Trong quá trình đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn trên tất cả mọi mặt. Điều đó một lần nữa khẳng định đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà Nước nhưng quan trọng hơn là chúng ta đã phát huy được yếu tố con người, coi nguồn nhân lực là tiềm năng lớn lao đóng góp quan trọng vào quá trình phát triển đất nước. Vấn đề đặt ra ở đây là phải làm gì để sử dụng yếu tố con người một cách đầy đủ và hợp lý nhất là trong bối cảnh nông nghiệp nước ta chuyển sang sản xuất hàng hoá.
37 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1534 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp góp phần sử dụng đầy đủ và hợp lý nguồn lao động nông nghiệp, nông thôn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ần hấp thụ để duy trì một sức khỏe tốt cho các lứa tuổi khác nhau. Thiếu dinh dưỡng dẫn đến thể lực ốm yếu, khả năng miễn dịch kém, dễ mắc các bệnh truyền nhiễm, suy giảm nghiêm trọng khả năng làm việc gây ảnh hưởng xấu đến quá trình sử dụng lao động nông nghiệp, nông thôn.
Ngoài vấn đề dinh dưỡng thì vấn đề chăm sóc sức khỏe cho người dân cũng có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng nguồn lao động. Thông qua chăm sóc sức khoẻ sinh sản, chăm sóc sức khoẻ trẻ em, tư vấn về dinh dưỡng, phòng bệnh tật…tạo ra khả năng đảm bảo cho nguồn nhân lực tương lai có thể lực và tinh thần khoẻ mạnh. Áp dụng những tiến bộ khoa học y tế vào dự phòng chữa bệnh cho người dân sẽ góp phần nâng cao tuổi thọ sức khoẻ dân cư và nguồn lao động. Từ đó sẽ nâng cao hiệu quả sử dụng lao động nông nghiệp, nông thôn.
Một vấn đề nữa mà bản thân người lao động phải có đó là trình độ chuyên môn kỹ thuật. Và giáo dục- đào tạo là một trong những nhân tố quyết định đến trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động. Mức độ phát triển của giáo dục đào tạo càng cao thì quy mô nguồn nhân lực chuyên môn kỹ thuật càng mở rộng bởi vì giáo dục- đào tạo là nguồn gốc cơ bản để nâng cao tỷ lệ lao động qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật của nền kinh tế. Sự phát của hệ thống giáo dục- đào tạo cũng làm tăng khả năng nâng cao chất lượng theo chiều sâu của nguồn nhân lực. Điều này được thể hiện ở chỗ một trong những tiêu chí của phát triển giáo dục đào tạo là nâng cao chất lượng đầu ra cho học sinh, sinh viên tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp phải nắm vững kiến thức chuyên môn nghiệp vụ. Và trong một nền giáo dục đào tạo có trình độ phát triển cao thì chất lượng đầu ra được đảm bảo sẽ đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động và của xã hội. Đây chính là một yêu cầu bức xúc đang đặt ra cho nguồn nhân lực nước ta. Trong nền kinh tế hiện đại ngày nay, trong điều kiện nền kinh tế mở thì kinh tế tri thức ngày càng giữ vai trò chủ đạo. Sức canh tranh sẽ quay quanh tâm điểm là hàm lượng khoa học và công nghệ, chất xám quyết định giá trị sản phẩm. Người lao động càng có trình độ chuyên môn cao bao nhiêu thì cơ hội việc làm càng lớn bấy nhiêu. Đội ngũ nhân lực có trình độ là nền tảng để đảm bảo cho thực hiện sản phẩm có hàm lượng khoa học công nghệ cao, là cơ sở để nâng cao năng suất lao động. Nói chung bản thân người lao động có tác động mạnh đến việc bố trí và sử dụng lao động trong nông nghiệp, nông thôn.
4.3. Nhân tố thuộc về chính sách.
Chính phủ có vai trò quan trọng trong việc huy động và sử dụng nguồn lao động. Thông qua việc ban hành chính sách Nhà nước sẽ tiến hành điều tiết nguồn lao động nông thôn như một số chính sách khuyến khích tạo động lực đối với người sử dụng lao động. Chính sách phát triển nguồn nhân lực, quản lý kinh doanh, hỗ trợ đào tạo người sử dụng lao động về chuyên môn và trình độ quản lý dần đạt tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế. Chính sách khuyến khích người sử dụng lao động áp dụng công nghệ mới, chính sách hỗ trợ người sử dụng nhiều lao động. Chính sách hỗ trợ người sử dụng lao động đầu tư vào vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng nghèo, vùng khó khăn (cho thuê giá thấp hoặc mượn đất đai, vay vốn ưu đãi từ quỹ phát triển, miễn giảm thuế ba năm đầu mới thành lập doanh nghiệp…). Chính sách khuyến khích và hỗ trợ trực tiếp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ (trợ giúp đầu tư, vay vốn thông qua hình thức vay vốn bảo hành tín dụng, cho phép xuất khẩu trực tiếp, giảm thuế đất hoặc mượn đất, hình thành các khu công nghiệp vừa và nhỏ ở khu vực nông thôn…). Những chính sách này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà sử dụng lao động bố trí hợp lý nhất và phát huy hiệu quả tối ưu trong việc sử dụng lao động nông nghiệp sẵn có ở khu vực nông thôn.
4.4. Nhóm nhân tố về trình độ tổ chức quản lý của các cơ sở nông nghiệp vùng nông thôn.
Trong quá trình tổ chức và sử dụng lao động đòi hỏi người sử dụng lao động phải có trình độ cao trong công tác tổ chức và quản lý lao động. Việc xác định nhu cầu lao động, tuyển dụng hay thuê mướn lao động, việc lựa chọn hình thức tổ chức lao động đều cần có quy trình kỹ năng nhất định. Trong sản xuất nông nghiệp, với những loại công việc khác nhau lại có những yêu cầu về chất lượng lao động khác nhau, đòi hỏi người sử dụng lao động nông nghiệp phải biết bố trí lao động sao cho hợp lý. Những công việc áp dụng công nghệ mới sẽ cần những người có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao. Một số công việc như phun thuốc trừ sâu, làm cỏ, bón phân thì cần người lao động phải được qua một lớp huấn luyện. Một số công việc lại đòi hỏi phải có những kỹ năng nhất định như điều khiển một số loại máy móc, chăm sóc từng loại cây, từng loại gia súc theo đúng quy định sinh trưởng và phát triển, việc sử dụng máy tính…Nếu cơ sở nông nghiệp không có đủ các loại lao động trên thì cần phải tuyển thêm lao động. Việc thuê mướn hay tuyển lao động cũng đòi hỏi người sử dụng lao động có những hiểu biết nhất định. Trước hết phải có kiến thức để tính toán đến nhu cầu tuyển dụng. Người sử dụng cần có những hiểu biết về luật lao động như độ tuổi lao động đặc biệt là độ tuổi lao động của trẻ em, quy định về mức tiền lương tối thiểu, mức bảo hiểm xã hội, trợ cấp, vấn đề an toàn lao động trong quá trình sử dụng lao động. Như vậy trình độ tổ chức quản lý của các cơ sở nông nghiệp có ảnh hưởng lớn đến việc sử dụng lao động nông nghiệp, nông thôn.
PHẦN II: THỰC TRẠNG SỬ DỤNG LAO ĐỘNG NÔNG NGHIỆP TRONG NÔNG THÔN.
Quy mô và cơ cấu nguồn lao động nông nghiệp, nông thôn.
1.1. Quy mô nguồn lao đông nông nghiệp, nông thôn.
Số lượng nguồn lực con người phản ánh qua quy mô dân số, lực lượng lao động và tốc độ gia tăng dân số trong một thời kỳ nhất định. Theo số liệu thống kê thì tốc độ tăng dân số thực tế qua các năm từ 1930-2001 mỗi năm tăng bình quân 2,13%. Trong 20 năm gần đây, số dân mỗi năm tăng tương đương dân số của một tỉnh trung bình, lực lượng lao động tăng bình quân 3%/ năm. Trên thực tế, quy mô nguồn lao động nước ta còn lớn hơn mức gia tăng của dân số bởi số người ra khỏi độ tuổi lao động trong năm vẫn có nhu cầu việc làm. Theo dự báo, những năm đầu của thế kỷ XXI tốc độ tăng lao động vẫn ở mức 3%/năm, vì trước năm 1996 tốc độ tăng dân số nước ta là trên 2%/năm, mà quy mô nguồn lao động phụ thuộc vào quy mô dân số trước đó 18 năm. Với quy mô và dân số đó thì lao động ở nông thôn vẫn còn chiếm tuyệt đại đa số về mặt số lượng, trong khi đó tốc độ gia tăng dân số ở nông thôn lại nhanh hơn so với khu vực thành thị. Hiện nay có vào khoảng gần 70% lao đông nông thôn làm nông nghiệp còn 20% làm trong các ngành phi nông nghiệp, hệ số sử dụng quỹ thời gian lao động bình quân cho một lao động nông thôn là rất thấp, vài năm gần đây có sự tăng tương đối năm 2001 la 74,37%, năm 2002 là 75,41%, và năm 2003 là 77,66%. Trong quá trình đô thị hoá và công nghiệp hoá đất nước xu hướng chung có tính quy luật là tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm dần. Tuy vậy trong những năm gần đây tốc độ giảm vẫn còn chậm so với yêu cầu đặt ra, đến năm 2004 dân số nông thôn vẫn còn chiếm 74,2% so với tổng dân số của cả nước, tốc độ tăng dân số ở nông thôn hàng năm giảm dần, năm 1990 là 1,8% nhưng đến năm 2002 giảm xuống còn 0,83%. Lao đông trong độ tuổi lao động khu vực nông thôn vì thế cũng có một tỷ lệ tương tự.
Bảng 1: Nguồn nhân lực tính theo dân số ở nông thôn và thành thị thời kỳ 1990 – 2004
Năm
Số lượng (triệu người)
Tỷ trọng ( % )
Thành thị
Nông thôn
Thành thị
Nông thôn
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
12.9
13.2
13.6
14.0
14.4
14.9
15.4
16.8
17.8
18.1
18.8
19.5
20
20.5
21.1
53.1
54.0
54.9
55.7
56.4
57.1
57.7
57.5
58.0
58.5
58.9
59.2
57.7
60.2
61.27
19.5
19.64
19.85
20.09
20.34
20.69
21.07
22.61
23.18
23.63
24.23
24.78
25.1
25.4
25.63
80.45
80.36
80.15
79.91
79.66
79.31
78.93
77.39
76.82
76.82
76.37
75.77
74.9
77.6
74.37
( Nguồn : Niêm giám thống kê các năm của tổng cục thống kê )
Qua đây có thể thấy lao động nông thôn trong toàn bộ lao động xã hội trong giai đoạn từ 1990- 2004 có xu hướng giảm dần từ 80,45% xuống còn 74,37%, cho dù tốc độ giảm có chậm chạp. Tỷ trọng lao động nông thôn giảm nhưng số lượng vẫn có xu hướng gia tăng từ 53,1 triệu người năm 1990 lên đến 61,27 triệu người năm 2004. Điều này cho thấy sự gia tăng dân số trong nông nghiệp nông thôn đang là yếu tố chính bổ xung lực lượng lao động hàng năm cho xã hội. Theo đó tỷ trọng lao động ngành nông nghiệp giảm từ 69,8% năm 1996 xuống còn 62,61% năm 2000 tức là giảm 7,19%, bình quân mỗi năm giảm 1,44%. Rõ ràng rằng lao động làm nông nghiệp trong khu vực nông thôn đã có xu hướng giảm trong những năm qua.
1.2. Cơ cấu lao động nông nghiệp nông thôn.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã làm cho cơ cấu nguồn lao động nước ta có sự chuyển dịch tích cực. Tỷ trọng lao động trong ngành nông-lâm-ngư nghiệp có xu hướng giảm dần, lao động trong các ngành công nghiệp, xây dựng, và dịch vụ tăng mặc dù tốc độ còn chậm. Nếu như trước đây lao động trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp chiếm tới 73% và lao động hoạt động trong công nghiệp, dịch vụ mới chỉ chiếm 27% thì hiện nay cơ cấu này có sự chuyển biến như sau:
Bảng 2: Tình hình chuyển dịch cơ cấu lao động. (Đơn vị: %)
Ngành
Kế hoạch
2001 – 2005
Thực hiện
Ước thực hiện
2001
2002
2003
2004
2005
Ngành nông – lâm - nghiệp
56 – 57
60.57
60.67
59.04
59.29
57.44
CN& XD
20 – 21
14.41
15.13
16.41
17.69
18.79
Thương mại và Dịch vụ
22 – 23
25.05
24.2
24.55
24.02
23.78
( Nguồn : Nguyễn Hữu Dũng Về nhiệm vụ phát triển việc làm giai đoạn 2006 – 2010 Tạp trí chính trị số 4 – 2004 )
Tuy nhiên so với chỉ tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế mà đại hội Đảng lần thứ IX đề ra ( nông-lâm-ngư nghiệp là 20-21%, công nghiệp và xây dựng là 38-39%, ngành dịch vụ là 41-42% ) thì tốc độ chuyển dịch cơ cấu lao động còn quá chậm dẫn đến khoảng cách khá xa giữa cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế. Nhưng điều đáng lưu ý hơn là cơ cấu lao động được đào tạo giữa các ngành, các khu vực sản xuất, các vùng rất bất hợp lý. Nông thôn chiếm gần 75% dân số và lao động nhưng chỉ chiếm 47,38% lực lượng lao động được đào tạo cả nước đặc biệt trong gần 60% lao động làm việc ở lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp thì số lao động được đào tạo mới chỉ chiếm 7%. Trong bản thân ngành nông nghiệp cũng có sự mất cân đối nghiêm trọng giữa ngành trồng trọt và ngành chăn nuôi. Ngành trồng trọt chiếm tỷ trọng lớn còn chăn nuôi chậm phát triển và chiếm tỷ trọng thấp. Năm 2000 tỷ trọng giá trị sản sản xuất ngành trồng trọt chiếm 76,8% và tỷ trọng ngành chăn nuôi chiếm 19.7% và dịch vụ chiếm 2,5% tổng giá trị sản xuất ngành nông nghiệp tính theo giá hiện hành. Không chỉ vậy mà trong bản thân ngành trồng trọt và chăn nuôi cũng thể hiện sự mất cân đối nghiêm trọng. Hiện nay tỷ trọng giá trị sản xuất cây lương thực chiếm 63,92%, cây công nghiệp chiếm 18,92%, cây ăn quả chiếm 9,14% và cây rau đậu chiếm 9,02%. Như vậy cần phải có biện pháp cân đối lại cơ cấu nông nghiệp để từ đó xác định cơ cấu lao động nông nghiệp, nông thôn một cách hợp lý.
Bảng 3: Cơ cấu lao động của khu vực nông thôn phân theo 3 nhóm ngành. (Đơn vị: % so với tổng số lao động 15 tuối trở nên đang làm việc tại khu vực nông thôn.)
Năm
Tổng số
Cơ cấu lao động theo ngành ( % )
Nông nghiệp
CN & XD
Dịch vụ
1996
1998
1999
2000
2001
2002
2004
100
100
100
100
100
100
100
81.64
75.68
77.62
76.66
76.53
75.57
74.44
6.83
8.45
8.15
8.86
10.36
10.9
10.68
11.53
15.81
14.22
14.48
13.1
13.53
14.87
( Nguồn : Thống kê lao động - việc làm 1996 – 2004 Bộ lao đông thương binh xã hội )
Từ năm 1996- 2004 đã có sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành. Năm 1996 lao động trong nông nghiệp chiếm 81,64% so với tổng số lao động trong khi đó lao đông ngành công nghiệp và xây dựng chỉ chiếm có 6,83% và lao động dịch vụ chiếm 11,53%. Các con số này có sự thay đổi đáng kể đến năm 2004 thì tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm xuống còn 74,44% cùng với đó là sự tăng lên của tỷ trọng lao động trong ngành công nghiệp và xây dựng là 10,68% và ngành dịch vụ là 14,87% ( thể hiện trong bảng 3).
2. Chất lượng nguồn lao động nông nghiệp nông thôn.
2.1. Về thể lực của người lao động.
Ngày nay tầm vóc và thể lực của người Việt Nam đang được cải thiện về chiều cao, cân nặng, tỷ lệ suy dinh dưỡng và tuổi thọ. Điều này đã góp phần nâng cao thể lực của nguồn lao động nước ta trong đó bao gồm cả lao động nông nghiệp nông thôn. Chiều cao trung bình của thanh niên Việt Nam đã tăng từ 1,56m năm 1994 lên 1,58m năm 2000. Tuổi thọ trung bình cũng tăng từ 65 tuổi năm 1989 lên 68,5 tuổi năm 2000. Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi đã giảm từ 44,9% năm 1995 xuống còn 33,1% năm 2000 và 30,1% năm 2002, nhưng tỷ lệ này vẫn ở mức cao. Thực tế này cho thấy thể lực của người Việt Nam vẫn kém hơn nhiều so với 1 số nước trong khu vực và so với yêu cầu nguồn lực con người cần có ở nước ta. Hiện tại nước ta đang nằm trong số các nước có mưc sống thấp nhất thế giới, GDP tính theo đầu người vào năm 2001 là 410 USD. Theo số liệu thống kê năm 2002 của Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) thì thu nhập bình quân đầu người của nước ta đứng thứ 165/208 nước và vùng lãnh thổ. Theo phân loại của Ngân hàng thế giới (WB) các nước có thu nhập thấp là dưới 745USD/người năm 2001. Trên thế giới các nước có thu nhập thấp như vậy có tổng số dân là 2,5 tỷ người, bình quân thu nhập đầu người năm 2001 của những nước này là 430 USD. Như vậy chỉ số này của Việt Nam còn thấp hơn mức trung bình của các nước có thu nhập thấp và thấp hơn 12 lần thu nhập bình quân đầu người cua thế giới (5150 USD).
Đến cuối năm 2003 Việt Nam vẫn còn 29% dân số sống dưới mức thu nhập 1$/ngày và 50% dân số sống dưới mức thu nhập 2$/ngày, 12% hộ nghèo và chỉ có 55% dân số nông thôn có nước sạch. GDP bình quân đầu người của khu vực nông thôn thấp, ở 20% số hộ có thu nhập cao nhất năm 2002 cũng mới đạt trên 10 triệu đồng/nhân khẩu/ năm (kết quả điều tra mức sống hộ gia đình năm 2002: Tổng cục thống kê). Mức thu nhập thấp như vậy mà tốc độ tăng dân số còn cao, trình độ hiểu biết về dinh dưỡng và sức khoẻ của dân cư nông thôn lại thấp nên đã ảnh hưởng trực tiếp đến việc nâng cao mức sống, phát triển giáo dục, đào tạo và cải thiện sức khoẻ dân cư và người lao động nông thôn. Thêm vào đó điều kiện lao động trong nhiều vùng, nhiều ngành sản xuất còn kém, thậm chí có nơi còn rất khắc nghiệt, môi trường lao động bị ô nhiễm nghiêm trọng, nắng mưa thất thường, các yếu tố sản xuất nguy hiểm và độc hại vượt quá ngưỡng giới hạn cho phép nhiều lần như thuốc trừ sâu, chất bảo vệ thực vật…Tất cả những điều này cho thấy chất lượng lao động nói chung và lao động nông nghiệp nông thôn nói riêng về mặt thể lực, sức khoẻ cũng như điều kiện lao động không đảm bảo, cần phải được cải thiên căn bản. Nói cách khác thu nhập thấp, đời sống khó khăn, dinh dưỡng thiếu, thể lực hạn chế là trạng thái chung của nguồn lao động nước ta mà trong đó có cả lao động nông nghiệp, nông thôn.
2.2. Về trí lực.
Sức mạnh trí tuệ là yếu tố quan trọng nhất quyết định đến chất lượng của nguồn lao động đặc biệt trong điều kiện trí tuệ hoá lao động hiện nay. Trình độ trí tuệ thể hiện ở năng lực sáng tạo, khả năng thích nghi và kỹ năng lao động nghề nghiệp của người lao động thông qua các chỉ số: trình độ văn hoá, dân trí, học vấn trung bình của một người dân, số lao động đã qua đạo, chất lượng đào tạo, mức độ lành nghề của lao động. Từ xa xưa người Việt Nam vốn có tư chất thông minh, sáng tạo, có khả năng vận dụng và thích nghi nhanh, đó là ưu thế nổi trội của lao động Việt Nam có thể theo kịp tốc độ phát triển của công nghệ hiện đại. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, nhiều nhà đầu tư nước ngoài thì người lao động Việt Nam nhanh nhậy hơn nhiều so với các nước khác trong khu vực.
Theo số liệu thống kê của UNDP thì chỉ số phát triển con người (HDI, tuổi thọ, trình độ học vấn, mức sống) của Việt Nam có xu hướng gia tăng từ xếp thứ 116/174 nước năm 1993 lên xếp thư 109/174 nước năm 2001, nhưng đến năm 2003 lại tụt xuống thứ 112/177 nước. Nước ta là một trong 10 nước có chỉ số xếp hạng về HDI cao hơn xếp hạng GDP/người trên 20 bậc, điều này chứng tỏ nước ta đã cố gắng gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển xã hội, quan tâm đến các yếu tố sức khoẻ, y tế, giáo dục…Tuy nhiên phải thừa nhận rằng năng lực chuyên môn, trình độ tay nghề, khả năng biến tri thức thành kỹ năng lao động của người lao đông nước ta còn rất hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Mà nguyên nhân chính là do mặt bằng dân trí nước ta còn thấp, tốc độ nâng cao dân trí trong nhiều năm qua còn rất chậm chạp. Trong suốt mấy chục năm qua chúng ta đã cố gắng để đạt được tỷ lệ hơn 90% dân số biết chữ nhưng điều đáng buồn là hiện nay đang diễn ra tình trạng tái mù chữ nghiêm trọng nhất là ở các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa (có xã số người mù chữ lên đến hơn 70%, trong số trẻ em ở độ tuổi đi học chỉ có hơn 50% trẻ em học hết cấp I). Tình trạng này sẽ gây ra những hậu quả khó lường trong thời gian từ 10- 15 năm nữa bởi đây là những chủ nhân của công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước trong những năm tới.
Bảng 4: Dân số từ 15 tuổi trở lên hoạt đông kinh tế thường xuyên chia theo trình độ học vấn khu vực nông thôn năm 2002. (Đơn vị: người )
Tỉnh (TP)
Tổng số
Chưa biết chữ
Chưa TN
tiểu học
Đã TN
tiểu học
Đã TN
PTCS
Đã TN
PTTH
ĐBSH
Đông Bắc
Tây Bắc
BT Bộ
DH NTB
TN
ĐNB
ĐBSCL
7464749
3984891
1063922
4294568
2502660
1586719
2978863
7136327
59967
357729
219141
148228
89250
203085
100584
250754
516398
594746
252153
444781
530953
334164
684624
2271278
3976089
1295269
114
1144683
1089694
558219
1305317
3172114
3976089
1325865
151510
1944342
589655
324607
542897
855315
1240830
411282
99361
612534
203108
166644
345441
588866
( Nguồn Niên giám thống kê Lao động thương binh và xã hội 2002 – NXB LĐXH năm 2003 )
Như vậy dân số chưa biết chữ ở khu vực nông thôn tập trung nhiều ở vùng Đông Bắc, Tây Bắc và Đồng bằng sông Cửu Long. Lao động nông thôn ít được đào tạo có nguyên nhân từ trình độ văn hoá thấp. Ngay tại các vùng nông thôn ngoại thành Thành Phố HCM nơi bên cạnh hệ thống các trường phát triển mạnh thì đa số lao động chỉ có trình độ văn hoá từ cấp II trở xuống và có 1,9% người lao động chưa biết chữ. Theo kết quả điều tra lao động việc làm toàn quốc năm 2004 tỷ lệ mù chữ của lực lượng lao động cả nước là 5,01%, tỷ lệ chưa tốt nghiệp tiểu học là 12%, tỷ lệ tốt nghiệp tiểu học là 30,5%, tốt nghiệp phổ thông cơ sở là 32,8%, tốt nghiệp phổ thông trung học là 19,7%. So với năm 2003 thì tỷ lệ mù chữ tăng gần 0,7%
Bảng 5: Trình độ văn hoá của những người 15 tuổi trở lên ở khu vực nông thôn.( Đơn vị: %.)
Trình độ văn hoá
% so với tổng số người 15 tuổi trở lên ở nông thôn
Không biết chữ và chưa TN tiểu học
Tốt nghiệp tiểu học
Tốt nghiệp THCS
Tốt nghiệp THPT
25.31
28.75
32.8
13.14
Tổng số
100
Lao động nông thôn nước ta có nhiều bất cập về trình độ chuyên môn kỹ thuật, tỷ lệ lao động nông thôn qua đào tạo nghề là rất thấp. Từ năm 1999 đến năm 2003 trình độ chuyên môn kỹ thuật của nguời lao động có tăng với tốc độ chậm, số lao động nông thôn đã qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật thấp hơn 3 lần so với khu vực thành thị. Ở khu vực thành thị cứ 100 người tham gia lực lượng lao động thì có 67 người đã tốt nghiệp trung học cơ sở trở lên cao hơn 1,5 lần so với chỉ tiêu này ở nông thôn. Trong khi tỷ lệ chưa biết chữ ở khu vực nông thôn lại cao gấp 4 lần so với thành thị. Trình độ học vấn và chuyên môn của lao đọng phi nông nghiệp ở nông thông cũng thấp: khoảng 65% tốt nghiệp trung học cơ sở, 35% lao động trong các doanh nghiệp, hợp tác xã chưa qua đào tạo tay nghề chuyên môn kỹ thuật, 54- 68% lao động không được đào tạo chuyên môn, chỉ có 8% có trình độ trung cấp trở lên làm việc tại các doanh nghiệp và 4% ở hợp tác xã và hộ gia đình. Đến cuối năm 2003 số người được đào tạo mới chỉ chiếm 17,5% tổng số lao động cả nước và hiện nay vẫn còn 3,74% lao động không biết chữ. Năm 2004 thì tỷ lệ lao động qua đào tạo công nhân kỹ thuật, cao đẳng đại học trở lên của khu vực nông thôn chỉ chiếm 6,5% lực lượng lao động nông thôn. Trong cơ cấu đội ngũ lao động ở các cơ sở sản xuất của nước ta thì đội ngũ công nhân và lao động giản đơn chiếm 82%, đội ngũ các nhà kỹ thuật, quản lý, phát minh và đổi mới công nghệ chỉ chiếm 18% trong khi tỷ lệ tương ứng ở các nước phát triển là 28% và 72%. Ở đây còn chưa nói đến chất lượng đào tạo và sự phù hợp của kiến thức đào tạo trước đây với việc làm hiện nay ra sao mà chỉ riêng con số trên đã cho thấy tỷ lệ lao động được đào tạo ở nước ta quá thấp vì thế chất lượng lao động nói chung còn quá thấp. Hơn thế nữa hiện nay vẫn còn 2,2% trong tổng số lao động có chuyên môn kỹ thuật chưa có việc làm. Thêm vào đó chỉ khoảng 70% số người có trình độ đại học, cao đẳng hoặc trung học chuyên nghiệp làm việc đúng ngành nghề đào tạo. Trong số sinh viên tốt nghiệp các ngành nông, lâm, ngư nhiệp ở các trường trung học chuyên nghiệp thì chỉ có trên 40% làm việc đúng chuyên ngành, còn trong số sinh viên tốt nghiệp đại học ở các khoa này thì chỉ có khoảng 20% làm việc đúng ngành đào tạo. Trong số lao động làm trái ngành thì chỉ có 42,5% được đào tạo lại còn 57,5% làm trái ngành nghề coi như chưa đào tạo.
Thực trạng trên đã làm cho chất lượng nguồn lao động nói chung và nguồn lao động nông nghiệp, nông thôn nói riêng bị hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu xây dựng nông thôn mới và yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Sự hạn chế này do hàng loạt yếu tố, nó không chỉ thuộc vào trách nhiệm của bản thân người lao động mà còn là yếu tố chủ quan của cơ chế chính sách đào tạo và sử dụng lao động phổ thông cũng như lao động trí thức chưa hợp lý, vì thế chưa tạo ra được động lực kích thích tính tích cực xã hội của họ. Nói khái quát nguyên nhân thì có nhiều nhưng cái chính là do ở nước ta vị trí của trí thức và vai trò của trí tuệ trên thực tế chưa thực sự được coi trọng.
2.3. Phẩm chất đạo đức- tinh thần của con người Việt Nam.
Xét đến chất lượng nguồn nhân lực con người không thể không nói đến đạo đức tư tưởng văn hoá, tâm lý tính cách, cách sống. Nó thúc đẩy tính tích cực và nâng cao hiệu quả sản xuất, nâng cao hiệu quả làm việc. Không thể phủ nhận những đức tính tốt đẹp truyền thống của con người xưa và nay. Nhưng trong quá trình CNH – HĐH hiện nay thì con người Việt Nam lại bộc lộ những điểm yếu trong phẩm chất và đạo đức. Do cuộc sống gắn liền với nền nông nghiệp truyền thống, sản xuất nhỏ lẻ là phổ biến, mang tính chất tự cung tự cấp. Người lao động cũng vậy mang tâm lý nhỏ nhen, ghen ghét, đố kỵ những người vượt trên mình. Tầm nhìn thiển cận chỉ thấy cái lợi trước mắt cục bộ mà quên mất lợi ích lâu dài, vì lợi ích bản thân là chính ý thức tập thể còn yếu. Do vậy mọi người khó có thể liên kết hợp tác với nhau trong sản xuất, và các hoạt động khác. Cũng do những đặc điểm này của sản xuất nông nghiệp theo hướng nhỏ, lẻ thêm vào đó cơ chế tập trung bao cấp, quan hệ hiện vật tồn tại trong thời gian dài ở nước ta nên đã hình thành nên một tập tính ở người lao động đó là lười hạch toán, ngại trao đổi, buôn bán và hình thành một loạt thói quen không thích hợp với điều kiện ngày nay. Đó là tác phong tuỳ tiện, không có kỷ luật, làm ăn chộp giật, vì lợi ích trước mắt không nhìn về tương lai do đó khó có thể làm ăn lớn. Đây là những hiện tượng khá phổ biến trong sản xuất kinh doanh ở nước ta nhất là trong nông nghiệp. Nền văn minh nông nghiệp và tâm lý làng xã còn hình thành nên chủ nghĩa địa phương, chủ nghĩa lão làng, chủ nghĩa quan liêu gia trưởng, cản trở tinh thần phê phán, coi thường pháp luật. Đây là những mặt hạn chế trong quá trình sản xuất do vậy cần có biện pháp khắc phục để đưa nền nông nghiệp phát triển.
Nhìn chung nguồn lao động nước ta về số lượng đông, nguồn lao động dồi dào, tuy nhiên chất lượng còn thấp, còn nhiều hạn chế, thiếu về trình độ chuên môn và trí lực và thể lực. Thêm vào đó việc khai thác và sử dụng nguồn lực lao động đã qua đào tạo, có trình độ lại bất hợp lý, đồng thời có sự mất cân đối giữa các vùng, giữa nông thôn và thành thị. Như vậy về cơ bản hiện nay lực lượng lao động chưa đáp ứng được yêu cầu của CNH – HĐH. Điều này đòi hỏi phải cải thiện môi trường sống, môi trường kinh tế xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, tiến hành các giải pháp đồng bộ hướng vào việc khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn lao động đặc biệt là nguồn lao động phục vụ cho xây dựng nông thôn mới.
3. Tình hình sử dụng lao động nông nghiệp, nông thôn.
Theo chiến lược phát triển dân số, đến năm 2010 nước ta có khoảng 88 triệu người trong đó khu vực nông thôn chiếm 68% và dân số trong độ tuổi lao động tại thời điểm đó là khoảng 57 triệu người trong đó lực lượng lao động là 42,8 triệu người. Dự kiến trong giai đoạn từ nay đến 2010 số người hàng năm bước vào độ tuổi lao động tiếp tục tăng ở mức cao, bình quân trên 1,7- 1,8 triệu người mỗi năm, đồng thời số người chưa được đào tạo nghề, chưa có việc làm và thiếu việc làm của những năm trước chuyển sang rất lớn. Điều này đã tạo ra một bài toán nan giải trong vấn đề sử dụng đầy đủ và hợp lý của nguồn lao động.
Trước yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn số lượng lao động nông nghiệp ngày càng giảm trong khi những đòi hỏi về mặt chất lượng của lao động nông nghiệp ngày càng tăng. Từ năm 1993 đến năm 2000 tỷ trọng lao động trong ngành nông nghiệp đã giảm từ 71% xuống còn 62,56%. Mặc dù vậy thì xu hướng cắt giảm lao động nông nghiệp nông thôn là tất yếu. Trong khi đó số lượng lao động mới được cung ứng lại xuất phát từ nông thôn dẫn đến tỷ lệ thất nghiệp ở nông thôn cao hơn nhiều so với thành thị. Cùng với việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp làm cho năng suất lao đông ngày càng tăng, xu hướng bão hoà của một số sản phẩm nông nghiệp sẽ dẫn đến cầu về lao động trong nông nghiệp suy giảm với tốc độ nhanh hơn. Điều này đòi hỏi phải có sự chuẩn bị nghiêm túc hơn trong vấn đề tạo việc làm cho lao động thất nghiệp vùng nông thôn.
Bảng 6: Số người đủ 15 tuổi trở lên có việc làm thường
xuyên thời kỳ 1996- 2002. (Đơn vị: nghìn người)
Các chỉ tiêu
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Tổng số
33978
34352
34801
35679
36205
37677
39286
Nông,lâm,ngư nghiệp
23431
22589
23018
22861
22670
22813
23835
XDvà CN
3698
4170
4049
4435
4744
5428
5942
Dịch vụ
6849
7593
7734
8382
8791
8426
9509
Nguồn:
Theo số liệu trong bảng trên chúng ta có thể thấy rằng tổng số người có việc làm thường xuyên tăng liên tục trong thời kỳ từ 1996- 2002, mỗi năm trung bình tăng khoảng 740 nghìn người trong đó tăng nhiều nhất là năm 2002 so với năm 2001 với số tuyệt đối là 1609 nghìn người tương ứng với 4,27% và năm tăng ít nhất là năm 1998 so với năm 1997 với số lao động tuyệt đối là 449 nghìn người. Xu hướng thay đổi như trên phần nào được phản ánh qua sự thay đổi cơ cấu việc làm trong bảng trên. Trước hết số việc làm trong nông, lâm, ngư nghiệp trong thời kỳ này nói chung không thay đổi nhiều, có xu hướng giảm nhẹ nhưng không đều. Năm 1996 là năm có số việc làm tuyệt đối cao nhất với con số là 23431 nghìn người, năm thấp nhất là 1997 với 22589 nghìn người có việc làm. So sánh năm 2001 với năm 1996 thì số việc làm trong nông, lâm, ngư nghiệp giảm đi 618 nghìn người, nhưng đến năm 2002 lại tăng lên. Trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá, lao động trong nông nghiệp tất yếu sẽ giảm cả về số lượng tuyệt đối và tỷ trọng trong nền kinh tế quốc dân. Thế nhưng Việt Nam vẫn đang phải đối mặt với tình trạng dồn ứ lao động trong nhiều năm qua. Căn cứ vào khối lượng công việc, định mức lao động dựa trên diện tích canh tác các loại cây trồng, vật nuôi thì nhu cầu lao động trong khu vực nông nghiệp, nông thôn đến năm 2010 vẫn cần 20- 21 triệu lao động và chiếm khoảng 49- 51% lực lượng lao động của cả nước.
Mặc dù trong thời gian gần đây đã có những dấu hiệu tốt hơn trên thị trường lao động nhưng hiện nay thiếu việc làm vẫn đang là hiện tượng phổ biến nhất là ở khu vực nông nghiệp và nông thôn. Điều này được thể hiện cụ thể trong bảng dưới đây.
Bảng 7: Tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn Việt Nam tính đến thời điểm 1/7/2002. (Đơn vị: %).
Năm 2001
Năm 2002
Tổng số
Nữ
Tổng số
Nữ
Toàn quốc
74,37
74,3
75,41
75,38
ĐB sông hồng
75,63
75,96
75,53
75,74
Đông Bắc
73,12
73.16
75,53
75,65
Tây Bắc
72,82
72,88
71,08
71,08
Bắc Trung Bộ
72,80
73,04
74,58
74,84
DH NTrung Bộ
74,4
74,22
74,96
74,81
Tây Nguyên
77,16
77,30
78,07
78,12
Đông Nam Bộ
76,50
76,61
75,50
75,08
ĐB Sông Cưu Long
73,39
72,61
76,62
71,73
Nguồn: “ Báo cáo điều tra lao động - việc làm “ Bộ lao động- Thương binh và xã hội, thang 7/2002.
Qua đây có thể thấy hầu như người lao động nông thôn chỉ sử dụng hết 2/3 thời gian làm việc của mình (40h/ tuần), 1/3 số thời gian còn lại họ không có việc làm. Ở nông thôn có 60% số người được điều tra trả lời là trung bình họ làm việc dưới 40 giờ/ tuần. Không chỉ có tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm trong lao động nông nghiệp nông thôn mà năng suất lao động khu vực nông thôn tính theo GDP còn rất thấp. Mặc dù tốc độ tăng năng suất lao động khu vực này mỗi năm đạt 4-5% nhờ áp dụng khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp và cơ giới hóa song hiện tại năng suất lao động trung bình còn thấp chỉ vào khoảng 737 ngàn đồng/người/năm bằng 12,3% năng suất lao động của một lao động công nghiệp và bằng 18% năng suất lao động khu vực dịch vụ. Trong tương lai năng suất lao động khu vực này sẽ tiếp tục tăng dẫn đến nhu cầu lao động sẽ giảm. Và bảng 8 dưới đây cho phép chúng ta có thể nhìn thấy phần nào bức tranh toàn cảnh về nạn thiếu việc làm của người lao động nông thôn.
Bảng 8: Tỷ lệ thiếu việc làm của những người từ đủ 15 tuổi trở lên khu vực nông thôn chia theo giới tính, vùng lãnh thổ.(Đơn vị: %)
Vùng
Chung
Nữ
Toàn quốc
9,20
9,47
ĐB Sông Hồng
4,55
3,95
Đông Bắc
8,93
8,96
Tây Bắc
3,29
3,14
Bắc Trung Bộ
11,06
11,07
Duyên Hải Nam Trung Bộ
13,26
14,47
Tây Nguyên
12,53
13,78
Đông Nam Bộ
9,02
9,51
ĐB Sông Cửu Long
11,80
13,26
Nguồn: tổng hợp kết quả điều tra Lao động- việc làm 1/7/2005.
PHẦN III: GIẢI PHÁP GÓP PHẦN SỬ DỤNG ĐẦY ĐỦ HỢP LÝ NGUÔN LAO ĐỘNG TRONG NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN.
Xây dựng cơ câu kinh tế hợp lý.
Xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý chẳng những có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển kinh tế của cả nước mà còn có ý nghĩa đối với việc sử dụng đầy đủ và hợp lý nguồn lao động xã hội trong đó có lao động cùng nông nghiệp, nông thôn. Trong điều kiện đại bộ phận dân cư sống ở vùng nông thôn lao động trong nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng lớn thì việc sử dụng đầy đủ và hợp lý nguồn lao động nông nghiệp nông thôn càng phải được thực hiện trong mối quan hệ hữu cơ với việc phát triển các ngành kinh tế quốc dân khác để hình thành cơ cấu phân công lao động mới nhằm thực hiện cơ cấu kinh tế hợp lý. Mở rộng và phát triển mạnh các ngành kinh tế quốc dân như: công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, giao thông, thương mại và dịch vụ, trên địa bàn nông thôn nhằm mở rộng sản xuất thu hút người có khả năng lao động trong nông nghiệp với những tư liệu sản xuất cần thiết đảm bảo cho việc sử dụng lao động nông nghiệp, nông thôn ngày càng có hiệu quả hơn.
Thực tế cho thấy nếu lựa chọn phát triển các ngành sử dụng lượng vốn kỹ thuật cao đặc biệt là các ngành sản xuất hàng xuất khẩu ở nông thôn thì sẽ không có khả năng tạo đủ việc làm cho lực lượng lao động đang tăng laên nhanh chóng ở khu vự này. Bởi vậy chiến lược đặt ra là thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp nhỏ, tiểu thủ công nghiệp trên cả hai lĩnh vực truyền thống và hiện đại ở cả nông thôn và thành thị, có khả năng tạo việc làm nhiều hơn so với công nghiệp có quy mô lớn. Việc phát triển hợp lý các ngành kinh tế góp phần nâng cao hiệu quả của phân phối sức lao động giữa ngành nông nghiệp và các ngành kinh tế quốc dân khác. Phân phối sức lao động phải đảm bảo cho lao động nông nghiệp phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc rút bớt lao động nông nghiệp sang các ngành kinh tế khác phải tuỳ thuộc vào việc nâng cao năng suất lao động trong nông nghiệp, nông thôn.
Cơ cấu kinh tế hợp lý phải gắn liền với kinh tế đối ngoại, khuyến khích đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đặc biệt là một số ngành dễ phát triển ở khu vực nông thôn nhằm khai thác lợi thế của sản xuất hàng hoá.
Trong thời đại ngày nay cuộc cách mạng khoa học công nghệ phát triển nhanh chóng chưa từng thấy. Phát triển kinh tế của mỗi nước gắn liền với sự hợp tác với các nước khác phản ánh tính quy luật. Để thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài cần phải tạo môi trường đầu tư thuận lợi, cần dở bỏ bớt một số điều kiện cấp giấy phép như trong Nghị định số 24/2000/NĐ-CP, giảm giá đầu vào như chi phí điện nước, viễn thông, tiền thuê đất, thuê văn phòng, nhưng kho khăn trong giải phóng mặt bằng lấy đất thực hiện dự án, cải tiến các thủ tục hành chính. Ngoài ra còn cần hoàn thiện một số chính sách khác có liên quan như chính sách hai giá, thuế thu nhập cá nhân, cấp visa cho người nước ngoài, chính sách nội địa hoá, bảo hộ và thực thi các chính sách về sở hữu tri tuệ, chống hàng nhái hàng giả…Trong điều kiện nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, việc tận dụng sự hỗ trợ từ bên ngoài nhằm khai thác các tiềm năng lao động, đất đai, rừng biển, ngành nghề để tăng nhanh khối lượng nông sản hàng hoá, đặc biệt những sản phẩm để xuất khẩu có ý nghĩa quan trọng trong việc sử dụng đầy đủ và hợp lý nguồn lao động nước ta đặc biệt là lao động trong nông nghiệp, nông thôn.
2. Chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp trong khu vực nông thôn.
Cơ cấu ngành nông nghiệp hợp lý là một biện pháp quan trọng để sử dụng đầy đủ và hợp lý nguồn nhân lực trong nông nghiệp nước ta. Trong những năm gần đây ngành trồng trọt và ngành chăn nuôi mất cân đối nghiêm trọng. Tiến tới đẩy mạnh phát triển chăn nuôi, đưa chăn nuôi trở thành ngành sản xuất chính có vị trí tương xứng với ngành trồng trọt. Cần thiết phải đa dạng hoá ngành chăn nuôi, coi trọng đàn gia súc nhằm cung cấp sức kéo cung cấp thịt sữa cho nền kinh tế quốc dân. Hiện nay bản thân ngành chăn nuôi cũng mất cân đối nghiêm trọng nên cũng cần thiết phải đổi mới cơ cấu ngành chăn nuôi sao cho hợp lý, giá trị sản xuất ngành chăn nuôi chiếm từ 30- 35% giá trị sản xuất ngành nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi, dịch vụ), phát triển đa dạng ngành chăn nuôi tạo ra nhiều sản phẩm phong phú chất lượng cao.
Trong ngành trồng trọt thì tiến tới nâng cao chất lượng sản phẩm, tỷ trọng của ngành chiếm từ 60-65% giá trị sản xuất nông nghiệp, phát triển đa dạng hoá ngành trồng trọt và giảm tỷ trọng giá trị sản xuất lương thực nhưng vẫn phải đảm bảo an ninh lương thực cho đất nước và mỗi năm xuất khẩu từ 3,5-4 triệu tấn gạo. Duy trì và bảo vệ để giữ vững 4,2 triệu ha đất canh tác lúa hiện có bằng những biện pháp đầu tư thâm canh tăng sản lượng lúa đồng thời khai hoang tăng vụ ở một số vùng cần thiết, cho phép chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng đa dạng hoá cây trồng. Bên cạnh đó cũng đẩy mạnh phát triển nhanh ngành thuỷ sản và lâm nghiệp. Điều này tạo nên cơ cấu ngành nông nghiệp đa dạng cho phép sử dụng đầy đủ và hợp lý nhất nguồn lao động nông nghiệp khu vực nông thôn.
3.Giải quyết và tạo việc làm cho lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.
Là nước nông nghiệp có lực lượng lao động nông nghiệp, nông thôn hùng hậu nhưng đất canh tác lại quá thấp nên tình trạng phổ biến của lao động nông nghiệp nông thôn là thiếu việc làm, tỷ suất sử dụng sức lao động thấp. Đảng và Nhà nước ta luôn coi nông nghiệp, nông thôn là mặt trận hàng đầu không chỉ bởi ý nghĩa về mặt kinh tế mà còn bởi tầm quan trọng về mặt chính trị - xã hội. Phát triển nông nghiệp, nông thôn là các chương trình nhân được sự quan tâm hàng đầu với mong muốn hình thành được một nền nông nghiệp hàng hoá lớn góp phần giải quyết việc làm nâng cao hiệu quả sử dụng lao động nông nghiệp, nông thôn. Hiện nay vấn đề lao động việc làm, sử dụng có hiệu quả bộ phận lao động nông nghiệp, nông thôn trở nên cấp bách, nó không chỉ là nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế khi vực nông nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế mà còn có ý nghĩa lớn lao về phương diện chính trị- xã hội. Vì vậy Đại hội Đảng lần thứ IX đã đề ra mục tiêu cho lao động, việc làm ở khu vực nông nghiệp, nông thôn là tăng số ngày làm việc của lao đông nông thôn từ 55-60% thời gian hiện nay lên đến 80-85% vào năm 2010.
Trong những năm qua, nước ta đã có nhiều chủ trương chính sách nhằm giải quyết vấn đề lao động, tạo việc làm tăng năng suất lao động, tăng thu nhập cho lao động nông nghiệp, nông thôn và đã đạt được nhiều thành tựu bước đầu. Tuy nhiên trước yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thì vấn đề lao động, việc làm, thu nhập cho dân cư nông thôn vẫn còn đang là vấn đề bức xúc của toàn xã hội. Để giải quyết vấn đề này cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:
Thứ nhất là cần đẩy mạnh công tác quy hoạch và kế hoạch hoá dài hạn về lao động việc làm trong khu vực nông nghiệp, nông thôn một cách nghiêm túc và thiết thực, có sự điều tra đánh giá chuẩn xác thực trạng thị trường lao động nông thôn. Các chương trình việc làm và trợ giúp việc làm quốc gia trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn phải được cụ thể hoá phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội và sinh thái của từng vùng để từ đó lựa chọn các biện pháp tạo việc làm có tính khả thi cao; tránh tình trạng hình thức theo kiểu “làm thì láo báo cáo thì hay” hoặc thả nổi, cho rằng đó là công việc tự thân của nông dân, nông nghiệp nông thôn.
Thứ hai là cần tiếp tục chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá. Phát triển công nghiệp nông thôn, khôi phục và mở mang các làng nghề truyền thống, phát triển các làng nghề mới theo phương châm “mỗi làng một nghề” từ đó làm biến đổi cơ cấu lao động theo hướng giảm dần về số hộ thuần nông, tăng tỷ lệ hộ phi nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Trong điều kiện của Việt Nam với kinh tế hộ gia đình vẫn là đơn vị kinh tế cơ bản tổ chức sản xuất nông nghiệp thu hút lao động do đó cần có chính sách phát triển mạnh mẽ kinh tế hộ gia đình. Bên cạnh đó cũng cần khuyến khích các hình thức tổ chức sản xuất quy mô lớn theo kiểu trang trại, kinh tế tập thể, các doanh nghiệp vừa và nhỏ và tạo lập môi trường kinh tế xã hôi và luật pháp thuận lợi cho sự phát triển các thành phần kinh tế trên. Bởi đây là mô hình sản xuất đem lại hiệu quả kinh tế xã hội lớn như tạo ra khả năng huy động vốn, khai thác tiềm năng sản xuất, tạo thêm việc làm cho người lao độngvà tăng thêm nông sản hàng hoá cho toàn xã hội.
Thứ ba là chú trọng đầu tư xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế, kỹ thuật và xã hội ở nông thôn như đường xá, hệ thống điện, cấp thoất nước, các dịch vụ giáo dục y tế cơ bản. Vì nó là tiền đề tất yếu để phất triển sản xuất nhờ đó tạo nhiều việc làm và nâng cao đời sông vật chất tinh thần cho dân cư nông thôn. Đồng thời tăng cường chuyển giao công nghệ nhất là công nghệ sinh học, hướng dẫn cho nông dân những kiên thức của sản xuất kinh doanh nông nghiệp cho lao động nông thôn. Mặt khác tiếp tục đẩy mạnh chương trình di dân, phân bố lại lao động trong phạm vi nội bộ vùng, địa phương cũng như trong phạm vi cả nước nhằm khai thác có hiệu quả nguồn lao động và tiềm năng thiên nhiên. Đây cũng là cách để hạn chế việc di dân tự do nhất là dòng di dân từ nông thôn ra thành thị, ra các khu công nghiệp tìm việc làm và kiếm sống gây ra áp lực và phức tạp cho công tác quản lý đô thị, quản lý xã hội và môi trường sinh thái. Ngoài ra cũng cần tăng cường liên doanh liên kết, hợp tác và đầu tư với các nước trong khu vực và trên thế giới trong quá trình phát triển nông nghiệp để tranh thủ vốn, công nghệ và kỹ thuật sản xuất, chế biến mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm xuất khẩu, đây cũng là yếu tố góp phần quan trọng làm tăng hiệu quả sản xuất, thu hút và sử dụng có hiệu quả lực lượng lao động nông thôn. Như vậy muốn tạo ra nhiều việc làm cho khu vực nông nghiệp, nông thôn tất yếu phải phát triển sản xuất mở mang ngành nghề. Song để làm được điều này ngoài việc phát huy nội lực của nông nghiệp, nông thôn, nông dân thì Nhà nước phải hỗ trợ đắc lực về vốn và các dịch vụ “đầu vào, đầu ra” cho sản xuất, nâng cao dân trí và đào tạo nghề cho lao động nông thôn.
4.Thực hiện đào tạo nghề, nâng cao trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn kỹ thuật cho lao động phổ thông.
Từ thực trạng về chất lượng nguồn nhân lao động nước ta có nhiều yếu kém đã gây ra những bất hợp lý trong công tác tổ chức và sử dụng lao động. Vì vậy trong những năm tới chúng ta cần phải cải cách toàn bộ hệ thống giáo dục và đào tạo quốc dân phù hợp với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự hoạt động của thị trường lao động. Trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực mới phải đáp ứng linh hoạt với thi trường lao động ở nước ta cũng như khả năng hội nhập quốc tế và khu vực. Ngoài quy mô và số lượng đào tạo phải chú ý đến chất lượng và lấy chất lượng là yếu tố hàng đầu, đi đôi với nhu cầu đa dạng hoá về ngành nghề nên hướng vào đào tạo một đội ngũ công nhân có tay nghề cao, sử dụng công nghệ hiện đại phục vụ cho nhiệm vụ trước mắt và lâu dài. Các cơ sở đào tạo nghề nên phân bổ đều trong phạm vi cả nước tuy nhiên hệ thống các trường dạy nghề cũng cần căn cứ vào nhu cầu và thế mạnh của từng địa phương. Cần chú trọng đào tạo nghề cho vùng sâu, vùng xa. Ở nông thôn nên tập trung vào các nghề tiểu thủ công nghiệp, nhất là tạo nghề cho các làng nghề truyền thống ở nông thôn theo hai hướng đào tạo ngắn hạn và dài hạn cả về số lượng và chất lượng. Thực hiện gắn bó chặt chẽ giữa đào tạo nghề kỹ thuật với quá trình lao động sản xuất, thực hiện học đi đôi với hành, gắn cơ sở dạy nghề trung tâm đào tạo nghề các huyện, thị trấn với các cơ sở sản xuất kinh doanh trên địa bàn nông thôn với những hình thức thích hợp hiệu quả. Phát triển các mối liên quan môi giới, giới thiệu việc làm tại các huyện với các cơ sở dạy nghề các doanh nghiệp vùng nông thôn, thúc đẩy sự hoạt động của thị trường lao động nông thôn. Bên cạnh việc mở rộng hệ thống các trường dạy nghề thì cũng cần phải có những chính sách thu hút lao động nông thôn tham gia vào đào tạo tại các trường đào tạo nghề kỹ thuật cao như chính sách tuyển dụng đào tạo, chính sách học phí và sử dụng sau đào tạo.
Cùng với đó chúng ta cũng tăng nguồn vốn đầu tư cho đào tạo nghề. Hiện nay chúng ta chủ yếu dành phần lớn nguồn vốn đấu tư cho đại học và cao dẳng. Trong khi đó chúng ta lại rất cần đào tạo đội ngũ công nhân lành nghề. Vì vậy trước mắt cần huy động vốn nước ngoài thông qua các dự án về đào tạo nghề. Huy động các nguồn vốn đóng góp của dân cư, đông viên khuyến khích những cá nhân và gia đình có người đi học nghề đóng góp thêm kinh phí cho đào tạo nghề. Để sử dụng nguồn vốn đầu tư có hiệu quả vào công tác đào tạo nghề thì một mặt phải quản lý nguồn vốn, cấp vốn và sử dụng vốn có hiệu quả, mặt khác phải nâng cao chất lượng đào tạo mà nguồn vốn bỏ ra, tăng cường kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn trong quá trình đào tạo. Đi đôi với điều đó là việc phân bổ kế hoạch đào tạo cũng như kế hoạch sử dụng số người đã qua đào tạo.
5 Đào tạo bồi dưỡng cán bộ khoa học- kỹ thuật.
Trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá, đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật có vị trí hết sức quan trọng trong việc sử dụng công nghệ hiện đại, tiên tiến. hộ là những người tập hợp được lực lượng nghiên cứu và phát minh khoa học có giá trị. Việc bòi dưỡng và lựa chọn cán bộ khoa học- kỹ thuật được tiến hành thông qua hoạt động nghiên cứu và hoạt đông thực tiễn. Từ đó phát hiện ra những năng khiếu, phẩm chất tâm lý đặc biệt mà tuyển chọn họ nhằm bồi dưỡng cho họ có đủ trình độ, học vấn, năng lực chuyên môn, uy tín nghề nghiệp…Nghĩa là cần lấy thực tài chứ không thể tuyển chọn một cách ồ ạt bỏ qua năng lực, sở trường của họ mà điều quan trọng hơn cả là tìm được người có tài được bộc lộ qua hoạt động thực tiễn. Để có được những nhà quản lý kinh doanh giỏi chúng ta cần mở rộng việc tuyển chọn cán bộ quản lý, chuyên gia và người tài từ mọi khu vực và các thành phần kinh tế. Cho nên trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng trình độ quản lý cho đội ngũ cán bộ phải chú ý đến đổi mới toàn diện nội dung chương trình.
6.Tổ chức tốt công tác khoán và hợp đồng lao động.
Thực hiện khoán và hợp đồng là sẽ nâng cao tinh thần trách nhiệm của người lao động. Hiện nay có hai hình thức khoán cơ bản là khoán công việc cho từng tổ nhóm, người lao động và khoán sản phẩm cuối cùng cho từng tổ nhóm, người lao động và hộ gia đình. Tuỳ theo tính chất của từng công việc, sản phẩm trình độ tổ chức của cán bộ mà các hình thức khoán trong nông nghiệp cũng khác nhau. Nhưng dù áp dụng hình thức nào thì vẫn rất cần công tác quản lý, kiểm tra, giám sát của cán bộ quản lý ngành nông nghiệp không để tình trạng khoán trắng sẽ làm giảm hiệu quả của công tác khoán. Hoàn thành việc giao đất giao rừng và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho từng hộ gia đình, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho nông dân chuyển đổi ruộng đất để từng bước xoá bỏ tình trạng đất manh mún. Cho phép chuyển một phần hợp lý đất trồng lúa sang làm vườn và nuôi trồng thuỷ sản có giá trị kinh tế cao, tạo nhiều việc làm cho người lao động. Tăng cường đầu tư vào thuỷ lợi để mở mang vùng sản xuất mới, tăng vụ và tăng thâm canh, sẽ tuyển thêm lao động giải quyết được một lực lượng lao động lớn. Cùng với đó là thực hiện hợp đồng lao động với người lao động dưới dạng văn bản hoặc bằng miệng (đối với công việc có tính chất tạm thời mà thời hạn dưới 3 tháng và đối với lao động giúp việc gia đình). Nội dung của hợp đồng lao động bao gồm những qui định về các quan hệ lao động cơ bản như: công việc phải làm, tiền lương và tiền công, địa điểm làm việc, thời hạn hợp đồng, điều kiện an toàn và vệ sinh lao động, bảo hiểm lao động xã hội với người lao động. Đây là cơ sở nhằm sử dụng đầy đủ hợp lý nguồn lao động trong nông nghiệp nông thôn.
7.Cải tiến tổ chức lao động, thực hiện thù lao lao dộng hợp lý.
Áp dụng những đòn bẩy kinh tế để kích thích lao động, từng bước nâng cao đời sống của người lao động. Tiền lương là một đòn bẩy quan trọng góp phần nâng cao tính tích cực của người lao động bởi tiền lương là giá cả của sức lao động. Cần phải xây dựng qui chế tiền lương vừa phải phù hợp với nguyên tắc của thị trường lao động vừa phải đảm bảo quyền lợi cũng như sự an toàn của người lao động. Tiền lương thực tế phải được hình thành theo nguyên tắc: “lương thoả thuận” dựa trên mức lương tối thiểu do Nhà nước qui định. Đồng thời phải tiến hành cải tiến việc tổ chức lao động để được sự phân công lao động hợp lý bởi vì người lao động chỉ có thể phát huy tốt năng lực của mình khi họ làm việc đúng sở trường và có điều kiện, môi trường lao động thuận lợi. Sự hợp lý trong tính chất lao động xã hội là một tiêu chí quan trọng đánh giá trình độ tính chất quản lý của một nền tảng sản xuất xã hội phát triển. Sự hợp lý này bao gồm từ hoạt động quản lý đến lao động thừa hành, từ vị trí cao đến vị trí thấp, từ lao động trí tuệ phức tạp đến lao động chân tay giản đơn; đồng thời biểu hiện trong toàn bộ quá trình tổ chức lao động từ khâu tuyển dụng đến bố trí, sử dụng, đánh giá, sàng lọc, cũng như việc quản lý đối với từng loại lao động. Như vậy tiền công lao động hợp lý, tổ chức lao động đúng đắn là cơ sở để sử dụng đầy đủ và hợp lý nguồn lao động nông nghiệp, nông thôn.
KẾT LUẬN
Trong quá trình đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn trên tất cả mọi mặt. Điều đó một lần nữa khẳng định đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà Nước nhưng quan trọng hơn là chúng ta đã phát huy được yếu tố con người, coi nguồn nhân lực là tiềm năng lớn lao đóng góp quan trọng vào quá trình phát triển đất nước. Vấn đề đặt ra ở đây là phải làm gì để sử dụng yếu tố con người một cách đầy đủ và hợp lý nhất là trong bối cảnh nông nghiệp nước ta chuyển sang sản xuất hàng hoá.
Mặc dù nguồn nhân lực trong nông nghiệp, nông thôn ở nước ta có những đặc điểm riêng khác biệt và việc sử dụng đầy đủ hợp lý nguồn lao động trong nông nghiệp còn gặp rất nhiều khó khăn nhưng với sự phấn đấu nỗ lực của các ngành, chủ trương chính sách của Đảng, Nhà Nước và quan trọng hơn đó là sự phát triển của chính nền nông nghiệp sẽ giúp cho nguồn nhân lực nước ta từng bước được nâng cao. Đồng thời sẽ đáp ứng được yêu cầu của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước đặc biệt là quá trình công nghiệp hoá hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Trong tương lai không xa nguồn nhân lực trong nông nghiệp sẽ tự tin vững bước đưa nền nông nghiệp nước ta tiến sâu vào hội nhập. Nguồn lao động nông nghiệp sẽ cung nguồn lao động trong các ngành khác góp phần đưa đất nước Việt Nam sánh ngang cùng bạn bè thế giới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình: Quản trị kinh doanh nông nghiêp – PGS.TS Trần Quốc Khánh chủ biên. Nhà xuất bản Lao động xã hội. Hà Nội 2005.
Giáo trình: Nguồn nhân lực đại học Lao động xã hội. PGS.TS Nguyễn Tiệp chủ biên. Nhà xuất bản Lao động – xã hội.
Giáo trình: Kinh tế nông nghiệp. Cố GS.TS Nguyễn Thế Nhã – PGS.TS Vũ Đình Thắng đồng chủ biên. Nhà xuất bản Thống Kê. Hà Nội – 2004.
Sử dụng hiệu quả nhân lực con người ở Việt Nam. TS Nguyễn Hữu Dũng. Nhà xuất bản Lao động - xã hội.
Nguồn nhân lực con người trong quá trình Công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở Việt Nam. TS. Đoàn Văn Khái. Nhà xuất bản Lý luận chính trị,
Một số vấn đề về lao động, việc làm và đời sống người lao động ở Việt Nam hiện nay. Thạc sỹ Đình Đăng Định. Nhà xuất bản Lao động.
Tạp chí: Lý luận chính trị. Số 10 năm 2003.
Văn kiện đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Đảng cộng sản Việt Nam. Nhà xuất bản: Chính trị quốc gia. Hà Nội 2001.
“Xây dựng nền kinh tế Việt Nam phát triển năng động và bền vững trong điều kiện đổi mới và hội nhập quốc tế”. Sách: “ Toàn cảnh kinh tế Việt Nam”. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. Hà Nội 2004.
Tạp chí: Lao động – xã hội. Số 274 năm 2005 và số 278 năm 2006.
Báo Nông nghiệp và phát triển nông thôn kỳ I – Tháng 4 năm 2006.
12.Báo cáo Thường niên năm 2001 của UNDP.
13. Công tác đào tạo sau đại học, cao đẳng và ngành nghề để phát triển nguồn lực ở nước ta. Nguyễn Khắc Chương chủ biên.
14. Về nhiệm vụ phát triển việc làm giai đoạn 2006 – 2010. Nguyễn Hữu Dũng chủ biên.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35894.doc