Đề tài Giải pháp giải quyết việc làm ở Thái Bình đến 2005

Tỉ lệ tham gia lực lượng lao động là số phần trăm của dân số trong độ tuổi lao động tham gia lực lượng lao động trong tổng số nguồn nhân lực. Nhân tố cơ bản tác động đến tỷ lệ tham gia lao động là bộ phận dân số trong lao động không có nhu cầu làm việc vì đang đi học, hoặc ở trong tình trạng khác. Tỉ lệ tham gia lực lượng lao động thường được sử dụng để ước tính quy mô của dự trữ lao động trong nền kinh tế và có vai trò quan trọng trong thống kê thất nghiệp. * Thất nghiệp và tỷ lệ thất nghiệp: Thất nghiệp gồm những người không có việc làm nhưng đang tích cực tìm việc làm. Số người không có việc làm sẽ ảnh hưởng đến số người làm việc và ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của nền kinh tế. Thất nghiệp là vấn đề trung tâm của mọi quốc gia vì nó không chỉ tác động về kinh tế mà còn tác động cả về khía cạnh xã hội. Theo cách tính thông thường, tỉ lệ thất nghiệp bằng tỉ lệ phần trăm giữa tổng số người thất nghiệp so với tổng số nguồn nhân lực. Nhưng đối với các nước đang phát triển tỉ lệ thất nghiệp này chưa phản ánh đúng sự thực về nguồn lao động chưa sử dụng hết. Trong thống kê ở các nước đang phát triển, số người nghèo thường chiếm tỉ lệ rất nhỏ và khi họ thất nghiệp thì họ cố gắng không để thời gian đó kéo dài. Bởi vì họ không có các nguồn lực dự trữ, họ phải nhận mọi việc nếu có. Do đó, ở các nước đang phát triển để biểu hiện tình trạng chưa sử dụng hết lao động người ta dùng khái niệm thất nghiệp hữu hình và thất nghiệp trá hình, thất nghiệp trá hình bao gồm bán thất nghiệp và thất nghiệp vô hình. Người ta cho rằng thất nghiệp trá hình là biểu hiện chính của tình trạng chưa sử dụng hết lao động ở các nước đang phát triển. Họ là những người có việc làm trong khu vực nông thôn hoặc thành thị không chính thức nhưng làm việc với năng suất thấp, họ đóng góp rất ít hoặc không đáng kể vào phát triển sản xuất, vấn đề khó khăn là không đánh giá chính xác nguồn lao động chưa sử dụng hết dưới hình thức bán thất nghiệp hoặc thất nghiệp vô hình.

doc77 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1206 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp giải quyết việc làm ở Thái Bình đến 2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đến giải quyết việc làm Thái Bình trong 2 năm 2001-2002. 3.2.1- Kinh tế của tỉnh phát triển tạo mở nhiều việc làm. Trong hai năm 2001 – 2002, do tiếp tục thực hiện 5 chương trình kinh tế trọng điểm, nhất là tập trung thực hiện 5 trọng tâm tạo bước đột phá tăng trưởng kinh tế do đại hội Đảng bộ lần thưc 16 đề ra, kinh tế tỉnh Thái Bình đã đạt những tiến bộ sau: * Sản xuất nông nghiệp tuy có gặp khó khăn về thời tiết xấu, sâu bệnh và chưa chuyển dịch mạnh cơ cấu cây trồng, vật nuôi, chưa chuyển mạnh sang sản xuất hàng hoá, nhưng vẫn giành được thắng lợi tương đối toàn diện, GDP trong nông nghiệp năm 2001 tăng 2,68%, năm 2002 tăng 5,5%. + Năng xuất lúa đạt 114.81tạ/ha/năm. Sản lượng lương thực quy ra thóc 1.013 ngàn tấn. Các biện pháp thâm canh, luân canh, tăng vụ được đẩy mạnh, trồng cây vụ đông được mở rộng, nâng hệ số sử dụng đát lên 2,3 vòng. + Tính đến ngày 01/10/2001 tổng đàn trâu bò đạt 69.360 con, tăng 1,24% tổng đàn lợn đạt 776.000 con tăng 12,33%, sản lượng thịt hơi xuất chuồng đạt 57.000 tấn tăng 3,8%, sản lượng thịt gia cầm đạt 8.744 tấn tăng 6,68%. + Sản lượng thuỷ hải sản khai thác đạt 22.600 tấn trong đó có 14.184 tấn cá tăng 11,82%. Sản lượng thuỷ hải sản nuôi trồng đạt 20.480 tấn, trong đó có 1.005 tấn tôm tăng 6,8%, 11.797 tấn cá tăng 10,3%. Phong trào nuôi tôm sú đang phát triển mạnh ở huyện Tiền Hải, Thái Thụy. Kết quả sản xuất nông nghiệp 2001 đã có bước phát triển tạo việc làm mới cho 8.000 người và 80.000 có thêm việc làm. * Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp có bước phát triển, giá trị sản xuất năm 2001 tăng 14,02%, giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đạt 1627 tỷ đồng và giá trị sản xuất này năm 2002 tăng 17,16% đạt 1906 tỷ đồng. + Nhiều doanh nghiệp đưa công nghệ tiên tiến vào sản xuất như dây truyền sản xuất gạch Granit của công ty xây dựng miền trung, công ty trách nhiệm hữu hạn Ivory, công ty may Lan Lan, nhiều doanh nghiệp đạt kết quả cao trong sản xuất và thu hút nhiều lao động như công ty sứ Thái Bình, công ty gạch ốp lát, Xí nghiệp May Bình minh, công ty cổ phần vật liệu xây dựng, dệt Hồng Quân, bia hương sen. + Nhiều sản phẩm có chất lượng, bước đầu có sức cạnh tranh trên thị trường, sản lượng tăng mạnh so với năm trước; Sản xuất phụ tùng và nắp ráp xe máy tăng 11 lần, gạch men sứ tăng 5 lần, gạch ốp lát tăng 1,8 lần, chế biến thuỷ hải sản tăng 1,5 lần. + Trong năm 2001 đã phát triển thêm 24 làng nghề, đưa tổng số làng nghề trong tỉnh lên 95 làng nghề; toàn tỉnh có 159 xã có nghề, kết quả sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp có bước phát triển khá cao cả ở nông thôn và thị xã, tạo việc làm mới cho 5.500 lao động và 38.500 lao động có thêm việc làm. + Các ngành dịch vụ và thương mại đều mở rộng, hướng vào nông thôn, nông nghiệp, dịch vụ sản xuất nông nghiệp phát triển rất đa dạng, dịch vụ phục vụ đời sống cả nông thôn và thành thị phong phú đã tạo việc làm mới cho gần 4.000 người và 21.000 người có thêm việc làm. 3.2.2- Thực hiện có hiệu quả chương trình dân số kế hoạch hoá gia đình, tăng cường khuyến khích di dân và xuất khẩu lao động. Công tác dân số kế hoạch hoá gia đình được các cấp, các ngành quan tâm chỉ đạo chặt chẽ, kết quả dân số trung bình năm 2001 của tỉnh tăng 0.07%, số trẻ em sinh trong năm giảm 0,04% so với năm 2000. Công tác di dân xây dựng các vùng kinh tế mới tiếp tục gặp khó khăn về địa bàn, cung ứng lao động cho các doanh nghiệp ngoài tỉnh, xuất khẩu lao động còn hạn chế do người lao động không có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, dạy nghề. Tuy nhiên với sự nỗ lực phấn đấu công tác xuất khẩu lao động bước đầu đã có nhiều khởi sắc. Xã hội hoá xuất khẩu lao động ngày càng mở rộng, nhận thức của các cấp uỷ, chính quyền được nâng lên, công tác quản lý nhà nước đi dần vào lề nếp. Chính quyền nhiều nơi đứng ra bảo lãnh hoặc tín chấp vay vốn ngân hàng để người lao động đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp xuất khẩu lao động. Số lượng các doanh nghiệp xuất khẩu lao động, về tuyển dụng ngày càng tăng tính đến 1/11/2002 trên địa bàn có 13 doanh nghiệp về tuyển dụng lao động. Số người lao động đã và đang đăng ký lao động ngày càng tăng. + Năm 2001 có 562 người được xuất cảnh + 9 tháng đầu năm 2002 đưa đi được 1.034 người. + Ước tỉnh đến hết 11/2002 sẽ đi được 2.897 người Thị trường xuất khẩu lao động được mở rộng: Đài Loan; ả rập; Hàn quốc nhất là Malayxia và những thị trường trước đấy như: Libi, Co oét, Nhật bản do nhiều doanh nghiệp đang triển khai thực hiện. Tỉnh uỷ đã ban hành chỉ thị tăng cường công tác xuất khẩu lao động và UBND tỉnh thành lập ban chỉ đạo chương trình xuất khẩu lao động của tỉnh thể hiện quyết tâm đưa công tác xuất khẩu lao động có hiệu quả hơn. 3.2.3- Chú trọng công tác đào tạo để tăng cơ hội tiếp cận việc làm cho lao động đặc biệt lao động trẻ và lao động khu vực nông thôn. Năm 2000, 2001 UBND tỉnh đầu tư 4,4 tỷ đống vốn chương trình mục tiêu dạy nghề để thực hiện quy hoạch mạng lưới dạy nghề. Đảm bảo kinh phí hoạt động thường xuyên cho các thị trường và trung tâm dạy nghề, trung tâm kỹ thuật tổng hợp hướng nghiệp dạy nghề. Hỗ trợ kinh phí dạy nghề từ quỹ khuyến nông, khuyễn công nên đã góp phần thực hiện được mục tiêu dạy nghề. Dạy nghề có bước phát triển mạnh mẽ về quy mô và số lượng tuy nhiên chất lượng còn nhiều hạn chế năng lực của các cơ sở dạy nghề còn yếu. 3.2.4- Tăng cường các giải pháp hỗ trợ trực tiếp tạo việc làm và chính sách khuyến khích để thực hiện các giải pháp giải quyết việc làm. Chương trình cho vay vốn từ quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm phát huy hiệu lực rõ rệt. Năm 2001 cho vay 589 dự án với số tiền là 11.500 triệu đồng, giải quyết việc làm mới cho 4.787 người, 2593 người có thêm việc làm. Các tổ chức tín dụng cho vay 1.583 tỷ đồng tăng 28,6% so với năm 2000 đáp ứng nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp, hộ gia đình mở rộng sản xuất kinh doanh. Quỹ hỗ trợ việc làm của tỉnh chưa được lập lên chưa tạo điều kiện, tiền đề hỗ trợ thúc đẩy các địa phương, các ngành, các doanh nghiệp và cá nhân tại chỗ việc làm, cung ứng lao động và dạy nghề. Cơ chế chính sách của tỉnh khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài tỉnh đầu tư vào sản xuất kinh doanh còn chậm. Cơ chế chính sách khuyến khích, hỗ trợ tìm thị trường, ký hợp đồng và cung ứng lao động cho các khu công nghiệp ở tỉnh ngoài, nước ngoài hoặc du nhập nghề mới về tỉnh chưa được xúc tiến xây dựng cụ thể. Phần III Giải pháp giải quyết việc làm ở Thái Bình đến năm 2005 Mục tiêu việc làm của tỉnh 2003-2005. Năm 2001, 2002 hai năm đầu triển khai thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của tỉnh 2001-2005 đã đạt được thắng lợi khá toàn diện và có bước phát triển trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là kết quả thắng lợi bước đầu của công tác chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi, thu hút đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng các khu công nghiệp của tỉnh, các cơ sở vật chất khác trong thời gian qua được đầu tư xây dựng đã tạo đà phát triển trong những năm tới. Nhìn lại 2 năm, qua các chỉ tiêu tăng trưởng GDP cho thấy năm 2001 đạt thấp 5.75% (kế hoạch 7%), năm 2002 đạt khá hơn 7.5% (kế hoạch 7%). Để đạt được mục tiêu kế hoạch 5 năm, nhiệm vụ dồn lại 3 năm tới phải tăng trưởng ít nhất 7.3% trở lên/năm. Năm 2001, 2002 cũng là 2 năm đầu thực hiện chương trình việc làm của tỉnh 2001-2005. Những kết quả về sự đổi mới và phát triển kinh tế đã làm tiền đề tất yếu cho việc triển khai thực hiện thành công chương trình việc làm, qua 2 năm đầu thực hiện mỗi năm trung bình đã giải quyết việc làm mới cho khoảng 18000 người đạt 90% so với chỉ tiêu kế hoạch hàng năm đề ra và thực hiện được 36% mục tiêu kế hoạch 2001-2005. Giảm tỉ lệ thất nghiệp mỗi năm trung bình 0.69%, thực hiện được 36% so với mục tiêu kế hoạch thời kì 2001 – 2002. Tăng quỹ thời gian lao động ở nông thôn từ 73.54% (2000) lên 76.27% (2002), bình quân mỗi năm tăng 1.365%, thực hiện được 60% mục tiêu kế hoạch 2001 – 2002. Tỉ lệ lao động qua đào tạo tăng từ 21% (2000) lên 24% (2002) trong khi kế hoạch đề ra là 25 –30% vào năm 2005. Như vậy, với sự lỗ của các cấp ủy đảng, qua 2 năm đầu triển khai thực hiện chương trình việc làm 2001 – 2002, hầu hết các chỉ tiêu việc làm đều đạt và vượt mục tiêu kế hoạch hàng năm đặt ra. Kết quả này sẽ là bản lề để thực hiện thành công các mục tiêu việc làm những năm tiếp theo và thực hiện đúng tiến độ chương trình việc làm 2001 – 2005 của tỉnh. Để đạt được mục tiêu kế hoạch đặt ra, những năm tiếp theo phải tập trung tăng cường đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trong đó chú ý đến nguồn nhân lực cho các khu công nghiệp. Quy hoạch và củng cố chấn chỉnh các cơ sở đào tạo nghề, có chính sách thu hút nguồn nhân lực và các chuyên gia giỏi, công nhân kĩ thuật bậc cao cho phát triển kinh tế của tỉnh. Mục tiêu giải quyết việc làm 2003- 2005: Mỗi năm bình quân giải quyết việc làm mới cho khoảng 22 000 lao động. Giảm tỉ lệ thất nghiệp ở thị xã, thị trấn từ 6,14% năm 2002 xuống còn 4% năm 2005. Nâng tỉ lệ sử dụng quỹ thời gian lao động ở nông thôn từ 76,27% (2002) lên 78% (2005). Nâng tỉ lệ lao động qua đào tạo từ 24% năm 2002 lên 25-30% vào năm 2005. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng giảm lao động ở khu vực nông nghiệp, tăng tỉ trọng lao động ở công nghiệp - xây dựng và dịch vụ, phấn đấu đến năm 2005 tỉ lệ này tương ứng đạt: 67,3%-22,2%-10,5%. Trong những năm tới giải quyết việc làm ở tỉnh tập trung vào một số hướng: + Tiếp tục tạo mở việc làm và sử dụng có hiệu quả lao động trong nông nghiệp thông qua việc tiếp tục triển khai các chương trình phát triển nông nghiệp như chương trình sản xuất nấm xuất khẩu, chương trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, chương trình kinh tế biển. + Tập trung khôi phục và phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, các ngành công nghiệp địa phương, ngành nghề truyền thống có khả năng thu hút nhiều lao động tại chỗ cũng như lao động mùa vụ bằng các hình thức khuyến khích, hỗ trợ kinh phí đào tạo và tìm kiếm thị trường đầu ra. + Đặc biệt tập trung hoàn thành xây dựng cơ sở hạ tầng và cấp phép hoạt động cho các khu công nghiệp mới được hoàn thành ở tỉnh. Đối với các khu công nghiệp thị xã khi đi vào hoạt động sẽ thu hút một số lượng lao động rất lớn vì vậy vấn đề đặt ra trong thời gian tới là làm như thế nào để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt như nhà ở, điện nước cho người lao động đối với một thị xã nhỏ với mật độ dân số cao như Thái Bình. + Tiếp tục triển khai thực hiện các chương trình dân số, di dân và xuất khẩu lao động. Những thuận lợi và khó khăn trong giải quyết việc làm 2003-2005. 1. Những thuận lợi cơ bản. Năm 2002 đã đạt được những thắng lợi khá toàn diện và có bước phát triển trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là kết quả thắng lợi bước đầu của công tác chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi trong nông nghiệp, thu hút đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng các khu công nghiệp của tỉnh, các cơ sở vật chất khác trong thời gian qua được đầu tư xây dựng đã tạo đà phát triển mới trong những năm kế hoạch tới. Trong hai năm 2001 - 2002 hầu hết đã có các Nghị quyết, các chính sách của Trung ương và của tỉnh được ban hành đã cụ thể hoá 5 trọng tâm đột phá phát triển kinh tế và các chương trình phát triển văn hoá xã hội của tỉnh, giúp cho việc định hướng và chỉ đạo điều hành của các cấp, các nghành sát thực hơn. Năng lực và kinh nghiệm chỉ đạo của các cấp, các ngành và cơ sở đã được nâng lên một bước. Qua 2 năm triển khai thực hiện chương trình việc làm tuy còn nhiều khó khăn nhưng đã đạt được nhiều kết quả khả quan, tạo tiền đề và nền móng cho việc thực hiện thắng lợi mục tiêu kế hoạch trong những năm tới. Dự báo kinh tế thế giới và khu vực có dấu hiệu phục hồi và tăng trưởng. Nước ta nói chung và tình hình chính trị và trật tự an ninh trong tỉnh nói riêng có sự ổn định cao, năm 2002 mức tăng trưởng GDP của nước ta là 7%, kế hoạch năm 2003 mức phấn đấu là 7,5%. Đó là dấu hiệu yêu cầu tăng trưởng cao và bền vững đối với địa phương. 2. Những khó khăn cơ bản: Khó khăn cơ bản của tỉnh vẫn là một tỉnh thuần nông, kinh tế kém phát triển, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, hiệu quả kinh tế chưa cao. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn ngân sách tập trung của nhà nước chủ yếu dựa vào hỗ trợ của Trung ương và năm 2003 nguồn này tăng thấp do cân đối chung của cả nước. Trong khi đó yêu cầu vốn cấp thiết cho đầu tư phát triển và phúc lợi xã hội của tỉnh lại rất lớn. Việc chuyển dịch cơ cấu sản xuất trong từng ngành, lĩnh vực, địa phương chuyển biến chậm, quy mô sản xuất nhỏ, phân tán, chất lượng hàng hoá thấp, chi phí sản xuất còn cao, tính hiệu quả và sức cạnh tranh từ sản phẩm còn kém, sức ép về việc làm ngày càng tăng, công cuộc cải cách hành chính tiến hành ngày càng chậm, tệ nạn xã hội còn nghiêm trọng. III. Các giải pháp và chính sách cơ bản về giải quyết việc làm của tỉnh: 1. Nhóm giải pháp nhằm tiếp tục thực hiện các chương trình phát triển kinh tế của tỉnh. Tăng cường đầu tư phát triển kinh tế xã hội, tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế phát triển ở các ngành kinh tế theo quy hoạch và kế hoạch đã được phê duyệt là giải pháp quyết định tạo việc làm cho người lao động ổn định, việc làm và tăng thêm việc làm. 1.1 Thực hiện tốt, có hiệu quả các chương trình nông nghiệp, nông thôn: Thái Bình là một tỉnh đồng bằng thuộc Châu thổ sông Hồng có nền sản xuất nông nghiệp tồn tại từ rất lâu, cho đến nay vẫn là hoạt động sản xuất kinh tế chính của tỉnh. Với dân số và nguồn lao động tập trung chủ yếu ở khu vực nông thôn, hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp công với diện tích đất canh tác thấp và có xu hướng ngày càng giảm thì việc phát triển nông nghiệp nông thôn có ý nghĩa đặc biệt và là hướng đi chủ yếu để giải quyết việc làm cho người lao động trong thời gian tới. Việc phát triển nông nghiệp qua các hình thức thâm canh tăng vụ chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi Một mặt sẽ tạo việc làm thu hút lao động tại chỗ mặt khác sẽ góp phần nâng cao năng suất lao động nâng tỉ lệ thời gian sử dụng lao động vốn đã thấp như hiện nay đồng thời góp phần giải phóng lao động ra khỏi lĩnh vực nông nghiệp sang hoạt động ở lĩnh vực phi nông nghiệp. Để thực hiện các chương trình phát triển nông nghiệp nông thôn cần tập trung vào các nội dung sau: Một là:Tiếp tục đẩy mạnh việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá, đạt hiệu quả kinh tế cao: Phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng sản xuất hàng hoá và hiệu quả cao, gắn phát triển nông nghiệp với công nghiệp chế biến, gắn sản xuất với thị trường tiêu thụ, hình thành sự liên kết nông - công nghiệp dịch vụ và thị trường ngay trên địa bàn nông thôn. Tập trung ứng dụng tốt hơn khoa học công nghệ và sản xuất, đẩy mạnh thâm canh chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp và nông thôn tạo nhiều sản phẩm hàng hoá chất lượng cao có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước, khu vực và quốc tế. Hai là: Mở rộng thị trường nông thôn, coi đây vừa là mục tiêu nâng cao mức sống các tầng lớp dân cư, vừa là động lực tạo sự phát triển năng động của nền kinh tế (Cả công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ) khuyến khích nông dân làm giàu thông qua việc khai thác sử dụng đất đai, chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi có hiệu quả kinh tế, tạo điều kiện ưu đãi, khuyến khích các doanh nghiệp, các nhà đầu tư đưa công nghiệp sơ chế và chế biến nông lâm thuỷ sản về nông thôn, phát triển mạnh ngành nghề dịch vụ ở nông thôn tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho dân, đẩy mạnh tiêu thụ sản xuất hàng hoá để phát triển nông nghiệp. Ba là: Phát triển thi trường lao động, giải quyết việc làm cho lao động dư thừa ở nông thôn theo các hướng mở mang công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp - nghề phụ tại chỗ. Phát triển mạnh hệ thống đào tạo nghề phù hợp với yêu cầu của thị trường, gắn với đầu tư thúc đẩy của dân và chuẩn bị đội ngũ công nhân kỹ thuật cho quá trình hiện đại hoá nông nghiệp. Bốn là: Tập trung ưu tiên vốn cho phát triển hạ tầng nông nghiệp: Thực hiện kiên cố hoá kênh mương và xây dựng cơ sở sản xuất chế biến nông sản thực phẩm cho tiêu dùng xuất khẩu. Tiếp tục đầu tư cải tạo hệ thống giống cây và con, quy hoạch và xây dựng các vùng sản xuất chuyên canh, nâng cao năng lực sản xuất chế biến hàng hoá xuất khẩu có chất lượng cao. Tiếp tục đầu tư khai thác, nuôi trồng và chế biến thuỷ hải sản tạo điều kiện phát triển kinh tế biển. Không ngừng nâng cao năng xuất lao động nông nghiệp, phấn đấu mức năng xuất lao động đạt mức tăng bình quân hàng năm cho cả thời kỳ đến năm 2010 khoảng 3,8%. Giải phòng một phần lực lượng lao động ra khỏi khu vực sản xuất nông nghiệp và tạo điều kiện cho công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn: Mỗi năm trong nông nghiệp tạo việc làm mới cho khoảng 8.000 lao động và 70.000 lao động khác có việc làm đầy đủ hơn, tập trung vào một số giải pháp chính sau: - Đẩy mạnh biện pháp thâm canh tăng vụ đưa sản xuất vụ đông trở thành vụ sản xuất chính ở tất cả các huyện thị, 30% diện tích đất canh tác được sử dụng vào sản xuất vụ đông, đảm bảo nâng hệ số sử dụng đất nông nghiệp từ 2,28% vòng/năm hiện nay lên 2,4 vòng/năm vào năm 2005. - Triển khai thực hiện có hiệu quả chương trình sản xuất nấm xuất khẩu theo đề án của Sở khoa học công nghệ và môi trường đã được phê duyệt, phấn đấu đến năm 2005 bình quân mỗi năm sản xuất 24700 tấn, tạo việc làm cho khoảng 12.000 lao động. Để đạt được mục tiêu trên trong năm tới phải chỉ đạo xây dựng các mô hình sản xuất nấm tập trung theo hướng gia trại, trang trại, mỗi xã có từ 2-3 gia trại, trang trại, mỗi gia trại, trang trại có số lượng từ 15-20 tấn/năm với tổng số vốn đầu tư cho mỗi trang trại khoảng 20 triệu đồng bằng nguồn vốn vay từ ngân hàng, vay vốn quỹ quốc gia và các nguồn khác. Những năm tiếp theo sẽ nhân diện rộng đến tất cả các xã trong tỉnh. Thông qua công ty sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu nông sản thuộc sở khoa học công nghệ và môi trường để bao tiêu sản phẩm, đào tạo dạy nghề cho các chủ trang trại. - Đẩy mạnh thực hiện có hiệu quả chương trình sản xuất lúa gạo hàng hoá xuất khẩu. Giữ vững 160.000 ha đất canh tác để cấy lúa, đưa năng xuất lúa lên bình quân 65 tạ/ha 1 vụ, trong đó có 30-40 vạn tấn thóc hàng hoá, hình thành vùng sản xuất lúa chuyên canh có chất lượng cao ở Hưng Hà, Đông Hưng, Quỳnh Phụ. Ưu tiên giống lúa có năng xuất cao và dành khoảng 7-8% diện tích lúa mùa để trồng lúa đặc sản (Tám thơm, nếp ở Tiền Hải, nam Kiến Xương) và 30-40% diện tích lúa chất lượng cao để phục vụ xuất khẩu và nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao. Đầu tư hoàn chỉnh và đưa vào sử dụng nhà máy chế biến gạo xuất khẩu cầu Nguyễn. Phát triển chăn nuôi toàn diện, lấy chăn nuôi lợn là trọng tâm, thay đổi cơ cấu đàn, chú trọng vật nuôi có thị trường tiêu thụ và giá trị kinh tế cao. Chủ động về giống để tăng nhanh đàn lợn hướng nạc, bò laisind, tăng nhanh đàn gà công nghiệp, ngan pháp, vịt siêu trứng và các con đặc sản khác. Phấn đấu đến năm 2005: Đàn lợn: 770.000 con tăng 22%/năm sản lượng thịt xuất chuồng 67.000 - 70.000 tăng 3,4%/ năm. Đàn bò: 66.000 con tăng 2,8%, sản lượng thịt tăng 4,6 %/năm Hình thành một số vùng nuôi lợn theo mô hình chăn nuôi công nghiệp. Khuyến khích phát triển các trang trại chăn nuôi. Xây dựng trang trại giống lợi ngoại PIC của Anh với quy mô 150 con lợn thế hệ ông bà và 500 con lợn bố mẹ. Phấn đấu hạ giá thành để tăng khả năng cạnh tranh, xuất khẩu. Tập trung phát triển đàn gia cầm và các con đặc sản để cung cấp cho công nghiệp chế biến. - Thực hiện chủ trưởng kiên cố hoá kênh mương phục vụ sản xuất nông nghiệp. Mỗi năm đầu tư trên dưới 30 tỷ đồng sẽ tạo thêm việc làm cho khoảng 4.500 lao động. - Về kinh tế biển: Đẩy mạnh phát triển kinh tế biển, sớm đưa kinh tế biển trở thành ngành kinh tế có vị trí quan trọng ở tỉnh ta: Bao gồm cả nuôi trồng đánh bắt, chế biến, vận tải dịch vụ và du lịch. Những năm đầu tập trung vào nuôi trồng thuỷ sản. Khuyến khích các thành phấn kinh tế, kể cả hợp tác đầu tư nước ngoài vào phát triển kinh tế biển. - Coi trọng kêu gọi hợp tác đầu tư liên doanh liên kết với các nhà đầu tư nước ngoài để nuôi trồng thuỷ sản, hải sản kể cả đầm mặn, lợ và ao hồ nội đồng. - Sử dụng có hiệu quả trên 3.000 ha đầm vùng triều ngậm mặn và mở rộng thêm 1000 ha nuôi trồng theo yêu cầu của thị trường trên cơ sở nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh tế gắn với bảo vệ môi trường sinh thái. Tập trung nguồn lực thực hiện có hiệu quả dự án khoanh vùng nuôi trồng trên 4.000 ha thuỷ sản, trong đó thực hiện xây dựng hệ thống thuỷ lợi vùng đầm ở các xã Thụy Trường, Thụy Hải, Thái Đô (Thái Thụy) và ở Nam Thịnh Đông Cơ Tiền Hải. Thực hiện thí điểm dự án nuôi tôm công nghiệp ở xã Thụy Hải (Thái Thụy) để rút kinh nghiệm nhân diện rộng. Có cơ chế khuyến khích để phát triển nhanh các chủ đầm nuôi trồng hải sản và cơ sở sản xuất tôm giống có chất lượng cao. - Đẩy mạnh việc thực hiện có hiệu quả chương trình trồng 5 triệu ha rừng, tiếp tục trồng mới bảo vệ rừng phòng hộ ven biển thuộc 2 huyện Tiền Hải và Thái Thụy tạo việc làm cho ngư dân địa phương. Đến năm 2005 đạt khoảng 11.000 - 12.000 ha rừng phòng hộ ven biển. Đẩy mạnh trồng cây phân tán phục vụ các mục đích kinh tế nhất là việc hình thành các vành đai cây xanh ở đô thị. 1.2 Phát triển công nghiệp và xây dựng: Công nghiệp phát triển là một nhu cầu thiết yếu đối với tỉnh Thái Bình- một vùng thuần nông là chính. Là một vùng sản xuất nông nghiệp chiếm tỉ trọng lớn cho nên lực lượng lao động chủ yếu là nông dân làm nông nghiệp. Như vậy phát triển công nghiệp phải phù hợp với đặc điểm kinh tế của vùng như phát triển các làng nghề truyền thống, ngành nghề khai thác tiềm năng của vùng, hình thành các khu công nghiệp Nhờ phát triển công nghiệp theo hướng như vậy sẽ thu hút một lực lượng lao động do dư thừa và lao động thời vụ. Do đó đã giải quyết một phần việc làm cho người dân, tạo thu nhập mới và thêm cho họ. Đồng thời phát triển công nghiệp sẽ thu hút lao động có tay nghề cao, có năng lực chuyên môn. Tạo công ăn việc làm cho những người có tay nghề để họ làm đúng chuyên môn ngành nghề của mình mà trước đây chưa được sử dụng, khuyến khích tinh thần hăng say yêu thích công việc của họ, tạo thu nhập cao hơn. Nhìn chung giải pháp phát triển công nghiệp là một giải pháp quan trọng góp phần lớn vào giải quyết việc làm cho người dân trong tỉnh, nâng cao thu nhập và cuộc sống của họ. Phát triển công nghiệp là một trong những trọng tâm tạo bước đột phá trong phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Phát triển công nghiệp chủ yếu theo hai hướng: + Công nghiệp địa phương với các nghành nghề truyền thống, các nghành nghề nhằm khai thác phát triển tiềm năng của mỗi địa phương, thu hút lao động dư thừa và lao động mùa vụ trong nông nghiệp góp phần nâng cao đời sống người dân. + Hình thành phát triển các khu công nghiệp tập trung thu hút lao động có kỹ năng, tay nghề được đào tạo và chuyển dịch từ lĩnh vực nông nghiệp. Mục tiêu phát triển chủ yếu: Khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ đồng thời tạo mọi điều kiện thuận lợi kêu gọi sự hợp tác, đầu tư với bên ngoài. Chú trọng nhóm nghành công nghiệp có lợi thế phát triển: Có lợi nhuận cao, có khả năng thu hồi vốn nhanh, công nghiệp sử dụng nguyên liệu tại chỗ, công nghiệp phục vụ nông nghiệp, công nghiệp sử dụng nhiều lao động, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và xuất khẩu, công nghiệp chế biến nông hải sản. Tập trung ưu tiên đổi mới công nghệ, đổi mới thiết bị hiện đại hoá các ngành công nghiệp để khai thác năng lực sẵn có nhằm tăng quy mô sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành có khả năng cạnh trang trên thị trường trong nước và xuất khẩu. Nhanh chóng hoàn thành các cụm công nghiệp Tiền Hải, Thị Xã, Diêm Điền hình thành những trung tâm công nghiệp của tỉnh, làm nòng cốt cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH - HĐH. Coi trọng phát triển các nghành nghề, làng nghề truyền thống, chủ động tìm tòi phát triển các ngành nghề mới giải quyết việc làm tại chỗ, giảm đến mức thấp nhất số hộ thuần nông, tăng thu nhập người lao động, góp phần từng bước đô thị hoá nông thôn. Đa dạng hoá các loại hình sản xuất công nghiệp với quy mô phù hợp với trình độ quản lý mang lại hiệu quả cao và linh hoạt trong cơ chế thị trường, khẩn trương thực hiện sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước theo Nghị định 103/CP. Đẩy nhanh quá trình đổi mới về cơ sở vật chất kỹ thuật và công tác quản lý trong công nghiệp. Tạo tiềm lực mới cho công nghiệp của tỉnh có điều kiện hội nhập khu vực và quốc tế. Sản xuất công nghiệp phải hướng vào tiềm năng, thế mạnh của tỉnh về nguyên liệu, nhiên liệu và lao động. Tranh thủ hợp tác liên doanh với công nghiệp Trung ương và nước ngoài để thu hút khoa học kỹ thuật công nghệ cao. Mở rộng thị trường Quốc tế, khai thác triệt để mọi thành phần kinh tế trên các lĩnh vực. Phấn đấu đến năm 2005 giá trị sản lượng công nghiệp tăng bình quân 13%/ năm, tạo việc làm mới bình quân cho khoảng 4.000 lao động và tạo thêm việc làm cho khoảng 80.000 lao động mỗi năm. Tập trung vào 1 số giải pháp sau: Một là:Thực hiện có hiệu quả chương trình phát triển làng nghề, xã nghề, bằng cơ chế chính sách hợp lý như hỗ trợ về vốn, quy hoạch vùng nguyên liệu, tìm kiếm thị trường đào tạo dạy nghề, du nhập nghề mới.. nhằm tạo môi trường thuận lợi cho các làng nghề sẵn có của tỉnh như: Thêu Minh Lãng - Vũ Thư, dệt chiếu, dệt vải ở Hưng Hà, cơ khí ở Đông Xá Đông Hưng, dệt đũi ở Nam Cao, trạm bạc Đồng Sâm, mây tre đan Kiến Xương... ngày càng phát triển mở rộng. Phấn đấu phát triển từ 82 làng nghề hiện nay lên 120 làng nghề vào năm 2005, mỗi năm sẽ giải quyết việc làm mới cho khoảng 800 lao động và có thêm việc làm cho khoảng 15.000 lao động. Tiếp tục tổ chức chỉ đạo xây dựng mô hình xã công nghiệp theo đề án của Sở nông nghiệp được Uỷ ban nhân dân tỉnh phê duyệt, cụ thể là: + Nghề may mặc ở hai hợp tác xã Đại đồng, hợp tác xã Bình dân ở xã Đông Sơn Đông Hưng với tổng vốn đầu tư 2 tỷ đồng sẽ thu hút trên 850 lao động. + Nghề dệt ở xã Thái Phương Hưng Hà với 2 dự án của Xí nghiệp dệt Minh Ngọc và công ty dệt Thành Công với tổng vốn đầu tư 2 tỷ đồng sẽ thu hút 250 lao động mới vào làm việc. + Nghề dệt đũi ở Nam Cao Kiến Xương với 2 dự án của xí nghiệp dệt Thành Công và xí nghiệp dệt Đại Hoà. Tổng mức vốn đầu tư 7 tỷ đồng sẽ thu hút 537 lao động. + Mở rộng phát triển nghề thêu ở xã Minh Lãng Vũ Thư thông qua dự án của xí nghiệp thêu Mỹ Long với tổng vốn đầu tư 3 tỷ đồng tạo thêm việc làm cho khoảng 600 lao động. Tất cả các nguồn đầu tư cho các dự án trên được hình thành từ nguồn vốn vay ngân hàng, vốn vay từ quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm và của cơ sở tự có. Riêng đào tạo nghề tỉnh sẽ hỗ trợ một phần kinh phí. Hai là: Tập trung mọi nguồn lực để phát triển các khu công nghiệp tập trung đã được quy hoạch. Khu công nghiệp ở Thị Xã với các nhóm ngành giầy da, may mặc, cơ khí điện tử, chế biến nông sản thực phẩm giải quyết được khoảng trên dưới 15.000 việc làm mới cho người lao động. Khu công nghiệp Tiền Hải gồm các nhóm ngành sản xuất điện, sành sứ, thuỷ tinh, vật liệu xây dựng, nước khoáng và dầu khí thu hút được khoảng 627 lao động mới vào làm việc. Khu công nghiệp thương mại Diêm điền với các nhóm ngành chế biến thuỷ hải sản, thương mại và dịch vụ với khoảng 500 lao động trực tiếp. Với các khu công nghiệp tập trung hiện có và các khu đang triển khai đi vào hoạt động đã tạo, sẽ tạo lên một diện mạo mới cho công nghiệp Thái Bình vốn rất kém phát triển trong các năm về trước. Các dự án đăng ký vào hoạt động ở các khu công nghiệp thường hướng vào các nghề tận dụng được lơị thế và nguyên liệu, nhiên liệu và lao động như may mặc, da dày, vật liệu xây dựng và chế biến nông lâm thuỷ sản: + Công nghiệp dệt da may mặc: Chiếm tỷ trọng giá trị sản xuất khoảng 45-47% ngành công nghiệp, thu hút nhiều lao động, có nhiều triển vọng trong hợp tác đầu tư với nước ngoài và thị trường rộng lớn. Phấn đấu đến năm 2005 đặt: May mặc sẵn 11 triệu sản phẩm, giầy thể thao 2 triệu đôi/năm, khăn mặt các loại 200 triệu sản phẩm. Thu hút giải quyết việc làm cho khoảng 11.900 lao động/năm. Để đạt được các mục tiêu của ngành may mặc, cần phải tăng cường kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài, các tổng công ty Trung ương đầu tư vào các lĩnh vực may mặc, vào các khu công nghiệp tập trung. Đầu tư cho công tác nghiên cứu mẫu mã, thiết kế thời trang, đào tạo đội ngũ lao động may có trình độ tay nghề cao, tăng cường thông tin và tiếp thị mở rộng thị trường mới tạo điều kiện để các doanh nghiệp tiếp tục xuất khẩu. + Công nghiệp sành sứ thuỷ tinh và sản xuất vật liệu xây dựng: Hiện là ngành công nghiệp phát triển mạnh có nhiều sản phẩm đạt chất lượng cao (Gạch ốp lát, gạch men, sứ vệ sinh, sứ mỹ nghệ, thuỷ tinh pha lê) được ưa chuộng trong nước và có sản phẩm xuất khẩu. Năm 2005 sẽ đạt sản lượng: Gạch ốp lát 2,5 triệu m2, sứ vệ sinh 500.000 sp/năm, gạch men kính 45 triệu viên, sứ dân dụng 4 triệu sản phẩm, thuỷ tinh pha lê 500.000 sản phẩm, xi măng trắng 40.000 tấn, gạch granit 15 triệu m2/năm, mỗi năm sử dụng khoảng 3.500 lao động. Nghiên cứu dự án đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất gạch không nung và một số sản phẩm kiến trúc khác. + Công nghiệp điện tử: Mở rộng hợp tác bằng mọi hình thức và loại hình kinh tế với mọi đối tượng thành phần kinh tế để phát triển công nghiệp cơ khí và điện gia dụng. Trước hết tập trung vào sản xuất máy công cụ phục vụ sản xuất nông nghiệp: Máy làm đất, bơm nước, thu hoạch và ra hạt, chế biến lương thực, phương tiện vận tải nhỏ (Nhập động cơ) sản xuất phụ tùng và lắp ráp xe máy, xe đạp hàng kim khí chuyên dùng. Điện, điện tử: Hướng trọng tâm vào sản xuất các mặt hàng điện dân dụng (Quạt, mô tơ các loại... thiết bị điện, điện tử, điện lạnh) có nhu cầu của tỉnh, khu vực đồng bằng sông hồng và tham gia vào các chương trình nội địa hoá, thay thế nhập khẩu của nhà nước. Phát triển công nghiệp cơ khí điện tử mỗi năm trung bình giải quyết được trên dưới 1.000 lao động có trình độ tay nghề. + Công nghiệp chế biến lâm sản: Khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đầu tư mở rộng sản xuất vào các sản phẩm từ gỗ, mây tre đan để làm đồ dùng gia đình, trang trí nội thất và tăng khả năng xuất khẩu hàng mây tre mỹ nghệ. Đây là nhóm ngành thủ công mà Thái Bình có lợi thế về lực lượng lao động và nghề truyền thống. + Đồng thời nghiên cứu chuẩn bị các dự án để xây dựng các cơ sở sản xuất sử dụng khí mỏ có quy mô lớn khi có điều kiện: Điện, đạm, khí hoá lỏng, gạch Glanit, sứ vệ sinh cao cấp, xi măng trắng, thuỷ tinh pha lê.. đưa công nghiệp của tỉnh phát triển với tốc độ cao hơn tương xứng với tiềm năng của tỉnh. + Thực hiện các dự án về giao thông vận tải đã được phê duyệt: Cải tạo nâng cấp 2000 km2 đường giao thông nông thôn, dự án đường 39A có mức vốn 59,4 tỷ đồng, dự án đường 39B có mức vốn 19,8 tỷ đồng, dự án quốc lộ 10 mức vốn 400 tỷ đồng, dự án nâng cấp cảng Diêm Điền mức vốn 22,6 tỷ. Phát triển các phương tiện vận tải bộ, thuỷ ở mọi thành phần kinh tế để tham gia vận tải trên các lĩnh vực. Thực hiện các kế hoạch và giải pháp trên sẽ giải quyết việc làm mới cho khoảng 1000 lao động và có thêm việc làm ổn định cho 1.900 lao động của ngành giao thông. 1.3 Phát triển thương mại và dịch vụ: Khi nhu cầu của con người ngày càng cao thì đòi hỏi mức phát triển thương mại và dịch vụ tương xứng. Với tốc độ tăng trưởng như vậy của thương mại dịch vụ đã thu hút nhiều lao động tham gia. Do chưa có công ăn việc làm, do thu nhập thấp và nhu cầu của con người lớn cho nên người lao động có xu hướng tham gia nhiều vào hoạt động dịch vụ. Nhờ vậy, giải pháp phát triển thương mại dịch vụ hàng năm đã tạo cho người lao động nhiều việc làm mới và có thêm việc làm góp phần vào giải quyết việc làm của tỉnh, đây cũng là giải pháp quan trọng tạo việc làm có thu nhập cao cho người lao động. Xu thế phát triển các ngành dịch vụ trong cơ chế thị trường là tăng trưởng với tốc độ cao và chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế, 5 năm tới 2001-2005 dịch vụ có tốc độ tăng trưởng khoảng 11%, tỷ trọng của các ngành dịch vụ tăng chiếm khoảng 35-36% trong cơ cấu kinh tế. Tạo việc làm mới bình quân mỗi năm cho khoảng 450 lao động và tạo thêm việc làm cho 7.000 lao động. Hướng chủ yếu đầu tư phát triển nhanh ngành dịch vụ du lịch ở Thị Xã, thị trấn và các khu công nghiệp tập trung của tỉnh, khu nghỉ mát đồng Châu mở rộng và đa dạng hoá các hoạt động thương mai dịch vụ đặc biệt là khu vực nông thôn để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế và yêu cầu tiêu dùng của nhân dân. + Phát triển dịch vụ thương mại: Phát triển đa dạng các hình thức dịch vụ thương mại, khuyến khích các thành phần kinh tế kinh doanh dịch vụ, gắn kết thị trường trong tỉnh với thị trường cả nước và thị trường nước ngoài, gắn thương nghiệp dịch vụ với sản xuất, phát triển mạnh hợp tác và dịch vụ ở nông thôn nhằm cung ứng các dịch vụ cho sản xuất nông nghiệp và đời sống nhân dân, làm đại lý thu mua và trao đổi nông sản hàng hoá với các ngành hàng của tỉnh và Trung ương. Đưa thu nhập từ dịch vụ của nông dân ngày càng chiếm tỷ trọng cao. Xem xét điều chỉnh quy hoạch phát triển mạng lưới thương nghiệp, xây dựng các trung tâm thương mại dịch vụ thị xã, khu kinh tế mở Diêm Điền, khu công nghiệp Tiền Hải, phát triển các chợ nông thôn, thương nghiệp quốc doanh. Tăng cường hoạt động thông tin, xúc tiến thương mại, tìm kiếm và mở rộng thị trường. Chấn chỉnh từng bước hoạt động và phương thức kinh doanh thương mại dịch vụ theo hướng hiệu quả văn minh hiện đại. Tăng cường vai trò điều tiết của Nhà nước. Phấn đấu mức tăng trưởng doanh thu hàng năm là 10%. + Phát triển du lịch: Đa dạng hoá và nâng cao các hoạt động du lịch, phát triển các loại hình du lịch sinh thái (Tắm biển, nghỉ mát, dưỡng sức, chữa bệnh) du lịch văn hoá. Xây dựng, tôn tạo và nâng cấp các di tích lịch sử văn hoá, các điểm, các tuyến du lịch ven biển Đồng Châu, Cồn Vành, Cồn Đen. Xây dựng các làng sinh thái, các ngành nghề tiêu biểu, các điểm trình diễn văn hoá dân gian truyền thống... xây dựng các chương trình điểm du lịch hấp dẫn du khách phát huy tiềm năng du lịch tự nhiên và nhân văn của tỉnh gắn liền với tổng thể du lịch của đồng bằng bắc bộ và cả nước, mở rộng dịch vụ du lịch quốc tế. + Tài chính ngân hàng: Nâng cao chất lượng phục vụ đáp ứng yêu cầu của các thành phần kinh tế: Thực hiện triệt để chính sách tiết kiện trong tiêu dùng đời sống xã hội để tạo lập nguồn vốn nội tại, chủ động đầu tư phát triển sản xuất tạo cầu việc làm cho người lao động. Thực hiện chương trình cho vay vốn phát triển kinh tế xã hội, chương trình cho vay ưu đãi với người nghèo mà không cần phải thế chấp. Quản lý và sử dụng có hiệu quả quỹ hỗ trợ và phát triển việc làm cho người lao động. 2- Giải pháp đào tạo nâng cao chất lượng lao động kết hợp với chính sách khuyến khích dạy nghề của tỉnh. Muốn có việc làm, nhất là trong cơ chế thị trường sự cạnh tranh để có việc làm và việc làm có thu nhập cao đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước thì vấn đề đào tạo cho người lao động là khâu then chốt trong kế hoạch giải quyết việc làm. Đào tạo mới và đào tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn về các lĩnh vực sản xuất nông nghiệp,công nghiệp và dịch vụ đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của tỉnh theo hướng CNH - HĐH. Phấn đấu số học sinh được học kỹ thuật tổng hợp hướng nghiệp đạt tỷ lệ 60-70 %, số người lao động được đào tạo kỹ thuật chuẩn đạt tỷ lệ khỏang 25-30 % (2005) và trên 50% (2010). Phát triển hợp tác các hình thức đào tạo tập trung thông qua trường trung học dạy nghề (CNKT) xây dựng, nông nghiệp, y tế, văn hoá và các trung tâm dạy nghề, xúc tiến việc làm. Để đạt được các chỉ tiêu trên cần tập trung vào một số giải pháp chính là: Thứ nhất: Quy hoạch lại một số hệ thống mạng lưới đào tạo, dạy nghề, đầu tư hợp lý cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên cho các trường, cơ sở dạy nghề trong quy định cụ thể là: Nâng cấp mở rộng quy mô chất lượng dạy nghề trường công nhân kỹ thuật thuộc sở lao động thương binh xã hội để thực sự là trường nòng cốt đào tạo công nhân kỹ thuật có tay nghề cao với quy từ mô từ 800-1000 học sinh/ năm đáp ứng yêu cầu CNH - HĐH và cung ứng lao động cho các khu công nghiệp tập trung. Củng cố và tăng cường vai trò của các trung tâm, trường trung học nông nghiệp, trường kinh tế kỹ thuật, trường công nhân kỹ thuật, trường đào tạo lái xe, cơ giới tàu thuỷ để cùng tham gia đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ với quy mô mỗi trường từ 500 - 600 học sinh/ năm. Nâng cấp các trung tâm dạy nghề và dịch vụ việc làm thuộc sở lao động - TBXH, Hội phụ nữ, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội nông dân, Bộ CHQS Thái Bình và hình thành các trung tâm dạy nghề ở các huyện, thị để đủ sức mở các trường dạy nghề ngắn hạn, chuyển giao công nghệ trong mọi ngành, mọi lĩnh vực đặc biệt là dạy nghề, chuyển giao KHKT cho nông dân nông nghiệp, trong các ngành tiểu thủ công nghiệp truyền thống. Khuyến khích các doanh nghiệp các tổ chức, các cá nhân mở các lớp học dạy nghề theo hình thức cạnh xí nghiệp. Thứ hai: Trên cơ sở quy hoạch mạng lưới dạy nghề của tỉnh, trong những năm tiếp theo tập trung đào tạo và dạy nghề theo các hướng: Dạy nghề cho nông dân: Thông qua các quỹ khuyến nông của tỉnh bằng hình thức truyền nghề, phổ biến kiến thức, chuyển giao công nghệ môi trường những cây con có giá trị kinh tế cao đến năm 2005 bình quân mỗi năm dạy nghề, truyền thống cho khoảng 15000 lao động. Dạy nghề phát triển làng nghề tiểu thủ công nghiệp: Thông qua hệ thống các trung tâm dạy nghề, các doanh nghiệp, các tổ chức, các cơ sở kinh doanh hàng tiểu thủ công nghiệp có sự hỗ trợ kinh phí từ ngân sách của tỉnh để dạy nghề, chuyển giao công nghệ làm hàng tiểu thủ công nghiệp truyền thống và du nhập nghề mới về tỉnh. Đẩy mạnh dạy nghề dài hạn và ngắn hạn đáp ứng yêu cầu CNH- HĐH nền kinh tế và cung ứng lao động cho các khu công nghiệp tập trung, xuất khẩu lao động, cơ chế, chính sách khuyển khích dạy nghề của tỉnh. Thứ ba:Thực hiện tốt các cơ chế khuyến khích dạy nghề. Thực hiện nghiêm túc các quy định về dạy nghề tại Nghị đinh 90/CP của Chính phủ trong đó chú ý khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi tổ chức, cá nhân mở lớp dạy nghề cho người lao động. Ưu tiên các cơ sở dạy nghề cho người tàn tật được vay vốn, miễn giảm thuế. Tỉnh khuyến khích các đơn vị, doanh nghiệp, cá nhân dạy nghề, truyền nghề, nhất là nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống để phục hồi phát triển làng nghề, du nhập nghề mới về tỉnh. Sử dụng có hiệu quả nguồn kinh phí dạy nghề hàng năm được nhà nước phân bổ (Khoảng 7% trong tổng số ngân sách dành cho sự nghiệp phát triển giáo dục đào tạo). 3- Các chính sách giải quyết việc làm. 3.1- Chính sách dân số và di dân: Quy mô, cơ cấu dân số tạo lên cung lao động và là đối tượng trực tiếp cho công tác giải quyết việc làm. Tốc độ tăng dân số cao trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế giới hạn không đáp ứng đủ việc làm cho người lao động dẫn đến sức ép về việc làm ngày càng tăng. Nhằm hạn chế sự gia tăng quá mức nguồn lao động, nâng cao thu nhập dân cư, nâng cao dân trí thì các chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình cần đặc biệt được quan tâm. Hiện nay ở Thái Bình có khoảng 1,8 triệu dân với mật độ dân số được đánh giá là cao so với các tỉnh khác, tốc độ tăng trưởng dân số hàng năm khoảng 0,7%, dân số tăng nhanh làm cho nhiệm vụ giải quyết việc làm trở lên nặng nề hơn. Ngoài việc giải quyết việc làm cho những người lao động còn tồn đọng từ ký trước lại thêm lao động mới bước vào tuổi lao động. Nếu dân số không giảm thì trong những thập niên tới đây Thái Bình sẽ phải đối diện với nhiệm vụ hết sức khó khăn và nan giải trong việc giải quyết lao động và việc làm. Chính vì vậy, Nhà nước, tỉnh cần quan tâm đến chính sách dân số, kế hoạch hoá gia đình hơn nữa phấn đấu giảm tỷ lệ sinh bình quân hàng năm 0,04% để dân số Thái Bình đến năm 2005 là 1.874.000 người. Để đạt được mục tiêu đó Thái Bình phải tiếp tục thực hiện xã hội hoá công tác dân số kế hoạch hoá gia đình, tăng cường hoạt động giáo dục truyền thông về dân số, củng cố nhận thức của nhân dân. Tỉnh cần tăng chi ngân sách cho công tác dân số, chương trình chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em đồng thời kết hợp với chính quyền địa phương, hội phụ nữ tăng cường tuyên truyền, thuyết phục giáo dục người dân thông qua các phương tiện thông tin đại chúng.. có các chính sách khuyến khích người dân sinh ít con, nuôi dạy con tốt và phải có các biện pháp sử lý đối với các trường hợp vi phạm. Công tác di dân xây dựng các vùng kinh tế mới trong hai năm qua tiếp tục còn gặp khó khăn về địa bàn, cung cấp lao động cho các doanh nghiệp ngoài tỉnh còn hạn chế do người lao động không có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tay nghề.Trong năm 2002 chỉ tiến hành di dân được cho 108 hộ đi ngoài tỉnh và 175 hộ đi nội tỉnh trong khi con số kế hoạch đạt ra tương ứng là 150 và 200. Đến năm 2005 phấn đấu mỗi năm đưa 500 hộ, 2000 khẩu, 1200 lao động đi xây dựng các vùng kinh tế mới trong và ngoài tỉnh. Để đạt được chỉ tiêu trên trong các năm tới ban chỉ đạo tỉnh phải tập trung vào một số vần đề: + Quan tâm tạo điều kiện cho các hộ gia đình chuyển nhượng ruộng đất, nhà ở, hỗ trợ thêm kinh phí (Ngoài kinh phí trung ương cấp) chuẩn bị địa bàn đón dân cụ thể để đồng bào ổn định cuộc sống nơi quê mới. + Có chính sách, cơ chế khuyến khích lao động đi ra tỉnh ngoài làm việc. + Có chính sách phân bổ lại dân cư, di dân nội tỉnh phù hợp với tiềm năng kinh tế và lao động ở mỗi địa phương tránh tình trạng tập trung quá đông ở khu vực thị xã, thị trấn, di dân một cách tự phát không có sự quản lý của chính quyền địa phương nơi chuyển đi cũng như nơi chuyển đến. 3.2- Xuất khẩu lao động: Đưa lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài (Gọi là xuất khẩu lao động) là một trong những giải pháp quan trọng nhằm giảm sức ép và bức xúc về việc làm, tăng thu nhập cho bản thân người lao động, thu ngoại tệ cho đất nước và góp phần phát triển nguồn nhân lực.. đã được xác định trong chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo và việc làm 2001- 2005, ở Thái Bình chương trình mục tiêu giải quyết việc làm năm 2001 và đến 2005 cũng đã xác định xuất khẩu lao động là một giải pháp để giải quyết việc làm, mục tiêu mỗi năm từ 1000 - 2000 lao động đi lao động có thời hạn ở nước ngoài và cần tập trung vào một số giải pháp sau: + Trong thời gian tới, cần tích cực đào tạo nguồn nhân lực mang tính đón đầu và dự trữ để xuất khẩu, cần trang bị cho người học vững vàng các kiến thức về chuyên môn, ngoại ngữ, hiểu biết về quan hệ chủ thợ trong nền kinh tế thị trường đồng thời có biện pháp để nâng cao trình độ văn hoá, sức khoẻ, ý thức tổ chức kỷ luật và một số vấn đề khác cho người học. + Sắp xếp lại các doanh nghiệp làm công tác xuất khẩu lao động hiện đang đóng trên địa bàn tỉnh (13 doanh nghiệp về tuyển dụng lao động), thu hồi giấy phép hoặc đình chỉ hoạt động một thời gian hoặc vĩnh viễn các doanh nghiệp không đủ điều kiện, các doanh nghiệp này cần được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng. Nhanh chóng tiến hành việc thành lập công ty chuyên kinh doanh xuất khẩu lao động của tỉnh để chủ động việc xuất khẩu lao động. + Cùng với việc khai thác thị trường mới vấn đề quan trọng công tác thị trường cho xuất khẩu lao động là giữ vững các thị trường truyền thống đã có như Li bi, Cô oét, Nhật bản và gần đây là Đài Loan. + Tăng cường công tác quản lý lao động ở nước ngoài: Khi số lao động ở nước ngoài tăng lên, tăng cường quản lý đối với số lao động này là việc rất quan trọng. Việc quản lý này nhằm khắc phục những rủi ro có thể xảy ra đối với người lao động, kịp thời giải quyết các tranh chấp giữ người lao động với chủ doanh nghiệp, khắc phục mối quan hệ không tốt giữa người lao động và dân địa phương tạo sự uy tín, tin tưởng đối với nước tiếp nhận lao động. + Đối với việc chỉ đạo xuất khẩu lao động trong những năm tới: - Tổ chức hội nghị triển khai thực hiện công tác xuất khẩu lao động trong những năm tới. - Ban chỉ đạo xuất khẩu lao động của tỉnh nghiên cứu cơ chế chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện cho người lao động có cơ hội thuận lợi nhất để tham gia xuất khẩu lao động. - Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước trên lĩnh vực xuất khẩu lao động. Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định quản lý, chế độ chính sách đối với người lao động của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động đóng trên địa bàn. Kiến quyết xử lý vi phạm trong lĩnh vực này. - Nâng cao vai trò của cấp uỷ xã trong xuất khẩu lao động. - Xem xét đề nghị Bộ lao động - Thương bị xã hội cấp giấy phép xuất khẩu lao động cho một số doanh nghiệp, cơ quan thuộc tỉnh để đủ sức làm nhiệm vụ xuất khẩu lao động trên địa bàn. - Thành lập công ty xuất khẩu lao động để đẩy mạnh việc đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. 3.3- Chính sách hỗ trợ trực tiếp để tạo việc làm. Hỗ trợ trực tiếp cho người lao động để tạo việc làm là một biện pháp quan trọng, nhất là đối với người lao động có sức lao động lại không có vốn, kỹ thuật. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chương trình cho vay vốn từ quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm. Lập quỹ hỗ trợ việc làm của tỉnh (Theo điều 15 Bộ luật lao động) để hỗ trợ các cấp các nghành, các đơn vị tạo việc làm cho người lao động bằng cách hàng năm trích 1% tổng chi ngân sách cho quỹ này. Tổ chức tốt cho vay vốn từ ngân hàng người nghèo với mức vốn 120 tỷ đồng đảm bảo cho vay đúng đối tượng là lao động nghèo có nhu cầu tạo việc làm để có việc làm và thu nhập ổn định. Tăng cường các hoạt động dịch vụ việc làm thông qua những công việc sau: + Nắm chắc số lượng, chất lượng lao động thông qua điều tra lao động việc làm hàng năm. + Củng cố các trung tâm dịch vụ việc làm trong tỉnh để tư vấn cho người lao động chọn việc làm, nơi làm việc, tư vấn chọn nghề học, hình thức học nghề, tìm kiếm thị trường và tổ chức cung ứng lao động. 3.4- Xây dựng và áp dụng một số cơ chế, chính sách khuyến khích để thực hiện các giải pháp giải quyết việc làm. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền để mọi tổ chức, cá nhân người lao động nhận thức sâu sắc giải quyết việc làm cho người lao động là trách nhiệm của nhà nước, của các cấp, các nghành, các đoàn thể, các tổ chức xã hội, các cơ sở sản xuất kinh doanh và trách nhiệm của chính người lao động. Ưu tiên vốn để đầu tư xây dựng thực hiện các chương trình dự án đã được phê duyệt. Phát triển các quan hệ tín dụng, mở rộng các hợp tác xã tín dụng ở các địa phương, đồng thời tạo điều kiện để nhân dân được vay vốn từ quỹ tín dụng nhà nước (Các ngân hàng chuyên doanh) đặc biệt là ngân hàng người nghèo cho vay đúng đối tượng (là hộ nghèo) đúng mục đích để khuyến khích phát triển sản xuất tạo việc làm. áp dụng một số cơ chế chính sách khuyến khích để phát triển sản xuất tạo việc làm: + Cho vay vốn với lãi xuất ưu đãi, miễn giảm thuế thời gian đầu với các sản phẩm mới, mặt hàng mới mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất là các mặt hàng chế biến, khai thác từ nguyên liệu sẵn có của địa phương. + Ưu tiên bán hoặc cho thuê địa điểm sản xuất kinh doanh thuận lợi cho các cơ sở thu mua, chế biến đối với các sản phẩm nông sản, hải sản, các sản phẩm tiểu thủ công nghiệp như thêu len, chiếu cói, mây tre đan... tạo điều kiện để phát triển sản xuất, xuất khẩu sản phẩm. + Tỉnh có chính sách tôn vinh những tập thể, cá nhân du nhập nghề mới về tỉnh, phong hàm cho các nghệ nhân làm ở các nghề tiểu thủ công nghiệp. + Các đơn vị, tổ chức đến tìm được thị trường, ký hợp đồng và cung ứng lao động cho các khu công nghiệp ở tỉnh ngoài, nước ngoài, hoặc du nhập nghề mới về tỉnh tạo việc làm ổn định lâu dài tỉnh sẽ hỗ trợ một phần kinh phí. + Có cơ chế cho người lao động nghèo có đủ điều kiện vay vốn không phải thế chấp để đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài và trả dần hàng tháng bằng nguồn thu nhập thông qua công ty dịch vụ xuất khẩu lao động. Khuyến khích các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất được vay vốn để mở rộng sản xuất hoặc mở cơ sở sản xuất mới tạo thêm nhiều chỗ việc làm mới. Kết luận Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người nhằm tạo ra của cải đáp ứng nhu cầu vật chất, tinh thần cho chính bản thân của người lao động, đồng thời trong quá trình lao động tự hoàn thiện và phát triển mình vì vậy muốn tồn tại trong xã hội con người không thể không lao động. Do nhiều nguyên nhân mà việc làm luôn không đủ đáp ứng nhu cầu lao động ngày càng tăng vì vậy trong xã hội đều có hiện tượng thiếu việc làm và thất nghiệp ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế xã hội. Do đó giải quyết việc làm luôn được đặt ra cấp bách không chỉ riêng đối với một quốc gia nào, trong đó Đảng và Nhà nước ta đã coi đó là một phần quan trọng không thể thiếu được trong việc hoạch định chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Thái Bình là một tỉnh đồng bằng thuộc châu thổ sông Hồng, dân số năm 2002 khoảng 1 827 000 người, tổng nguồn lao động (từ 15 tuổi trở lên) chiếm 76% dân số. Trong điều kiện một tỉnh sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, diện tích đất canh tác bình quân chỉ có 550 m2/ người, nguồn lao động chủ yếu tập chung ở khu vực nông thôn, tăng nhanh qua các năm, chưa được sử dụng hết là một sức ép rất lớn về việc làm ảnh hưởng đến đời sống kinh tế xã hội trong toàn tỉnh. Do vậy việc đưa ra các giải pháp giải quyết việc làm là một yêu cầu cấp thiết đối với một tỉnh thuần nông như Thái Bình hiện nay. Qua 2 năm đầu các cấp các ngành trong tỉnh triển khai thực hiện nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, nghị quyết đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI tình hình kinh tế xã hội của tỉnh đã thu được nhiều sự chuyển biến tích cực đặc biệt trong lĩnh vực xây dựng hạ tầng cơ sở và giải quyết việc làm cho người lao động. Những thành tựu đạt được qua 2 năm sẽ tạo đà, tạo ra không khí cho việc thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của tỉnh trong những năm tiếp theo. Đánh giá mặt được, mặt chưa được và tìm ra nguyên nhân từ đó đưa ra các giải pháp chính sách giải quyết việc làm trong những năm tiếp theo là mục đích quan trọng cuối cùng của công tác giải quyết việc làm. Tuy đã được sự giúp đỡ chỉ bảo tận tình của giáo viên hướng dẫn, cán bộ đơn vị thức tập nhưng do còn hạn chế về trình độ lý luận cũng như thực tiễn mà bài viết không thể tránh khỏi thiếu xót, một làn nữa mong thầy cô và các bạn đóng góp ý kiến xây dựng bài viết hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn giáo viên hướng dẫn TS .Nguyễn Thị Kim Dung cùng toàn thể cán bộ sở kế hoạch và đầu tư Thái Bình đã giúp đỡ tạo điều kiện cho em hoàn thành bài viết này. Mục lục Lời mở đầu..1 Phần I: Kế hoạch việc làm trong hệ thống kế hoạch phát triển kinh tế xã hội...3

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc3056.doc
Tài liệu liên quan