Đề tài Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại Ngân hàng Công thương Đống Đa

Kinh tế ngoài quốc doanh là một bộ phận cấu thành nền kinh tế quốc dân. Sự tồn tại và phát triển của khu vực kinh tế này có cơ sở về mặt kinh tế và thể chế chính trị. Xét về mặt kinh tế xã hội, Mac đã từng khái quát rằng một kết cấu xã hội không bị loại trừ khi bản thân đó vẫn còn sức sống và một cấu trúc xã hội mới chưa thể ra đời khi những điều kiện này nảy sinh nó chưa xuất hiện. Trên ý nghĩa đó, kinh tế ngoài quốc doanh có cơ sở kinh tế xã hội ở nước ta. Về mặt thể chế chính trị, từ Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã kiên trì và nhất quán thực hiện chiến lược nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Theo đó, sở hữu tư nhân được chấp nhận, kinh tế ngoài quốc doanh được tồn tại và phát triển cùng kinh tế Nhà nước. Qua nghiên cứu, các nhà kinh tế học đã khẳng định tính ưu việt của phương thức sản xuất tư nhân trong việc góp phần hình thành cơ cấu kinh tế và thúc đẩy tăng trưởng qua khả năng thích ứng nhanh nhạy các nhu cầu thị trường, sự thay đổi, về khoa học kỹ thuật, công nghệ mới. Kinh tế ngoài quốc doanh là khu vực kinh tế được hình thành trong quan hệ sở hữu tư nhân, không có sự góp vốn của Nhà nước; Xét cụ thể về loại hình doanh nghiệp, kinh tế ngoài quốc doanh bao gồm: Hợp tác xã, công ty, doanh nghiệp tư nhân, hộ cá thể và cá nhân kinh doanh.

doc107 trang | Chia sẻ: DUng Lona | Lượt xem: 1205 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại Ngân hàng Công thương Đống Đa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ự mình đảm đương nổi. Do đó, có sự liên kết giữa các Ngân hàng. Liên kết đầu tư nhằm cung cấp những khoản tín dụng lớn mà Ngân hàng không đủ khả năng cho vay, khó xác định mức độ rủi ro mạo hiểm. Nhiều Ngân hàng sẽ kết hợp với nhau cùng xem xét đánh giá khách hàng, phân tích khả năng sinh lời của dự án đầu tư. Các Ngân hàng tham gia đầu tư phải ký hợp đồng liên kết đầu tư, liên kết trách nhiệm quyền hạn của từng thành viên. Trong những năm qua, Ngân hàng Công thương Đống Đa chưa thực sự có nhiều dự án lớn đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh mà những dự án cho vay lớn đều thuộc khu vực kinh tế quốc doanh mà Ngân hàng có thể thực hiện được. Do vậy, trong những năm tới Ngân hàng Công thương Đống Đa cần xem xét việc cho vay đối với các dự án đầu tư lớn thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, đồng thời liên kết với một số Ngân hàng Thương mại khác thực hiện đánh giá các dự án, khả năng sinh lời của dự án, năng lực của khách hàng. Mục đích của hoạt động này là nhằm san sẻ rủi ro giữa các Ngân hàng nếu rủi ro xảy ra và đảm bảo được việc đánh giá khách hàng chính xác hơn nhờ sự kết hợp kinh nghiệm giữa các Ngân hàng. 3.2.1.3. Xử lý tốt mối quan hệ với khách hàng: Để hạn chế vấn đề thông tin không cân xứng, Ngân hàng Công thương Đống Đa cần có quan hệ lâu dài với khách hàng, để dễ dàng nắm bắt được những thông tin về người vay cũng như tạo được nhiều điều kiện cho việc giám sát của Ngân hàng được tốt hơn. Khi cho một khách hàng quen vay, Ngân hàng sẽ tốn ít thời gian hơn trong việc xác định các thông tin về người vay. Khách hàng quan hệ lâu dài cũng giúp cho Ngân hàng đối phó với những rủi ro bất ngờ mà Ngân hàng cũng không thể lường trước được. Vì khách hàng muốn giữ mối quan hệ lâu dài với Ngân hàng để có những ưu đãi trong vay vốn. Trong thực tế hoạt động, không một Ngân hàng nào có thể lường hết được những rủi ro bất ngờ khi viết ra những quy định hạn chế trong một hợp đồng cho vay. Sẽ luôn có những rủi ro trong hoạt động của người vay tiền, không có một quy định nào có thể loại bỏ chúng cả. Giữ mối quan hệ lâu dài với khách hàng, xây dựng chiến lược khách hàng, tạo dựng một đội ngũ khách hàng gắn bó, trung thực là một điều hết sức cần thiết góp phần hạn chế rủi ro cho vay. Trong những năm qua, khách hàng truyền thống của Ngân hàng Công thương Đống Đa là các doanh nghiệp quốc doanh. Đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh khách hàng có mối quan hệ lâu dài với Ngân hàng còn ít. Do vậy, Ngân hàng Công thương Đống Đa rất hạn chế trong việc cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh nên dư nợ cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh còn rất thấp và rủi ro cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh còn ở mức cao. Để tăng dư nợ và hạn chế rủi ro cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, Ngân hàng Công thương Đống Đa cần thiết lập mối quan hệ tốt với khách hàng và tìm hiểu khách hàng kỹ trước khi tiến hành cho vay. Để có thể thiết lập mối quan hệ tốt và lâu dài với khách hàng khu vực kinh tế ngoài quốc doanh thì những vấn đề mà Ngân hàng Công thương Đống Đa cần làm là phải tổ chức được hội nghị khách hàng. Muốn thực hiện tốt hội nghị khách hàng Ngân hàng Công thương Đống Đa cần chú ý các vấn đề sau: - Cần làm cho hội nghị khách hàng trở thành một diễn đàn dân chủ, trao đổi góp ý thẳng thắn, đối thoại giữa các thành viên tham gia hội nghị trong đó có những Ngân hàng. Chính qua những hoạt động này mà Ngân hàng có thể nắm bắt được nhiều thông tin của từng khách hàng. - Ngân hàng cần chuẩn bị tốt nội dung cho từng hội nghị và nên gửi trước cho một số khách hàng lớn hoặc khách hàng nào đang có nhiều vấn đề cần được tháo gỡ. Cách làm này sẽ làm cho hội nghị đạt hiệu quả cao hơn. - Hội nghị có thể tiến hành theo định kỳ, ví dụ mỗi năm một lần hoặc hai lần. Ngoài ra, có thể có hội nghị bất thường nếu Ngân hàng thấy cần thiết, đặc biệt trong những trường hợp có nhiều khó khăn cần giải quyết. 3.2.1.4. Tham gia quỹ bảo hiểm tín dụng: Tham gia bảo hiểm tín dụng là một trong những giải pháp khá quan trọng nhằm san sẻ, hạn chế rủi ro. Hoạt động này có lợi không những cho các tổ chức kinh tế, các cá nhân tham gia vào quan hệ tín dụng mà còn đảm bảo cho sự ổn định của nền kinh tế, giảm thiệt hại trong quan hệ tín dụng. Trong những năm qua, hoạt động bảo hiểm tín dụng chưa được Ngân hàng Công thương Đống Đa coi trọng và thực hiện phổ biến. Điều này là do hoạt động bảo hiểm tín dụng chưa thực sự phát triển và phổ biến ở nước ta. Để hạn chế rủi ro cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh Ngân hàng Công thương Đống Đa cần quan tâm tới công tác bảo hiểm tín dụng, cần phổ biến hơn nữa hoạt động bảo hiểm tín dụng đảm bảo quyền lợi của Ngân hàng cũng như khách hàng vay vốn. Hiện nay có ba hình thức bảo hiểm tín dụng mà Ngân hàng Công thương Đống Đa có thể thực hiện là: - Khách hàng vay vốn tín dụng tham gia mua bảo hiểm cho ngành nghề mà họ kinh doanh, vì vậy những khoản tín dụng trong trường hợp này coi như cũng được bảo hiểm một cách gián tiếp. Phương pháp này không làm phát sinh thêm thao tác nghiệp vụ cho Ngân hàng. Để sử dụng tốt hình thức này về phía Ngân hàng cần có chính sách ưu tiên cho vay về khối lượng cũng như lãi suất để khuyến khích họ tích cực mua bảo hiểm, có lợi cho cả người vay và người cho vay. - Ngân hàng tự bảo hiểm cho mình bằng cách lập quỹ dự phòng rủi ro để bù đắp thiệt hại khi gặp rủi ro tín dụng. Từ đó hạn chế được những hậu quả xấu có thể xảy ra và vẫn bảo đảm được tình hình tài chính của Ngân hàng. Còn nếu rủi ro không xảy ra thì số tiền ở quỹ dự phòng được coi là khoản lợi nhuận của Ngân hàng. Quỹ dự phòng sẽ ngày càng lớn qua các năm và khả năng bù đắp của nó ngày càng lớn. - Ngân hàng trực tiếp mua bảo hiểm của các tổ chức bảo hiểm chuyên nghiệp. ở nước ta hiện nay ngành bảo hiểm chưa thực hiện nghiệp vụ bảo hiểm tín dụng nên câu hỏi được đặt ra cho ngành Ngân hàng mua bảo hiểm ở đâu. Để giải quyết vấn đề này, giải pháp nêu ra là thành lập tổ chức bảo hiểm tín dụng trực thuộc Ngân hàng Nhà nước. Đối tượng bảo hiểm là tất cả các khoản tín dụng đầu tư ở Việt Nam. Sự ra đời của tổ chức này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc ngăn ngừa rủi ro tín dụng của các Ngân hàng Thương mại, công ty tài chính hợp tác xã tín dụng. 3.2.1.5. Trích lập quỹ phòng ngừa rủi ro: Hiện nay, việc tạo lập quỹ phòng ngừa rủi ro luôn được coi trọng và được coi là giải pháp mang tính chiến lược nhằm hạn chế và phòng ngừa rủi ro tại Ngân hàng Công thương Đống Đa. Việc trích lập quỹ dự phòng rủi ro được thực hiện theo Quyết định số 488/2000 QĐ-NHNN ban hành ngày 27/11/2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Trong thời hạn 15 ngày làm việc đầu tiên tháng thứ 3 của mỗi quý , tổ chức tín dụng thực hiện việc phân loại tài sản “có” tại thời điểm cuối ngày của ngày cuối cùng tháng thứ 2 và trích lập dự phòng để xử lý rủi ro. Trường hợp số tiền phải trích lập dự phòng lớn hơn số tiền dự phòng hiện còn thì tổ chức tín dụng phải trích thêm phần chênh lệch thiếu. Trường hợp số tiền phải trích lập dự phòng nhỏ hơn số tiền dự phòng hiện còn thì tổ chức tín dụng phải hoàn lại phần chênh lệch thừa để giảm số tiền dự phòng đã trích. Việc xử lý rủi ro được thực hiện một quý một lần sau khi đã thực hiện việc trích lập dự phòng rủi ro và chỉ được xử lý rủi ro trong phạm vi dự phòng hiện có. Tuy nhiên, Ngân hàng Công thương Đống Đa cần phải xác định rõ việc trích lập quỹ dự phòng rủi ro như thế nào cho hiệu quả. Vì nếu lập quỹ dự phòng rủi ro quá mức sẽ gây lãng phí không cần thiết, nhưng nếu dự phòng quá thấp sẽ không đủ bù đắp rủi ro khi xảy ra gây ra tình trạng bất ổn trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Việc trích lập quỹ phòng ngừa rủi ro phải luôn luôn được coi trọng để đảm bảo có nguồn bù đắp khi xảy ra rủi ro trong hoạt động cho vay. 3.2.2. Đối với cán bộ làm công tác tín dụng Trong bất cứ loại hình kinh doanh nào con người cũng là yếu tố hàng đầu quyết định mọi hoạt động. Trong kinh doanh Ngân hàng – một ngành kinh doanh đặc biệt và đầy rủi ro, vai trò con người ngày càng được phát huy. Các cán bộ tín dụng phải thể hiện đầy đủ tư cách của một người nắm vững trình độ chuyên môn, có đầy đủ tư cách đạo đức và kiến thức về xã hội phong phú. Thực tế tại Ngân hàng Công thương Đống Đa trong những năm qua công tác cán bộ tín dụng đã được Ngân hàng chú trọng. Ngân hàng Công thương Đống Đa đã cử nhiều cán bộ đi học nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ đáp ứng được nhu cầu phát triển của Ngân hàng trong cơ chế thị trường. Tuy nhiên, để bắt kịp với sự phát triển của nền kinh tế và quá trình hội nhập đòi hỏi cán bộ Ngân hàng phải năng động, nắm bắt thông tin về thị trường cũng như khách hàng một cách nhanh nhất, đặc biệt phải hiểu sâu đặc điểm và sự phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh hiện nay. Để thực hiện điều này Ngân hàng Công thương Đống Đa phải chú trọng nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng thông qua các công việc chủ yếu sau: Thông qua công tác tổ chức để nắm bắt được khả năng, trình độ của từng cán bộ từ đó bố trí công việc phù hợp, đồng thời tổ chức đào tạo bồi dưỡng trình độ cán bộ chủ chốt trong từng nghiệp vụ. Đối với cán bộ tín dụng cần phải giao trách nhiệm rõ ràng nhưng cũng phải quan tâm đến quyền lợi hợp pháp của họ tạo điều kiện cho cán bộ tín dụng có quyền và trách nhiệm của họ trong quan hệ tín dụng. Cần chuyên môn hoá đội ngũ cán bộ tín dụng để có một khoảng tín dụng có chất lượng, yêu cầu đầu tiên là cán bộ tín dụng phải là người am hiểu khách hàng, phân tích được tình hình tài chính, khả năng thanh toán của khách hàng, xác định được tiềm năng phát triển và dự báo được những biến động trong tương lai, nắm rõ được tư cách đạo đức của khách hàng. Hơn nữa, trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi cán bộ tài chính phải am hiểu lĩnh vực mà mình đầu tư. Cán bộ tín dụng hàng ngày phải xử lý nghiệp vụ có tính biến động và liên quan đến nhiều lĩnh vực, ngành nghề kinh tế gặp gỡ trực tiếp với nhiều loại khách hàng khác nhau đối mặt với nhiều cám dỗ, có nhiều cơ hội để thực hiện hành vi vụ lợi. Vì vậy công tác tuyển chọn cán bộ tín dụng cần lựa chọn các cán bộ có đạo đức, tâm huyết với nghề nghiệp, có trình độ chuyên môn, phải đảm bảo một số tiêu chuẩn nhất định như: + Có kiến thức trình độ nghiệp vụ cơ bản. + Có đạo đức trách nhiệm, nghề nghiệp cao. + Có bản lĩnh, kinh nghiệm nghề nghiệp. + Có khả năng dự đoán tình hình kinh tế. + Có uy tín trong quan hệ xã hội Thường xuyên tổ chức các lớp học nghiệp vụ như họ học về chế độ, phương pháp kế toán mới, phương pháp thẩm định dự án đầu tư, phân tích hoạt động kinh doanh nhằm nâng cao nghiệp vụ tín dụng. 3.2.3. Phân tích đánh giá khách hàng kỹ lưỡng trước khi cho vay: Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, các thủ thuật lừa đảo của các khách hàng ngày càng trở nên tinh vi hơn đặc biệt là các khách hàng thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Do vậy, để hạn chế rủi ro cho vay Ngân hàng Công thương Đống Đa cần nghiên cứu các quy trình đánh giá khách hàng phổ biến cho các cán bộ tín dụng. Cán bộ tín dụng cần nghiêm túc tuân thủ các nguyên tắc đánh giá khách hàng trước khi tiến hành hoạt động cho vay. Để đánh giá khách hàng vay vốn có hiệu quả Ngân hàng Công thương Đống Đa cần chú ý các vấn đề sau: 3.2.3.1. Xác định năng lực pháp lý: Để tránh rủi ro, Ngân hàng Công thương Đống Đa không lên thiết lập quan hệ tín dụng với những khách hàng không có đủ năng lực pháp lý vì khi cầm tiền của Ngân hàng trong tay họ sẽ sẵn sàng lừa gạt chiếm định vốn của Ngân hàng. Hơn nữa, do không có năng lực pháp lý nên hoạt động sản xuất kinh doanh của họ không được cơ quan có thẩm quyền cho phép, không được sự công nhận của pháp luật, nên thu nhập của họ sẽ bấp bênh, không ổn định. Do đó, để bảo đảm an toàn vốn, Ngân hàng chỉ quan hệ với những khách hàng có đủ năng lực pháp lý, những doanh nghiệp có đủ giấy phép kinh doanh quyết định thành lập quyết định bổ nhiệm người điều hành, Ngân hàng chỉ cho phép những người có đủ thẩm quyền công ty đứng ra hợp đồng với Ngân hàng. Đối với công ty cổ phần, công ty liên doanh thì Ngân hàng cũng phải xem người đứng ra vay vốn có đủ tư cách đại diện cho tập thể hay không? Việc Ngân hàng lựa chọn quan hệ với những khách hàng có đủ năng pháp lý sẽ tránh được tình trạng không có người nhận nợ trực tiếp hoặc nhận nợ không đủ tư cách. Ngân hàng sẽ thực sự trở thành chủ nợ và được pháp luật đảm bảo quyền đòi nợ. 3.2.3.2. Đánh giá và nhận định khách hàng: Thứ nhất, Ngân hàng Công thương Đống Đa phải phân tích được tình hình tài chính của khách hàng. Để đáp ứng nhu cầu tín dụng cho mọi thành phần kinh tế, đồng thời không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả sử dụng nguồn vốn hiện có thì những tổ chức tín dụng cho vay cần phải biết: Đối tượng được đầu tư là ai? thời gian nào thu được vốn vay. Vì vậy, phân tích hoạt động kinh tế là trọng tâm là phân tích khả năng tài chính của khách hàng là hết sức cần thiết trong tín dụng Ngân hàng trong công tác tín dụng Ngân hàng. Nó giúp nhân hàng nhìn nhận một cách lôgic tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong quá khứ cũng như hiện tại, dự kiến xu hướng phát triển của doanh nghiệp trong tương lai. Qua đó, cũng đánh giá chính xác đối tượng được đầu tư để có đối sách thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả đồng vốn đầu tư, đồng thời đánh giá đúng được cơ cấu chất lượng tín dụng khả năng thu lợi và lập kế hoạch cung cấp tín dụng theo từng đối tượng cho vay cũng như theo từng lĩnh vực bỏ vốn. Hầu hết các khách hàng khi vay tiền đều phải gửi tới Ngân hàng các báo cáo tài chính để chứng minh tình hình tài chính của mình như : bảng tổng kết tài sản, báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh, báo cáo về tình hình thay đổi tài chínhĐối với một doanh nghiệp hoặc một cá nhân vay tiêu dùng thì báo cáo tài chính là bảng kê khai tài sản, các khoản các khoản nợ, tiền lãi, các chi phí và hoá đơn chưa thanh toán Cán bộ tín dụng của Ngân hàng sẽ căn cứ vào đó để đánh giá một cách tổng quát về khả năng tài chính của người vay từ đó có quyết định cho vay đúng đắn. Thứ hai, đánh giá tính khả thi của dự án đầu tư. Để có thêm thông tin về khách hàng, Ngân hàng Công thương Đống Đa phải đánh giá cả tính khả thi của dự án kinh doanh. Vì mục đích của tín dụng là đầu tư, bổ xung vốn cho khách hàng, phục vụ cho các nhu cầu sản xuất kinh doanh, nên trong quan hệ với Ngân hàng, khách hàng phải giải trình dự án hoặc kế hoạch sản xuất của mình để xin vay vốn. Đánh giá tính khả thi của dự án cũng là một việc làm không thể thiếu được đối với mỗi Ngân hàng trước khi ra quyết định đầu tư. Chất lượng đánh giá càng cao thì tính mạo hiểm trong cho vay càng giảm. Những vấn đề cần phân tích khi đánh giá một dự án sản xuất kinh doanh bao gồm: - Nghiên cứu cơ hội đầu tư. - Tính khả thi của dự án. Căn cứ vào chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước nguồn tài nguyên thiên nhiên, khả năng khai thác chế biến và vận chuyển chúng, điều kiện tự nhiên ảnh hưởng tới sản xuất kinh doanh, khả năng cạnh tranh và giá cả thị trường Từ đó, nghiên cứu và dự tính được doanh thu, chi phí và lợi nhuận mà dự án mang lại. Thứ ba, đánh giá bản thân khách hàng: Đánh giá về khách hàng là tìm hiểu uy tín và trình độ của từng người đứng đầu doanh nghiệp hoặc khách hàng. Vì những người này có vai trò quan trọng đối với chất lượng và hiệu quả của quá trình kinh doanh. Một người có uy tín, có kiến thức kinh doanh, biết nhìn xa trông rộng sẽ biết lãnh đạo công việc kinh doanh thành công, tránh được rủi ro. Để làm tốt công tác này Ngân hàng Công thương Đống Đa có thể đánh giá theo các tiêu chuẩn sau: - Năng lực kinh doanh của người đó, sự nhạy bén, ý trí tự tin, khả năng và thế mạnh trong việc cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường. - Phải có trình độ học vấn, được đào tạo và trang bị những kiến thức cần thiết. - Phải xem xét phẩm chất đạo đức của người đó, tránh tình trạng gian lận, lừa đảo, thất tín khi sử dụng những khoản tín dụng lớn. 3.2.3.3. Sử dụng các thông tin từ bên ngoài: Để hiểu rõ khách hàng mà Ngân hàng định cho vay đặc biệt là các khách hàng thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, công tác thu thập thông tin từ bên ngoài đóng vai trò quan trọng. Trong những năm qua, Ngân hàng Công thương Đống Đa đã rất chú trọng sử dụng các thông tin từ bên ngoài để đánh giá khách hàng. Tuy nhiên, công tác thu thập thông tin từ khách hàng vay vốn, từ bên ngoài vẫn chưa đạt hiệu quả cao. Để việc sử dụng thông tin từ bên ngoài phát huy được tác dụng tối đa trong việc đánh giá khách hàng vay vốn, đặc biệt là các khách hàng thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh Ngân hàng Công thương Đống Đa cần chú ý các vấn đề sau: Một là, Ngân hàng Công thương Đống Đa cần tiến hành phỏng vấn người xin vay. Qua phỏng vấn, Ngân hàng biết thêm nhiều thông tin về người xin vay tiền. Cụ thể là: biết rõ hơn về mục đích nhu cầu vay vốn, về tính chân thật và khả năng trả nợ của người vay ( biết thêm về sức tiêu thụ sản phẩm). Hai là, Ngân hàng Công thương Đống Đa cần thực hiện mở sổ theo dõi các khách hàng tại Ngân hàng. Ngân hàng Công thương Đống Đa phải lưu trữ hồ sơ của người gửi cũng như người vay tiền. Nếu là khách hàng cũ, sổ sách có thể cho biết tình hình chi trả cho khách hàng trước đây. Nếu là khách hàng mới, hồ sơ cần lưu trữ các thông tin cần thiết. Ba là, Ngân hàng Công thương Đống Đa nên sử dụng các thông tin từ những cơ quan chuyên theo dõi các doanh nghiệp trong nước. Chi nhánh phải thường xuyên theo dõi các thông tin được cung cấp từ hệ thống thông tin tín dụng của NH Việt Nam (gồm Trung tâm Thông tin Tín dụng của NHNN và các thông tin tín dụng của các NHTM). Hệ thống thông tin này được đánh giá là đáng tin cậy vì do Nhà nước quản lý. Tuy nhiên mới thành lập nên chưa hoàn thiện và đầy đủ cả về chất lượng và số lượng. Chi nhánh cần lưu ý nguồn thông tin đại chúng vì đây là nguồn thông tin kết quả nhất. Cần có sự hợp tác trao đổi thường xuyên với các Tổ chức tín dụng khác, các cơ quan. Ngoài ra Chi nhánh cũng có thể tham khảo, thu thập thông tin từ những nguồn thu qua mạng máy nối với các tổ chức tín dụng. Tìm hiểu các thông tin kinh tế qua mạng Internet. Nó là biện pháp quản lý trên cơ sở các thông tin phát triển lựa chọn khách hàng nâng cao chất lượng thẩm định và hạn chế rủi ro. Trước nhu cầu đòi hỏi ngày một cao nhằm giảm rủi ro tới mức thấp nhất, cách đây vài năm Ngân hàng Nhà nước đã thành lập trung tâm rủi ro tín dụng để cung cấp thông tin về hồ sơ khách hàng. Khi Ngân hàng Thương mại nào có khách hàng mới thì thông qua trung tâm rủi ro tín dụng sẽ biết được khách hàng đó rõ hơn. Nếu doanh nghiệp nào làm ăn thua lỗ, có tình hình tài chính kém không thể tiếp tục vay ở Ngân hàng đã quan hệ mà sang Ngân hàng khác thì qua trung tâm, Ngân hàng mới sẽ có ngay hồ sơ của họ. Như vậy, sẽ tránh được rủi ro cho Ngân hàng, lừa đảo sẽ được ngăn chặn kịp thời. Bốn là, điều tra nơi hoạt động của người vay. Ngân hàng Công thương Đống Đa cần đôn đốc cán bộ tín dụng nên thường xuyên đến “ tham quan” trụ sở kinh doanh của người vay tiền. Bởi vì, một cán bộ tín dụng có kinh nghiệm sẽ biết được về sự phát triển và trình độ quản lý của một doanh nghiệp qua các tiện nghi, không khí làm việc của doanh nghiệp, vẻ gọn gàng, trật tự thường là dấu hiệu lành mạnh đang ở thế cân bằng. Ngược lại, một số bộ phận bận rộn, một số lại quá rảnh rỗi có thể là do sản xuất đình trệ, hàng hoá tồn kho quá mức và kém chất lượng là những thông tin cần quan tâm. Trên đây là toàn bộ vấn đề về khách hàng mà Ngân hàng Công thương Đống Đa cần xem xét trước khi cho vay. Tuy nhiên, để nguồn vốn cho vay được thực hiện có hiệu quả thì Ngân hàng Công thương Đống Đa phải luôn tiến hành kiểm tra trong và sau quá trình cho vay về mục đích sử dụng tiền vay, cách thức bỏ vốn kinh doanh và khả năng thu hồi vốn cho vay Trong trường hợp khách hàng có biểu hiện gian dối trong việc thực hiện cam kết tín dụng và sử dụng vốn sai mục đích thì Ngân hàng cần phải kiên quyết thu hồi vốn để tránh tình trạng phát sinh nợ quá hạn, nợ khó đòi. 3.2.4. Chú trọng công tác bảo đảm tín dụng: Bảo đảm tín dụng là một việc thiết lập nguồn thu nợ thứ hai cho Ngân hàng. Một sự đảm bảo rằng sẽ có một nguồn tiền khác nữa dùng để hoàn trả nợ Ngân hàng nếu bên vay vốn mất khả năng trả nợ. Bảo đảm tín dụng đối với các khoản vay của Ngân hàng có thể là trực tiếp khi người vay mang tài sản thế chấp đến Ngân hàng hoặc gián tiếp khi bên thứ ba thế chấp, bảo lãnh cho món nợ của người vay. Bảo đảm tín dụng cần có những chuẩn mực nhất định để sao cho Ngân hàng được phép chuyển nhượng nó một cách dễ dàng, bảo chi tối đa cho số tiền vay khi khách hàng không có khả năng trả nợ. Do đó, bảo đảm tín dụng phải: - Có thuộc tính chuyển nhượng, kèm theo các chứng từ sở hữu đơn giản để chuyển nhượng, không bị ép giá, gây khó dễ. - Vật dùng làm bảo đảm phải dễ xác định và có tính ổn định trong thời gian dài, điều này sẽ liên quan đến việc tính toán các khoản dự phòng. Các khoản tiền gửi là an toàn nhất trong đảm bảo vì giá trị đồng tiền không biến động, giá trị của nó còn được gia tăng bởi lãi tích luỹ. - Cần có thị trường để bán các đảm bảo tín dụng nhằm thu hồi nợ khi người vay không có khả năng trả nợ. Cổ phiếu là một tài sản thông dụng có sẵn thị trường để bán; bất động sản gắn liền với đất đai, tài sản cụ thể thì không dễ tìm người để bán. Phải có chứng thư sở hữu để Ngân hàng lắm giữ, chứng thư sở hữu không có các điều kiện kèm theo gây khó khăn cho Ngân hàng, tạo ra một chi phí không hợp lý. Bảo đảm tín dụng là nguyên tắc bắt buộc khi Ngân hàng tiến hành cho các khách hàng vay vốn. Tại Ngân hàng Công thương Đống Đa bảo đảm tín dụng luôn được quán triệt trong công tác tín dụng. Tuy nhiên, trong những năm qua công tác bảo đảm tín dụng vẫn chưa được các cán bộ tín dụng thực hiện đúng nguyên tắc nên rủi ro cho vay vẫn xảy ra tại Ngân hàng Công thương Đống Đa. Bảo đảm tín dụng tại Ngân hàng Công thương Đống Đa được thực hiện thông qua các hình thức sau: thế chấp, cầm cố, bảo lãnh, tín chấp. u Thế chấp tài sản vốn vay Ngân hàng là việc doanh nghiệp đảm bảo bằng vật chất có đầy đủ cơ sở pháp lý về kinh tế để thực hiện hợp đồng tín dụng. Tài sản thế chấp có thể là động sản hay bất động sản và phải hội tụ các tiêu chuẩn sau: - Tài sản phải đầy đủ pháp lý chứng minh tài sản là sở hữu hợp pháp của người vay, tải sản không thuộc đối tượng mà luật pháp cấm mua bán chuyển nhượng hay tài sản đang có tranh chấp, đang được thế chấp vay vốn ở Ngân hàng khác. Trường hợp tài sản thế chấp thuộc đồng sở hữu của nhiều người thì khi thế chấp phải có sự nhất trí bằng văn bản của tất cả các đồng sở hữu. - Tài sản thế chấp phải có đủ tiêu chuẩn hàng hoá được thị trường chấp nhận khi phát mại. Việc thế chấp tài sản phải được lập thành văn bản (hợp đồng) theo mẫu thống nhất của Ngân hàng. Trong đó ghi rõ chủng loại, số lượng, chất lượng, giá trị tài sản, thời gian và phương thức xử lý tài sản thế chấp. u Cầm cố tài sản là việc bên vay đưa tài sản của mình cho Ngân hàng giữ để đảm bảo cho việc trả nợ. Nếu đến hạn bên vay trả hết nợ thì Ngân hàng trả lại tài sản cầm cố. Nếu bên vay không trả hết nợ gốc và lãi thì tài sản cầm cố được xử lý theo phương thức hai bên cùng thoả thuận hoặc Ngân hàng có quyền đề nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phát mại tài sản cầm cố để thu hồi nợ. Giống như thế chấp tài sản vay vốn, việc cầm cố tài sản vay vốn cũng phải được lập thành văn bản trong đó ghi rõ chủng loại, số lượng, chất lượng, giá trị Khi cầm cố Ngân hàng cũng phải có trách nhiệm bảo quản, không được sử dụng vào mục đích khác. Đối với vật cầm cố là kho hàng thì Ngân hàng và bên vay cùng quản lý. Ngân hàng thường xuyên kiểm tra hàng hoá trong kho về chất lượng, số lượng, giá trị, chỉ cho phép bên vay được xuất kho để sử dụng hàng hoá tương đương với số tiền mà bên vay đã trả. u Bảo lãnh trong lĩnh vực tín dụng Ngân hàng là việc một cam kết trả nợ thay cho người mắc nợ trong trường hợp người mắc nợ mất khả năng thanh toán. Việc bảo lãnh phải được thực hiện bằng văn bản hoặc hợp đồng bảo lãnh hợp pháp của chủ tài khoản đứng ra bảo lãnh. Bảo lãnh là hoạt động quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội nói chung và trong kinh doanh tiền tệ nói riêng. Thực hiện bảo lãnh sẽ tạo thêm khả năng thực hiện các giao dịch vay mượn, tăng cường sự ổn định, giảm được nhiều rủi ro trong quan hệ vay mượn. u Tín chấp: Đối với những doanh nghiệp đã có quan hệ tín dụng thường xuyên với Ngân hàng, vay trả sằng phẳng, có tài khoản tiền gửi tại Chi nhánh mà số dư tài khoản tiền gửi thường xuyên đủ khả năng trả nợ và lãi trong từng kỳ hạn, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có lãi thì Ngân hàng có thể cho vay theo phương thức tín chấp. Khi thực hiện phương thức cho vay này thì thời hạn cho vay không nên quy định dài, tối đa bằng chu kỳ luân chuyển vốn của đối tượng xin vay.Trong những năm qua, hoạt động bảo đảm tín dụng tại Ngân hàng Công thương Đống Đa vẫn còn một số bất cập như: Việc định giá tài sản thế chấp còn khó khăn, hoạt động tín chấp chưa được sử dụng phổ biến, phát mãi tài sản bảo đảm còn chậm và khó khăn... Tuy nhiên, Ngân hàng Công thương Đống Đa vẫn coi bảo đảm tín dụng là công cụ hữu hiệu nhằm hạn chế rủi ro cho vay. Để hoạt động bảo đảm tín dụng luôn đạt hiệu quả cao, là công cụ hữu hiệu trong việc hạn chế rủi ro, Ngân hàng Công thương Đống Đa cần đề ra các giải pháp nhằm phát huy được tối đa công dụng của bảo đảm tín dụng trong việc hạn chế rủi ro cho vay đặc biệt đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Cụ thể Ngân hàng Công thương Đống Đa cần chú ý các vấn đề sau: - Cần nghiêm túc thực hiện các nguyên tắc bảo đảm tín dụng mà Ngân hàng Nhà nước đề ra. - Phải xác định đúng giá trị của tài sản thế chấp. Kiểm tra thường xuyên việc áp dụng bảo đảm tín dụng với các khoản vay của Ngân hàng, đặc biệt đối với các khoản vay kinh tế ngoài quốc doanh. - Cần phát triển hình thức tín chất phù hợp với sự phát triển hội nhập của nền kinh tế, phát triển hình thức bảo đảm bằng chứng từ có giá. Trong điều kiện thị trường chứng khoán của chúng ta hiện nay thì loại giấy tờ có giá có tính ổn định cao và chứa đựng ít rủi ro nhất là trái phiếu Chính phủ, Chi nhánh nên mở rộng hình thức đảm bảo bằng loại tài sản này. Trên đây là một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại Ngân hàng Công thương Đống Đa. Đây là những giải pháp mang tính chất vi mô mà Ngân hàng Công thương Đống Đa cần thực hiện. Để các giải pháp trên phát huy tác dụng hơn nữa cần có những biện pháp vĩ mô từ phía Nhà nước và các ban ngành có liên quan nhằm tạo môi trường hoạt động cho các Ngân hàng Thương mại. 3.2.5. Kiểm tra giám sát hoạt động tín dụng Là một quá trình phức tạp và quan trọng đối với quản lý rủi ro tín dụng. Nếu làm tốt công tác này sẽ hạn chế được rất nhiều rủi ro tín dụng. Kiểm tra, giám sát được thực hiện trong nhiều khâu và không nên xem nhẹ bất cứ khâu nào. Có thể tiến hành thông qua các bước sau: - Kiểm tra trước khi cho vay: Cán bộ tín dụng phải kiểm tra các điều khoản trong Hợp đồng Tín dụng có được thực hiện đúng không, tính khả thi của dự án đầu tư, thẩm định dự án của công trình nhằm loại trừ những chi phí bất hợp lý, không thuộc đối tượng cho vay của NH, kiểm tra về các đảm bảo tín dụng. - Kiểm tra trong khi cho vay: Muốn thực hiện được các bước công việc này NH cần khẩn trương nhanh chóng thu thập thông tin và tài liệu có liên quan đến những khoản vay của Khách hàng như: Biên bản nghiệm thu bàn giao công trình, hoá đơn mua bán vật tư, kiểm tra tiến độ thực hiện dự án để từ đó nắm bắt chặt chẽ kế hoạch sử dụng vốn của khách hàng. - Kiểm tra sau khi cho vay: Sau khi phát tiền vay Ngân hàng phải tiếp tục kiểm tra việc sử dụng vốn có đúng mục đích không có phát huy được hiệu quả không ? và đồng thời kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch trả nợ của khách hàng. 3.2.6 Xây dựng chiến lược khách hàng đúng đắn: Sự phát triển của khách hàng cũng là sự phát triển của NH trong tương lai, ngược lại rủi ro của khách hàng cũng ảnh hưởng không nhỏ đến NH.Do đó, một NH nhất thiết phải xây dựng cho mình một chiến lược khách hàng đúng đắn. Xây dựng chiến lược khách hàng hiệu quả không những giúp NH có thể thu hút được nhiều khách hàng hơn, từ đó có thể lựa chọn được những khách hàng tốt làm ăn có hiệu quả, ổn định được đầu ra cho NH mà còn giúp NH hạn chế được nhiều rủi ro tín dụng. Để chiến lược khách hàng phát huy tối đa hiệu quả thì công tác lựa chọn và phân loại khách hàng là việc cực kỳ quan trọng đối với mỗi khách hàng khác nhau, NH cần có chính sách “đối xử”, “lôi kéo”, “thu hút” khác nhau. Để phân loại khách hàng NH phải dựa vào rất nhiều chỉ tiêu như: thực trạng hoạt động tài chính, vòng quay vốn, khả năng thanh toán, tiềm lực tài chính, mức lợi nhuận, tình hình công nợ Ngoài ra NH còn có thể nghiên cứu về vị thế sản phẩm của khách hàng trên thị trường, sự ổn định của thị trường đầu vào và đầu ra, các yếu tố về công nghệ nhân lực Nhìn chung, NH có thể phân chia khách hàng thành 4 loại như sau: Loại A: Là các doanh nghiệp mạnh có uy tín và sức mạnh trên thị trường, có tình hình tài chính ổn định, khả năng thanh toán cao là những doanh nghiệp lớn có uy tín. NH cần đặt ra các biện pháp chính sách nhằm tiếp cận, thu hút, lôi kéo các khách hàng này thông qua các dịch vụ tiện ích hay ưu đãi, lãi suất thấp hơn một mức quy định và độ rủi ro đối với các khoản vay này là rất thấp và hầu như không có. Loại B: Là các doanh nghiệp có tình hình tài chính tương đối ổn định, thị trường tiêu thụ sản phẩm tốt hoặc có nhiều triển vọng hứa hẹn có tiềm năng phát triển trong tương lai. Đây là nhóm đối tượng quan trọng để NH đầu tư, đặt và duy trì mối quan hệ. Điều này không chỉ đơn thuần là quan hệ vay mượn trong hiện tại mà có thể còn là các bạn hàng lớn trung thành, là các quan hệ làm ăn lớn, lâu dài, ổn định trong tương lai. Do đó NH có thể mạnh dạn đầu tư đổi mới công nghệ, đầu tư vốn tạo điều kiện giúp các khách hàng này phát triển. Loại khách hàng này cũng có thể được xem xét giảm lãi suất. Loại C: Là những khách hàng đang ở trong tình trạng căng thẳng về tình hình tài chính, sự bất ổn về sản phẩm tiêu thụ như sản phẩm đã bão hoà hay không có khả năng cạnh tranh. Đối với các khách hàng này NH cần hết sức thận trọng và tiến hành thẩm định kỹ càng trước khi cho vay và nếu cho vay NH cần chấp nhận mức độ rủi ro nhất định nên phải thường xuyên giám sát và kiểm tra chặt chẽ. Loại D: Là các khách hàng đang đứng bên bờ vực thẳm của sự phá sản, doanh nghiệp không còn phương hướng phát triển. Đối với doanh nghiệp này không nên cho vay. Nếu còn dư nợ thì tìm mọi biện pháp tích cực thu hồi nợ và xử lý tài sản đảm bảo hạn chế rủi ro. Trên cơ sở phân loại như trên, NH lập một chiến lược với chính sách khách hàng đầy đủ và cụ thể trong đó đề ra chính sách đối với từng khách hàng. 3.2.7 Sử dụng các công cụ tài chính như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng giao ngay, hợp đồng tương lai để phòng ngừa rủi ro tín dụng mang tính hệ thống. - Hợp đồng kỳ hạn: Sự thảo thuận giữa người mua và người bán tại thời điểm t = 0 rằng người mua sẽ thanh toán cho người bán theo giá kỳ hạn đã được thoả thuận tại thời điểm t=0 và người bán sẽ giao tài sản cho người mua tại một thời điểm xác định trong tương lai. - Hợp đông giao ngay: Là sự thoả thuận giữa người mua và người bán tại thời điểm t=0 khi người bán đồng ý giao tàI sản cho người mua và người mua đồng ý thanh toán cho người bán trong vong 2 ngày làm việc kể từ khi hợp đồng được ký kết. - Hợp đồng tương lai: Sự thoả thuận giữa người mua và người bán tại thời điểm t=0 rằng, việc thanh toán và giao nhận tài sản được tiến hành tại 1 thời điểm xác định trong tương lai. Hợp đồng tương lai giống như hợp đồng kỳ hạn nhưng có những điểm khác biệt sau: + Hợp đồng tương lai là những hợp đồng đã được chuẩn hoá (về giá trị thời hạn) và được giao dịch một cách có tổ chức tại sở giao dịch. +Giá của hợp đồng tương lai được điều chỉnh hàng ngày theo điều kiện của thị trường để phản ánh những thay đổi của các lực lượng cung cầu trên thị trường. Do đó, hàng ngày giữa người mua và người bán phải quyết toán với nhau những thay đổi giá trị của hợp đồng. Chẳng hạn, nếu giá trị hợp đồng giảm, người mua phảI thanh toán cho người bán hợp đồng phần chênh lệch giảm và ngược lại. 3.3. Một số kiến nghị 3.3.1. Kiến nghị đối với Nhà nước: Nền kinh tế nước ta mới chuyển từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường, tuy đã có những thành tựu nhất định song vẫn còn nhiều vấn đề, nhiều mặt cần tiếp tục củng cố và hoàn thiện. Với sự hiện diện của nhiều thành phần kinh tế song song tồn tại, cùng hoạt động bình đẳng và cạnh tranh mạnh mẽ đã tạo nên một thị trường hết sức sôi động, đồng thời cũng tiềm ẩn trong đó nhiều nguy cơ. Trong môi trường đó, việc xây dựng một hành lang pháp lý an toàn, thuận lợi và việc đưa ra các chính sách quản lý vĩ mô phù hợp của Nhà nước có tính chất quyết định tới thành công hay thất bại của mỗi Ngân hàng Thương mại trong việc quản lý rủi ro tín dụng và việc phát triển của hoạt động Ngân hàng. Để tạo điều kiện cho các Ngân hàng Thương mại nói chung và Ngân hàng Công thương Đống Đa nói riêng thực hiện tốt công tác phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng đề nghị Nhà nước xem xét và giải quyết một số vấn đề sau: - Thứ nhất, Nhà nước cần bảo đảm môi trường kinh doanh ổn định và phát triển: Nhà nước cần có những chính sách, biện pháp đảm bảo một môi trường kinh doanh ổn định cho hoạt động của các doanh nghiệp, trong đó có Ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác, Nhà nước nên có những bước đệm hoặc những giải pháp thiết thực nhằm tháo gỡ những khó khăn khi có sự chuyển đổi, điều chỉnh cơ chế chính sách liên quan đến toàn bộ hoạt động của nền kinh tế. Mặt khác, Nhà nước cũng cần có những biện pháp nhằm bảo vệ hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước, điều chỉnh và tăng cường hiệu lực pháp lý của chính sách bảo trợ sản xuất trong nước, chính sách ngăn chặn hàng nhập lậu. - Thứ hai, Nhà nước cần ban hành những biện pháp quản lý chặt chẽ hơn đối với các doanh nghiệp: + Nhà nước cần quy định rõ ràng chỉ có một cơ quan Nhà nước duy nhất có đủ năng lực và khả năng, thẩm quyền cấp giấy phép đăng ký kinh doanh cho các doanh nghiệp. Cơ quan cấp giấy phép phải chịu trách nhiệm về tư cách pháp nhân, vốn tự có thực tế, năng lực thực tế của các doanh nghiệp. + Giấy phép kinh doanh và quy mô, loại hình hoạt động phải phù hợp với vốn sở hữu và năng lực, trình độ và kỹ thuật quản lý thực tế của doanh nghiệp. + Nhà nước cần nhanh chóng hoàn thiện chế độ kế toán thống kê và thực hiện hoạt động kiểm toán bắt buộc hàng quý, hàng năm đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. + Nhà nước cần có thái độ rõ ràng, dứt khoát đối với các doanh nghiệp yếu kém, làm ăn thua lỗ. Vì hiện nay đa phần rủi ro tín dụng bắt nguồn từ tình trạng làm ăn kém hiệu quả của các doanh nghiệp. Nhà nước cần thực hiện tổng rà soát các doanh nghiệp, nếu xét thấy các doanh nghiệp nào có khả năng tồn tại và phát triển được thì cần có những biện pháp hỗ trợ như có ưu đãi giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, cho vay ưu đãi hoặc bổ sung thêm vốn... Đối với doanh nghiệp nào nếu xét thấy không có đủ khả năng phục hồi phát triển thì cần nhanh chóng cho giải thể hoặc sáp nhập với các doanh nghiệp khác. - Thứ ba, Nhà nước cần đẩy nhanh tiến đô của quá trình tái cơ cấu hệ thống các Ngân hàng Việt Nam. Nên có sự đánh giá những kết quả đã làm được cũng như những mặt còn hạn chế để có kế hoạch xử lý kịp thời góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của các Ngân hàng Thương mại Việt Nam. - Thứ tư,Nhà nước cần sớm xây dựng, ban hành và triển khai một chương trình kiểm soát Ngân hàng từ phía Nhà nước. Hàng năm phải đánh giá lại chất lượng tín dụng, đánh giá khoản vay của từng nhóm khách hàng và đánh giá tổng hợp các khoản vay còn lại. Chính phủ cần tăng cường kiểm soát thường xuyên toàn bộ hệ thống Ngân hàng, thiết lập hệ thống cảnh báo các nguy cơ có thể xảy ra và hệ thống các giải pháp cần tháo gỡ. Hệ thống Ngân hàng cần đi đầu trong việc công khai hoá tài chính và có chế độ báo cáo định kỳ, tuyệt đối không để tình trạng mập mờ làm giảm lòng tin của công chúng vào hệ thống Ngân hàng và khó nắm bắt những tồn tại yếu kém để tìm ra giai pháp phù hợp. Bên cạnh đó, Nhà nước cần kiên quyết đặt Ngân hàng Thương mại vào đúng vị trí, chức năng của nó. Các Ngân hàng Thương mại phải được giữ vững quyền tự chủ về nghiệp vụ, chủ động nâng cao chất lượng các khoản tín dụng, mỗi khoản tín dụng phải được Ngân hàng thẩm định và tự quyết định cho vay chứ không phải chịu sức ép phi kinh tế nào. Ngoài ra, Nhà nước cần tăng cường vốn tự có cho các Ngân hàng Thương mại Nhà nước nhằm nâng cao tiềm lực tài chính và khả năng cạnh tranh, sức đề kháng của Ngân hàng trước những biến động của thị trường. Với số vốn tự có ít ỏi như hiện nay, các Ngân hàng Thương mại sẽ rất khó khăn và lúng túng, không chỉ trong việc quản lý, giải quyết nợ quá hạn khổng lồ, mà còn duy trì tồn tại và phát triển trong thời gian tới. Hơn nữa, tiến trình hội nhập kinh tế diễn ra rất nhanh, yêu cầu hệ thống Ngân hàng nước ta phải tăng cường cả về mặt lượng và mặt chất nếu không muốn bị nhấn chìm. Trước mắt cần tiến hành phân loại các Ngân hàng để làm cơ sở xây dựng chương trình bổ sung vốn tự có, và đặc biệt sát nhập thành Ngân hàng tầm cỡ. - Thứ năm, Nhà nước cần hoàn chỉnh các văn bản pháp luật hướng dẫn việc nhận và xử lý tài sản bảo đảm giúp đỡ các Ngân hàng giải quyết nợ quá hạn, giải toả các khoản nợ đóng băng. Một trong những nguyên nhân dẫn đến việc xử lý và thu hồi nợ quá hạn của Ngân hàng Công thương Đống Đa nói riêng và các Ngân hàng Thương mại khác nói chung là do vướng mắc từ phía các văn bản luật và dưới luật, vướng mắc từ phía các cơ quan thi hành pháp luật. Do vậy, việc đầu tiên cần làm để xử lý và thu hồi nợ quá hạn là Nhà nước phải thiết lập cơ chế pháp lý khắc phục những bất cập hiện hành trong việc nhận và xử lý tài sản bảo đảm, trong việc giải quyết các tranh chấp hợp đồng, giải quyết phá sản và thi hành án. Có thể đưa ra một vài vấn đề như: + Xác định khung giá gán nợ, hội đồng thẩm định giá tài sản gán nợ, nhằm giải quyết khó khăn do không xác định được giá bán tài sản bảo đảm làm chậm tiến trình xử lý tài sản bảo đảm thu hồi nợ. + Đối với những tài sản Ngân hàng đã nhận gán nợ mà không có tranh chấp nhưng hồ sơ pháp lý chưa đầy đủ đề nghị Chính phủ chỉ đạo Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố và các cơ quan chức năng của Trung ương, địa phương giúp Ngân hàng hợp pháp hoá, hoàn chỉnh hồ sơ theo đúng quy định của pháp luật để Ngân hàng có thể bán, chuyển nhượng, khai thác thu hồi vốn được thuận lợi. + Đề nghị Sở nhà đất và Sở địa chính khẩn chương hoàn tất thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu hợp pháp và quyền sử dụng đất, tạo cơ sở pháp lý chặt chẽ cho việc thế chấp vay vốn Ngân hàng. Vì thực tế hiện nay tài sản được sử dụng để thế chấp đảm bảo tiền vay chủ yếu là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất. - Thứ sáu, Nhà nước cần tăng cường hiệu quả của cơ quan bảo vệ pháp luật. Việc khởi tố để xử lý nợ quá hạn của Ngân hàng phụ thuộc rất nhiều vào tiến độ xét xử các vụ án của cơ quan pháp luật, nhưng thực tế Ngân hàng rất ngại đưa vụ việc ra toà bởi các thủ tục xét xử rườm rà phức tạp, không hiệu quả. Bên cạnh việc thiếu các văn bản pháp quy phù hợp thỉ việc thực hiện pháp luật không nghiêm chỉnh đang trở nên phổ biến. Có những trường hợp đã ký nhận tài sản đem thế chấp Ngân hàng, nhưng sau đó lại ký xác nhận chuyển nhượng tài sản này. Chi phí dọc đường cho các vụ khởi tố rất cao, nhiều khi phí phát sinh cho việc kê biên tài sản, phát mại tài sản còn lớn hơn số nợ thu hồi, nhiều Ngân hàng rất ngại khi gõ cửa các cơ quan chức năng. Tiến độ giải quyết các vụ việc rất chậm, riêng thời gian hoà giải phải làm tới ba lần, thời gian xét xử tối thiểu cũng mất tới ba tháng, thời gian thi hành án nhanh cũng mất 1 đến 3 tháng, chậm phải mất 6 tháng, thậm chí kéo dài 1 đến 2 năm. Chính vì vậy, việc xử lý và thu hồi nợ quá hạn của Ngân hàng bị kéo dài thậm chí dẫn tới bế tắc. Do đó, Nhà nước cần có những chấn chỉnh đối với các cơ quan thi hành pháp luật phối hợp với Toà án để thiết lập một Hội đồng xử lý tranh chấp trong tín dụng như xử lý tài sản thanh lý ở tài sản thế chấp giúp NH thu hồi vốn để đưa vào đầu tư, nâng cao hiệu quả của các cơ quan này giúp Ngân hàng nhanh chóng thu hồi vốn để đưa vào đầu tư. 3.3.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước - Thứ nhất, Ngân hàng Nhà nước cần hoàn thiện các văn bản về quy chế trích lập và sử dụng quỹ dự phòng rủi ro tín dụng: Hiện nay việc trích lập quỹ dự phòng rủi ro tín dụng được thực hiện theo quyết định số 488/200/QĐ - NHNN ban hành ngày 27/11/2000 của thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Đây là một quyết định rất phù hợp với xu thế và tình hình hiện nay của Ngân hàng. Theo quyết định này thì việc lập quỹ dự phòng đối hoạt động tín dụng được thực hiện trên cơ sở phân loại rủi ro của các khoản cho vay dựa trên thời gian, hình thức cấp tín dụng và vào bảo đảm tín dụng. Tuy nhiên, do bước đầu xây dựng và thực hiện thì quyết định này còn một số điểm chưa được phù hợp. Một trong những bất hợp lý đó là: + Những tài sản “có” thuộc nhóm 1 gồm những khoản cho vay chưa tới hạn trả nợ (kể cả kỳ hạn gia nợ); những khoản tiền chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá ngắn hạn khác chưa đến hạn thanh toán; những khoản cho thuê tài chính chưa đến hạn trả tiền thuê. Theo quy định này thì những tài sản thuộc nhóm này có tỷ lệ trích lập là 0% có nghĩa là những tài sản này không có rủi ro. Nhưng thực tế cho thấy thì những khoản nợ chưa đến hạn vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro, thậm chí có thể xác định là không thể thu hồi được như trường hợp con nợ bị phá sản, giải thể hoặc chết, mất tích. Do đó, tỷ lệ trích lập 0% đối với tài sản nhóm 1 là không hợp lý. Vì vậy, đề nghị Ngân hàng Nhà nước cần có xem xét và điều chỉnh việc trích lập quỹ dự phòng rủi ro tín dụng cho phù hợp hơn. + Về việc sử dụng quỹ dự phòng rủi ro để xử lý nợ quá hạn không có khả năng thu hồi. Các khoản nợ không có khả năng thu hồi đang là một gánh nặng lớn đối với hoạt động của Ngân hàng Thương mại. Việc xử lý các khoản nợ này có thể thực hiện được bằng việc sử dụng quỹ bù đắp rủi ro được trích lập hàng năm. Nhưng việc sử dụng quỹ dự phòng rủi ro để thực hiện xoá nợ không có khả năng thu hồi đối với các Ngân hàng Thương mại Quốc doanh rất khó khăn. Mặc dù các khoản nợ này đã được xác định rõ ràng là không có khả năng thu hồi và không bắt nguồn từ những nguyên nhân chủ quan phía Ngân hàng, nhưng để xoá nợ thì Ngân hàng phải thực hiện rất nhiều thủ tục rườm rà, mất rất nhiều thời gian. Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước cần phải xem xét lại vấn đề thủ tục xét duyệt xoá nợ không có khả năng thu hồi, giúp các Ngân hàng Thương mại Quốc doanh nhanh chóng thực hiện lại cơ cấu tình hình tài chính, làm sạch bảng tổng kết tài sản. - Thứ hai, Ngân hàng Nhà nước có biện pháp nhằm nâng cao chất lượng thông tin tín dụng của Trung tâm thông tin tín dụng. - Thứ ba, Ngân hàng Nhà nước nên cho phép các Ngân hàng đầu tư thêm vào tài sản xiết nợ để khai thác có hiệu quả hơn. Thực tế cho thấy các tài sản xiết nợ của các Ngân hàng hiện nay đang tồn đọng, khó có khả năng hấp thụ được trên thị trường do bị xuống cấp quá nhiều, một số là do các công trình xây dựng còn dở dang không thể bán được. Vì vậy, để có thể xử lý và khai thác các tài sản này thì Ngân hàng Nhà nước nên cho phép các Ngân hàng Thương mại được đầu tư hoàn chỉnh thêm vào các tài sản đã được gán nợ; thực hiện các chi phí bảo hiểm bắt buộc để góp phần bảo quản tốt tài sản, hạn chế thiệt hại cho các tài sản này và để các tài sản có khả năng xử lý được. Vốn cho hoạt động này lấy từ nhận gán nợ. Ngân hàng Nhà nước cần hướng dẫn việc hạch toán tài sản đã nhận gán nợ cho phù hợp với nguyên tắc trả nợ bằng tài sản. - Thứ tư, Ngân hàng Nhà nước cần tiếp tục nghiên cứu kinh nghiệm thực tế của các nước trong việc quản lý rủi ro cho vay. Ngân hàng Nhà nước cần tiếp tục nghiên cứu kinh nghiệm thực tế, theo dõi và đánh giá hiệu quả của các giải pháp cụ thể ở các nước trong khu vực để rút kinh nghiệm chủ động ban hành hoặc đề xuất với Chính phủ các cơ chế, quy chế nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý thông thoáng và an toàn trong việc giải toả, phát mại tài sản thế chấp. - Thứ năm, Ngân hàng Nhà nước cần sớm triển khai đề án thành lập công ty mua bán nợ. Ngân hàng Nhà nước cần sớm triển khai đề án thành lập Công ty mua bán tài sản thế chấp tại các Ngân hàng Thương mại nhằm giải phóng vốn tồn đọng, giảm nhẹ gánh nặng nợ quá hạn và lành mạnh hoá tình hình tài chính cho các Ngân hàng Thương mại. 3.3.3. Kiến nghị đối với Ngân hàng Công thương Việt Nam Thứ nhất, để đơn giản hoá các thủ tục vay vốn, đề nghị Ngân hàng Công thương Việt Nam nghiên cứu hướng dẫn các chi nhánh cơ sở khi cho vay các doanh nghiệp chỉ cần lập bảng kê chứng từ hàng tháng tuỳ theo số lượng chứng từ phát sinh, có xác nhận của kế toán trưởng và thủ trưởng đơn vị là cơ sở pháp lý để Ngân hàng giải quyết cho vay vốn. Thứ hai, hỗ trợ chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa về mặt kinh phí trong công tác đào tạo nghiệp vụ, kiến thức chuyên môn của cán bộ Ngân hàng nói chung và cán bộ tín dụng nói riêng. Thứ ba, phối hợp chặt chẽ với Ngân hàng Nhà nước để tổ chức có hiệu quả chương trình thông tin tín dụng, nâng cao chất lượng và mở rộng phạm vi thông tin, giúp các chi nhánh phòng ngừa rủi ro một cách tốt nhất. Thứ tư, tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm soát nội bộ trong toàn hệ thống nhằm chấn chỉnh các hoạt động của chi nhánh và đội ngũ nhân sự. Thứ năm, ứng dụng khoa học công nghệ trong hoạt động tín dụng đầu tư máy móc thiết bị, phần mềm tin học và đào tạo con người sử dụng phần mềm trong phân tích tín dụng. 3.3.4. Kiến nghị đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Hoạt động kinh doanh có hiệu quả phụ thuộc rất lớn vào người sử dụng vốn vay. Thời gian qua kinh tế ngoài quốc doanh đã chứng tỏ vai trò của mình đối với nền kinh tế, tuy nhiên vẫn còn nhiều doanh nghiệp tự làm mất uy tín của mình, làm ăn lừa đảo, làm ăn thua lỗ, phá sản, sử dụng vốn sai mục đích, không thực hiện theo chế độ hạch toán hiện hành Chính vì vậy, gây ra cho Ngân hàng khó khăn trong việc thu hồi vốn, nợ quá hạn gia tăng nên Ngân hàng thu hẹp phạm vi cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Vì vậy, để hoạt động cho vay kinh tế ngoài quốc doanh đạt hiệu quả thì bản thân mỗi doanh nghiệp ngoài quốc doanh cần rất nhiều cố gắng. Thứ nhất, phát huy hết năng lực sản xuất kinh doanh thật sự của mình, học tập cách quản lý tiên tiến, không nên chủ quan, không nên nóng vội trong kinh doanh. Thứ hai, trung thực trong quan hệ với Ngân hàng như cung cấp thông tin đúng đắn về doanh nghiệp để Ngân hàng thông cảm và có biện pháp hỗ trợ sử dụng vốn đúng mục đích. Thứ ba, thực hiện nghiêm chỉnh chế độ kế toán mà Nhà nước đã ban hành, chấp hành đúng đắn Luật doanh nghiệp. Kết luận Quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước đòi hỏi phải có nền tài chính tiền tệ lành mạnh và ổn định. Để đạt được điều đó, đòi hỏi các Ngân hàng Thương mại Việt Nam ngày càng phải hoàn thiện nhằm đảm bảo phục vụ đắc lực cho quá trình đổi mới và phát triển kinh tế đất nước, đảm bảo sự an toàn trong hoạt động kinh tế nói riêng. Việc nghiên cứu áp dụng các giải pháp phòng ngừa hạn chế rủi ro tín dụng đối với cho vay khu vực kinh tế kinh tế ngoài quốc doanh là một vấn đề quan trọng và cấp thiết của ngành Ngân hàng, phù hợp với chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường ở nước ta. Nhận thức được vấn đề này, qua kiến thức đã được trang bị trong trường đại học và qua tìm hiểu thực tế tại Ngân hàng Công thương Đống Đa, em đã đi sâu nghiên cứu về tình hình rủi ro cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Qua đó, phân tích thực trạng, nguyên nhân và đưa ra biện pháp cơ bản nhằm hạn chế rủi ro cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại Ngân hàng Công thương Đống Đa. Do thời gian nghiên cứu và trình độ chuyên môn còn hạn chế nên đề tài khó tránh khỏi những khiếm khuyết. Em rất mong sự đóng góp ý kiến của các thầy cô, các cô chú cán bộ nhân viên tại Ngân hàng Công thương Đống Đa và các bạn đọc để đề tài được hoàn thiện hơn. Qua đề tài này, em mong rằng với những suy nghĩ của mình, sẽ góp phần nhỏ bé vào công cuộc đổi mới và lành mạnh hoá hệ thống Ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế nước ta trên con đường công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Xin chân thành cảm ơn! TàI liệu tham khảo Luật Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam, 1997 Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 và các văn bản hướng dẫn của NHNN và NHCT Việt Nam. Nghị định của Chính phủ số: 178/1999/NĐ - CP ngày 29/12/1999 về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng và Nghị định số 85/2002/NĐ - CP ngày 25/10/2002 về sửa đổi bổ sung nghị định 178 Đánh giá và phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh Ngân hàng của TS.Nguyễn Văn Tiến – Học viện Ngân hàng- NXB Thống kê Các văn bản pháp quy và văn bản hướng dẫn về công tác tín dụng của NHNN, NHCT Việt Nam, Quyết định 488/2000/QĐ-NHNN ngày 27/11/2000. Báo cáo tổng kết hoạt động Ngân hàng năm 2002-2003-2004 và phương án kinh doanh dịch vụ Ngân hàng năm 2005 của NHCT Đống Đa. Tạp chí Ngân hàng các số năm,2001,2002,2003,2004. Thời báo kinh tế 2000,2001,2002,2003,2004. Thời báo Ngân hàng. Tạp chí Ngân hàng Thủ đô Nhận xét của cơ quan thực tập Họ và tên người nhận xét: Chức vụ:... Nhận xét khoá luận tốt nghiệp của sinh viên ý kiến nhận xét của cơ quan thực tập . Hà Nội, Ngày tháng năm 2004 Giám đốc Nhận xét của giáo viên hướng dẫn Họ tên người hướng dẫn khoa học: PGS- Nguyễn Hữu Tài Nhận xét khoá luận tốt nghiệp của sinh viên : Tên đề tài : “Giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng đối với cho vay khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại Ngân hàng Công thương Đống Đa.” ý kiến nhận xét của giáo viên hướng dẫn . Hà Nội, ngày tháng năm 2005 Giáo viên hướng dẫn Nhận xét của giáo viên Phản Biện Họ tên người hướng dẫn phản biện: Nhận xét khoá luận tốt nghiệp của sinh viên : Lý Nguyệt Nga Tên đề tài : “Giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng đối với cho vay khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại Ngân hàng Công thương Đống Đa.” ý kiến nhận xét của giáo viên phản biện . Hà Nội, ngày tháng năm 2005 Giáo viên phản biện Lời cam đoan Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi Các số liệu, kết quả nêu trong khoá luận là hoàn toàn trung thực Và có nguồn gốc rõ ràng xuất phát từ tình hình của cơ quan thực tập Hà nội, ngày 19 tháng 5 năm 2005 Tác giả khoá luận Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2318.doc
Tài liệu liên quan