MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG I TỔNG QUAN VỀ TỶ GIÁ 3
1.1 Khỏi niệm và mục tiêu của chính sách tỷ giá 3
1.1.1 Khái niệm 3
1.1.2 Mục tiêu của chính sách tỷ giá 3
1.1.2.1 Ổn định giá cả 3
1.1.2.2 Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và công ăn việc làm đầy đủ 4
1.1.2.3 Cân bằng cán cân vãng lai 5
1.2 Nội dung của chính sách tỷ giá 5
1.3 Các công cụ của chính sách tỷ giá 6
1.3.1 Nhóm công cụ tác động trực tiếp lên tỷ giá 6
1.3.2 Nhóm công cụ tác động gián tiếp lên tỷ giá 7
1.4 Các mô hình xác định tỷ giá 8
1.4.1 Mụ hỡnh ngang giỏ sức mua(PPP) 8
1.4.1.1 Quy luật ngang giỏ sức mua 8
1.4.1.2 Quy luật một giỏ 9
1.4.1.3 Cỏc dạng biểu hiện của PPP 10
1.4.1.3.1 PPP dạng tuyệt đối giản đơn 10
1.4.1.3.2 PPP dạng tuyệt đối tổng quát 12
1.4.1.3.3 PPPdạng tương đối - tỷ lệ % 14
1.4.1.3.4 PPP dạng tương đối - số tuyệt đối 17
1.4.2 Mụ hỡnh ngang giỏ lói suất 20
1.4.2.1 Quy luật ngang giỏ lói suỏt cú bảo hiểm - CIP 20
1.4.2.1.1 Khỏi niệm về quy luật ngang giỏ lói suất 20
1.4.2.1.2 Kinh doanh chờnh lệch lói suất duy trỡ quy luật CIP 21
1.4.2.1.3 Cụng thức ngang giỏ lói suất CIP 23
1.4.2.2 Quy luật UIP và hiệu ứng FISHER quốc tế 25
1.4.2.2.1 Hành vi đầu cơ hỡnh thành quy luật UIP 25
1.4.2.2.2 Hiệu ứng FISHER quốc tế 27
1.4.3 Cỏc học thuyết tiền tệ tiếp cận tỷ giỏ 27
1.4.3.1 Mụ hỡnh giỏ linh hoạt 27
1.4.3.1.1 Mụ hỡnh giỏ linh hoạt dạng tuyệt đối 28
1.4.3.1.2 Mụ hỡnh giỏ linh hoạt dạng tương đối 30
1.4.3.2 Mụ hỡnh chờnh lệch lói suất thực vủa FRANKEL 33
1.4.4 Học thuyết cân bằng danh mục đầu tư tiếp cận tỷ giá 36
1.5 Các nhân tố tác động lên tỷ giá 40
1.5.1 Những nhân tố tác động lên cán cân vóng lai, qua đó tác động đến xu hướng biến động của tỷ giá trong dài hạn 40
1.5.1.1 Cán cân thương mại và dịch vụ 41
1.5.1.2 Cỏn cõn chuyển giao vóng lai một chiều 42
1.5.1.3 Cỏn cõn thu nhập 42
1.5.2 Những nhân tố tác động đến cán cân vốn và cán cân bù đắp chính thức qua đó tác động lên tỷ giá trong ngắn hạn 43
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ Ở VIỆT NAM 44
2.2 Đánh giá chính sách tỷ giá của Việt Nam 44
2.2.1 Tác động tỷ giá đến hoạt động xuất nhập khẩu 55
2.2.1.1 Các loại tỷ giá sử dụng khi phân tích ảnh hưởng lên cán cân thương mại 56
2.2.1.2 Kiểm chứng mối quan hệ giữa tỷ giỏ VND và cán cân thương mại 59
2.2.1.3 Một số kiến nghị 63
2.2.2 Giải pháp ứng phó hiện tượng USD giảm giá trong thời gian qua 64
2.2.2.1 Mụ hỡnh giỏ cứng của DORNBUSCH 64
2.2.2.2 Chớnh sỏch giảm giỏ USD của Mỹ 67
2.2.2.3 Chính sách tỷ giá VND cần chủ động và tích cực hơn 71
2.2.3 Chính sách tỷ giá với thị trường ngoại tệ ngầm 74
2.2.3.1 Hoạt động thị trường ngoại tệ ngầm 74
2.2.3.2 Đánh giá hoạt động thị trường ngoại tệ ngầm 77
2.2.4 Chớnh sỏch thu hỳt và quản lý kiều hối 77
2.2.4.1 Cơ sở pháp lý thu hỳt kiều hối 79
2.2.4.2 Kết quả đạt được 81
2.2.4.3 Một số hạn chế 82
2.3 Những thành tựu và hạn chế của chớnh sỏch tỷ giỏ trong thời gian qua 83
2.3.1 Những thành tựu 83
2.3.2 Một số vấn đề về tỷ giá trong thời gian qua 84
2.3.2.1 Trạng thỏi của VND 85
2.3.2.2 Tỷ giá trong việc thực hiện các chiến lược vĩ mô trong thời gian qua 87
2.3.2.2.1 Chiến lược hướng mạnh về xuất khẩu 88
2.3.2.2.2 Chiến lược thu hút đầu tư nước ngoài 89
2.3.2.2.3 Tỷ giá với vấn đề thâm hụt ngân sách và nợ nước ngoài 90
2.3.2.3 Những thách thức mới đối với chính sách tỷ giá nước ta 91
CHƯƠNG III
CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ Ở VIỆT NAM HẬU WTO 92
3.1 Quan điểm, mục tiêu chính sách tỷ giá ở Việt Nam hiện nay 92
3.2nGiải phỏp hoàn thiện chớnh sỏch tỷ giỏ ở Việt Nam hậu WTO 93
3.2.1 Mụ hỡnh cụng nghiệp hoỏ bền vững hướng tới hội nhập 94
3.2.2 Hướng tới chính sách tỷ giá cân bằng cung cầu 96
3.2.2.1 Chế độ tỷ giá và vấn đề định giá cao thấp nội tệ 96
3.2.2.2 Những mặt trái khi nội tệ được định giá cao 97
3.2.3 Hoàn thiện và phỏt triển INTERBANK 103
3.2.3.1 Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng 103
3.2.3.2 Thị trường nội tệ liên ngân hàng 105
3.2.4 Đối mặt với khủng hoảng và thách thức hội nhập 106
3.2.4.1 Đối mặt với khủng hoảng 106
3.2.4.2 Thỏch thức của hội nhập 108
3.2.5 Nõng cao vai trỡ của NHNN trờn VINAFOREX 109
3.2.6 Hoàn thiện phương thức công bố tỷ giá 112
3.2.7 Chuyển biện pháp kết hối sang công cụ tỷ giá thị trường 113
KẾT LUẬN 115
121 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1728 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp hoàn thiện chính sách tỷ giá ở Việt Nam hậu WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
định tỷ giá cố định vào USD sau đó tính giá chéo sang các đồng tiền khác nhau. Do vậy, chúng ta đã thiệt hại một cách vô ích khi có sự biến động giá của đồng USD. Mặt khác, các khoản vay tư nhân do các ngân hàng thương mại tiến hành không được kiểm soát ngặt nghèo cũng sẽ là nguồn tiêu hao lớn phần ngoại tệ của đất nước. Do vậy, chính sách tỷ giá của chúng ta cần phải lưu ý đến vấn đề này bởi nợ nước ngoài cũng là một nhân tố gây khủng hoảng và trả nợ nước ngoài cũng là một nhân tố để đánh giá uy tín của đồng tiền.
2.3.2.3 Những thách thức mới đối với chính sách tỷ giá nước ta
Sự tác động mạnh mẽ hơn của những biến động trong khu vực lên nền kinh tế non trẻ của ta khi hội nhập sâu rộng hơn.
Nền kinh tế khu vực dựa trên cơ chế thị trường linh hoạt và mềm dẻo trong chính sách tiền tệ do nhận thức rõ và sử dụng rất hữu hiệu công cụ này. Trong khi chính sách tiền tệ nói chung, tỷ giá nói riêng của ta vẫn còn cứng nhắc, trực tiếp và chậm chạp.
Tự do hoá thương mại, tài chính buộc chúng ta phải thay đổi phương thức quản lý, kiểm soát hoạt động đối ngoại phục vụ mục tiêu của nền kinh tế đất nước.
Như vậy, chính sách tỷ giá Việt Nam đang đứng trước những yêu cầu bức bách phải cải cách, đổi mới cho phù hợp với khu vực và thế giới.
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ
TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ
3.1 Quan điểm mục tiêu chính sách tỷ giá ở Việt Nam hiện nay
Theo như đăng ký với IMF, cơ chế tỷ giá ở Việt Nam hiện nay là ‘thả nổi có quản lý”. Để có thể dự báo tỷ giá, cần thiết phải giải mã những “tín hiệu” mà Chính phủ muốn gửi gắm - một cách kín đáo - đến thị trường. Trong nhiều năm gần đây, tỷ giá thực có tầm quan trọng đặc biệt trong việc giải mã bài toán tỷ giá.
Tỷ giá thực luôn được xác lập trong mối quan hệ với hàng loạt đối tác mà Việt Nam có quan hệ mậu dịch, còn được gọi là tỷ giá thực có hiệu lực.
Do có tác động lớn đến giá cả hàng hoá xuất khẩu (và cả nhập khẩu), tỷ giá thực là căn cứ vô cùng quan trọng để NHTW lấy đó làm một trong những mực chuẩn để xác lập tỷ giá mục tiêu cho nền kinh tế.
Việc điều hành tỷ giá của NHNN về cơ bản đã chuyển sang cơ chế tỷ giá theo thị trường. Tức là hàng ngày, NHNN công bố tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng cộng với một biên độ nhất định. Căn cứ trên khối lượng giao dịch và các mức giá giao dịch thành công trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, NHNN tính toán và tính được tỷ giá bình quân. Biên độ ít thay đổi nhưng cũng được nới lỏng dần từ mức +0,1% lên mức 0,25% như hiện nay.
3.2 Giải pháp hoàn thiện chính sách tỷ giá ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế
Bước sang thế kỷ XXI, điều không thể đảo ngược đó là xu hướng quốc tế hóa nền kinh tế thế giới ngày càng trở nên mạnh mẽ; tự do hóa thương mại, đầu tư và tài chính diễn ra với cường độ và quy mô chưa từng có. Sự hội nhập quốc tế của kinh tế Việt Nam thông qua cơ chế thị trường mở là nhu cầu khách quan có tính quy luật tất yếu. Với vai trò như là chiếc cầu nối giữa kinh tế nội địa với kinh tế thế giới bên ngoài, thì việc hoàn thiện cơ chế tỷ giá VND theo hướng thị trường hơn nữa, phù hợp với quy luật và thông lệ quốc tế là cần thiết.
Cơ chế tỷ giá VND phải được hoàn thiện, nhằm bôi trơn và thúc đẩy các hoạt động xuất nhập khẩu của mọi thành phần kinh tế. Ngoài ra một cơ chế tỷ giá hiệu quả còn có tác dụng kích thích luân chuyển các khoản đầu tư và tín dụng quốc tế là yếu tố quyết định để thị trường ngoại hối Việt Nam phát triển theo quy luật thị trường, trên cơ sở đó cung cấp các công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá cho các ngân hàng, các nhà xuất nhập khẩu, các nhà đầu tư và đi vay quốc tế thông qua các hợp đồng kỳ hạn, hoán đổi, quyền chọn và tương lai: một thị trường ngoại hối hiệu quả là môi trường lý tưởng để NHTW tiến hành can thiệp để tỷ giá biến động theo hướng có lợi cho nền kinh tế.
Trong những năm qua, chính sách quản lý ngoại hối và chính sách tỷ giá của Việt Nam đã có những bước cải cách sâu sắc. Trước hết đó là: chính sách quản lý ngoại hối đã được hoàn thiện căn bản phù hợp với hướng phát triển kinh tế thị trường mở; những nhân tố thị trường ngày càng trở nên quyết định hơn trong việc xác định tỷ giá hối đoái: bước đầu đã đưa một số các giao dịch kinh doanh ngoại hối vào cuộc sống như giao ngay kỳ hạn và hoán đổi. Tuy nhiên, để chính sách tỷ giá phát huy hơn nữa vai trò của mình, tiến tới hòa nhập quốc tế, có thể nêu ra một số giải pháp như sau:
3.2.1 Mô hình công nghiệp hoá bền vững hướng tới hội nhập
Mô hình công nghiệp hoá hướng tới xuất khẩu ra đời và được các nước nhỏ như Hàn Quốc, Thái Lan, … áp dụng đã đem lại thành công rực rỡ trong hơn 30 năm qua. Mô hình này dựa trên phương châm: các nước đang phát triển có thể rút ngắn quá trình công nghiệp hoá bằng cách tận dụng các nguồn lực của các nước đi trước, trước hết là thị trường vốn và công nghệ. Tuy nhiên sự quá coi trọng các nguồn lực bên ngoài đã đem lại hậu quả là sự yếu kém, mất cân đối ở bên trong các quốc gia tạo ra sự sụp đổ nhanh chóng khi có sự biến động bất ngờ của các nguồn lực, môi trường bên ngoài. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 diễn ra ở Châu Á là một minh chứng. Qua đó đã đưa ra cơ hội để hoàn thiện mô hình tăng trưởng thần kỳ Đông Á.
Mô hình công nghiệp hoá bền vững hướng tới hội nhập là sự bổ sung cho mô hình Đông Á thông qua sự kết hợp giữa hướng ngoại và hướng nội.
Về cơ cấu, mô hình này thực hiện công nghiệp hoá theo hai giai đoạn là công nghiệp hoá khai thác thế mạnh truyền thống, tiếp thu nguồn lực, tích luỹ và nâng cao nội lực, sức cạnh tranh bản thân và hiện đại hoá tham gia hội nhập trong khu vực thế giới và phát huy vai trò nhân tố phát triển.
Mô hình thực hiện một cơ cấu công nghiệp hợp lý dựa trên nguyên tắc hiệu quả và thị trường quyết định. Cơ cấu này có đặc điểm: là cơ cấu công nghiệp linh hoạt, mềm dẻo có thể phản ứng nhanh chóng trước những thay đổi của thị trường trong nước và quốc tế đồng thời có thể tận dụng triệt để các cơ hội tiến triển và tiếp thu được tinh hoa công nghệ từ bên ngoài. Bên cạnh đó, cơ cấu công nghiệp này vẫn có tính hướng ngoại, tức là vẫn chú trọng tới việc thu hút và tận dụng các nguồn lực bên ngoài.
Về thể chế, mô hình rất coi trọng vai trò của đất nước trong việc tạo dựng các môi trường hợp lý và can thiệp vào các quá trình phát triển. Thông qua cơ chế mở và tự do hoá thương mại, đầu tư, dịch vụ tài chính và lao động có thể tận dụng được các nguồn lực bên ngoài một các hữu hiệu. Tuy nhiên để có được điều đó phải có sự tham gia quản lý của Nhà nước trong việc thực hiện các cân đối lớn trong nền kinh tế.
Theo mô hình này, Nhà nước và tư nhân nên gắn bó với nhau và tạo điều kiện cho nhau phát triển. Nếu Nhà nước và tư nhân đều mạnh và gắn bó với nhau thì công nghiệp hoá sẽ rất nhanh chóng. Nhà nước luôn tìm cách tạo khả năng cho các đơn vị kinh tế tư nhân trong nước và tư bản nước ngoài lựa chọn các lĩnh vực và hình thức hoạt động. Thành phần kinh tế Nhà nước đảm nhận những lĩnh vực mà kinh tế tư nhân ít quan tâm nhất hoặc chưa thể cáng đáng nổi. Khi mà kinh tế tư nhân đủ mạnh để cáng đáng các lĩnh vực này thì Chính phủ nên nhường lại cho họ và bắt tay vào các lĩnh vực khác khó khăn hơn.
Quá trình xây dựng thể chế theo hướng hội nhập, từng bước tự do hoá phải được đặt trong một kế hoạch tổng thể thông qua việc thực hiện các cam kết với các tổ chức khu vực và thế giới (AFTA, APEC, WTO).
Về động lực phát triển, các nước đang phát triển muốn đạt được trình độ cạnh tranh quốc tế cần đầu tư và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thông qua kế hoạch phát triển dân số, phát triển giáo dục và thực hiện các chính sách phân phối, sử dụng lao động hợp lý có ưu đãi.
Thành phần kinh tế tư nhân được xem là thành phần cho động lực phát triển. Tư nhân là lực lượng hùng hậu nhất trong nền kinh tế thị trường, là động lực chính để tăng trưởng kinh tế. Cần khuyến khích và hỗ trợ tư nhân phát triển, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, vì chúng đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra việc làm cho người lao động, tăng cường các mối liên kết công nghiệp, thâm nhập thị trường và tăng giá trị xuất khẩu.
Mô hình công nghiệp hoá bền vững hướng tới hội nhập là một mô hình phát triển toàn diện dựa trên cơ sở nâng cao nội lực nền kinh tế để có đủ khả năng thu hút, hấp thụ các nguồn lực từ bên ngoài để phát triển. Mô hình đồng thời thực hiện nền kinh tế mở, hội nhập khu vực và thế giới để tạo môi trường thuận lợi cho thị trường đầu vào và thị trường đầu ra cho quá trình phát triển. Mỗi quốc gia trở thành nhân tố tác động qua lại trong môi trường quốc tế chung dưới những thể chế chung nhất định để đảm bảo sự thịnh vượng chung cho các quốc gia và khu vực.
3.2.2 Hướng tới chính sách tỷ giá cân bằng cung cầu
3.2.2.1 Chế độ tỷ giá và vấn đề định giá cao, thấp nội tệ:
Những quốc gia độc lập thường thiết lập một khung pháp lý bao gồm những quy tắc xác định phương thức mua bán ngoại tệ đối với các thể nhân và pháp nhân là người cư trú và người không cư trú. Yếu tố then chốt của khung pháp lý này là chế độ tỷ giá hối đoái. Cho đến nay, có 3 loại chế độ tỷ giá cơ bản mà chúng ta đã biết là:
- Chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn
- Chế độ tỷ giá cố định
- Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết
* Chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn: Là chế độ tỷ giá, trong đó tỷ giá được xác định hoàn toàn tự do theo quy luật cung cầu trên thị trường ngoại hối mà không có bất cứ sự can thiệp nào của NHTW. Trong chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn, sự biến động của tỷ giá luôn phản ánh những thay đổi trong quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối, và tỷ giá luôn đạt được ở mức cân bằng cung cầu; do đó, nền kinh tế có xu hướng đạt tới trạng thái cân bằng bên ngoài một cách tự động, chính vì vậy NHTW không nhất thiết phải duy trì dự trữ ngoại hối. Từ phân tích cho thấy, trong chế độ tỷ giá cân bằng cung cầu do đó nội tệ không bị định giá cao hay bị định giá thấp so với tỷ giá cân bằng.
* Chế độ tỷ giá cố định: Là chế độ tỷ giá, trong đó NHTW buộc phải can thiệp trên thị trường để duy trì tỷ giá biến động xung quanh tỷ giá do NHTW ấn định trong một biên độ hẹp. Để tiến hành can thiệp trên thị trường ngoại hối đòi hỏi NHTW phải có sẵn nguồn dự trữ ngoại hối nhất định. Cũng giống như trên các thị trường hàng hóa khác, khi chính phủ cố định giá cả thì luôn tồn tại một độ lệch nhất định giữa cung và cầu. Trong trường hợp tỷ giá, để cho tỷ giá đạt được cân bằng, NHTW buộc phải hấp thụ toàn bộ mức chênh lệch giữa cung và cầu ngoại tệ bằng cách mua vào hay bán ra đồng nội tệ trên thị trường ngoại hối, làm cho dự trữ ngoại hối của NHTW thay đổi. Điều này là khác với chế độ tỷ giá thả nổi khi mà cung cầu ngoại tệ thay đổi làm cho tỷ giá thay đổi chứ không phải dự trữ ngoại hối của NHTW.
Nếu NHTW ấn định tỷ giá thấp hơn tỷ giá cân bằng cung cầu trên thị trường thì nội tệ được coi là "Định giá quá cao" so với tỷ giá cân bằng; ngược lại, nếu NHTM ấn định tỷ giá cao hơn tỷ giá cân bằng thì nội tệ được coi là "Định giá quá thấp" so với tỷ giá cân bằng.
* Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết: Trong thực tế NHTW tiến hành can thiệp trên thị trường ngoại hối ngay cả trong trường hợp NHTW không ấn định tỷ giá, chế độ tỷ giá như vậy gọi là chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết. Từ đó cho thấy, chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết khác với chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn ở chỗ NHTW tiến hành can thiệp trên thị trường ngoại hối nhằm ảnh hưởng lên tỷ giá ; đồng thời khác với chế độ tỷ giá cố định ở chỗ NHTW không ấn định tỷ giá và không buộc phải can thiệp trên thị trường ngoại hối để duy trì tỷ giá cố định. Chính vì vậy, chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết được xem như chế độ tỷ giá hỗn hợp giữa chế độ tỷ giá cố định và chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn.
Qua phân tích khái quát ở trên cho thấy, so với tỷ giá cân bằng nội tệ chỉ có thể bị định giá cao hay thấp trong chế độ tỷ giá cố định, khi mà NHTW ấn định tỷ giá giao dịch trên thị trường ngoại hối là thấp hơn hay cao hơn tỷ giá cân bằng.
3.2.2.2 Những mặt trái khi nội tệ được định giá cao
Giá cả hình thành theo quy luật cung cầu là một trong những nhân tố quan trọng bậc nhất để một thị trường hoạt động hiệu quả. Cũng như các thị trường khác, để thị trường ngoại hối hoạt động hiệu quả với doanh số giao dịch cực đại, có độ thanh khoản cao và chi phí giao dịch thấp thì tỷ giá phải được hình thành một cách khách quan theo quy luật cung cầu: hay nói cách khác, tỷ giá áp dụng trong các giao dịch ngoại hối phải là tỷ giá thị trường, tức tại đó cung cầu là cân bằng. Nếu tỷ giá quá cao hay quá thấp so với tỷ giá cân bằng, đều trở thành nhân tố kìm hãm doanh số giao dịch, kích thích đầu cơ, là nguyên nhân hình thành và phát triển thị trường ngầm và làm cho các nguồn lực xã hội phân bố kém hiệu quả…
Chúng ta xét trường hợp thường xảy ra đối với các nước đang phát triển (trong đó có Việt Nam) khi tỷ giá giao dịch được NHTW ấn định là quá thấp so với tỷ giá cân bằng như mô tả bằng đồ thị dưới đây.
Định giá nội tệ quá cao so với giá trị cân bằng:
Tỷ giá
VND/ USD
n
Thời gian
M2
S
M
D
t1
EO
E1
0
QS
ờ
QO
QD
Q
Trong đó:
- Trục tung biểu thị tỷ giá (giá) 1 USD tính bằng VND
- Trục hoành biểu thị khối lượng USD
- S là đường cung USD ứng với các mức tỷ giá khác nhau
- D là đường cầu USD ứng với các mức tỷ giá khác nhau.
- E0 là tỷ giá cân bằng
- E1 là tỷ giá giao dịch do NHNN ấn định thấp hơn E0.
Từ đồ thị cho thấy: Nếu không có sự can thiệp của NHNN, thì tỷ giá được hình thành theo quan hệ cung cầu tại mức tỷ giá cân bằng E0. Tại mức tỷ giá cân bằng, cung cầu ngoại tệ bằng nhau, khối lượng giao dịch trên thị trường ngoại hối là cực đại và Q0. Nếu NHNN quy định tỷ giá giao dịch ở mức E1 thấp hơn tỷ giá cân bằng E0 (nghĩa là VND được định giá quá cao) làm cho thị trường ngoại hối trở nên mất cân đối, cụ thể là: cung ngoại tệ ở mức QS và cầu ngoại tệ ở mức QD, tức cung nhỏ hơn cầu hay QS< QD. Do cung nhỏ hơn cầu, nên tỷ giá chịu áp lực tăng: để duy trì tỷ giá ổn định buộc NHNN phải can thiệp lên thị trường ngoại hối bằng cách bán ngoại tệ ra và mua nội tệ vào, do đó dự trữ ngoại hối sẽ giảm. Nếu dự trữ ngoại hối mỏng thì sẽ nhanh chóng bị cạn kiệt. Một khi dự trữ ngoại hối đã cạn kiệt hoặc NHTW không muốn tiếp tục giảm dự trữ ngoại hối, thì áp lực phá giá nội tệ sẽ trở nên hiện thực. Phá giá nội tệ không phải là biện pháp để được NHTW chấp nhận bởi vì kèm theo phá giá là áp lực lạm phát, làm xói mòn sức mua đối nội và đối ngoại cua đồng tiền quốc gia làm cho phá giá nội tệ và duy trì được tỷ giá ổn định, buộc NHTW phải áp dụng các biện pháp kiểm soát ngoại hối. Kiểm soát ngoại hối bao gồm những biện pháp của NHTW như: các quy định về cấp phép mua ngoại tệ đối với các thể nhân và pháp nhân, biện pháp kết nối, quy định việc chuyển tiền ra và vào trong nước, áp dụng đế độ đa tỷ giá… ngoài ra,chính phủ còn có thể áp dụng các biện pháp can thiệp hỗ trợ thông qua hệ thống thuế XNK, hạn ngạch, danh sách mặt hàng hạn chế nhập khẩu. Tất cả các biện pháp can thiệp nêu trên nhằm tưng cung và giảm của để duy trì tỷ giá giao dịch ổn định ở mức thấp hơn tỷ giá cân bằng.
Từ đồ thị và qua phân tích cho thấy, khi NHTW ấn định tỷ giá thấp hơn tỷ giá cân bằng sẽ làm phát sinh những hậu quả như sau:
- Do tỷ giá giao dịch thấp hơn tỷ giá cân bằng (tức tỷ giá thị trường) nên kích thích nhập khẩu và hạn chế xuất khẩu, ảnh hưởng đến sản xuất trong nước.
- Thị trường ngoại hối luôn ở trạng thái cầu lớn hơn cung, nghĩa là thị trường khan hiếm hàng hóa, tạo ra cảnh 'mua tranh bán ép’ hay 'bán thì cưỡng bách còn mua thì phân phối".
- Làm giảm tính thanh khoản và khiến cho thị trường ngoại hối hoạt động trở nên kém hiệu quả. Điều này được thể hiện ở chỗ, doanh số mua bán trên thị trường có tổ chức giảm từ Q0 xuống QS.
- Tỷ giá thấp cùng với doanh số mua bán ngoại tệ giảm đã kìm hãm phát triển ngoại thương và khiến cho các nguồn lực của xã hội phân bố kém hiệu quả.
- Tại tỷ giá E1, do thị trường chính thức chỉ đáp ứng được nhu cầu ngoại tệ ở mức là QS do đó cầu ngoại tệ phụ trội không được thị trường chính thức đáp ứng là khoảng cách QSQD. Để thỏa mãn nhu cầu ngoại tệ, buộc những người chưa được thị trường chính thức đáp ứng phải tìm đến thị trường ngầm với giá ngoại tệ cao hơn là E0. Điều này nói lên rằng nguyên nhân chính hình thành và phát triển thị trường ngầm là việc quy định tỷ giá giao dịch thấp hơn tỷ giá cân bằng của thị trường: hay nói cách khác, một khi thị trường ngầm tồn tại và tỷ giá trên thị trường này cao hơn tỷ giá giao dịch trên thị trường chính thức thì có thể tin rằng đồng nội tệ đang bị định giá quá cao. Ở Việt Nam vào năm 1999, khi trên thị trường ngoại hối chính thức chịu ức ép cầu lớn hơn cung các NHTM không đủ ngoại tệ bán phục vụ nhu cầu nhập khẩu. Chính phủ đã ban hành Quyết định số 242/1999/TTG ngày 30/12/1999 trong đó quy định doanh nghiệp nhập hàng tiêu dùng phải tự cân đối ngoại tệ. Mục đích của Quyết định này nhằm giảm cầu ngoại tệ trên thị trường chính thức thông qua hai hiệu ứng.
- Thứ nhất, hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng
- Thứ hai, phần nhu cầu ngoại tệ phụ trội để nhập hàng tiêu dùng sẽ do thị trường ngầm đáp ứng.
Như vậy, xét một cách tổng thể, cầu ngoại tệ cho nhập khẩu hàng tiêu dùng không rơi vào thị trường chính thức, tất sẽ quay sang thị trường ngầm, càng khiến cho thị trường ngầm có điều kiện phát triển. Điều này còn hàm ý, chúng ta thừa nhận sự tồn tại thị trường ngoại tệ ngầm như là một bộ phận của thị trường ngoại hối Việt Nam.
- Do tỷ giá luôn chịu sức ép tăng một chiều, điều này khiến cho những nhà đầu cơ vào cuộc, một mặt họ giữ ngoại tệ, mặt khác họ tích cực mua vào chờ thời cơ tỷ giá tăng để bán ra kiếm lời: thậm chí những người không hề có nhu cầu ngoại tệ để thanh toán cũng ra sức mua bằng được ngoại tệ để làm phương tiện cất trữ giá trị. Điều này khiến cho thị trường ngoại hối lại càng trở nên căng thẳng và tạo ra sức ép mạnh hơn lên phá giá nội tệ.
- Như vậy, mô hình chung trên thị trường ngoại hối đã tạo ra cơ chế "hai giá". Đương nhiên người có nhu cầu ngoại tệ đều muốn mua được "giá phân phối hay giá trong" nhưng vì ngoại tệ khan hiếm nên buộc họ phải "xếp hàng' chờ phân phối và cấp phép. Đây chính là môi trường thuận lợi để các hành vi như hách dịch, cửa quyền, nhận hối lộ, làm việc cửa sau… phát triển.
- Do tồn tại cơ chế "hai giá" nên khiến cho môi trường kinh doanh trở nên không bình đẳng. Ví dụ, đều là nhà nhập khẩu, nhưng nhà nhập khẩu A mua được ngoại tệ tại tỷ giá E1 còn nhà nhập khẩu B phải mua ngoại tệ tại tỷ giá E0, do đó nhà nhập khẩu A sẽ có lợi thế hơn trong cạnh tranh. Hơn nữa, để có thể thanh toán chuyển khoản cho nước ngoài thì nhà nhập khẩu B phải mua ngoại tệ tiền mặt tại tỷ giá bán ở thị trường ngầm, sau đó nộp (bán) cho ngân hàng theo tỷ giá mua tiền mặt của ngân hàng, trên cơ sở đó ngân hàng mới bán ngoại tệ theo tỷ giá bán chuyển khoản của ngân hàng. Nếu điều này là phổ biến thì vai trò hướng dẫn và chủ đạo của thị trường ngoại hối chính thức sẽ trở nên mờ nhạt.
- Do bán ngoại tệ ở thị trường ngầm với tỷ giá cao hơn so với thị trường chính thức, điều này càng khuyến khích những người có ngoại tệ tìm cách chỉ bán ra trên thị trường ngầm: ngoài ra, có thể tạo động cơ cho một số cán bộ làm việc ở bàn đổi tiền lợi dụng ăn chênh lệch giá.
- Do ngoại tệ không được tập trung hoàn toàn vào hệ thống ngân hàng, do đó thị trường ngầm còn là nơi tiếp tay cho những kẻ buôn lậu trốn thuế, làm ăn phi pháp và gây khó khăn cho NHNN trong việc thực thi chính sách tiền tệ.
3.2.2.3 Giải pháp
Từ phân tích trên, cho thấy giải pháp lâu dài và căn bản để hạn chế và tiến tới xóa bỏ thị trường ngoại tệ ngầm, cũng như hạn chế các mặt trái của việc định giá cao nội tệ là hướng tới một tỷ giá thị trường, linh hoạt và tỷ giá phải là sản phẩm của quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. Tuy nhiên, trong điều kiện Việt Nam hiện nay, việc thả nổi tỷ giá ngay lập tức sẽ gây ra những hiệu ứng "sốc" khốc liệt cho nền kinh tế và có thể ảnh hưởng bất lợi cho việc ổn định hệ thống kinh tế - xã hội.
Với vai trò là NHTW, hiện nay NHNN quản lý thị trường ngoại tệ chủ yếu thông qua can thiệp mua bán, công bố tỷ giá bình quân giao dịch liên ngân hàng, quy định trần tỷ giá giao ngay, tỷ giá % gia tăng của tỷ giá kỳ hạn và các biện pháp quản lý ngoại hối. Trong giai đoạn trước mắt thì các biện pháp này còn cần thiết nhưng cần phải nới lỏng từng bước vì các biện pháp này không phải lúc nào cũng hiệu quả, đôi khi lại trở thành lực cản cho sự phát triển thị trường ngoại hối.
Do có tính nhạy cảm cao, cho nên việc điều hành chính sách tỷ giá phải được diễn ra theo từng giai đoạn, có thể là:
- Trước mắt, có thể nói ngay biên độ dao động từ mức ± 0,5% lên ± 0,75%. Điều này có hai tác dụng là: Thứ nhất tạo điều kiện để các NHTM yết tỷ giá cạnh tranh. Thứ hai, như là biện pháp thăm dò mức độ khách quan của tỷ giá.
Sau khi nới rộng biên độ tỷ giá, nếu:
- Thị trường không sử dụng hết biên độ cho phép, điều này hàm ý tỷ giá hiện tại đã phản ánh tương đối khách quan quan hệ cung cầu ngoại lệ trên thị trường ngoại hối; và đây được xem như thời điểm tốt để NHNN có thể tiếp tục nới rộng biên độ dao động lên mức cao hơn (ví dụ ± 1,0%).
- Thị trường ngay lập tức sử dụng hết biên độ cho phép, điều này hàm ý tỷ giá hiện tại đang là quá thấp so với tỷ giá cân bằng: để rút ngắn khoảng cách NHNN tiến hành điều chỉnh tăng dần tỷ giá giao dịch một cách hợp lý mà không gây ra xáo trộn lớn.
- Trong môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, chừng nào tỷ giá giao dịch được ấn định ở mức lớn hơn E0, thì lúc đó ta mới có được chính sách tỷ giá thực sự khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu.
- Về lâu dài, NHNN nên dỡ bỏ biên độ dao động và không trực tiếp ấn định tỷ giá, mà chỉ tiến hành can thiệp trên thị trường ngoại hối để tỷ giá biến động có lợi cho nền kinh tế; đồng thời chuyển hướng từ từ sang sử dụng công cụ lãi suất để điều tiết thị trường ngoại tệ.
3.2.3 Hoàn thiện và phát triển INTERBANK
3.2.3.1 Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng:
Như tên đã phân tích, nhân tố tỷ giá đóng vai trò quyết định trong việc phát triển thị trường ngoại hối hoạt động hiệu quả. Tỷ giá là giá cả ngoại tệ được hình thành theo quy luật cung cầu trên thị trường ngoại hối. Tỷ giá được hình thành theo hai cấp, đó là tỷ giá bán buôn và tỷ giá bán lẻ. Tỷ giá bán buôn được hình thành trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, còn tỷ giá bán lẻ được hình thành trên cơ sở tỷ giá bán buôn cộng với chi phí bán lẻ được hình thành. Đối với các nền kinh tế phát triển, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng hoạt động hiệu quả, doanh số giao dịch trên thị trường này chiếm tới 85% do đó tỷ giá liên ngân hàng luôn là tỷ giá cơ bản và đặc trưng cho quan hệ cung cầu ngoại tệ của cả nền kinh tế. Đối với Việt Nam, do trình độ thị trường còn sơ khai, ngoài yếu tố tỷ giá, còn bị ràng buộc bởi nhiều yếu tố can thiệp hành chính, do đó doanh số giao dịch trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng mới chỉ chiếm tỷ lệ vào khoảng 15 - 20%; chính vì vậy thị trường ngoại tệ liên ngân hàng mới chỉ đóng vai trò thứ yếu, do đó tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường này chưa thể là tỷ giá cơ bản và đặc trưng cho cả nền kinh tế. Để có một thị trường ngoại tệ liên ngân hàng hoạt động hiệu quả ở Việt Nam, ngoài yếu tố tỷ giá như đã nêu ở trên, còn phải đề cập đến một số các nhân tố như:
- Thực hiện vai trò của NHTW là người mua bán cuối cùng trên thị trường ngoại hối : hiện tại, do tỷ giá chưa thực sự làm được chức năng điều tiết cung cầu thì vai trò hướng dẫn điều tiết của NHTW cần được thể hiện thông qua việc mua bán ngoại tệ cuối cùng trên thị trường ngoại hối ngoài ra, NHNN cần tham gia và thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ kỳ hạn, hoán đổi đúng như quy định trong quy chế nhằm tạo điều kiện cho các NHTM tham gia tích cực hơn vào thị trường ngoại hối.
- Việc can thiệp của NHNN cần phải diễn ra kịp thời với quy mô thích hợp, có như vậy thì thị trường hoạt động mới thông suốt. Một khi NHNN không tiến hành can thiệp hoặc can thiệp diễn ra chậm hoặc quy mô can thiệp không thích hợp sẽ làm phát sinh tâm lý rụt rè ngóng đợi khiến cho thị trường rơi vào tình trạng trầm lắng, kích thích đầu cơ và gây áp lực lên tỷ giá. Điều cần lưu ý rằng, sự can thiệp của NHNN ảnh hưởng lên thị trường ngoại hối lớn hơn nhiều so với quy mô can thiệp của chính nó. Như vậy, chỉ cần một động thái khôn ngoan thích hợp của NHNN cũng đủ để thị trường tiếp tục hoạt động thông suốt và hiệu quả.
- Tiến hành thiết lập thị trường ngoại tệ liên ngân hàng theo mô hình tổ chức kép, bao gồm thị trường ngoại tệ liên ngân hàng trực tiếp giữa các ngân hàng và thị trường gián tiếp qua môi giới.
- Hiện nay, có 60 tổ chức được công nhận là thành viên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, nhưng số thành viên tham gia tích cực thì rất hạn chế, điều này khiến cho thị trường hoạt động trầm lắng. Hơn nữa, giao dịch trên thị trường thường diễn ra một chiều, nghĩa là một số ngân hàng thì chuyên đi bán, số khác thì chuyên đi mua, điều này khiến cho thị trường mất đi tính đặc thù của nó. Để khắc phục hạn chế này, một mặt cần mở rộng số lượng thành viên, mặt khác cần tạo ra môi trường và điều kiện để các thành viên tham gia thị trường được tích cực hơn.
- Ngoài những vấn đề căn bản nêu trên, thì việc hoàn thiện quy chế giao dịch, hiện đại hóa khâu thanh toán, trang bị công nghệ thông tin tiên tiến, nâng cao trình độ và kỹ năng kinh doanh cho cán bộ… cũng cần được xem xét thực hiện.
- Hình thành Hiệp hội những nhà kinh doanh ngoại hối Việt Nam
3.2.3.2 Thị trường nội tệ liên ngân hàng:
Như trên đã trình bày, định hướng lâu dài trong việc điều tiết tỷ giá phải thông qua công cụ lãi suất. Như vậy, yếu tố lãi suất không những là yếu tố trung tâm của thị trường tiền tệ mà còn là công cụ hiệu quả để điều tiết tỷ giá và thị trường ngoại hối . Về nguyên lý, giống như tỷ giá, lãi suất cũng được hình thành theo hai cấp, đó là lãi suất bán buôn và lãi suất bán lẻ. Lãi suất bán buôn là lãi suất được thịnh hành theo quan hệ cung cầu vốn trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng, do đó nó thường được gọi là lãi suất liên ngân hàng: còn lãi suất bán lẻ bằng lãi suất liên ngân hàng cộng với chi phí bán lẻ của ngân hàng. Đối với các nước phát triển do thị trường liên ngân hàng là trung tâm của thị trường tiền tệ, do đó lãi suất liên ngân hàng luôn là lãi suất cơ bản, đặc trưng cho quan hệ cung cầu vốn của cả nền kinh tế. Đối với Việt Nam, thị trường tiền tệ liên ngân hàng còn sơ khai, thủ tục phức tạp, dẫn đến mức độ thanh khoản và doanh số giao dịch đều thấp. Do đó, lãi suất liên ngân hàng Việt Nam (VIBOR) chưa thể là lãi suất cơ bản, đặc trưng cho quan hệ cung cầu vốn của cả nền kinh tế. Chính vì vậy, hiện nay NHNN mới chỉ sử dụng lãi suất liên ngân hàng như là yếu tố tham khảo để công bố lãi suất cơ bản của VND. Một khi thị trường tiền tệ ngân hàng chưa phát triển, hoạt động kém hiệu quả thì việc ảnh hưởng của NHNN lên lãi suất thường phải thông qua biện pháp can thiệp trực tiếp hay nói cách khác thị trường không có độ nhạy cảm cao với việc thay đổi lãi suất cơ bản do NHNN công bố. Chính vì vậy, để có thể sử dụng công cụ lãi suất vào việc điều tiết tỷ giá và thị trường ngoại hối một cách hiệu quả thì điều tất yếu là phải phát triển hoàn thiện thị trường tiền tệ liên ngân hàng, để lãi suất hình thành trên thị trường này trở thành lãi suất cơ bản, đặc trưng cho quan hệ cung cầu vốn của cả nền kinh tế, đồng thời thông qua đó NHNN có thể can thiệp một cách hiệu quả lên thị trường tiền tệ, tỷ giá và thị trường ngoại hối.
Ngoài việc NHNN sử dụng công cụ lãi suất để điều tiết tỷ giá và thị trường ngoại hối như là một định hướng lâu dài, thì việc phát triển và hoàn thiện thị trường tiền tệ liên ngân hàng còn góp phần vào việc thúc đẩy phát triển các nghiệp vụ ngoại hối phát sinh như giao dịch kỳ hạn và giao dịch hối đoái hoán đổi.
3.2.4 Đối mặt với khủng khoảng và thách thực hội nhập
3.2.4.1 Đối mặt với khủng hoảng
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á bắt nguồn từ những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, đó là sự mất cân đối trong cơ cấu phát triển của các nước khủng hoảng. Họ đã quá coi trọng khu vực kinh tế thực, chỉ cho khu vực tài chính là sự hỗ trợ cho khu vực kinh tế thực cho nên đã quá coi nhẹ trong việc xây dựng sự vững mạnh của khu vực này.
Thứ hai, bản thân hệ thống tài chính Đông Á yếu kém, đã không đáp ứng kịp sự phát triển của khu vực sản xuất và điều tiết nguồn lực tài chính. Thể hiện ở chỗ sự quản lý không đồng đều, thiếu chặt chẽ, bị sự can thiệp, bóp méo của chính trị do đó không đảm bảo sự rõ ràng.
Thư ba, sự quản lý vĩ mô yếu kém, thiếu linh hoạt, nhạy bén, thâm hụt ngân sách lớn, kéo dài, vay nợ tư nhân cao và không có một cơ chế quản lý chặt chẽ, sự cứng nhắc trong duy trì chính sách tỷ giá cố định.
Thứ tư, thâm hụt cán cân vãng lai lớn cộng với sự mất cân bằng nội lực đã làm giảm khả năng thanh toán.
Thứ năm, sự liến kết giữa khu vực sản xuất và khu vực tài chính chặt chẽ, không tạo ra sự hỗ trợ đắc lực.
Khủng hoảng đã chỉ ra cho các nước này những bào học quý báu trong chương trình hoàn thiện để hội nhập, cụ thể:
Cần xây dựng một hệ thống tài chính lành mạnh dựa trên sở sở cạnh tranh thị trường, thúc đẩy hơn nữa sự tự do hoá nhưng có sự quản lý đảm bảo cơ chế an toàn vốn.
Đảm bảo cân đối giữa hai khu vực tài chính vốn – kinh doanh, cải cách cơ cấu công nghiệp theo hướng bền vững.
Tăng cường công tác quản lý hoạt động tài chính của Chính phủ thông qua việc thiết lập các cơ chế chung về an toàn tài chính, kiểm soát hoạt động vay và cho vay theo nguyên tắc đảm bảo cân đối nội, ngoại. Tăng tính linh hoạt và dự báo các công cụ quản lý vĩ mô.
Tìm đến một sự hiểu biết chung và cam kết tự nguyện trong khu vực để đạt được sự ổn định tương đối cho các quốc gia.
Cuộc khủng hoảng này đã tác động trực tiếp, gián tiếp đến nước ta thông qua nhiều kênh.
Thứ nhất, sự phá giá đồng loạt các đồng tiền làm cho VND bị đánh giá cao so với khu vực và do đó hàng xuất khẩu của Việt Nam bị giảm tính cạnh tranh. Đồng thời sự cao giá này sẽ chịu áp lực phá giá từ phía nhà đầu tư kinh doanh.
Thứ hai, Việt Nam đã mất đi 30% thị trường xuất khẩu và 31% thị trường đầu tư. Sự suy thoái đã làm cho nhu cầu tiêu dùng và khả năng đầu tư của các nước trong khu vực giảm mà chính họ là những nhà nhập khẩu và đầu tư chính vào nước ta.
Thứ ba, sự tụt hậu lớn so với các nước khu vực sau khủng hoảng. Những điều chỉnh sau khủng hoảng của các nước đã tăng khả năng chịu đựng của họ và đương nhiên là sức bật vì thế cũng tăng lên. Nếu không có sự điều chỉnh kịp thời ở ta thì thực sự không thể theo kịp và hơn họ.
Thứ tư, các tiêu chuẩn quốc tế, khu vực ngặt nghèo hơn sau khủng hoảng đòi hỏi ta phải nỗ lực nhiều hơn cho tiến trình hội nhập.
Bên cạnh đó hiện trạng kinh tế - tài chính nước ta cũng bộc lộ những nhân tố, tiềm ẩn có thể gây khủng hoảng.
Trong suốt giai đoạn 1992 – 1996, nước ta duy trì tốc độ tăng trưởng cao trên 9%. Nửa cuối năm 1997 tốc độ tăng trưởng có dấu hiệu chậm lại làm tốc độ cả năm đạt 8.8%. Năm 1998, nước ta chỉ đạt tốc độ tăng trưởng 5,83%. Trong hai năm 1999 và 2000, tốc độ tăng trưởng chỉ đạt dưới 5%.
Thâm hụt cán cân vãng lai ở mức báo động, luôn ở tình trạng thâm hụt kéo dài và mức thâm hụt chiếm tỷ lệ cao hơn so với GDP (trên 5%)
Ngân sách thâm hụt kéo dài với tỷ lệ cao gần 3,5% GDP. Nợ nước ngoài ở mức báo động và đặc biệt là không có sự quản lý chặt chẽ.
Cơ cấu đầu tư, tiết kiệm của ta mất cân đối. Tỷ lệ tiết kiệm thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực (trên dưới 17% GNP so với trên 32% GNP).
Việc phân bổ các nguồn tín dụng không hiệu quả, các nguồn tín dụng ưu đãi cho các Tổng công ty, các Công ty Nhà nước theo hình thức tín chấp đôi khi không hiệu quả trong khi khối tư nhân đang thiếu vốn trầm trọng
3.2.4.2 Thách thức của hội nhập
Trong thời gian qua, chúng ta đã đạt được những bước tiến lớn trong quá trình hội nhập: thành viên ASEAN, APEC, WTO. Tuy nhiên, thách thức của hội nhập là không nhỏ, cụ thể:
Vệc tự do hoá thương mại bước đầu và tiếp tới đòi hỏi việc xoá bỏ các công cụ bảo hộ mậu dịch đi kèm với các chương trình cắt giảm thuế chắc chắn sẽ làm ảnh hưởng đến nguồn thu quan trọng của ngân sách. Trong nhiều năm qua ngân sách chúng ta đã bị thâm hụt và theo dự báo của WB nếu không có sự cải cách tích cực thì ngân sách chúng ta vẫn ở mức thâm hụt gần 2% (sau khi đã có sự tài trợ của các tổ chức quốc tế). Sự thâm hụt ngân sách kéo dài chắc chắn sẽ dẫn đến việc vay nợ trong và ngoài nước, tác động lên cân đối cung - cầu ngoại tệ, dự trữ ngoại tệ quốc gia.
Tiếp đến xoá bỏ dần các chế độ bảo hộ mậu dịch chuyển sang các chế độ bảo hộ phi mậu dịch rồi tự do đòi hỏi phải có các biện pháp hỗ trợ để bảo hộ nền sản xuất nội địa như các chương trình tín dụng ưu đãi, các trợ cấp thương mại, bảo hộ thông qua giá.
Bên cạnh đó chương trình tự do hoá thương mại cần được hỗ trợ bằng việc duy trì tỳ giá thấp hơn tỷ giá thực 10 – 15%. Điều đó đòi hỏi phải có các biện pháp hỗ trợ kéo theo như thắt chặt tài chính, ổn định kinh tế vĩ mô.
Tự do hoá thương mại dẫn đến sự luân chuyển phức tạp hơn của hàng hoá và theo đó là tiền tệ, tín dụng thông qua các hoạt động thanh toán phức tạp với nhiều loại tiền tệ. Do đó cung - cầu ngoại tệ cũng phức tạp hơn và quản lý ngoại tệ khó khăn hơn.
Sự ra đời của thị trường chứng khoán đòi hỏi phải tự do hoá tài khoản vốn, tự do hoá tài chính, đồng thời phải có một cơ chế quản lý điều hành ngoại hối và tỷ giá hợp lý hơn.
Trong điều kiện hội nhập quốc tế, khu vực, mỗi quốc gia phải tự đảm bảo cân đối nền kinh tế của mình. Khi thực hiện hội nhập phải đảm bảo cân đối trong nước và cân đối ngoài nước. Khi này, chính sách tỷ giá trờ thành một nhân tố vô cùng quan trọng trong quản lý vĩ mô để đạt sự cân bằng trong và ngoài nước.
3.2.5 Nâng cao vai trò của NHNN trên VINAFOREX
Với vai trò là NHTW, Ngân hàng Nhà nước tham gia thị trường ngoại tệ liên ngân hàng với tư cách vừa là thành viên vừa là người tổ chức quản lý điều hành hoạt động của thị trường này. Do Vinaforex còn sơ khai, có độ thanh khoản thấp, tỷ giá kém linh hoạt và chưa thực sự trở thành công cụ điều tiết cung cầu ngoại tệ, cho nên sự can thiệp của NHNN trên thị trường ngoại hối đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết cung cầu ngoại tệ, nhằm bôi trơn và giúp cho thị trường ngoại hối hoạt động được thông suốt. Ngoài chức năng tổ chức và quản lý hoạt động thị trường NHNN còn thực hiện chức năng người mua bán cuối cùng trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Tuy nhiên trên thực tế, do dự trữ ngoại tệ của NHNN mỏng không ổn định lại qua nhiều tầng nấc quản lý, do đó NHNN chưa thể làm tốt vai trò là người mua bán cuối cùng trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, nên tình trạng căng thẳng về ngoại tệ thường xảy ra. Một thực tế là, các NHTM cổ phần thường trông chờ vào các NHTM Nhà nước đến lượt mình các NHTM Nhà nước lại trông vào NHNN tung ngoại tệ ra để can thiệp thị trường. Nhưng không phải mọi sự trông đợi đều trở thành hiện thực. Bên cạnh cơ chế tỷ giá cứng nhắc cùng với sự can thiệp của NHNN trên thị trường còn hạn chế cho nên chưa khuyến khích được các NHTM đẩy nhanh tốc độ luân chuyển ngoại tệ, tạo tâm lý găm giữ ngoại tệ đối với các NHTM cũng như các doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
Đề NHNN thực hiện tốt vai trò trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng cần có một số giải pháp sau:
- Hướng tới một tỷ giá thị trường cân bằng, nhằm biến tỷ giá thành công cụ chủ yếu và hữu hiệu trong việc điều tiết cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối.
- Tăng cường dự trữ ngoại tệ vào NHNN, đảm bảo mức dự trữ cần thiết tối thiểu (12 - 13 tuần nhập khẩu), nhằm tạo đủ nguồn để NHNN can thiệp kịp thời đủ liều lượng thông qua các biện pháp thị trường, giúp cho hoạt động của thị trường ngoại hối được ổn định và thông suốt.
- Tập trung dự trữ ngoại hối Nhà nước về một đầu mối là NHNN.
Theo Quy định tại khoản 2 và 5 điều 38 mục 5 Luật Ngân hàng Nhà nước cũng như tại Điều 1 của Nghị định số 86/1999/NĐ-CP ngày 30 tháng 8 năm 1999 về quản lý dự trữ ngoại hối Nhà nước thì NHNN là cơ quan quản lý dự trữ ngoại hối Nhà nước nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, bảo đảm khả năng thanh toán quốc tế, bảo toàn dự trữ ngoại hối Nhà nước. Tuy nhiên, trong thực tế số ngoại tệ thu được từ xuất khẩu thô của Nhà nước chưa tập trung vào ngân hàng Nhà nước mà vẫn do Bộ Tài chính quản lý và sử dụng. Việc sử dụng số ngoại tệ này hiện chưa linh hoạt do đầu tư của Bộ tài chính (cụ thể là Kho bạc) hiện còn hạn chế, nên một lượng ngoại tệ đáng kể trong tay Bộ Tài chính vẫn nằm im, chưa tập trung vào NHNN để cân đối với nhu cầu ngoại tệ của nền kinh tế. Một nghịch lý khó có thể chấp nhận nhưng đã và đang tồn tại là: Nguồn ngoại tệ thu từ xuất khẩu dầu thô tập trung vào Bộ Tài chính, trong khi đó hệ thống Ngân hàng lại phải chi ngoại tệ để nhập khẩu xăng dầu cho nền kinh tế. Điều này làm cho ngoại tệ bị phân tán, dự trữ ngoại hối Nhà nước tại NHNN mỏng, khiến cho NHNN không đủ lực để can thiệp thị trường. Vấn đề đặt ra là: Phải chăng Bộ tài chính cũng thực hiện găm giữ ngoại tệ nhằm mục đích đầu cơ kiếm lãi khi tỷ giá tăng? Có thể thấy rằng, trong điều kiện khan hiếm ngoại tệ và tỷ giá luôn chịu áp lực tăng, thì việc Bộ Tài chính găm giữ ngoại tệ có thể đưa lại sự thuận lợi trong chi tiêu bằng ngoại tệ cũng như tăng nguồn thu bằng VND cho Ngân sách Nhà nước, nhưng xét về nền kinh tế như một tổng thể thì đó vẫn chỉ mang tính chất lợi ích cục bộ mà chưa mang tính cộng đồng.
Qua phân tích trên thấy rằng cần có sự phối hợp điều chỉnh lại việc triển khai cơ chế mua bán các khoản thu, chi bằng ngoại tệ của NSNN theo hướng tập trung quản lý ngoại tệ vào một đầu mối là NHNN tạo điều kiện cho NHNN thực hiện tốt chức năng quản lý và điều hành thị trường ngoại tệ, có điều kiện tăng lượng dự trữ ngoại tệ Nhà nước nâng cao khả năng can thiệp vào thị trường khi cần thiết, còn Bộ tài chính chỉ kiểm tra việc quản lý dự trữ ngoại hối của NHNN đúng như quy định tại Điều 19 của Nghị định 86/1999/NĐ- CP ngày 30 tháng 8 năm 1999 về quản lý dự trữ ngoại hối Nhà nước. Theo đó, khi có phát sinh các khoản thu NSNN bằng ngoại tệ thì Bộ Tài chính bán lại toàn bộ số ngoại tệ đó cho NHNN. Khi có nhu cầu chi NSNN bằng ngoại tệ. Bộ Tài chính sẽ mua từ NHNN và NHNN có trách nhiệm đáp ứng đầy đủ và kịp thời lượng ngoại tệ cho NSNN. Có như vậy, mới tăng được năng lực dự trữ ngoại hối quốc gia, tạo điều kiện cho NHNN sử dụng nguồn ngoại tệ dự trữ một cách linh hoạt và hiệu quả, đồng thời có như vậy NHNN mới thực sự đóng vai trò là người mua bán cuối cùng để cân bằng thị trường ngoại hối.
- Hoạt động can thiệp của NHNN trên thị trường ngoại hối chỉ thực sự có hiệu quả khi có sự phối hợp nhịp nhàng với hoạt động của NHNN trên thị trường mở nhằm triệt tiêu hiệu ứng phụ nảy sinh. Cơ chế phối hợp giữa hai thị trường có thể mô tả như sau: Khi NHNN can thiệp trên thị trường ngoại hối bằng cách bán ngoại tệ ra, nghĩa là đồng thời NHNN đã hút bớt một lượng nội tệ từ lưu thông; để tránh hiện tượng thiểu phát buộc NHNN phải sử dụng thêm một nghiệp vụ trên thị trường mở là mua chứng khoán vào để bơm thêm tiền vào lưu thông. Ngược lại, khi NHNN mua ngoại tệ, nghĩa là đồng thời NHNN đã bơm thêm nội tệ vào lưu thông. Để tránh hiện tượng lạm phát buộc NHNN phải sử dụng thêm một nghiệp vụ trên thị trường mở là bán chứng khoán ra để hút bớt tiền từ lưu thông.
Tuy nhiên, do thị trường tiền tệ Việt Nam còn kém phát triển đặc biệt là sự nghèo nàn về công cụ, do đó hoạt động của thị trường còn trầm lắng. Chính vì vậy, để can thiệp của NHNN trên thị trường ngoại hối đạt được hiệu quả thì cần có hệ thống giải pháp hoàn thiện thị trường tiền tệ để NHNN có thể can thiệp khi cần bơm thêm hoặc hút bớt tiền ra khỏi lưu thông, giảm áp lực lên lạm phát khi cung cầu ngoại tệ căng thẳng.
3.2.6 Hoàn thiện phương thức công bố tỷ giá
Thực tế hiện nay tỷ giá của VND mới chỉ gắn định với USD mà chưa có sự gắn định với các ngoại tệ khác, điều này được thể hiện trên hai phương diện:
- Xét về phương diện tập quán thị trường: khối lượng giao dịch (bao gồm cả giao dịch vãng lai và giao dịch vốn) được tính bằng USD chiếm một tỷ trọng rất lớn, ước tính 70%. Đặc biệt trong các giao dịch thương mại quốc tế, tỷ trọng này lên tới 95%.
- Xét về phương pháp xác định và công bố tỷ giá. Hiện nay tỷ giá VND/USD được xác định và công bố dường như độc lập hoàn toàn với quan hệ tỷ giá của USD với các ngoại tệ khác, nghĩa là tỷ giá của VND được gắn định chặt chẽ với USD. Thực tế cho thấy, đồng đôla Mỹ luôn có giá trị ổn định được thể hiện ở tỷ lệ lạm phát thấp, trong khi đó đồng Việt Nam có giá trị bấp bênh tiềm ẩn lạm phát cao; chính vì vậy việc gắn định tỷ giá của VND với USD là điều bất hợp lý bởi vì nó làm xói mòn sức cạnh tranh thương mại quốc tế của Việt Nam. Mặt khác, hậu quả của chế độ tỷ giá gắn định còn thể hiện ở chỗ, nếu USD lên giá với các ngoại tệ khác nghĩa là VND cũng lên giá theo. Việc USD lên giá so với các ngoại tệ sẽ kìm hãm xuất khẩu và kích thích nhập khẩu của Việt Nam.
Với tập quán thị trường, phương pháp xác định và công bố tỷ giá như trên, rõ ràng hoạt động kinh tế đối ngoại và hoạt động có chức đựng rủi ro tiềm ẩn khi mà giá trị của USD đột ngột thay đổi lớn so với các ngoại tệ khác.
Nhằm hạn chế sự gắn định vào USD:
- Một mặt, đa dạng hóa các ngoại tệ trong các giao dịch quốc tế đưa một số ngoại tệ mạnh, chiếm tỷ trọng nhất định trong thanh toán quốc tế của Việt Nam vào cơ cấu đối tượng mua bán trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng; hạn chế các biện pháp can thiệp trực tiếp lên tỷ giá và ngoại hối; khơi thông và tiến tới đưa thị trường ngoại hối quốc gia hội nhập với thị trường ngoại hối quốc tế.
- Mặt khác, trong phương pháp xác định và công bố tỷ giá, NHNN nên xác định cơ cấu "rổ" ngoại tệ để xác định tỷ giá của VND nhằm giảm bớt sự lệ thuộc vào USD, đồng thời tỷ giá của VND với các ngoại tệ khác sẽ được khách quan hơn. Trong từng thời kỳ, các đồng tiền trong "rổ" cũng có sự biến động, có đồng tiền lên giá và có đồng tiền giảm giá trên thị trường ngoại hối quốc tế, nhưng giá trị của VND đối với cả "rổ" là không thay đổi do đó tránh được sự lệ thuộc vào một ngoại tệ nào đó. Ngoài ra, NHNN cũng cần tiến tới xác định và công bố tỷ giá trung bình của VND với cả "rổ" ngoại tệ (Effective Exchange Rate).
3.2.7 Chuyển biện pháp kết hối sang công cụ tỷ giá thị trường
Do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực năm 1997 - 1998, nên hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam đều găm giữ ngoại tệ trên tài khoản làm cho cung cầu ngoại tệ bị sai lệch, cầu USD tăng lên một cách giả tạo. Trong khi nhiều doanh nghiệp có một lượng lớn ngoại tệ chưa dùng tới nhưng không muốn bán thì các doanh nghiệp khác lại rất cần ngoại tệ nhưng không thể mua được. Để hạn chế tình trạng găm giữ ngoại tệ của các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, khắc phục căng thẳng giả tạo trong qua hệ cung cầu về ngoại tệ. Ngày 12/9/1998, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 173/QĐ-TTG về nghĩa vụ bán và quyền mua ngoại tệ của người cư trú là tổ chức với tỷ lệ kết nối bắt buộc là 80%. Kết hối ngoại tệ là biện pháp bắt buộc các doanh nghiệp có nguồn thu về ngoại tệ phải bán ngay một phần cho NHTM. Trong những thời điểm cụ thể biện pháp này đã có tác dụng nhất định trong việc hạn chế tình trạng găm giữ ngoại tệ của các doanh nghiệp. Tuy nhiên đây là biện pháp mang nặng tính hành chính chỉ là giải pháp tình thế tạm thời để giảm bớt căng chẳng khi cầu ngoại tệ quá cao nhằm ổn định tỷ giá và thị trường ngoại hối trong thời gian trước mắt. Việc áp dụng biện pháp này là đi ngược với xu thế giảm thiểu các biện pháp can thiệp trực tiếp, tăng cường các biện pháp kinh tế trong công tác điều hành quản lý ngoại hối. Với tinh thần đó, cùng với việc giảm bớt một phần bất hợp lý cho doanh nghiệp về rủi ro tỷ giá khi buộc phải bán ngoại tệ với giá thấp và sau đó khi mua lại phải chịu giá cao. Ngày 30/8/1999, Chính phủ đã có quyết định số 180/1999/QĐ-TTG điều chỉnh tỷ lệ kết hối từ 80% xuống 50%, xuống 40% và hiện nay là 0%.
Như vậy, vấn đề đặt ra là: Làm thế nào để vừa đảm bảo được tính tự chủ của doanh nghiệp trong kinh doanh, vừa khuyến khích họ luôn sẵn sàng bán ngoại tệ cho NHTM để quay vòng sản xuất chứ không "bắt ép" bằng biện pháp kết hối? Để thúc đẩy thị trường ngoại hối phát triển, chính sách quản lý ngoại hối và tỷ giá phải được đổi mới theo hướng tự do hóa, giảm việc can thiệp trực tiếp, tăng sử dụng các biện pháp kinh tế trong điều hành chính sách quản lý ngoại hối, đặc biệt là sử dụng công cụ tỷ giá, đồng thời tạo quyền chủ động trong việc mua, bán và sử dụng ngoại tệ của các doanh nghiệp và các NHTM. Chính vì vậy, biện pháp kết nối cần được xóa bỏ, chứ không chỉ giảm xuống 0% thay vào đó là sử dụng công cụ tỷ giá để điều tiết cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối./.
KẾT LUẬN
Xu hướng quốc tế hoá nền kinh tế thế giới ngày càng trở nên mạnh mẽ. Sự hội nhập quốc tế của nền kinh tế Việt Nam thông qua cơ chế thị trường mở là một nhu cầu khách quan có tính quy luật và hội nhập về tỷ giá là điều không thể tránh khỏi.
Trong thời gian qua, tỷ giá VND/USD có nhiều biến động mạnh, đồng USD giảm giá mạnh, VND được định giá thấp …Có thể nói những biến động này là phần khai cuộc cho ván cờ chính sách tỷ giá trong giai đoạn hậu WTO. Do đó, NHNN cũng như các cơ quan chuyên trách phải có những chính sách phù hợp và đúng đắn như: hoàn thiện phát trển hơn nữa thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, thị trường nội tệ liên ngân hàng, hoàn thiện phương thức công bố tỷ giá… để hoàn thiện chính sách tỷ giá, qua đó góp phần đưa Việt Nam hội nhập thành công vào khu vực và thế giới
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TS. Nguyễn Hữu Tài (chủ biên), 2002, Giáo trình Lý thuyết Tài chính – Tiền tệ, NXB Thống kê.
PGS.TS Nguyễn Văn Tiến, 2005, Tài chính quốc tế hiện đại, NXB Thống kê
Frederic.S.Mishkin, 1997, The Economíc of Money, Banking and Financial Markets.
Tạp chí Ngân hàng, số tháng 6/2006
Tạp chí Ngân hàng, số tháng 12/2006
Tạp chí Ngân hàng, số tháng 3/2007
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần VIII, IX
Tạp chí Tài chính 12/2006
Tạp chí Nghiên cứu kinh tế thế giới
Tạp chí Châu Á – Thái Bình Dương
MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU
1
CHƯƠNG I TỔNG QUAN VỀ TỶ GIÁ
3
1.1 Khái niệm và mục tiêu của chính sách tỷ giá
3
1.1.1 Khái niệm
3
1.1.2 Mục tiêu của chính sách tỷ giá
3
1.1.2.1 Ổn định giá cả
3
1.1.2.2 Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và công ăn việc làm đầy đủ
4
1.1.2.3 Cân bằng cán cân vãng lai
5
1.2 Nội dung của chính sách tỷ giá
5
1.3 Các công cụ của chính sách tỷ giá
6
1.3.1 Nhóm công cụ tác động trực tiếp lên tỷ giá
6
1.3.2 Nhóm công cụ tác động gián tiếp lên tỷ giá
7
1.4 Các mô hình xác định tỷ giá
8
1.4.1 Mô hình ngang giá sức mua(PPP)
8
1.4.1.1 Quy luật ngang giá sức mua
8
1.4.1.2 Quy luật một giá
9
1.4.1.3 Các dạng biểu hiện của PPP
10
1.4.1.3.1 PPP dạng tuyệt đối giản đơn
10
1.4.1.3.2 PPP dạng tuyệt đối tổng quát
12
1.4.1.3.3 PPPdạng tương đối - tỷ lệ %
14
1.4.1.3.4 PPP dạng tương đối - số tuyệt đối
17
1.4.2 Mô hình ngang giá lãi suất
20
1.4.2.1 Quy luật ngang giá lãi suát có bảo hiểm - CIP
20
1.4.2.1.1 Khái niệm về quy luật ngang giá lãi suất
20
1.4.2.1.2 Kinh doanh chênh lệch lãi suất duy trì quy luật CIP
21
1.4.2.1.3 Công thức ngang giá lãi suất CIP
23
1.4.2.2 Quy luật UIP và hiệu ứng FISHER quốc tế
25
1.4.2.2.1 Hành vi đầu cơ hình thành quy luật UIP
25
1.4.2.2.2 Hiệu ứng FISHER quốc tế
27
1.4.3 Các học thuyết tiền tệ tiếp cận tỷ giá
27
1.4.3.1 Mô hình giá linh hoạt
27
1.4.3.1.1 Mô hình giá linh hoạt dạng tuyệt đối
28
1.4.3.1.2 Mô hình giá linh hoạt dạng tương đối
30
1.4.3.2 Mô hình chênh lệch lãi suất thực vủa FRANKEL
33
1.4.4 Học thuyết cân bằng danh mục đầu tư tiếp cận tỷ giá
36
1.5 Các nhân tố tác động lên tỷ giá
40
1.5.1 Những nhân tố tác động lên cán cân vãng lai, qua đó tác động đến xu hướng biến động của tỷ giá trong dài hạn
40
1.5.1.1 Cán cân thương mại và dịch vụ
41
1.5.1.2 Cán cân chuyển giao vãng lai một chiều
42
1.5.1.3 Cán cân thu nhập
42
1.5.2 Những nhân tố tác động đến cán cân vốn và cán cân bù đắp chính thức qua đó tác động lên tỷ giá trong ngắn hạn
43
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ Ở VIỆT NAM
44
2.2 Đánh giá chính sách tỷ giá của Việt Nam
44
2.2.1 Tác động tỷ giá đến hoạt động xuất nhập khẩu
55
2.2.1.1 Các loại tỷ giá sử dụng khi phân tích ảnh hưởng lên cán cân thương mại
56
2.2.1.2 Kiểm chứng mối quan hệ giữa tỷ giá VND và cán cân thương mại
59
2.2.1.3 Một số kiến nghị
63
2.2.2 Giải pháp ứng phó hiện tượng USD giảm giá trong thời gian qua
64
2.2.2.1 Mô hình giá cứng của DORNBUSCH
64
2.2.2.2 Chính sách giảm giá USD của Mỹ
67
2.2.2.3 Chính sách tỷ giá VND cần chủ động và tích cực hơn
71
2.2.3 Chính sách tỷ giá với thị trường ngoại tệ ngầm
74
2.2.3.1 Hoạt động thị trường ngoại tệ ngầm
74
2.2.3.2 Đánh giá hoạt động thị trường ngoại tệ ngầm
77
2.2.4 Chính sách thu hút và quản lý kiều hối
77
2.2.4.1 Cơ sở pháp lý thu hút kiều hối
79
2.2.4.2 Kết quả đạt được
81
2.2.4.3 Một số hạn chế
82
2.3 Những thành tựu và hạn chế của chính sách tỷ giá trong thời gian qua
83
2.3.1 Những thành tựu
83
2.3.2 Một số vấn đề về tỷ giá trong thời gian qua
84
2.3.2.1 Trạng thái của VND
85
2.3.2.2 Tỷ giá trong việc thực hiện các chiến lược vĩ mô trong thời gian qua
87
2.3.2.2.1 Chiến lược hướng mạnh về xuất khẩu
88
2.3.2.2.2 Chiến lược thu hút đầu tư nước ngoài
89
2.3.2.2.3 Tỷ giá với vấn đề thâm hụt ngân sách và nợ nước ngoài
90
2.3.2.3 Những thách thức mới đối với chính sách tỷ giá nước ta
91
CHƯƠNG III
CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ Ở VIỆT NAM HẬU WTO
92
3.1 Quan điểm, mục tiêu chính sách tỷ giá ở Việt Nam hiện nay
92
3.2nGiải pháp hoàn thiện chính sách tỷ giá ở Việt Nam hậu WTO
93
3.2.1 Mô hình công nghiệp hoá bền vững hướng tới hội nhập
94
3.2.2 Hướng tới chính sách tỷ giá cân bằng cung cầu
96
3.2.2.1 Chế độ tỷ giá và vấn đề định giá cao thấp nội tệ
96
3.2.2.2 Những mặt trái khi nội tệ được định giá cao
97
3.2.3 Hoàn thiện và phát triển INTERBANK
103
3.2.3.1 Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng
103
3.2.3.2 Thị trường nội tệ liên ngân hàng
105
3.2.4 Đối mặt với khủng hoảng và thách thức hội nhập
106
3.2.4.1 Đối mặt với khủng hoảng
106
3.2.4.2 Thách thức của hội nhập
108
3.2.5 Nâng cao vai trì của NHNN trên VINAFOREX
109
3.2.6 Hoàn thiện phương thức công bố tỷ giá
112
3.2.7 Chuyển biện pháp kết hối sang công cụ tỷ giá thị trường
113
KẾT LUẬN
115
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 72569.DOC