngoại ngữ.
Đào tạo đội ngũ cán bộ giảng dạy, tăng cường số lượng và chất lượng đội ngũ giáo viên trung học chuyên nghiệp và dạy nghề.
Thứ tám, có chính sách sử dụng người lao động đã qua đào tạo. Sự méo mó về thi trường lao động như hiện nay đang có sự ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng và hiệu quả giáo dục. ở nước ngoài, các đơn vị tuyển dụng lao động không hề có sự phân biệt trường, các ứng cử viên nếu đủ điều kiện sẽ được nhận vào làm việc. Tuy nhiên, những sinh viên học tại các trường danh tiếng sẽ được ưu tiên hơn, nhưng điều đó không quyết định tất cả. Còn tại Việt Nam, trong ý nghĩ của hầu hết mọi người thì trường dân lập có chất lượng kém hơn trường công lập, người tốt nghiệp từ một trường đại học dân lập chắc chắn kém ưu thế hơn so với một người tố nghiệp từ một trường công lập. Ngoài ra, việc xét tuyển vào một số cơ quan Nhà nước tuy có thi cử công khai song thực chất việc xét tuyển chỉ là hình thức và nội bộ. Điều này đã tác động tiêu cực đến chất lượng giáo dục trong mấy năm qua. Giáo dục đào tạo là một cơ chế để phát hiện và chọn lọc tài năng, nhưng chính sách sử dụng lao động hiện nay đang làm triệt tiêu các động cơ học tập. Chính vì vậy, trong thời gian tới, Việt Nam cần có những điều chỉnh cần thiết về việc sử dụng người lao động qua đào tạo như: tạo sự công bằng trong tuyển dụng, không để tình trạng “con ông cháu cha”, không phân biệt người được đào tạo từ trường công hay trường dân lập, có chính sách ưu tiên và trọng dụng người có tài.
Tăng cường hệ thống đổi mới quốc gia để sử dụng có hiệu quả tri thức phục vụ phát triển.
Vai trò của Nhà nước.
Đổi mới môi trường kinh tế – xã hội, tạo lập khuôn khổ pháp lý nhằm thúc đẩy mối liên kết giữa các tổ chức, cá nhân để thực hiện đổi mới.
Xác định lại chức năng quản lý vĩ mô mà không thu hẹp vai trò của Nhà nước. Nhà nước tạo môi trường pháp lý, thể chế hữu hiệu cho việc lưu thông tri thức và công nghệ; kích thích, thúc đẩy đổi mới thông qua các chính sách vĩ mô.
Tạo động lực kích thích đổi mới thông qua cạnh tranh. Phát triển kinh tế thị trường, xây dựng môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế khác nhau, từng bước hạn chế độc quyền, khuyến khích xuất khẩu nhằm tạo áp lực đối với các doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm đáp ứng yêu cầu của thị trường.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ và sở hữu công nghiệp để khuyến khích đầu tư nước ngoài và chuyển giao công nghệ vào Việt Nam và khuyến khích chuyển giao công nghệ từ các kết quả nghiên cứu và phát triển trong nước cho các doanh nghiệp.
Phát triển thị trường cho các doanh nghiệp hoạt động khoa học & công nghệ, thể chế hoá quyền tự do di chuyển nhân lực, nhất là nhân lực khoa học và công nghệ giữa các khu vực, các loại hình tổ chức kể cả trong và ngoài nước.
Đẩy mạnh liên kết giữa các viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp.
Tăng cường đầu tư cho nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, đổi mới phương thức phân bổ tài chính cho R&D theo hướng dành ưu tiên kinh phí cho nghiên cứu mang tính công ích như môi trường, sức khoẻ, nghiên cứu cơ bản, an ninh, quốc phòng... và những lĩnh vực nghiên cứu công nghệ nền tảng thuộc các hướng ưu tiên trọng điểm quốc gia (công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ tự động hoá, công nghệ vật liệu tiên tiến).
Đổi mới cơ chế tài chính của nhà nước từ phương thức cấp phát sang phương thức đấu thầu, tuyển chọn, hình thành các loại quỹ cho khoa học và công nghệ để nâng cao hiệu quả sử dụng kinh phí và chất lượng nghiê cứu.
Thúc đẩy liên kết giữa giảng dạy, nghiên cứu và sản xuất kinh doanh để đưa nhanh kết quả nghiên cứu vào sản xuất kinh doanh. Đẩy nhanh việc xây dựng một số trường đại học, viện nghiên cứu, phòng thí nghiệm trọng điểm chất lượng cao.
Tóm lại, tăng cường sử dụng tri thức một cách có hiệu quả là con đường phát triển nhanh và bền vững, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo hướng tiến tới nền kinh tế tri thức. Việc rút ngắn khoảng cách tri thức của nước ta so với các nước phát triển trong khu vực và thế giới, một mặt đòi hỏi chúng ta phải chủ động hội nhập một cách có hiệu quả để khai thác những cơ hội mà mà toàn cầu hoá và cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đem lại, mặt khác phải nhanh chóng tạo ra lập những điều kiện, tiền đề cần thiết nhằm xây dựng năng lực tri thức để có đủ khả năng đón bắt những cơ hội và vượt qua những thách thức.
Kết luận
Có thể nói, thành quả của kinh tế tri thức là rất lớn lao, nó đánh dấu một cột mốc mới đầy khích lệ trong nỗ lực tạo lập nền tảng vật chất và tinh thần ngày càng tăng cho con người. Thế nên, việc nắm bắt đúng xu thế phát triển của nền kinh tế tri thức, đồng thời đưa ra những đối sách thích hợp trong chiến lược kinh tế có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với những triển vọng phát triển của mỗi quốc gia hiện nay.
Trong số các nước OECD, Mỹ là nước có những bước khởi đầu thành công nhất trong việc tiến đến nền kinh tế tri thức. Các ngành công nghệ cao đã trở thành động lực tăng trưởng của nền kinh tế Mỹ và thu hút một lực lượng lao động lớn. Nền kinh tế tri thức ở Mỹ là một nền kinh tế có xu hướng toàn cầu mạnh mẽ và được quản lý và vận hành theo một cơ chế hết sức linh hoạt. Bên cạnh đó, những yếu tố của nền kinh tế tri thức cũng đã phát triển và đạt mức khá cao trong nhiều nước EU, những ngành dựa trên tri thức hiện nay đã chiếm tới trên 50% GDP và trở thành những ngành quan trọng nhất. Tuy nhiên, theo các chuyên gia thì mặc dù EU vẫn là một trong những cái nôi chủ yếu của khoa học và công nghệ trên thế giới song họ vẫn thua kém Mỹ trong một số lĩnh vực như công nghệ thực phẩm gen, công nghệ vũ trụ, công nghệ thông tin và nhất là Internet. Có thể nói, cho đến nay, tình hình chuyển sang nền kinh tế tri thức ở EU chậm hơn so với Mỹ.
Những nét cơ bản của nền kinh tế tri thức cũng đang dần xuất hiện, mặc dù chậm hơn và ở trình độ thấp hơn so với các nước EU và Mỹ, ở một số nước châu á. Trong thời gian qua, Nhật Bản đã đạt được những kết quả đáng kể trong việc tiến đến nền kinh tế tri thức, thể hiện ở chỗ Nhật Bản vẫn liên tục đạt được những thành tựu khoa học và công nghệ to lớn. Tuy nhiên, kinh tế tri thức ở Nhật Bản hiện vẫn chưa thể hiện một cách rõ nét và ở nhiều phương diện vẫn còn thua xa so với Mỹ và các nước EU. Mặc dù là nơi sinh ra những công ty điện tử đứng đầu thế giới nhưng Nhật Bản lại xếp vị trí thứ 14 xét về sức cạnh tranh công nghệ thông tin trong khi Mỹ vẫn chiếm vị trí số 1.
Ngoài ra, một số nước đang phát triển ở châu á đã và đang ráo riết chuẩn bị cơ sở hạ tầng cho phát triển kinh tế tri thức, trong đó công nghệ thông tin được ưu tiên hàng đầu. Vài năm gần đây, một số người cho rằng, kinh tế tri thức không chỉ là một nhận thức mà đã và đang trở thành một thực tế trong đời sống kinh tế của các nước trên thế giới nói chung cũng như của các nước đang phát triển nói riêng. Do xuất phát điểm thấp và mới chỉ bắt đầu nên cho đến nay, Trung Quốc vẫn còn kém xa các nước phát triển về các công trình cơ sở và kỹ thuật then chốt của kinh tế tri thức. Tuy nhiên, bằng nhiều nỗ lực, Trung Quốc cũng đã xây dựng được một số yếu tố cơ bản của nền kinh tế tri thức, tiêu biểu là ngành viễn thông.
Theo đánh giá của Uỷ ban kinh tế APEC, Malaixia hiện vẫn đang ở giai đoạn bắt đầu xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng để tham gia vào một quá trình mang tính toàn cầu và dựa trên nền tảng tri thức và cũng giống như các nước châu á khác, sự phát triển của công nghệ thông tin và các công nghệ cao khác đã được coi là những ưu tiên hàng đầu của Malaixia trong một vài năm gần đây.
Cũng giống như hầu hết các nước khác trên thế giới, Việt Nam không thể đứng ngoài xu thế “kinh tế tri thức”. Kinh tế tri thức chiếm vị trí ngày càng lớn trong quá trình phát triển của thế giới, đó là thách thức cũng như cơ hội lớn đối với chúng ta. Vì thế, mặc dầu vẫn còn là một nước đang phát triển, Việt Nam không thể không tính đến việc tìm lối đi thẳng vào nền kinh tế tri thức theo cách của mình, trong hoàn cảnh và đặc điểm của mình, theo chiến lược và những bước đi phù hợp với trình độ hiện có.
Có thể nói, kinh tế tri thức là một vấn đề hay song lại là một vấn đề mới, khó và còn nhiều biến động. Như đã trình bày ở trên, do hiện nay vẫn còn có những quan điểm khác nhau, thậm chí trái ngược nhau nên tác giả có gặp một số khó khăn trong quá trình nghiên cứu và đánh giá, chưa thực hiện được đầy đủ mục đích nghiên cứu. Vì vậy, tác giả mong sẽ nhận được những chỉ dẫn cũng như ý kiến của các thầy giáo, cô giáo và các bạn sinh viên để khoá luận được hoàn chỉnh hơn.
Tài liệu tham khảo
Nguyễn Đức Bình - Lê Hữu Nghĩa – Trần Hữu Tiến, Góp phần nhận thức thế giới đương đại, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2003.
Trần Vinh Dự, Kinh tế dựa vào tri thức, Chứng khoán Việt nam, số 11, tháng 11/2001, p21 –24.
Lê Tân Đức, Thuyết tăng trưởng ngành kỹ thuật thông tin và Thực tiễn ở Trung Quốc, Tạp chí Trung Quốc, 2001.
Lê Thu Hằng, Phát triển nguồn nhân lực tại Mỹ trong thập kỷ 90 – những khía cạnh trong chính sách giáo dục - đào tạo, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 8 – 10 (44), 2001. 11
Đặng Hữu, Kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo, Ban khoa giáo Trung ương, Hà Nội.
Đặng Hữu, Kinh tế tri thức, Tạp chí Công tác khoa giáo, tháng 7/2000, p3.19
Đinh Trọng Thắng, Những cách hiểu khác nhau về Kinh tế tri thức và sự lựa chọn của Việt Nam, Nghiên cứu Kinh tế, số 283, tháng 12/2001, p36 – 45, 2001.
Nguyễn Xuân Tề, Tiếp cận kinh tế tri thức qua kinh nghiệm một số nước, Tạp chí cộng sản, số 16, tháng 8/2001, p52 –5.
Đinh Trọng Thắng, Nền kinh tế tri thức – kinh nghiệm của các nước phát triển và đang phát triển, Nhà xuất bản Thống kê, 2000.
Trần Đình Thiên, Kinh tế tri thức và vấn đề lựa chọn mô hình phát triển ở Việt Nam, Tạp chí cộng sản, số 22, tháng 11/2000, p 29 – 34.
Nguyễn Ngọc Trân, Một số vấn đề kinh tế toàn cầu hiện nay, Nhà xuất bản thế giới, 2003.
Lưu Ngọc Trịnh, Bước chuyển sang nền kinh tế tri thức ở một số nước trên thế giới hiện nay, Nhà xuất bản giáo dục, 2002.
Lưu Ngọc Trịnh, Trước thềm thế kỷ XXI – nhìn lại mô hình phát triển kinh tế Nhật Bản, NXB Thống Kê, 2001.
Tần Ngôn Trước, Thời đại kinh tế tri thức, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2001.
Ngô Quý Tùng, Kinh tế tri thức – xu thế mới của xã hội thế kỷ XXI, Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội, 2001.
Trần Văn Tùng, Nền kinh tế tri thức và yêu cầu đổi mới giáo dục Việt Nam, Nhà xuất bản thế giới, 2001.
Lê Văn Sang, Kinh tế tri thức – giai đoạn phát triển mới của xã hội loài người, Những vấn đề kinh tế thế giới, số 3, p 3 – 10, 2000.
Vũ Quang Việt, Đón đầu Kinh tế tri thức bằng CNTT, thời báo kinh tế, p36-37.
Toàn tập Marx – Engels, Tập 1.
Tư liệu chuyên đề, Những vấn đề về Kinh tế tri thức – tập I, Số 5 năm 2000, Viện thông tin khoa học.
Tư liệu chuyên đề, Những vấn đề về Kinh tế tri thức – tập II, số 6 năm 2000, Viện thông tin khoa học.
Chuyên đề bổ trợ: Khoa học công nghệ – Kinh tế tri thức và công nghiệp hoá ở nước ta, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2001.
Tổng luận Khoa học, Kỹ thuật, Kinh tế, Nền kinh tế học hỏi và chính sách đổi mới, Bộ Khoa học - công nghệ và môi trường, 1999.
Ban khoa giáo TW, Kỷ yếu Hội thảo: Kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam, 21 –22/6/2000.
TTXVN, Triển vọng kinh tế Châu Âu, Kinh tế quốc tế, số 38 / 2000.
Economic Report of the President 2001.
OECD, First Report on the OECD Growth Project, 2000.
Eurostat, Half of EU Manufacturing Enterprises are Innovative, Community Innovation Survey, 1999.
T. Anderson, Seizing the Opportunities of a New Economy, Challenges for the European Union, OECD, 2000.
Eurostat, SINE – Statistical Indicators for the the New Economy, Version 2000.2. 2000.
Commision of the European Communities, European Trend Chart on Innovation, 2000.
UNCTAD, World Investment Report, New Yord and Geneva, 2000.
OECD, Science, Technology and Innovation in the New Economy, 2000.
Kinh tế Đông á - Nền tảng của sự thành công, NXB Thế giới, Hà Nội.
TTXVN, Tin Kinh Tế, ngày 6/4/2001 và 14/5/2001
Tạp chí Business Week.
Tạp chí Fortune.
Tạp chí Newsweek.
39. Tạp chí Asia Week.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan van.doc