Đề tài Giải pháp điều chỉnh cơ cấu tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Chương Dương

Thực hiện đường lối đổi mới nền kinh tế của Đảng và Nhà nước thực chất cũng là để góp phần đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá ở nước ta. Trong những năm qua, toàn hệ thống ngân hàng đã thực hiện chiến lược đổi mới mạnh mẽ các hoạt động của mình như chú trọng hơn đến việc đa dạng hoá dịch vụ, nâng cao chất lượng tín dụng, hiện đại hoá ngân hàng.Những việc này đã góp phần thúc đầy tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh những thành tựu đạt được, vẫn còn những tồn tại gây cản trở đến hoạt động ngân hàng cũng như toàn bộ nề kinh tế như sự mất cân đối trong cơ cấu tín dụng theo thành phần kinh tế,

doc77 trang | Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1199 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp điều chỉnh cơ cấu tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Chương Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m qua nợ quá hạn đã giảm mạnh. Đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, dư nợ quá hạn vào năm 2002 giảm xuống còn 47,9% so với dư nợ quá hạn của khu vực này năm 2000, đối với khu vực kinh tế nhà nước thì tỷ lệ này là 48,6%. Trong các năm 2001, 2002 nợ quá hạn phát sinh rất ít, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước, năm 2001 chỉ phát sinh thêm 27 triệu nợ quá hạn, và năm 2002 không phát sinh nợ quá hạn. Trong khi đó, với các khách hàng thuộc khu vực ngoài quốc doanh, nợ quá hạn phát sinh trong năm 2001 là 2914 triệu, và năm 2002 chỉ là 745 triệu. Chính vì vậy, dù doanh số cho vay, dư nợ tăng mạnh nhưng nợ quá hạn có chiều hướng giảm. Những chỉ số này chứng tỏ chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh khá khả quan. Một đặc điểm quan trọng nữa là đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, phần lớn nợ quá hạn có tài sản đảm bảo. Đối với doanh nghiệp nhà nước, hầu hết các khoản nợ tồn đọng được xử lý bằng cách được Chính Phủ khoanh nợ, xoá nợ. Tuy nhiên công tác xử lý nợ tồn đọng vẫn còn gặp một số khó khăn trong việc hợp thức hoá thủ tục pháp của tài sản đảm bảo. Vì thế, nợ khó đòi vẫn còn lớn, nhất là khu vực ngoài quốc doanh Những năm qua, số lượng khách hàng thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh có quan hệ tín dụng với Chi nhánh tương đối lớn, chiếm trung bình trên 90% số lượng khách hàng, nhưng thực tế, doanh số cho vay đối với khu vực này rất thấp, chỉ chiếm dưới 5% tổng doanh số cho vay, năm cao nhất cũng chỉ là 6,45% doanh số cho vay. Nếu xét theo tổng dư nợ thì tình hình có dấu hiệu khả quan hơn nhưng tỷ trọng dư nợ của khu vực này cũng chỉ chiếm dưới 10% tổng dư nợ vào hai năm gần đây nhất sau khi quá trình cơ cấu lại ngân hàng bắt đầu, năm cao nhất chỉ đạt 16,7% tổng dư nợ vào năm 2000. Điều này chứng tỏ khối lượng cho vay thấp, quy mô mỗi khoản vay nhỏ. Số lượng khách hàng là doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn ít, chỉ có 45 doanh nghiệp vào năm 2000. Số liệu thống kê bảng 12, 13 cho thấy số lượng doanh nghiệp ngoài quốc doanh làm ăn có hiệu quả rất lớn, nhu cầu vốn của các doanh nghiệp này cũng rất lớn, theo thống kê của Tạp chí Ngân hàng thì các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phải tìm kiếm vốn hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu từ nguồn tài chính phi chính thức (60% vốn hoạt động) với lãi suất cao. Các doanh nghiệp này rất khó để tiếp cận với tín dụng ngân hàng, nhất là tín dụng của các NHTM quốc doanh. Việc Chi nhánh ngân hàng Ngoại Thương sắp có mặt trên địa bàn đánh dấu một dấu hiệu mới, đó là sự mở rộng hoạt động của các ngân hàng sang địa bàn này, tức là ngân hàng sẽ phải đối phó với sự cạnh tranh gay gắt hơn từ các đối thủ cạnh tranh. Điều tất yếu là thị phần của Chi nhánh sẽ bị thu hẹp, nhất là những khách hàng có nhu cầu xuất nhập khẩu. Như vậy việc chiếm lĩnh được thị phần này là rất cần thiết, vừa để mở rộng thị trường, tăng doanh số hoạt động, vừa là bước đệm vững chắc cho sự cạnh tranh trên thương trường, vừa có thể mang lại nguồn lợi lớn cho ngân hàng nhờ những đặc điểm riêng của nó. Nhất là hiện nay, Ngân hàng Ngoại Thương cũng đã xác định một chiến lược cụ thể là dành riêng một quỹ để cấp tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chứng tỏ ngân hàng này cũng đã chú trọng đến việc mở rộng dịch vụ ngân hàng bán lẻ. Các ngân hàng ngày nay đều tìm cách đa dạng hoá các danh mục đầu tư, đa dạng hoá đối tượng khách hàng, mà việc mở rộng tín dụng cho khu vực ngoài quốc doanh là một trong những mục tiêu lớn được đặt ra hiện nay. Vì những lý do đó mà sự mất cân đối trong cơ cấu tín dụng theo thành phần kinh tế là nhân tố kìm hãm tiềm năng phát triển của chính ngân hàng cũng như của cả nền kinh tế nói chung và của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói riêng. Mặc dù trên địa bàn huyện Gia Lâm có 21 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhưng hiện nay, tính đến tháng 4/2003 mới chỉ có hai đơn vị vay vốn tại ngân hàng. Hiện nay các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có phong cách làm việc hiện đại, cán bộ quản lý có trình độ, năng động, nắm bắt được thị trường, công nhân có tay nghề cao và về tài chính cũng như uy tín sản phẩm, lại được sự hỗ trợ một phần của các đối tác nước ngoài nên sản phẩm sản xuất ra có khả năng cạnh tranh cao. Do đó khả năng hoàn trả vốn vay của loại hình doanh nghiệp này lớn. Với những đặc điểm đó, việc chưa thiết lập quan hệ tín dụng nhiều với những đối tượng này cũng là một thiếu sót cần khắc phục. Thứ hai: tín dụng ngắn hạn vẫn chiếm tỷ trọng cao, đặc biệt là đối với khu vực ngoài quốc doanh. Như trên đã trình bày, tỷ trọng doanh số cho vay trung và dài hạn còn thấp, chỉ dao động ở mức 10% trong tổng doanh số cho vay, ngược lại, tỷ trọng doanh số cho vay ngắn hạn luôn cao, chiếm trên 80% tổng doanh số cho vay. Đặc biệt đối với khu vực ngoài quốc doanh, tỷ trọng dư nợ trung hạn luôn lớn hơn tỷ trọng dư nợ dài hạn, tình trạng này đối lập với các doanh nghiệp nhà nước. Như chúng ta đã biết, dây chuyền công nghệ, trang thiết bị kỹ thuật của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn rất lạc hậu, khả năng tài chính để đổi mới trang thiết bị hay mở rộng sản xuất cong rất hạn chế. Chính vì vậy, để góp phần làm sôi động nền kinh tế trong nước, tăng tính cạnh tranh của sản phẩm không chỉ trong nội địa mà còn ở lĩnh vực xuất khẩu, giúp cho khu vực kinh tế ngoài quốc doanh hoàn thành vai trò là cầu nối cho sự hội nhập của mình thì rất cần có sự hỗ trợ vốn từ bên ngoài, điển hình là tín dụng ngân hàng. Thực tế thời gian qua, ngân hàng tập trung chủ yếu vào tín dụng ngắn hạn ( chiếm tỷ lệ trên 70% tổng dư nợ đối với khu vực ngoài quốc doanh) và tín dụng trung hạn ( chiếm tỷ lệ trên 50% tổng dư nợ trung và dài hạn của khu vực ngoài quốc doanh). Tín dụng dài hạn chưa thực sự được mở rộng với khu vực ngoài quốc doanh. Các dự án có thời hạn dài từ 8 đến 10 năm đều là của các doanh nghiệp nhà nước. Chúng ta cần xem xét chất lượng tín dụng theo thời hạn qua số liệu sau: Bảng 15. Nợ quá hạn phân theo thời hạn cho vay Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2000 Tỷ trọng (%) Năm 2001 Tỷ trọng (%) Năm 2002 Tỷ trọng (%) Tổng dư nợ quá hạn 42.725 100 31.083 100 20.545 100 + Ngắn hạn 26.614 62,3 10.459 33,6 6.425 31,3 + Dài hạn 16.111 37,7 20.624 66,4 14.120 68,7 Nguồn: Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Chương Dương Số liệu trên cho thấy tỷ trọng nợ quá hạn đối với hình thức tín dụng trung và dài hạn trong hai năm 2001 và 2002 khá cao, năm 2001 là 66,4%, năm 2002 là68,7% trong tổng nợ quá hạn. Nhưng năm 2000, tỷ trọng nợ quá hạn của tín dụng ngắn hạn là 62,3% cao hơn so với tín dụng dài hạn (37,7%). Nếu xét tổng nợ quá hạn của tín dụng trung và dài hạn so với tổng dư nợ trung và dài hạn thì năm 2002 là 1,5% và năm 2001 là 2,98%, tỷ lệ này là thấp và có thể chấp nhận được. Như vậy, không phải tín dụng trung và dài hạn luôn mang lại rủi ro cho ngân hàng nếu ngân hàng thực hiện tốt công tác thẩm định và giám sát cho vay. Việc Chi nhánh chưa mạnh dạn mở rộng tín dụng trung và dài hạn, đặc biệt là tín dụng dài hạn đối với khu vực ngoài quốc doanh trong khi nhu cầu về loại hình tín dụng này rất lớn đã hạn chế khả năng mở rộng hoạt động tài trợ của Chi nhánh. Thứ ba: Cơ cấu tín dụng theo mức độ đảm bảo còn chưa hợp lý. Tỷ trọng dư nợ có tài sản đảm bảo còn quá thấp đối với khu vực kinh tế nhà nước. Trong khi các doanh nghiệp nhà nước chiếm trên 80% tổng dư nợ và trên 90% tổng doanh số cho vay nhưng dư nợ có tài sản đảm bảo chỉ có 58 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 2,93% trong tổng dư nợ có tài sản đảm bảo. Ngược lại,với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, Chi nhánh chỉ cho vay không có tài sản đảm bảo đối với cán bộ công nhân viên của Chi nhánh và sinh viên theo quy định của Chính phủ. Tất cả các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vay vốn đều phải có tài sản đảm bảo, chưa có hình thức cho vay tín chấp đối với đối tượng này. Các hình thức cầm cố tài sản chưa phong phú, chỉ cầm cố sổ tiết kiệm do hệ thống NHCT Việt Nam phát hành, một số hình thức khác, mặc dù đã được quy định như các khoản phải thu, hợp đồng bảo hiểm,... Việc thu hẹp các hình thức bảo đảm cũng như coi trọng tài sản đảm bảo đối với khu vực ngoài quốc doanh đã hạn chế Chi nhánh mở rộng tín dụng và bỏ lỡ nhiều dự án khả thi nhưng không có đủ tài sản đảm bảo, điều này vừa ảnh hưởng đến quan hệ với khách hàng, vừa ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. 3.3. Nguyên nhân của những hạn chế 3.3.1. Nguyên nhân bên ngoài Thứ nhất: Tình trạng yếu kém về vốn tự có của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện naylà khá phổ biến, theo thống kê của thời báo ngân hàng tháng 3/03, số doangh nghiệp có vốn tự có dưới 10 tỷ đồng chiếm 93,93%, bình quân vốn thực tế sử dụng của một doanh nghiệp là 3,7 tỷ đồng. Điều này gây khó khăn cho việc đổi mới trang thiết bị công nghệ, sản phẩm làm ra khó có khả năng cạnh tranh trên thị trường. Sự hạn chế về quy mô vốn cũng đã gây khó khăn cho doanh nghiệp khi vay vốn cho các dự án trung và dài hạn vì đối với các dự án cải tiến kỹ thuật, mở rộng sản xuất, hợp lý hoá sản xuất, khách hàng phải có vốn tự có tham gia vào dự án với tỷ lệ nhỏ nhất bằng 10 % tổng vốn đầu tư vào dự án, còn đối với các dự án đầu tư xây dựng cơ bản thì khách hàng phải có tham gia vào tối thiểu bằng 30% tổng vốn đầu tư vào dự án, đối với dự án phục vụ đời sống, khách hàng phải có vốn tự có tham gia vào dự án tối thiểu bằng 40% tổng vốn đầu tư vào dự án. Ngoài ra còn có những điều kiện ràng buộc khác như phải có lãi trong hai năm liền kề, phải có tài sản đảm bảo...., điều này gây khó khăn cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh muốn vay vốn mở rộng sản xuất, cũng như ngân hàng trong việc mở rộng tín dụng ngoài quốc doanh, tín dụng trung và dài hạn, chuyển đổi cơ cấu tín dụng. Thứ hai: Tình trạng tài chính yếu kém, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn non trẻ trên thị trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vẫn chưa tận dụng được những ưu đãi , những hỗ trợ từ các tổ chức của Chính Phủ nên nhiều doanh nghiệp làm ăn không có hiệu quả , gây ảnh hưởng đến uy tín của toàn khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Các đối tượng này lại thường chịu tác động mạnh từ những thay đổi của thị trường, bị thị trường, môi trường chi phối mạnh mẽ nên phải chịu nhiều tổn thất từ những thay đổi đó. Cũng vì quy mô vốn nhỏ nên nhiều doanh nghiệp chưa biết cách và chưa có điều kiện quảng bá cho thương hiệu của mình nên gặp nhiều khó khăn trong cạnh tranh. Vì những lý do đó, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh khó tiếp cận được với hình thức cho vay tín chấp vì hiện nay vẫn chưa có một tổ chức nào của Chính Phủ với chức năng cơ bản là đứng ra bảo lãnh vay vốn cho các doanh nghiệp này. Trong khi đó các doanh nghiệp nhà nước có nhiều thuận lợi hơn trong việc vay vốn cũng như cạnh tranh trên thị trường. Điều kiện vay vốn không có tài sản đảm bảo đối với các doanh nghiệp nhà nước dễ dàng hơn , các doanh nghiệp này được nhà nước đứng ra bảo lãnh vay vốn, những khoản nợ quá hạn, nợ khó đòi trước đây hầu hết được nhà nước khoanh nợ, xoá nợ, tạo cho ngân hàng cảm giác yên tâm khi mở rộng đối tượng này. Từ đó mà cơ cấu tín dụng có đối với khu vực này chiếm tỷ trọng cao, cả ngắn, trung và dài hạn, cơ cấu tín dụng theo tài sản đảm bảo mất cân đối giữa hai khu vực kinh tế. Thứ ba: Tình hình tổ chức công tác hạch toán kế toán tại các doanh nfhiệp còn chưa quy củ, chưa thống nhất theo một tiêu chuẩn nhất định về tài chính kế toán của nhà nước. Nhiều doanh nghiệp tồn tại hiện tượng hai loại sổ sách kế toán để gian lận trong tài chính, chính vì vậy khó khăn cho ngân hàng trong việc đánh giá một cách chính xác tình hình tài chính của khách hàng và khách hàng không dám mạo hiểm cấp tín dụng cho họ, nhất là tín dụng trung và dài hạn. Hiện nay việc công khai về tình hình tài chính, sử dụng dịch vụ kiểm toán để kiểm định và chứng nhận về khả năng tài chính của các doanh nghiệp chưa nhiều, nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, vai trò của các công ty kiểm toán chưa thực sự được phát huy. Trong khi đó, đây cũng là một tiêu chuẩn để các doanh nghiệp có thể vay vốn. Hơn nữa, một “nền kinh tế tiền mặt” như Việt Nam hiện nay cũng gây khó khăn cho việc quản lý các doanh nghiệp về tình hình tài chính. Thứ tư: Hiện nay cơ chế chính sách của nhà nước còn thiếu đồng bộ, việc hướng dẫn thực hiện những cơ chế chính sách mới chưa kịp thời. Một số văn bản luật của nhà nước và của ngành còn chồng chéo, xung đột nhau gây khó khăn cho ngân hàng trong việc áp dụng nó vào thực tế. Một số văn bản luật chưa thật thông thoáng để tạo điều kiện cho hoạt động ngân hàng. Cụ thể như quy định về tài sản thế chấp, xử lý tài sản thế chấp, về định giá tài sản thê chấp, về mức vốn vay, về điều kiện vay vốn.... Thứ năm: Do hệ thống hành chính vẫn chưa thực sự được đổi mới, các cơ quan ban ngành địa phương chưa làm tròn trách nhiệm của mình. Ví dụ như khi lập tờ trình vay vốn, cán bộ tín dụng phải kiểm tra thực tế tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh để định giá tài sản, xác minh những cam kết. Nhưng trong quá trình đi kiểm tra thực trạng tài sản đảm bảo, chính quyền thiếu thiện chí hỗ trợ, giúp đỡ cán bộ tín dụng hoàn thành nhiệm vụ. Khi cán bộ tín dụng đi xác minh cam kết của khách hàng vay, bên bảo lãnh theo quy định của pháp luật hiện hành về tài sản cầm cố thế chấp và bảo lãnh thì chính qyền địa phương không xác nhận về nội dung cam kết nói trên của khách hàng với lý do chưa có văn bản của cơ quan cấp trên. Hiện nay, việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu bất động sản rất phức tạp, ngân hàng gặp một số cản trở từ phía chính quyền làm chậm tiến độ xử lý tài sản thế chấp . Những lý do này gây khó khăn cho tiến trình vay vốn của khách hàng cũng như cho ngân hàng trong hoạt động quản lý, giám sát vốn vay và xử lý nợ quá hạn. Thứ sáu: Hiện nay, ở Việt Nam đã có trung tâm thông tin phòng ngừa rủi ro nhưng hoạt động của nó chưa thực sự có hiệu quả. Tổ chức bày chưa phát huy được vai trò của nó, các tổ chức tín dụng chưa thể có được những thông tin cần thiết một cách chính xác về khách hàng. Điều này khiến cho rủi ro tín dụng cao, ảnh hưởng đến việc mở rộng tín dụng cho khách hàng của các ngân hàng. 3.3.2. Nguyên nhân từ phía ngân hàng Thứ nhất: Đặc điểm lịch sử và xu hướng phát triển kinh tế trong thời gian qua. Chi nhánh trực thuộc hệ thống NHCT Việt Nam, là một NHTM quốc doanh, từ khi mới thành lập thì đối tượng khách hàng chính là các doanh nghiệp Nhà nước thuộc lĩnh vực thương nghiệp dịch vụ. Trong quá trình phát triển, nhờ những ưu thế riêng mà Chi nhánh đã thu hút được nhiều khách hàng là các doanh nghiệp Nhà nước thuộc các ngành mũi nhọn, điều này tạo nên thuận lợi cho Chi nhánh tuy nhiên do Chi nhánh chậm thay đổi quan điểm kinh doanh, nắm bắt xu hướng phát triển kinh tế cũng như chủ trương của Nhà nước nên nó lại trở thành một nguyên nhân gây nên hạn chế về khách hàng. Thứ hai: Chi nhánh mới thực hiện tốt việc củng cố thị trường bạn hàng truyền thống mà chưa phát triển có hiệu quả quan hệ bạn hàng này tới các doanh nghiệp vệ tinh xung quanh họ. Trên thực tế, khách hàng mục tiêu của Chi nhánh mới chỉ là doanh nghiệp nhà nước, với những ưu thế của mình, chi nhánh đã thu hút được nhiều khách hàng lớn là doanh nghiệp nhà nước. Chi nhánh vẫn chưa có một chiến lược cụ thể, lâu dài nhằm thu hút khách hàng và nâng cao chất lượng tín dung ngoài quốc doanh. Chi nhánh vẫn chưa thực sự nỗ lực giao tiếp với khách hàng, đặc biệt đối với khu vực ngoài quốc doanh mà vẫn có sự phân biệt giữa hai khu vực như chênh lệch về lãi suất, điều kiện vay vốn... Do đó khách hàng là doanh nghiệp Nhà nước dễ dàng tiếp cận với những khoản vay lớn hơn, cơ cấu tín dụng theo thành phần kinh tế có sự mất cân đối. Cho đến hiện nay, mặc dù quy mô của Chi nhánh khá lớn nhưng chi nhánh vẫn chưa có phòng Marketting, điều này ảnh hưởng đến việc áp dụng marketting vào hoạt động ngân hàng như trong việc đề ra một chiến lược phù hợp với ngân hàng cũng như nhu cầu của khách hàng, trong việc lưa chọn thị trường mục tiêu, trong việc tiếp thị, quảng bá cho ngân hàng ... Do đó số lượng khách hàng dù có tăng ở cả hai khu vực nhưng vẫn mất cân đối, chưa tiếp cận được nhiều với những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Thứ ba: Cán bộ tín dụng chủ yếu tuổi đời còn rất trẻ, năng động đầy nhiệt huyết, có trình độ, được đào tạo từ những trường lớp chính quy nên rất nhậy bén với cơ chế thị trường cũng như tiếp thu những kiến thức mới, không ngừng học hỏi nhưng do còn trẻ về tuổi đời và tuổi nghề nên còn thiếu kinh nghiệm trong việc thẩm định các dự án và quản lý các khoản vay, vẫn còn một số người bị động trong giao tiếp, không gợi mở nhu cầu cho khách hàng, họ còn e ngại cấp tín dụng đối với những dự án dài và chứa đựng rủi ro cao Thứ ba, nguồn vốn vẫn chưa đáp ứng đủ cho tín dụng trung và dài hạn, Chi nhánh vẫn phải nhận vốn từ NHCT Việt Nam mặc dù quy mô huy động vốn tăng mạnh trong những năm qua, năm 2002, tốc độ tăng 48,8% so với năm 2001. Do đặc điểm khách hàng của Chi nhánh chủ yếu là doanh nghiệp lớn, tiền gửi thanh toán lớn và cũng như tình trạng chung của nhiều ngân hàng ở Việt Nam hiện nay, thiếu nguồn vốn có tính ổn định cao. Do nhiều nguyên nhân từ nền kinh tế lẫn tâm lý của người dân và cả chiến lược của của từng ngân hàng đối với khách hàng mà nguồn vốn dài hạn là vấn đề nan giải. Điều này gây trở ngại cho Chi nhánh trong việc mạnh dạn đầu tư vào những dự án dài hạn và mở rộng tín dụng trung và dài hạn, từ đó ảnh hưởng một phần đến cơ cấu tín dụng theo thời hạn và gián tiếp ảnh hưởng đến cơ cấu khách hàng cũng như cơ cấu tài sản đảm bảo. Thứ tư: Chính sách ưu đãi mới chỉ dừng lại ở việc ưu đãi lãi suất. Chương III. Giải pháp điều chỉnh cơ cấu tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Chương Dương 1. Phương hướng điều chỉnh Bước sang năm 2003, năm bắt đầu thực hiện AFTA, Việt Nam phải xoá bỏ một phần và sẽ tiến tới xoá bỏ toàn diện các biện pháp bảo hộ phi thuế quan và liên tục giảm thuế đối với hầu hết các mặt hàng. Bên cạnh đó, hiệp định thương mại Việt Nam –Hoa Kỳ được ký kết cũng tạo ra những cơ hội to lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam xâm nhập vào thị trường nước ngoài. Song những thách thức mà nó đặt ra cũng còn nhiều. Việc này gây sức ép rất lớn đối với các doanh nghiệp sản xuất trong nước và do đó sẽ gián tiếp ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh ngân hàng. Mặt khác trong xu hướng tự do hoá tài chính, ảnh hưởng của hiệp định thương mại Việt- Mỹ, nhất là khi các ngân hàng nước ngoài được thực hiện đầy đủ nghiệp vụ huy động vốn, với những ưu thế về năng lực trình độ quản lý,thủ tiục cho vay đơn giản, chính sách khách hàng linh hoạt, sự cạnh tranh sẽ gay gắt hơn, thị phần của mỗi ngân hàng trong nước sẽ bị thu hẹp hơn và có sự thay đổi nhất định. Hiện nay, các doanh nghiệp Nhà nước đang là mục tiêu theo đuổi của không chỉ ngân hàng thương mại quốc doanh mà của các ngân hàng nước ngoài. Với những ưu thế nổi trội, ngân hàng nước ngoài đã thu hút được một số dự án lớn. Hơn nữa theo dự đoán của các nhà kinh tế, trong tiến trình cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, cho đến năm 2005, số lượng doanh nghiệp nhà nước giảm xuống còn 60-70% và đến năm 2010, số lượng doanh nghiệp nhà nước giảm xuống còn 30- 40% so với thời điểm hiện nay. Chính phủ chỉ giữ lại các doanh nghiệp nhà nước thuộc các lĩnh vực quan trọng trong nền kinh tế, thí điểm thành lập các tập đoàn kinh tế trong các lĩnh vực then chốt như điện lực, dầu khí, bưu chính viễn thông, hàng không, hàng hải. Do tác động của luật doanh nghiệp, cho đến năm 2005, số doanh nghiệp ngoài quốc doanh sẽ tăng ba lần so với năm 2000, đạt từ 115 đến 120 nghìn doanh nghiệp, hộ kinh doanh ở đô thị tăng 20- 30%, đầu tư nước ngoài phục hồi trở lại. Trong bối cảnh như vậy, thị phần của ngân hàng nói chung và của Chi nhánh nói riêng sẽ có những thay đổi lớn. Vì vậy, để phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế, với chủ trương của nhà nước, để phát triển hơn nữa hoạt động kinh doanh trong tương lai, để thực hiện tốt mục tiêu “phát triển – an toàn và hiệu quả” trong giai đoạn 2000- 2005, để khắc phục những tồn tại trong hoạt động tín dụng, chi nhánh cần điều chỉnh cơ cấu tín dụng. Trên cơ sở củng cố và phát triển quan hệ tín dụng với đối tượng khách hàng truyền thống, chi nhánh cần mở rộng hơn nữa tín dụng đối với khu vực ngoài quốc doanh, chuyển đổi cơ cấu tín dụng theo hướng tăng dần tỷ trọng tín dụng cho khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, nỗ lực thu hút các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tăng tỷ trọng tín dụng trung và dài hạn. Làm được điều này, nhất thiết phải có những nới lỏng đối với khu vực ngoài quốc doanh, dặc biệt trong vấn đề tài sản đảm bảo, từ đó sẽ điều chỉnh được cơ cấu tài sản đảm bảo theo hướng tăng tỷ trọng cho vay không có tài sản đảm bảo của khu vực này, và điều chỉnh cân đối hơn nữa cơ cấu tài sản đảm bảo giữa hai khu vực nhà nước và ngoài quốc doanh. Để làm được điều này cần có những thay đổi nhất định trong nhiều mặt 2. Giải pháp đối với Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Chương Dương 2.1. Xây dựng chiến lược Marketting hỗn hợp Marketting là một khái niệm khá mới mẻ đối với thị trường Việt Nam, nó thường bị nhầm lẫn với khái niệm “tiếp thị ”, nhưng thực hiện Marketting tức bao hàm nhiều hoạt động, phải kết hợp tất cả các công cụ kĩ thuật như chính sách giá cả, chính sách phân phối, chính sách giao tiếp khuyếch trương. Mặc dù hiện nay Chi nhánh vẫn chưa có phòng Marketting riêng biệt nhưng việc xây dựng và thực hiện Marketing vẫn rất cần thiết và phải được thực hiện ở tất cả các công đoạn, tất cả mọi cán bộ ngân hàng đều phải ý thức thực hiện Marketting. Hiện nay Chi nhánh cũng đang từng bước áp dụng marketing vào kinh doanh bằng nhiều hình thức như ưu đãi với khách hàng truyền thống, da dạng hoá sản phẩm ... nhưng vẫn chưa có một chiến lược mang tính tổng thể và lâu dài. Bên cạnh việc duy trì và củng cố quan hệ tín dụng với các khách hàng đang có quan hệ với ngân hàng, Chi nhánh cần xây dựng cho mình một chính sách khách hàng, chiến lược kinh doanh có định hướng vào khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, xây dựng cơ cấu cho vay kinh tế ngoài quốc doanh trong cơ cấu chung của ngân hàng, đa dạng hoá đối tượng cho vay, mở rộng hơn nưa đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và các hộ gia đình dù đây là khách hàng nhỏ nhưng số lượng ngày càng đông đảo. Ngoài ra, ngân hàng cũng cần chú trọng thu hút các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Để làm được những điều này, Chi nhánh cần có một phòng hay một bộ phận Marketing riêng. Với mục tiêu điều chỉnh cơ cấu tín dụng, Chi nhánh cần quan tâm đến một số khía cạnh chủ yếu : * Có một chính sách giá cả linh hoạt, hợp lý Giá cả sản phẩm tín dụng của ngân hàng là lãi suất. Đối với ngân hàng, giá mua là chi phí các yếu tố đầu vào mà chủ yếu là lãi suất huy động, giá bán chính là lãi suất cho vay. Chênh lệch về giá cả là lợi nhuận của ngân hàng. Khách hàng sẽ chọn mức lãi nào mang lại nhiều lợi ích cho họ nhất. Lợi ích của khách hàng và ngân hàng về cơ bản là trái ngược nhau. Đặc điểm của Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Chương Dương là một Chi nhánh trực thuộc NHCT Việt Nam – một trong những ngân hàng thương mại quốc doanh có uy tín ở nước ta. Ngân hàng có nguồn tiền gửi thanh toán lớn từ các tổng công ty 90, 91 và các doanh nghiệp nhà nước khác. Đồng thời Chi nhánh có mạng lưới 12 quỹ nằm rải rác trên địa bàn do đó có một nguồn vốn khá dồi dào, có thể đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng và có thể có được lãi suất cạnh tranh trên thị trường.Trong một số trường hợp, cấp tín dụng cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường chịu nhiều rủi ro hơn và trong lãi suất cho vay có chứa phần bù rủi ro, lãi suất đối với khu vực này thường cao hơn các doanh nghiệp nhà nước, mức chênh lệch thường là từ 0,01- 0.03%. Tuy nhiên để thu hút khách hàng ngoài quốc doanh có khả năng tài chính mạnh, Chi nhánh cần tạo ra sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tê và nên áp dụng một chính sách lãi suất thống nhất giữa hai khu vực kinh tế trên cơ sở lựa chọn những khoản vay có chất lượng tốt. Bên cạnh đó, căn cứ vào tính chất, đặc điểm của từng ngành nghề, từng món vay, từng đối tượng khách hàng mà điều chỉnh linh hoạt lãi suất ưu đãi với từn khoản vay. Việc định giá chỉ nên dựa vào chất lượng khoản vay và phải triệt để xoá bỏ chênh lệch lãi suất vẫn tồn tại từ trước đến nay. Đây chỉ là biện pháp mang tính chất thời điểm vì dễ bị bắt chước, các ngân hàng khác cũng có thể hạ lãi suất để thu hút khách hàng. Vì thế, ngân hàng cần chú trọng đến những khía cạnh khác của quá trình thực hiện Marketing. * Thu thập thông tin và chủ động tìm đến khách hàng Chi nhánh có thể thu thập thông tin về tình hình tài chính, năng lực quản lý của khách hàng từ nhiều nguồn như các phương tiện thông tin đại chúng, các cơ quan quản lý nhà nước như thuế, hải quan, trung tâm thông tin tín dụng, các đối tác làm ăn với doanh nghiệp và từ chính bản thân doanh nghiệp. Muốn vậy, ngân hàng cần tạo mối quan hệ mật thiết với các trung tâm tư vấn cho doanh nghiệp, với trung tâm thông tin tín dụng ...Làm được việc này, ngân hàng sẽ chuyển từ đối tượng bị động sang chủ động tìm kiếm khách hàng, từ đó tránh được sự phân tán vào các thông tin khách hàng cung cấp, nhiều khi là hấp dẫn đối với ngân hàng do khách hàng đã có sự điều chỉnh. Việc chủ động tìm kiếm khách hàng là biện pháp tiếp thị có hiệu quả, nhất là đối với doanh nghiệp mới thành lập, khách hàng mới quan hệ với ngân hàng lần đầu, kể cả khách hàng của đối thủ cạnh tranh. Để chủ động trong việc tìm kiếm khách hàng, Chi nhánh cần chú trọng đến chính sách giao tiếp khuyếch trương. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, cái mà họ quan tâm là uy tín của ngân hàng và các tiện ích mà ngân hàng mang lại. Vì thế, Chi nhánh cần phải tăng cường công tác tuyên truyền, quảng cáo các chính sách chế độ, thể lệ, thủ tục, điều kiện vay vốn, chính sách tín dụng của ngân hàng, giới thiệu các tiện ích để doanh nghiệp nắm bắt được chủ trương chính sách đổi mới đối với các thành phần kinh tế để khách hàng thấy được thiện chí của Chi nhánh và lợi ích khi quan hệ tín dụng với Chi nhánh. Chi nhánh có thể thu hút khách hàng dựa vào chính khách hàng của ngân hàng thông qua việc cải tiến thủ tục nhanh gọn về thời gian, tiến bộ về phong cách giao tiếp để khách hàng giới thiệu với bạn hàng của họ. Để được vay vốn, ngân hàng phải tiến hành các thủ tục từ khi lập hồ sơ đến khi hợp đồng tín dụng được ký kết, quá trình này đòi hỏi rất nhiều công đoạn, nhiều chữ ký, con dấu. Mặc dù đây là những quy định mang tính chất bắt buộc nhưng nhiều khi khách hàng không hiểu, họ cho đó là phiền hà, vì thế cán bộ tín dụng phải khéo léo giải thích cho họ hiểu, đồng thời cán bộ tín dụng cũng phải tiến hành hoàn tất thủ tục một cách nhanh chóng. Cán bộ tín dụng có thể hỗ trợ khách hàng trong việc lập dự án trên cơ sở thực tiễn để đáp ứng được những điều kiện vay vốn, trong một số trường hợp, việc này rất cần thiết, nhất là đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh như doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn. Để có thể tiếp cận khách hàng rộng hơn, Chi nhánh có thể triển khai việc giải thích các loại hình tín dụng, các dịch vụ ngân hàng trên mạng, kết hợp với việc giải đáp thắc mắc cho khách hàng về những vấn đề liên quan đến thể lệ tín dụng hoặc tổ chức các hội nghị khách hàng. Điều quan trọng nhất là phải tạo dựng được niềm tin của khách hàng thông qua đội ngũ cán bộ và phải làm cho khách hàng hài lòng ngay cả khi họ không đạt được mục đích vay vốn của mình. * Chiến lược sản phẩm Một sản phẩm hấp dẫn mà khách hàng có thể tìm thấy nhiều lợi ích từ đó thì chắc chắn khách hàng sẽ lựa chọn sản phẩm đó. Một chiến lược sản phẩm đúng đắn sẽ thu hút được khách hàng, mở rộng quan hệ tín dụng. Ngược lại, nếu một sản phẩm không có tính hấp dẫn thì sẽ không thu hút được khách hàng. Trong hoạt động ngân hàng, rất khó có thể đưa ra một sản phẩm mới mà phải tạo ra sự khác biệt, hấp dẫn trong sản phẩm truyền thống của ngân hàng. Sự cải tiến này lại nằm trong quy định của ngân hàng cấp trên, tuy nhiên trong tình hình hiện nay, khi mà cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng diễn ra gay gắt thì càng buộc các ngân hàng phải có các sản phẩm và cung ứng các dịch vụ mà thị trường đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng, đa dạng và phong phú về chủng loại. Đối với các doanh nghiệp, Chi nhánh chủ yếu cho vay theo hai hình thức đó là cho vay từng lần và cho vay theo hạn mức tín dụng. Hình thức cho vay theo hạn mức tín dụng có nhiều ưu điểm, phù hợp với những khách hàng không thời vụ, vay vốn và trả nợ thương xuyên. Hình thức này sẽ tiết kiệm vốn tối đa cho người vay vì khi bán hàng là ghi thẳng vào bên có để trả nợ, không phải vừa vay vừa đọng tiền như ở hình thức vay từng lần, nó cũng tạo điều kiện cho cán bộ nắm tình hình đơn vị vay, vì doanh số cho vay thể hiện qua doanh số mua vào, doanh số thu nợ thể hiện qua doanh số bán ra. Với phương thức cho vay này, doanh nghiệp và ngân hàng sẽ gắn bó với nhau hơn, ngân hàng có thể góp ý cho doanh nghiệp nếu thấy doanh nghiệp có những biều hiện chệch hướng trong hoạt động kinh doanh hay sử dụng vốn sai mục đích. Thông qua hình thức cho vay này, ngân hàng có thể giám đốc bằng tiền đối với doanh nghiệp. Nhìn chung, cho vay theo hạn mức là cách phản ánh tình hình kinh doanh của đơn vị rõ rệt vì thanh toán không dùng tiền mặt chưa phát triển nên doanh số cho vay thu nợ sẽ phản ánh đối tượng mua bán. Tuy nhiên hiện nay hình thức này chưa được áp dụng nhiều đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh mặc dù họ có nhu cầu và đáp ứng đủ điều kiện để được vay vốn theo hình thức này (doanh nghiệp sản xuất kinh doanh ổn định, vay vốn trả nợ thường xuyên, có tín nhiệm đối với ngân hàng). Nhiều doanh nghiệp chỉ được vay theo hình thức từng lần nên phải xé nhỏ tuần hoàn vốn tường xuyên thành những thương vụ riêng lẻ, có trường hợp họ phải lập tới 2-3 hợp đồng tín dụng một ngày để vay vốn mua hàng hoá phục vụ sản xuất, điều này gây nhiều phiền phức vì có nhiều thủ tục hành chính không cần thiết. Ngoài các hình thức cho vay theo truyền thống qua việc đảm bảo bằng tài sản thế chấp, cần phát triển mạnh mẽ các hình thức cho vay khác như cho vay đảm bảo bằng các khoản thu, bằng các giấy tờ có giá. Mặc dù nhà nước đã quy định cho phép cho vay đảm bảo bằng sổ tiết kiệm, chứng chỉ tiền gửi, hợp đồng bảo hiểm tiền gửi, hợp đồng khiến cho nhiều nhận thầu nhưng hiện nay, Chi nhánh chỉ mới áp dụng hình thức cho vay cầm cố sổ tiết kiệm do chính Chi nhánh phát hành. Điều đó có thể đảm bảo an toàn cho ngân hàng một cách tuyệt đối nhưng gây nhiều khó khăn cho khách hàng cũng như hạn chế việc mở rộng, đa dạng hoá khách hàng của ngân hàng. Trong nhiều trường hợp ngân hàng có thể đa dạng hoá các hình thức đảm bảo nhưng vẫn đảm bảo sự an toàn cho mình. Có thể tuỳ vào hình thức bảo hiểm, thời hạn bảo hiểm, thời hạn đáo hạn hợp đồng hay tuỳ từng ngân hàng phát hành sổ tiết kiệm mà Chi nhánh có những mức cho vay khách nhau trên cơ sở giá trị của những giấy tờ đó. Chi nhánh cũng có thể áp dụng hình thức cho vay đảm bảo bằng các khoản thu theo tỷ lệ phần trăm so với khoản phải thu với điều kiện các doanh nghiệp phải trình đầy đủ các giấy tờ chứng minh quyền sở hữu các khoản thu của mình nhằm hỗ trợ vốn lưu động cho các doanh nghiệp. Những hình thức này được áp dụng sẽ không những thu hút được các đối tượng thuộc khu vực ngoài quốc doanh vì giúp họ giải toả được những khó khăn về tài sản đảm bảo, về điều kiện vay vốn, đáp ứng được những nhu cầu của họ mà còn tu hút được thêm nhiều khách hàng lớn là các doanh nghiệp nhà nước. Như vậy, việc thực hiện một cách tổng hợp các chính sách này sẽ giúp ngân hàng điều chỉnh được cơ cấu tín dụng và mở rộng tín dụng. Tổ chức dịch vụ: “Cung cấp tín dụng tại nhà” đây là một dịch vụ mà chưa có một ngân hàng nào cung ứng. Thực hiện dịch vụ này sẽ giúp ngân hàng có điều kiện đánh giá được tận nơi cơ sở vật chất, trang thiết bị của doanh nghiệp, đánh giá về tình hình làm ăn của khách hàng. Mặc dù chi phí cho những khoản vay này có thể sẽ cao hơn bình thường nhưng với những tiện lợi của nó, chắc chắn khách hàng sẽ chấp nhận một chênh lệch lãi suất nhất định Điều đáng chú ý là cần phải kết hợp đồng bộ các chính sách, chính sách giá cả linh hoạt, chính sách sản phẩm đa dạng sẽ không thể đến với khách hàng nếu không có chính sách giao tiếp khuyếch trương, ngược lại chính sách giao tiếp khuyếch trương sẽ không có hiệu quả nếu sản phẩm không đáp ứng đưọc nhu cầu của khách hàng, nhất là hiện nay, nhiều đối tượng khách hàng ngoài quốc doanh vẫn còn e ngại việc tiếp xúc với NHTM quốc doanh, chưa thấy rõ được những đổi mới trong chính sách khách hàng của các ngân hàng hoặc gặp nhiều khó khăn để thoả mãn điều kiện vay vốn. Việc một số lượng đông đảo khách hàng đến với Chi nhánh sẽ khiến cho khách hàng phải tự cạnh tranh với nhau và hoàn thiện hơn để được sử dụng những tiện ích của Chi nhánh. 2.2. Nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư, tăng cường công tác giám sát, kiểm tra Nâng cao năng lực thẩm định dự án đầu tư là một yêu cầu luôn được đặt ra trong quá trình thẩm định dự án , giúp ngân hàng chủ động trong việc ngăn chặn những dự án xấu, tài trợ cho những dự án có hiệu quả. Điều cốt yếu để mở rộng tín dụng đối với khu vực ngoài quốc doanh, thay đổi cơ cấu tài sản đảm bảo của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh cũng như mở rộng tín dụng trung và dài hạn- hình thức tín dụng chứa đựng nhiều rủi ro là phải nâng cao chất năng lực thẩm định dự án đầu tư Trong quá trình thẩm định , cán bộ ngân hàng phải kiểm tra và đánh giá là: + Tư cách pháp lý + Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, kết quả hoạt động sản xuất kinh daonh trong hai năm gần nhất + Khả năng quản lý, điều hành của các chủ doanh nghiệp + Khả năng về tài chính, tài sản thế chấp + Hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh Ngân hàng căn cứ vào các văn bản, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các báo cáo tài chính thường kỳ của doanh nghiệp kết hợp với sự thanh tra giám sát của cán bộ chuyên môn để đánh giá tư cách pháp lý, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, khả năng tài chính của doanh ngiệp và khả năng quản lý điều hành của chủ doanh nghiệp. Yếu tố tài sản thế chấp cũng được Chi nhánh quan tâm xét đến nhưng trên góc độ quản lý ngân hàng, thì đây không phải là yếu tố quan trọng nhất vì ngân hàng không trông đợi vào việc xiết nợ bằng cách thu hồi tài sản thế chấp của họ, ngân hàng luồn mong muốn thu hồi gốc và lãi vốn vay từ hoạt động kinh doanh của chính dự án mà họ đã cho vay. Đặc biệt, hiện nay đối với các doanh nghiệp nhà nước, hầu hết các khoản vay đều không có tài sản đảm bảo, Chi nhánh chỉ xem xét dựa vào tình hình tài chính và hiệu quả của dự án. Nhưng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì đây vẫn là một tiêu chí để Chi nhánh xét duyệt cho vay. Yếu tố hiệu quả sản xuất kinh doanh có ý nghĩa quyết định hơn cả, vì thế việc thẩm định hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh là khâu chủ chốt và quan trọng bậc nhất đối với ngân hàng. Nhưng trên thực tế, để thẩm định một dự án tốt hay xấu, có hiệu quả hay không, đòi hỏi cán bộ thẩm định phải có sự hiểu biết rộng trong nhiều lĩnh vực mà không thuộc phạm vi lĩnh vực nghiên cứu của ngân hàng. Vì thế, cán bộ thẩm định phải thường xuyên cập nhật những quy định của Nhà nước liên quan đến lĩnh vực đầu tư. Đây là những quy định có tính nghiêm ngặt và chặt chẽ nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của chủ đầu tư và của cả cộng đồng. Tuân thủ những quy định của pháp luật về đầu tư còn giúp cho Chi nhánh có thể bảo vệ lợi ích của mình trong một số lĩnh vực mà nhìn chung các ngân hàng không đủ khả năng chuyên môn để thẩm định như trong các lĩnh vực kỹ thuật, xây dựng, môi trường... Nếu cần thiết, ngân hàng có thể nhờ vào các chuyên gia trong các lĩnh vực này. Ngoài những thông tin về tình hình tài chính, quản lý, pháp lý của khách hàng, ngân hàng còn cần phải thu thập những thông tin như vị trí và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, mức cầu về sản phẩm cùng loại trong những năm qua, thông tin về giá cả, dự báo thị trường trong nước và quốc tế.. Ngân hàng cũng cần phải tăng cường giám sát, kiểm tra khách hàng vay vốn để kịp thời nhắc nhở hoặc có biện pháp xử lý. Hiện nay, phòng tín dụng đã phân chia mỗi cán bộ tín dụng quản lý một số khách hàng, điều này góp phần tạo điều kiện dễ dàng cho việc giám sát các khoản vay. Tuy nhiên, để tránh tình trạng phối hợp giữa cán bộ tín dụng với khách hàng, ngân hàng nên luân chuyển cán bộ theo một khoảng thời gian nhất định hoặc khi thấy cần thiết trên cơ sở phân loại ngành nghề. Những nhóm cán bộ giám sát một loại ngành nghề nhất định. Để góp phần thực hiện tốt những công việc trên, ngân hàng cần chú trọng đến việc nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ tín dụng, muốn vậy thì không thể không chú trọng tới công tác đào tạo và đào tạo lại cán bộ. Cơ cấu tín dụng công tác đào tạo cần tập trung theo trong điểm và đào tạo một cách toàn diện để thức sự có những cán bộ có đủ năng lực, trình độ, hiể biết về các sâu, rộng. Dưới con mắt khách hàng, cán bộ ngân hàng là một trong những yếu tố ảnh hưởng đầu tiên của ngân hàng, nó phản ánh khả năng và năng lực của ngân hàng. Tác phong làm việc và giao tiếp, năng lực, nghiệp vụ, trình độ hiểu biết, là những yếu tố quan trọng cho việc lựa chọn ngân hàng của khách hàng, nó có tính chất quyết định sự gắn bó của khách hàng với ngân hàng. Vì vậy ngoài việc khuyến khích cán bộ tín dụng tự nâng cao trình độ, ngân hàng còn phải thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng chuyên sâu về các phương pháp và kỹ thuật thẩm định dự án, phân tích hoạt động kinh tế hay tổ chức các khoá học về kiến thức pháp lý như luât dân sự, các vấn đề liên quan đến sở hữu. Ngân hàng cần nhờ đến sự giúp đỡ của cácchuyên gia về các lĩnh vực pháp luật, các cán bộ ngân hàng giỏi tham gia các buổi nói chuyện, toạ đàm....Ngân hàng cũng cần thường xuyên kiểm tra đánh giá và có khuyến khích về mặt vật chất đối với cán bộ công nhân viên. 2.3. Xem xét cho vay bằng không có tài sản đảm bảo đối với khu vực ngoài quốc doanh Hiện nay, đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, Chi nhánh mới chỉ cho vay không có tài sản đảm bảo với hai đối tượng là sinh viên theo quy định của Nhà nước và cán bộ công nhân viên của Chi nhánh. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vẫn chưa tiếp cận được với hình thức mới này. Thức tế, tài sản đảm bảo cũng chứa nhiều rủi ro khi có biến động về giá hoặc khi phát mại tài sản, giá trị bị giảm đi rất nhiều, đây chỉ là phương án thu nợ cuối cùng. Chi nhánh cần quan tâm đến quá trình trước, trong và sau khi cho vay hơn là xét đến tài sản đảm bảo. Mặc dù sẽ có nhiều rủi ro khi cho vay không có tài sản đảm bảo đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh nhưng ngân hàng có thể hạn chế một cách tối đa bằng việc lựa chọn khách hàng cho vay, nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư, giám sát sau khi cho vay một cách chặt chẽ hơn. Ngân hàng có thể lựa chọn khách hàng đã được kiểm toán độc lập để cho vay không bảo đảm bằng tài sản. Kết quả kiểm toán độc lập sẽ loại bỏ đáng kể các sai lệch trong báo cáo tài chính, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, giúp ngân hàng nhận biết được năng lực thực về tài chính của người vay. Ngân hàng có thể lựa chọn và thử nghiệm dần với những khách hàng có uy tín đối với Chi nhánh, và có thể khuyến khích các khách hàng của mình làm việc với các tổ chức kiểm toán có uy tín hiện nay ở Việt Nam. 3. Kiến nghị Trong thời gian qua, một số chính sách liên quan đến hoạt động ngân hàng đã được Nhà nước nói chung và ngành ngân hàng nói riêng sửa đổi, bổ sung nhằm phát huy vai trò của hệ thống ngân hàng trong giai đoạn mới. Phần lớn các chính sách đó đã góp phần ngày càng hoàn chỉnh hơn cho cơ chế hoạt động của ngân hàng. Chẳng hạn như luật các tổ chức tín dụng, nghị định 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 của Chính Phủ về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng; thông tư 06/2000/TT-NHNH1 ngày 04/04/2000; quyết định 1627/2001/QĐ-NHNH1 về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng được áp dụng từ ngày 01/02/2002 thay cho quyết định 284/2000/QĐ-NHNH1 và gần đây nhất là nghị định 85/2002/NĐ-CP về sửa đổi bổ sung nghị định 178 về bảo đảm tiền vay. Nghị đinh 85 là bước đột phá, cởi bỏ được nhiều tồn tại và nới lỏng nhiều đối với các vấn đề liên quan đến vay vốn như việc định giá tài sản thế chấp, vay, việc vay vốn không có tài sản thế chấp... . Tuy nhiên, hiện nay, vẫn còn nhiều bất cập trong các quy định, cơ chế vận hành và chậm trễ trong việc ban hành văn bản hướng dẫn thi hành các quy định của cơ quan cấp trên. 3.1. Kiến nghị về một số chính sách, văn bản + Theo nghị định 85/NĐ-CP quy định, tài sản hình thành từ vốn vay phải xác định được quyền sở hữu hặc quyền quản lý, sử dụng, xác định được giá trị, số lượng,được phép giao dịch. Tuy nhiên một số loại vật thế chấp rất khó xác định giá trị hoặc phải chụi những rủi ro mang tính khách quankhó lường trước được do đó sản phẩm làm ra giá thấp, không đủ bù đắp chi phí và lãi vay ngân hàng. Kết quả ngân hàng phải gia hạn nợ, miễn giảm lãi khi có sự can thiệp của Chính Phủ. Do vậy Nhà nước cần có những hình thức bảo lãnh tín dụng để các ngân hàng thương mại mạnh dạn giải ngân vốn + Theo công văn số 1219/CV-NHCT hướng dẫn thực hiện bảo đảm tiền vay không cho phép cho vay cầm cố các chứng chỉ tiền gửi, sổ tiết kiệm do các NHTM cổ phần phát hành, đây là một bất hợp lý. Có thể nó chứa dựng một mức rủi ro nhất định nhưng để tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng, NHCT cần quy định một mức vay vốn nhất định hoặc trao quyền cho các Chi nhánh quyết định mức vay vốn. + Cũng theo công văn 1219, đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, yêu cầu doanh nghiệp hàng ngân hàng năm phải được kiểm toán và có xác nhận của tổ chức kiểm toán, quy định này chưa rõ ràng và khắt khe vì nhiều doanh nghiệp nhỏ, mới thành lập, ngay cả đối với doanh nghiệp lớn không thể đáp ứng đủ điều kiện này vì các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nếu được kiểm toánthì cũng chỉ trong năm gần đây nhất. 3.2. Kiến nghị với UBND, ban ngành các cấp Sở nhà đất và sở địa chính cần khẩn trương cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tạo cơ sở pháp lý chặt chẽ cho các giao lưu dân sự nói chung và điều kiện cần thiết cho việc thế chấp tài sản nói riêng. Đề nghị các cơ quan ban ngành, UBND tạo điều kiện hỗ trợ các hoạt động của ngân hàng như trong việc chứng nhận các thủ tục, hợp pháp hoá tài sản thế chấp, hỗ trợ khi kê biên và đấu giá tài sản... + Nâng cao chất lượng hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng. Nâng cao chất lượng phân tích tổng hợp được và phải chủ động phản hồi cho các ngân hàng những vấn đề cần lưu ý đến các doanh nghiệp đã và đang là khách hàng của các ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước cần quy định chặt chẽ kỷ luật cung cấp thông tin tín dụng của các ngân hàng vê trung tâm thông tin tín dụng, áp dụng các chế tài cần thiết để thúc đẩy các ngân hàng quan tâm đầy đủ về nội dung và thời gian cung cấp thông tin tín dụng, chẳng hạn ngân hàng nào chấp hành không tốt có thể nâng cao lãi suất tái cấp vốn, dự trữ bắt buộc. Hoàn thiện cơ chế nghiệp vụ thông tin tín dụng nhằm nâng cao hiệu quả của thông tin tín dụng để cung cấp thông tin phòng ngừa rủi ro, đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng. Thông tin tín dụng phải bao gồm tất cả các thông tin về hoạt động vay vốn của doanh nghiệp. + Củng cố và phát triển hệ thống các thị trường. Trên cơ sở đó, tiếp tục củng cố hoàn thiện những thị trường đã có như thi tườgn huy động itền gửi, thị trường cho vay , thị trường bảo hiểm, thị trường dịch vụ kế toán kiểm toán, thị trường dịch vụ tư vấn thuế, dịch vụ tư vấn đầu tư cho doanh nghiệp, thị trường bất động sản. Bên cạnh đó cần có sự hoàn thiện hơn nữa các chính sách kinh tế như chính sách thuế, chính sách đầu tư ...nhằm tạo điều kiện cho sự phát triển lành mạnh, công bằng giữa các loại hình doanh nghiệp 3.3 Kiến nghị đối với các doanh nghiệp Các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nhgiệp ngoài quốc doanh cần tạo tự lập một khả năng tín chấp của mình khi tiếp cận với các nhà tài trợ và tranh thủ sự hỗ trợ từ các tổ chức của chính phủ. Các tổ chức này cần phát huy vai trò hỗ trợ doanh nghiệp trên các mặt quảng bá sản phẩm, hỗ trợ nâng cao chất lượng sản phẩm, đào tạo nâng cao tay nghề, kiến thức quản trị doanh nghiệp. Đây là những hoạt động rất cần thiết nhằm nâng cao khả năng tín chấp của doanh nghiệp vì chúng tạo nên những nguồn thông tin phản hồi dến các nhà tài trợ Các doanh nghiệp này cũng cần tranh thủ các dịch vụ tư vấn hay sự hỗ trợ từ các chuyên gia để xây dựng các dựa án mang tính thuyết phục cao. Đối với nhà tài trợ, một phương án được coi là khả thi khi hội đủ những điều kiện về khả năng thực hiện hiệu quả như vị trí thuận lợi, theo quy hoạch của Nhà nước, tận dụng nhiều nguồn lực tại chỗ, sản phẩm có khả năng cạnh tranh, thu được nhiều lợi nhuận...Khi lập dự án, có thể nhờ sự trợ giúp của các cán bộ tín dụng, muốn vậy, doanh nghiệp cần thiết lập một mối quan hệ tốt đối với ngân hàng. Ngoài ra, khi tiếp cận với cán bộ tín dụng cần tránh sơ suất có thể làm cho đề nghị vay vốn có thể bị bác bỏ như thiếu sự chuẩn bị chu đáo, thiếu thông tin, cách diễn đạt mơ hồ gây ra sự thiếu tin tưởng. Kết luận Thực hiện đường lối đổi mới nền kinh tế của Đảng và Nhà nước thực chất cũng là để góp phần đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá ở nước ta. Trong những năm qua, toàn hệ thống ngân hàng đã thực hiện chiến lược đổi mới mạnh mẽ các hoạt động của mình như chú trọng hơn đến việc đa dạng hoá dịch vụ, nâng cao chất lượng tín dụng, hiện đại hoá ngân hàng....Những việc này đã góp phần thúc đầy tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh những thành tựu đạt được, vẫn còn những tồn tại gây cản trở đến hoạt động ngân hàng cũng như toàn bộ nề kinh tế như sự mất cân đối trong cơ cấu tín dụng theo thành phần kinh tế, cơ cấu tín dụng theo thời hạn, cơ cấu tín dụng theo tài sản dảm bảo. Hiện nay các nguồn vốn trung dài hạn đang rất cần thiết cho nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói riêng, nguồn vốn này giúp các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường. Trong xu thế hiện nay, việc chuyển dịch cơ cấu tín dụng theo hướng tăng tỷ trọng tín dụng ngoài quốc doanh, tăng tỷ trọng tín dụng dài hạn là rất cần thiết, nó hứa hẹn mang lại cho ngân hàng nguồn lợi lớn, giúp ngân hàng mở rộng được thị phần, tạo điều kiện tăng trưởng tín dụng. Ngân hàng cũng cần phải nới lỏng các điều kiện vay vốn, điều chỉnh cơ cấu tín dụng theo hướng giảm tỷ trọng tài sản có đảm bảo đối với khu vực ngoài quốc doanh, làm được điều này thì mới mở rộng được tín dụng ngoài quốc doanh. Tuy nhiên để thực hiện được điều này, ngân hàng sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Bài viết này trên cơ sở phân tích hoạt động tín dụng của Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Chương Dương để đưa ra những giải pháp tổng thể với hy vọng trong những năm tới, hoạt động tín dụng của Chi nhánh ngày một tăng trưởng và cơ cấu tín dụng hợp lý hơn với điều kiện thực tế và với xu hướng phát triển của nền kinh tế. Mục lục Lời nói đầu 1 Chương I. Những vấn đề cơ bản về điều chỉnh cơ cấu tín dụng của NHTM 3 1. Tín dụng NHTM, phân loại tín dụng 3 1.1. Khái niệm tín dụng, tín dụng NHTM 3 1.2.Đặc trưng của tín dụng NHTM 4 1.3. Vai trò của tín dụng NHTM 5 1.4. Phân loại tín dụng ngân hàng 8 2. Cơ cấu tín dụng của NHTM 12 2.1. Khái niệm cơ cấu tín dụng 12 2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu tín dụng 12 2.2.1. Nguồn vốn huy động 12 2.2.2. Quy định pháp lý 15 2.2.3. Quy mô ngân hàng 16 2.2.4. Đặc điểm nơi thị trường hoạt động 17 2.2.5. Thu nhập dự tính từ các khoản cho vay 18 3. Điều chỉnh cơ cấu tín dụng của NHTM 3.1. Khái niệm điều chỉnh cơ cấu tín dụng. 19 3.2. Mục đích điều chỉnh cơ cấu tín dụng 19 3.2.1. Nhằm phù hợp với cơ cấu nguồn 19 3.2.2. Nhằm nâng cao chất lượng tín dụng 20 3.3. Nội dung điều chỉnh cơ cấu tín dụng 22 Chương II. Thực trạng cơ cấu tín dụng tại Chi nhánh ngân hàng Công Thương Chương Dương 27 1. Khái quát chung về Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Chương Dương 23 1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Chương Dương ơng Dương 23 1.2. Cơ cấu tổ chức của Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Chương Dương 24 1.3 Tình hình hoạt động của Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Chương Dương trong thời gian vừa qua 28 2. Thực trạng cơ cấu tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Chương Dương 34 2.1. Cơ cấu tín dụng theo thành phần kinh tế 34 2.2. Cơ cấu tín dụng theo thời hạn 38 2.3. Cơ cấu tín dụng theo tài sản đảm bảo 42 3. Đánh giá cơ cấu tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Chương Dương 44 3.1. Ưu điểm 44 3.2. Hạn chế 45 3.3 Nguyên nhân của những hạn chế 52 3.3.1. Nguyên nhân bên ngoài 52 3.3.2. Nguyên nhân từ phía ngân hàng 55 Chương III. Giải pháp điều chỉnh cơ cấu tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Chương Dương 57 1. Phương hướng điều chỉnh 57 2. Giải pháp điều chỉnh đối với Chi nhánh 58 2.1. Xây dựng chiến lược marketing hỗn hợp 58 2.2. Nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư, tăng cường công tác giám sát kiểm tra 63 2.3. Xem xét cho vay không có tài sản đảm bảo đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh 66 3. Kiến nghị 66 3.1. Kiền nghị về một số chính sách, văn bản 67 3.2. Kiến nghị với UBND, các ban ngành các cấp 68 3.3. Kiến nghị đối với doanh nghiệp 69 Kết luận 70 Danh mục tài liệu tham khảo 1. Quản trị ngân hàng thương mại. Peter S.Rose. NXB Tài Chính – 2001 2. Giáo trình nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng. TS Tô Ngọc Hưng. NXB Tài Chính – 2000 3. Tín dụng ngân hàng. TS Hồ Diệu. NXB Thống Kê - 2000 4. Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính. Frederic S.Mishkin. NXB Khoa học và kỹ thuật – 1999 5. Từ điển kinh tế thị trường 6. Luật các tổ chức tín dụng. NHNN Việt Nam. NXB Chính trị quốc gia – 1998 7. Tạp chí ngân hàng, tạp chí thị trường tài chính, tạp chí thông tin tài chính... 8. Các báo cáo kết quả kinh doanh, bảng tổng kết tài sản ...của Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Chương Dương 9. Các văn bản khác có liên quan. Danh mục chữ viết tắt NT : Ngoại tệ NHTM : Ngân hàng thương mại NHNN : Ngân hàng Nhà nước NHCT : Ngân hàng Công Thương NQH : Nợ quá hạn KĐ : Khó đòi DN : Doanh nghiệp KV : Khu vực NQD : Ngoài quốc doanh NN : Nhà nước CT : Công ty TNHH : Trách nhiệm hữu hạn TSĐB : Tài sản đảm bảo KTNN : Kinh tế Nhà nước DS : Doanh số TPKT : Thành phần kinh tế HĐKDDN: Hoạt động kinh doanh đối ngoại CL : Chênh lệch KH : Kì hạn UBNN : Uỷ ban nhân dân

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0246.doc
Tài liệu liên quan