Trong quá trình thanh tra các NHTM, NHNN thực hiện việc phân tích đánh giá các khoản mục tài sả Nợ và tài sản Có của NHTM và toàn bộ hệ thống TCTD. Thông qua đó, NHNN có thể phát hiện được những điểm chưa phù hợp trong điều hành chính sách tiền tệ quốc gia (như tỷ lệ dự trữ bắt buộc không hợp lý gây ra tình trạng căng thẳng về cung cầu vốn của TCTD, chính sách lãi suất quá cao khiến các TCTD gặp khó khăn để mở rộng cho vay . . .); từ đó, có cơ sở để đưa ra các giải pháp điều chỉnh thích hợp trong việc điều hành chính sách tiền tệ, đảm bảo phù hợp với thực tế.
Cũng thông qua thanh tra, NHNN có thể phát hiện được những bất hợp lý trong cơ chế, chính sách của Nhà nước liên quan đến hoạt động ngân hàng, từ đó kiến nghị các cấp có thẩm quyền hoặc bản thân NHNN tự bổ sung, sửa đổi tháo gỡ khó khăn cho hoạt động của các TCTD.
90 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1222 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp hoàn thiện hoạt động thanh tra của Ngân hàng Nhà nước đối với các ngân hàng thương mại cổ phần tại Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h tra ngân hàng
3.1.1 Toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới và hội nhập quốc tế đòi hỏi phải tăng cường kiểm soát đối với các ngân hàng
Mở cửa thị trường tài chính làm tăng mức độ cạnh tranh trên thị trường tài chính trong nước do xuất hiện nhiều đối thủ mới mạnh hơn, đồng thời đặt các TCTD và thị trường tài chính Việt Nam trước những rủi ro ngoại sinh lớn hơn. Theo cam kết của Việt nam gia nhập WTO, đến năm 2010 về cơ bản Việt Nam mở của hoàn toàn thị trường dịch vụ ngân hàng, các hạn chế đối với các TCTD nước ngoài dần được dỡ bở. Như vậy, thị trường tài chính của Việt Nam nhanh chóng trở thành một phần của thị trường tài chính khu vực và quốc tế, các ngân hàng và tổ chức tài chính Việt Nam hội nhập hơn với thị trường tài chính toàn cầu và do đó sẽ phải chịu ảnh hưởng từ các biến động quốc tế (nhất là các cuộc khủng hoảng tài chính) mạnh hơn so với trước đây. Đặc biệt, qua cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay bắt nguồn từ cho vay dưới chuẩn của các tổ chức tài chính của Mỹ đã làm cho cấu trúc của hệ thống tài chính – ngân hàng thế giới thay đổi, Việt Nam cần cải tổ hệ thống tài chính – ngân hàng, đặc biệt là khả năng quản trị rủi ro để theo kịp với sự sáng tạo của thị trường và xu thế chung của thế giới, trong đó Việt Nam cần đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng tốt những nền tảng cơ bản cho phát triển thị trường tài chính như khuôn khổ pháp lý về giám sát và tổ chức giám sát tài chính. Vấn đề điều tiết, giám sát tất cả các định chế, tổ chức tài chính và ngân hàng sẽ được đặt ra nghiêm ngặt hơn. Việc cải tổ hệ thống tài chính – ngân hàng Việt Nam theo nguyên tắc minh bạch, cho phép đánh giá và quản lý hiệu quả hơn nhằm ngăn chặn khủng hoảng cũng là phù hợp với xu hướng chung của thế giới.
3.1.2 Sự phát triển mạnh mẽ cả về tổ chức và hoạt động của các ngân hàng trong cơ chế mới đòi hỏi phải hoàn thiện hơn công tác của thanh tra ngân hàng
Các NHTMCP trên địa bàn Hà Nội có tốc độ phát triển nhanh về quy mô và phạm vi hoạt động, cung cấp nhiều sản phẩm dịch vụ tài chính quan trọng cho nền kinh tế, đặc biệt là huy động vốn và cho vay và thanh toán. Điều này đòi hỏi việc quản lý nhà nước của NHNN đối với các NHTM càng phải chặt chẽ hơn, trong đó phải tăng cường công tác thanh tra – giám sát để có thể kịp thời phát hiện những vi phạm trong hoạt động của các ngân hàng, hạn chế tới mức thấp nhất rủi ro, làm cho hoạt động của các ngân hàng ngày càng lành mạnh.
Bên cạnh đó, sự phát triển nhanh chóng, phức tạp của các NHTM đang tiềm ẩn nguy cơ đổ vỡ hệ thống rất cao: Sự ra đời và phát triển nhanh chóng của nhiều loại hình TCTD Việt Nam cùng với sự xuất hiện của các TCTD nước ngoài đã làm cho mức độ cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng ngày càng trở lên gay gắt. Để tồn tại và phát triển, các NHTM phải cạnh tranh quyết liệt nhằm thu hút khách hàng như tăng lãi suất huy động, giảm lãi suất cho vay, mở rộng địa bàn hoạt động, tham gia nhiều hơn vào các hoạt động kinh doanh tiềm ẩn rủi ro thị trường cao . . . Với năng lực quản trị điều hành, đặc biệt là quản trị rủi ro còn ở mức thấp, trình độ cán bộ còn hạn chế, hệ thống công nghệ thông tin còn bất cập làm cho các ngân hàng đối mặt với rất nhiều loại rủi ro như rủi ro thị trường, tín dụng, lãi suất, hoạt động . . .). Những rủi ro đó đang đe dọa trực tiếp đến sự an toàn của từng ngân hàng. Một ngân hàng có vấn đề sẽ tác động đến cả hệ thống, đồng thời ảnh hưởng lớn đến mọi mặt kinh tế – xã hội. Vì vậy, đòi hỏi phải có cơ chế và phương pháp thanh tra thích hợp để đảm bảo an toàn hệ thống các TCTD.
3.1.3 Môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng còn khá nhiều bất cập chưa phù hợp với thực tiễn
Nhiều khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn chưa có cơ chế để giải quyết, tháo gỡ. Trong bối cảnh như vậy, việc tăng cường và nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra giám sát đối với các TCTD còn có vai trò quan trọng trong việc phát hiện và kiến nghị chỉnh sửa, bổ sung cơ chế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc chấp hành pháp luật của các TCTD.
3.1.4 Yêu cầu nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động thanh tra nhằm phù hợp với đòi hỏi của thị trường
Các chuẩn mực thanh tra giám sát ngân hàng của Việt Nam hiện nay lạc hậu hơn nhiều so với quốc tế. Nếu không có các biện pháp tích cực thì Việt Nam không những không kiểm soát được hoạt động của các TCTD nước ngoài tại Việt Nam mà cũng không thực hiện các cam kết quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng.
Mặt khác, mô hình tổ chức bộ máy của thanh tra ở Việt Nam chưa hình thành một hệ thống mà đang được tiến hành riêng rẽ cho từng đơn vị khác nhau. Ngay cả việc giám sát riêng rẽ đó cũng nặng về giám sát tuân thủ hơn là giám sát rủi ro. Trong khi đó nói đến hệ thống tài chính là nói đến những rủi ro có tính hệ thống, là những rủi ro trong từng lĩnh vực và rủi ro chéo từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác.
Về kỹ thuật, cho đến giờ ở Việt Nam chưa có một quy định chung nào về giám sát hệ thống tài chính tổng quát. Mặc dù các chỉ tiêu giám sát từ xa theo CAMELS đã bắt đầu được Thanh tra Ngân hàng áp dụng nhưng đó mới chỉ là những chỉ tiêu mang tính định lượng và chỉ áp dụng cho các ngân hàng thương mại cổ phần, quỹ tín dụng nhân dân. Những giá trị chỉ dẫn của chỉ tiêu định lượng thường rất hạn chế bởi những chỉ tiêu này dựa trên chuẩn kế toán Việt Nam và phải căn cứ vào kết quả thống kê, mà kết quả thống kê thì phụ thuộc vào thời gian. Trong khi đó, rủi ro thì đến từng ngày. Vì thế ở Việt nam đang rất cần một hệ thống chỉ tiêu định tính.
3.2 Định hướng đổi mới và phát triển hoạt động thanh tra Ngân hàng Nhà nước
Đề án “Phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020” ban hành theo Quyết định số 112/2006/QĐ-TTg ngày 24/5/2006 của Thủ tướng Chính phủ đã định hướng phát triển hệ thống giám sát ngân hàng như sau:
- NHNN có trách nhiệm và quyền hạn chủ chốt trong việc quản lý, giám sát hoạt động của các TCTD và các tổ chức khác có hoạt động ngân hàng, đồng thời phối hợp với Bộ Tài chính trong việc quản lý, giám sát toàn bộ hệ thống tài chính.
- Trên cơ sở bộ máy Thanh tra NHNN hiện có, xây dựng hệ thống giám sát ngân hàng hiện đại và hữu hiệu (về thế chế, mô hình tổ chức, con người và phương pháp) nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển hệ thống Ngân hàng Việt Nam và thực hiện đúng các nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế về giám sát ngân hàng.
- Thành lập Cơ quan Giám sát an toàn hoạt động ngân hàng là một đơn vị thuộc NHNN trên cơ sở bộ máy Thanh tra NHNN hiện nay. Từng bước tạo tiền đề để đến sau năm 2010 xây dựng được Cơ quan Giám sát tài chính hợp nhất, có vị thế và vai trò cao hơn trong việc thực hiện chức năng giám sát an toàn toàn bộ hoạt động tài chính, bao gồm ngân hàng, chứng khoán và bảo hiểm.
- Mục tiêu và trách nhiệm chính của Cơ quan giám sát an toàn hoạt động ngân hàng của NHNN là góp phần bảo đảm toàn, ổn định của hệ thống các TCTD và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật về tiền tệ, hoạt động ngân hàng, bảo vệ lợi ích của công chúng.
- Hoàn thiện các điều kiện kiên quyết cho một hệ thống giám sát có hiệu quả: ưu tiên đổi mới mô hình tổ chức, hoạt động của Thanh tra NHNN hiện nay theo hướng nâng cao tính độc lập, thống nhất về hoạt động nghiệp vụ và chỉ đạo, điều hành của Cơ quan Giám sát an toàn hoạt động ngân hàng dưới sự quản lý của Thống đốc NHNN.
- Hoàn thiện khuôn khổ pháp luật về giám sát ngân hàng và hạ tầng cơ sở kỹ thuật phục vụ hoạt động giám sát ngân hàng. Xây dựng Luật Giám sát an toàn hoạt động ngân hàng. Bảo đảm để Cơ quan Giám sát an toàn hoạt động ngân hàng có đủ quyền lực cần thiết trong quá trình thực hiện nhiệm vụ giám sát an toàn hệ thống và việc chấp hành đúng các quy định của pháp luật trong hoạt động của các TCTD.
- Hiện đại hóa và sử dụng có hiệu quả công nghệ thông tin trong công tác thanh tra giám sát ngân hàng
- Đổi mới hoạt động cấp giấy phép thành lập và hoạt động ngân hàng, đơn giản hoá thủ tục cấp giấy phép. Tạo điều kiện thuận lợi cho các TCTD thành lập và phát triển, đặc biệt là đối với các TCTD phi ngân hàng theo hướng bình đẳng trong tiếp cận thị trường và kinh doanh dịch vụ tiền tệ, ngân hàng trên cơ sở nâng cao kỷ luật thị trường, các yêu cầu về tiêu chuẩn thành lập các TCTD, quy định an toàn trong hoạt động ngân hàng để đảm bảo những TCTD thành lập mới phải có năng lực cạnh tranh, quy mô hoạt động, trình độ công nghệ chất lượng và mức độ an toàn cao.
- Đổi mới và nâng cao hiệu quả phương pháp giám sát từ xa
Nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiệp vụ giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ, trong đó giám sát từ xa được coi là nghiệp vụ quan trọng, có chức năng cảnh bảo sớm rủi ro trong hoạt động ngânhàng; sử dụng kết quả và hoạt động kiểm toán nội bộ và kiểm toán độc lập làm công cụ hỗ trợ cho quá trình giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ.
- Hoàn thiện các quy định an toàn, các biện pháp thận trọng trong hoạt động ngân hàng; các quy định, chính sách quản lý các loại hình TCTD và hoạt động ngân hàng; đồng thời đổi mới nội dung, phương pháp, quy trình thanh tra, giám sát phù hợp với sự phát triển của côn nghệ thông tin, công nghệ ngân hàng và trên cơ sở áp dụng các nguyên tắc cơ bản về giám sát ngân hàng có hiệu quả của Uỷ ban giám sát ngân hàng Basel và các chuẩn mực quốc tế về giám sát ngân hàng (Hiệp ước vốn Basel năm 1988 – Basel I), từng bước tiến tới thực hiện các nguyên tắc, chuẩn mực cơ bản theo Hiệp ước vốn mới (Basel II) sau năm 2010.
Để từng bước thực hiện đề án trên, ngày 27/5/2009, Chính phủ đã ký Quyết định số 83/2009/QĐ-TTg quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng trực thuộc NHNN Việt Nam, Quyết định nêu rõ, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng là cơ quan trực thuộc NHNN VN, thực hiện chức năng thanh tra hành chính, thanh tra và giám sát chuyên ngành về ngân hàng trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của NHNN, tham mưu giúp Thống đốc NHNN quản lý nhà nước đối với các TCTD, tổ chức tài chính quy mô nhỏ, hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác và thực hiện phòng, chống rửa tiền.
Theo đó, Cơ quan thanh tra thực hiện 18 nhiệm vụ, quyền hạn, như: Thanh tra việc chấp hành pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, đánh giá mức độ rủi ro, năng lực quản trị rủi ro, tình hình tài chính và hoạt động của đối tượng thanh tra ngân hàng; đề xuất Thống đốc NHNN áp dụng biện pháp xử lý đối với đối tượng thanh tra ngân hàng có hành vi vi phạm pháp luật hoặc hoạt động không an toàn, giám sát việc thực hiện các quy định về an toàn hoạt động ngân hàng, về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, các điều kiện cấp phép, các quy định trong giấy phép thành lập và hoạt động; phân tích, đánh giá tình hình tài chính, hoạt động, quản trị, điều hành và mức độ rủi ro của đối tượng giám sát ngân hàng, phát hiện, cảnh báo các rủi ro gây mất an toàn hoạt động ngân hàng và nguy cơ dẫn đến vi phạm pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng . . .
Cũng theo Quyết định này, Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng gồm 6 Vụ chuyên ngành, Văn phòng và Cục Phòng, chống rửa tiền.
Sơ đồ 3.2: MÔ HìNH Tổ CHứC và HOạT ĐộNG
Của cơ quan THANH TRA, giám sát ngân hàng
tổng THANH TRA CHíNH PHủ
thống đốc
NHNN VN
chánh THANH TRA
cơ quan thanh tra giám sát nh
CáC Vụ, CụC
NHNN VN
Vụ
thanh tra các TCTD nước ngoài
Vụ
giám sát ngân hàng
Vụ
chính sách an toàn hoạt động NH
Cục phòng chống rửa tiền
Văn phòng
Vụ
thanh tra các TCTD trong nước
Vụ
quản lý cấp phép các TCTD & hĐNH
Vụ
thanh tra
HC giải quyết KNTC & PCTN
giám đốc NHNN
TP Hà NộI
THANH TRA
TP. Hà nội
THANH TRA CHI NHáNH NHNN
CáC PHòNG NGHIệP Vụ
Ghi chú:
: Quan hệ nghiệp vụ
: Quan hệ điều hành
: Quan hệ phối hợp
3.3 Giải pháp hoàn thiện hoạt động thanh tra của Ngân hàng Nhà nước đối với các ngân hàng thương mại cổ phần trên địa bàn Hà Nội
3.3.1 Tăng cường công tác tổ chức cán bộ, hoàn thiện bộ máy tổ chức thanh tra
a. Tăng cường công tác tổ chức cán bộ
Trong mọi lĩnh vực, công tác tổ chức và cán bộ luôn là yếu tố then chốt và giữ vai trò quyết định cho sự thành bại của lĩnh vực đó. Đối với công tác thanh tra của NHNN cũng vậy. Trong thời gian qua, công tác tổ chức cán bộ của Thanh tra NHNN đã có nhiều đổi mới và chuyển biến tích cực nhưng so với yêu cầu và nhiệm vụ trong tình hình mới thì vẫn phải tiếp tục nghiên cứu và đổi mới.
Đổi mới tổ chức cán bộ của Thanh tra NHNN nên theo hướng kiện toàn và củng cố mô hình tổ chức hiện tại. Cần tập trung tăng cường những cán bộ có trình độ chuyên môn giỏi, có kinh nghiệm công tác ngân hàng và có phẩm chất đạo đức để nâng cao cả số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ thanh tra. Mặt khác, do yêu cầu công tác, cần nâng cao trình độ chuyên môn (đặc biệt là các kiến thức mới), ngoại ngữ, vi tính, chính trị... để phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế trong thời gian tới; xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thanh tra ngân hàng hàng năm và đến năm 2010; phân loại cán bộ thanh tra để có kế hoạch đào tạo phù hợp với nhu cầu sử dụng và phát triển đội ngũ cán bộ thanh tra ngân hàng; xây dựng và triển khai chương trình chuẩn về đào tạo thanh tra viên ngân hàng. Ngoài những tiêu chuẩn chung về thanh tra viên theo quy định của pháp luật về thanh tra, thanh tra viên ngân hàng phải đáp ứng được các tiêu chuẩn về chuyên môn, nghiệp vụ thanh tra ngân hàng, hiểu biết và kỹ năng quản lý trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
Để đạt được các mục tiêu trên, vấn đề đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực là hết sức cần thiết nhằm nâng cao năng lực của đội ngũ thanh tra viên ngân hàng, thông qua công tác cán bộ như tuyển dụng, sắp xếp cán bộ, chính sách đãi ngộ và các biện pháp khuyến khích khác, trong đó đặc biệt coi trọng đào tạo các kiến thức, kỹ năng về nghiệp vụ, phương pháp thanh tra, giám sát ngân hàng mới theo thông lệ, chuẩn mực quốc tế.
Trước mắt, công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ thanh tra cần tập trung vào một số nghiệp vụ sau:
+ Mời các chuyên gia có kinh nghiệm về thanh tra tại các Ngân hàng Trung ương các nước hoặc tại các định chế tài chính lớn đào tạo nâng cao, chia sẻ kinh nghiệm.
+ Thường xuyên tổ chức các cuộc hội thảo, tọa đàm về nghiệp vụ thanh tra để các thanh tra viên có điều kiện trao đổi và học hỏi kinh nghiệm.
+ Gửi cán bộ thanh tra đi đào tạo thực tập ở các cơ quan thanh tra của nước ngoài.
+ Đào tạo lại về quy trình thanh tra tại chỗ cho cán bộ, thanh tra viên.
+ Đào tạo phương pháp, kỹ năng chạy và phân tích giám sát từ xa cho những cán bộ, thanh tra viên làm nhiệm vụ giám sát.
Theo xu hướng chung, quyền hạn và trách nhiệm của cán bộ thanh tra sẽ được nâng cao, vì vậy đạo đức nghề nghiệp có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm các hoạt động tác nghiệp và hành vi ứng xử của cán bộ thanh tra ngân hàng công tâm, không thiên vị, đúng pháp luật. Có lẽ cần phải xây dựng bộ qui tắc về đạo đức nghề nghiệp của cán bộ thanh tra ngân hàng.
b. Hoàn thiện bộ máy tổ chức thanh tra
Theo Quyết định số 83/2009/QĐ-TTg 27/5/2009 của Thủ tướng Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng trực thuộc NHNN Việt Nam thì các đơn vị thanh tra ngân hàng thuộc tổ chức bộ máy của chi nhánh NHNN vẫn phải chịu sự hướng dẫn, chỉ đạo về chuyên môn nghiệp vụ của Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng và sự quản lý hành chính của NHNN chi nhánh. Mô hình trên hiện nay là phù hợp, vì Việt Nam là nước đang phát triển, thị trường tài chính hoạt động còn rất sơ khai. Tuy nhiên, thời gian tới, môi trường hoạt động ngân hàng sẽ thay đổi nhanh chóng, trong khi đó bộ máy tổ chức của NHNN hiện tại đang thể hiện sự bất hợp lý. Điều này tất yếu dẫn tới đòi hỏi cần điều chỉnh một cách tương ứng bộ máy tổ chức NHNN nhằm thực hiện tốt hơn những chức năng, nhiệm vụ trong tương lại của NHNN.
Tăng cường tính hệ thống tập trung thống nhất của bộ máy NHNN bằng cách tổ chức sắp xếp lại mạng lưới chi nhánh NHNN hiện có, hình thành một số chi nhánh khu vực tại những trung tâm kinh tế – tài chính của đất nước. Cùng với đó, Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng và mạng lưới chi nhánh gồm một số đơn vị thanh tra ngân hàng khu vực trực thuộc. Các đơn vị thanh tra ngân hàng độc lập với NHNN và chịu sự quản lý, chỉ đạo và hướng dẫn về công tác tổ chức, cán bộ và chuyên môn nghiệp vụ của Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng.
Việc nâng cao tính độc lập của Thanh tra ngân hàng là một vấn đề vô cùng quan trọng, với định hướng tổ chức lại hệ thống NHNN gọn nhẹ hơn theo khu vực, xoá bỏ được tình trạng cục bộ địa phương, sự thiếu nhất quán trong đánh giá, trong phương pháp và cách thức giám sát. Mặt khác, tổ chức hệ thống thanh tra theo ngành dọc, giúp việc phân bổ các nguồn lực thanh tra, giám sát một cách chủ động hơn, thanh tra Chi nhánh NHNN không thực hiện công tác GSTX mà nhiệm vụ này chỉ để thanh tra NHNN thực hiện đối với Hội sở chính của các NHTM.
Hiện các phòng thanh tra tại chỗ thực hiện thanh tra theo các nhóm NHTM được phân chia theo hình thức sở hữu. Để tiến tới áp dụng các chuẩn mực của Basel 2, cơ cấu tổ chức thanh tra NHNN nên phân thành các khối thanh tra theo loại hình rủi ro (khối rủi ro thị trường, khối rủi ro tác nghiệp.....), như vậy tính chuyên môn hoá của thanh tra tại chỗ được nâng cao.
3.3.2 Hoàn thiện về nghiệp vụ thanh tra
a. Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện phương thức giám sát từ xa
Nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiệp vụ giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ, trong đó giám sát từ xa được coi là thường xuyên, bổ trợ và ngày càng trở nên quan trọng, có chức năng cảnh báo sớm đối với các TCTD có vấn đề và các rủi ro trong hoạt động ngân hàng, cụ thể:
+ Phải áp dụng các biện pháp cần thiết để các NHTM thực hiện tốt chế độ thông tin báo cáo đang áp dụng (quyết định số 477 của Thống đốc NHNN). Thanh tra ngân hàng NHNN Chi nhánh Hà Nội cần tăng cường kiểm tra việc chấp hành chế độ thông tin báo cáo của các NHTM trên địa bàn nói chung và đối với các NHTMCP nói riêng. Cán bộ làm công tác giám sát thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chế độ thông tin báo cáo của các NHTMCP, nếu các ngân hàng nào thường xuyên không gửi báo cáo đúng thời gian qui định và chất lượng báo cáo kém thì cần kiến nghị với Chánh thanh tra có biện pháp xử lý nghiêm đối với hành vi vi phạm .
+ Xây dựng hệ thống giám sát an toàn theo phương pháp CAMELS nhằm giám sát rủi ro đối với từng TCTD riêng lẻ. Trong đó tuân thủ đúng yêu cầu xếp hạng, đánh giá các TCTD theo tiêu chuẩn Camels; xây dựng các kỹ năng phân tích tài chính và hoạt động, giám sát và cảnh báo các loại rủi ro trong hoạt động ngân hàng;
+ Xây dựng quy chế phân tích giám sát từ xa các NHTM theo một chuẩn mực chung. Trong đó phải quy định rõ trình tự các bước phân tích, cách thức phân tích đánh giá một cách thống nhất những vấn đề cốt lõi của một NHTM.
+ Về cơ sở vật chất, phải được trang bị đầy đủ và thực hiện nối mạng trực tiếp giữa thanh tra NHNN VN và thanh tra chi nhánh. Có như vậy mới thực hiện được trao đổi thông tin hai chiều giữa thanh tra NHNN và thanh tra chi nhánh một cách nhanh chóng, tiện lợi, bảo đảm yêu cầu của việc tiếp nhận thông tin và xử lý thông tin giữa thanh tra NHNN với chi nhánh và ngược lại để đảm bảo hoạt động giám sát từ xa được kịp thời, có hiệu quả. Phần mềm giám sát phải nhanh chóng được viết lại bằng ngôn ngữ lập trình hiện đại, phù hợp với ngôn ngữ của các chương trình khác trong toàn hệ htống ngân hàng như chương trình báo cáo thống kê, chương trình thông tin tín dụng và chương trình giao dịch của các TCTD. Có như vậy mới khai thác hết lợi thế của việc áp dụng công nghệ thông tin tiên tiến vào lĩnh vực ngân hàng.
b. Phối hợp chặt chẽ giữa hai phương thức thanh tra để nâng cao hiệu quả hoạt động
Qua cả lý luận và thực tiễn đều khẳng định giám sát từ xa cung cấp thông tin, “chỉ điểm” cho thanh tra tại chỗ; giám sát theo dõi ngân hàng thương mại một cách thường xuyên giữa các kỳ thanh tra tại chỗ... Còn thanh tra tại chỗ sẽ kiểm toán các thông tin đầu vào của giám sát từ xa, đồng thời kiểm tra việc thực hiện các kiến nghị qua giám sát từ xa. Để vận hành tốt cơ chế phối hợp đó cần phải đổi mới nhận thức mối quan hệ giữa hai phương thức này. Quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, phạm vi của từng phương thức sao cho thông tin đầu ra của bộ phận này sẽ là đầu vào của bộ phận kia và ngược lại. Việc quy định thành hai bộ phận là để có điều kiện chuyên môn hoá về kỹ năng, nhưng phải thống nhất trong một công nghệ thanh tra của ngân hàng.
3.3.3 Đổi mới phương pháp thanh tra ngân hàng
Xây dựng hệ thống phương pháp thanh tra dựa trên cơ sở rủi ro phù hợp với thông lệ quốc tế và các nguyên tắc của Uỷ ban giám sát ngân hàng Basel nhằm nâng cao năng lực cảnh báo sớm rủi ro trong hoạt động ngân hàng. Phương pháp thanh tra dựa trên cơ sở rủi ro chủ yếu tập trung vào xem xét, đánh giá các rủi ro của TCTD; chất lượng và hiệu quả hệ thống quản trị rủi ro của TCTD và khả năng chống đỡ rủi ro của TCTD. Để thực hiện phương pháp thanh tra trên, thanh tra ngân hàng cần:
+ Có hệ thống văn bản pháp luật phù hợp với đặc trưng của thanh tra ngân hàng trên cơ sở đánh giá rủi ro. Xây dựng, phát triển, ứng dụng và cập nhật quy trình giám sát trên cơ sở đánh giá rủi ro.
+ Kết hợp các nguồn thông tin khác nhau như thông qua kiểm toán độc lập, phương tiện thông tin đại chúng, báo cáo giám sát từ xa, các cuộc tiếp xúc với ngân hàng . . .) để tìm hiểu kỹ hơn về các TCTD, trên cơ sở đó có phân tích, đánh giá để đưa ra quyết định thanh tra tại chỗ hay có biện pháp giám sát.
+ Nâng cao năng lực trình độ của thanh tra viên. Việc thanh tra trên cơ sở tuân thủ, không đòi hỏi cán bộ thanh tra phải tư duy nhiều. Tuy nhiên với phương pháp thanh tra trên cơ sở rủi ro đòi hỏi cán bộ thanh tra phải nâng cao hơn nữa nghiệp vụ, thực sự có trình độ mới có thể đưa ra những phân tích, đánh giá chính xác về những rủi ro tiềm ẩn mà TCTD đang gặp phải. Vì vậy, quá trình chuyển đổi phương pháp thanh tra phải gắn liền với quá trình nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của NHNN nói chung và thanh tra ngân hàng nói riêng.
+ Cần có quy định cho phép thanh tra ngân hàng có quyền yêu cầu kiểm toán độc lập thực hiện các công việc kiểm toán báo cáo về giới hạn tín dụng, hệ thống thông tin quản trị và các chỉ tiêu an toàn hoạt động nhằm hỗ trợ hoạt động thanh tra ngân hàng.
3.3.4 Tăng cường sự chỉ đạo và phối hợp hoạt động của thanh tra Ngân hàng Nhà nước với các cơ quan hữu quan trên địa bàn, với tổ chức kiểm tra nội bộ của các ngân hàng thương mại
- Tăng cường sự phối hợp giữa Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam và thanh tra NHNN Hà Nội trong quá trình giám sát các TCTD và xử lý các vấn đề khó khăn, rủi ro của các TCTD
Xây dựng cơ chế trao đổi thông tin và phối hợp hoạt động giữa Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam và thanh tra NHNN Hà Nội trên nguyên tắc tập trung vào một đầu mối để tránh sự trồng chéo, trùng lắp, gây phiền hà cho TCTD và lãng phí nguồn lực trong việc thực hiện nhiệm vụ thanh tra các TCTD: Thanh tra ngân hàng cung cấp cho Bảo hiểm tiền gửi danh mục xếp hạng các TCTD hàng năm và thông báo cho Bảo hiểm tiền gửi các TCTD có nguy cơ lâm vào tình trạng mất an toàn dẫn đến phá sản được phát hiện thông qua thanh tra. Ngược lại Bảo hiểm tiền gửi có trách nhiệm báo cáo định kỳ hoặc đột xuất theo yêu cầu của thanh tra về kết quả kiểm tra, giám sát và xử lý các tổ chức tham gia bảo hiểm.
- Tăng cường vai trò của kiểm toán và kiểm soát nội bộ đối với hoạt động thanh tra.
Thanh tra hoạt động tài chính – ngân hàng có mối quan hệ nhất định với hoạt động kiểm toán và kiểm soát nội bộ. Cơ quan thanh tra thường sử dụng kết quả kiểm toán và kiểm soát nội bộ để đánh giá tình hình hoạt động của các tổ chức, kể cả các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, qua đó có biện pháp xử lý trong trường hợp cần thiết. Kiểm toán là quá trình thu thập và đánh giá các bằng chứng về các thông tin định lượng có liên quan đến một tổ chức kinh tế cụ thể nhằm xác định và báo cáo mức độ phù hợp giữa các thông tin định lượng đó với những chuẩn mực đã được thiết lập.
Tại Việt Nam, hoạt động kiểm tra, kiểm toán nội bộ tại các NHTM còn nhiều bất cập so với hệ thống kiểm toán nội bộ của các ngân hàng có cơ cấu tổ chức khoa học và so với các chuẩn mực kiểm toán nội bộ. Phần lớn các ngân hàng chất lượng cán bộ kiểm tra, kiểm toán còn nhiều bất cập, chưa có quy trình hướng dẫn thực hiện công việc kiểm toán. Hệ thống các văn bản về hoạt động kiểm tra, kiểm toán còn nhiều bất cập như: Chưa phân định rõ các khái niệm liên quan đến hoạt động kiểm tra, kiểm toán nội bộ; trong các văn bản liên quan đến hoạt động kiểm tra, kiểm toán chưa cụ thể hóa nhiệm vụ, quyền hạn của kiểm tra nội bộ và kiểm toán nội bộ trong hệ thống giám sát nội bộ; các luật và văn bản dưới luật đều quy định bộ máy kiểm toán nội bộ trực thuộc tổng giám đốc, trong khi tổng giám đốc và ban điều hành đều là đối tượng của kiểm toán nội bộ.
Vì vậy, thanh tra NHNN tăng cường chỉ đạo và phối hợp với hệ thống kiểm tra, kiểm toán nội bộ các NHTM thông qua biện pháp sau:
+ Về phía tổ chức kiểm tra, kiểm toán nội bộ các NHTM: phải thực hiện việc báo cáo định kỳ về Thanh tra NHNN để tổng hợp tình hình và kết quả hoạt động thanh tra, kiểm tra trên địa bàn. Báo cáo thường xuyên, kịp thời những khó khăn, vướng mắc về nghiệp vụ kiểm tra, kiểm soát; những vi phạm lớn phát hiện qua kiểm tra...
+ Về phía Thanh tra NHNN: Phải coi tổ chức kiểm tra, kiểm toán nội bộ như chân rết trong hệ thống thanh tra. Vì nếu tổ chức kiểm tra, kiểm toán nội bộ của NHTM nào hoạt động tốt thì sẽ góp phần đắc lực trong việc giữ cho hoạt động NHTM đó ổn định, làm đầu mối và hỗ trợ cho hoạt động thanh tra đạt kết quả cao. Vì vậy, Thanh tra NHNN phải quan tâm và phối hợp giúp đỡ cả về củng cố tổ chức kiểm tra, kiểm toán nội bộ, về quy trình nghiệp vụ và kỹ năng kiểm tra, kiểm tra nội bộ, về phối hợp chương trình công tác thanh tra- kiểm tra để đảm bảo không chồng chéo hoặc bỏ sót không thanh, kiểm tra.
- Tăng cường sự phối hợp với Thanh tra thành phố và các cơ quan có liên quan theo hướng:
+ Thanh tra NHNN gửi chương trình công tác thanh tra năm cho Thanh tra thành phố, chủ động phối hợp để hoạt động thanh tra của Thanh tra NHNN và Thanh tra thành phố không chồng chéo.
+ Quá trình thanh, kiểm tra nếu phát hiện vi phạm hoặc dấu hiệu vi phạm pháp luật thuộc lĩnh vực quản lý của cơ quan, sở, ngành nào thì Thanh tra ngân hàng có trách nhiệm thông báo cho thanh tra cơ quan, sở, ngành đó. Ngược lại tổ chức thanh tra của cơ quan, sở, ngành và thanh tra thành phố trong quá trình thanh kiểm tra nếu phát hiện vi phạm pháp luật về lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng thì có trách nhiệm báo cáo cho thanh tra ngân hàng biết. Nếu những vi phạm đó có dấu hiệu cấu thành tội phạm thì chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra đồng thời thông báo cho thanh tra ngân hàng.
+ Thanh tra NHNN nếu phát hiện dấu hiệu cấu thành tội phạm trong quá trình thanh, kiểm tra thì phải chuyển hồ sơ sang cho cơ quan điều tra có thẩm quyền. Đồng thời phối hợp chặt chẽ với cơ quan điều tra trong suốt quá trình điều tra các vấn đề có liên quan đến hoạt động các NHTM đến lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
3.3.5 Nâng cao chất lượng hoạt động của các ngân hàng thương mại cổ phần
Nâng cao chất lượng hoạt động của các NHTM sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi để nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát nhờ việc giảm thiểu nguồn lực giảm sát và nâng cao chất lượng giám sát. Giải pháp để nâng cao chất lượng hoạt động của các NHTMCP:
+Nâng cao năng lực quản trị điều hành ngân hàng:
Một yếu tố quan trọng quyết định đến sự thành bại trong hoạt động kinh doanh của bất kỳ doanh nghiệp nào là vai trò của những người lãnh đạo doanh nghiệp, những quyết định của họ có tầm ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp.
Năng lực quản trị, kiểm soát và điều hành của nhà lãnh đạo trong ngân hàng có vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo tính hiệu quả, an toàn trong hoạt động ngân hàng. Tầm nhìn của nhà lãnh đạo là yếu tố then chốt để đưa ra một chiến lược kinh doanh đúng đắn trong dài hạn. Thông thường đánh giá năng lực quản trị, kiểm soát, điều hành của một ngân hàng người ta xem xét đánh giá các chuẩn mực và các chiến lược mà ngân hàng xây dựng cho hoạt động của mình. Vì vậy, để nâng cao năng lực quản trị điều hành cần cải cách bộ máy quản lý điều hành theo tư duy kinh doanh mới. Đồng thời, xây dựng chuẩn hoá và văn bản hoá toàn bộ quy trình nghiệp vụ của các hoạt động chủ yếu của NHTM, thực hiện cải cách hành chính doanh nghiệp.
+ Nâng cao năng lực tài chính
- Tăng vốn điều lệ thông qua các biện pháp phát hành cổ phiếu, trái phiếu; sáp nhập; hợp nhất; nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh.
Đối với cỏc NHTMCP khụng đảm bảo mức vốn điều lệ như quy định hoặc cú qui mụ nhỏ, NHNN có chủ trương sáp nhập, hợp nhất để trở thành NHTMCP cú qui mô lớn nhằm tăng khả năng cạnh tranh, thời gian qua, những NHTMCP nhỏ, yếu là những ngân hàng đó tác động thiếu tích cực đến thị trường tiền tệ.
- Nâng cao chất lượng tài sản có và khả năng sinh lời
- Nâng cao tính công khai, minh bạch trong hoạt động của các ngân hàng
- Đối với các NHTMCP mới chuyển mổi mô hình hoạt động sang đô thị hoặc cơ cấu lại, cần đặc biệt chú trọng quản lý tốt tài sản Nợ/Có, chú ý xây dựng quy chế tổ chức, hoạt động, quản trị rủi ro, đầu tư công nghệ để mở rộng và đa dạng hóa hoạt động, phát triển bền vững.
- Xõy dựng các định chế quản lý tài sản nợ, quản lý vốn, quản lý rủi ro, hệ thống thông tin quản lý (MIS) theo đúng thông lệ quốc tế.
+ Đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ cung cấp trên thị trường theo hướng nâng cao chất lượng dịch vụ truyền thống, phỏt triển cỏc dịch vụ mới.
- Đối với cỏc dịch vụ truyền thống (như dịch vụ tớn dụng, dịch vụ thanh toỏn) đõy là yếu tố nền tảng khụng chỉ cú ý nghĩa duy trỡ khỏch hàng cũ, thu hỳt khỏch hàng mới, mà cũn tạo ra thu nhập lớn nhất cho ngõn hàng. Vỡ vậy, NHTM cần phải duy trỡ và nõng cao chất lượng theo hướng: Hoàn thiện quỏ trỡnh cung cấp dịch vụ, đảm bảo tớnh cụng khai, minh bạch, đơn giản thủ tục làm cho dịch vụ dễ tiếp cận và hấp dẫn khỏch hàng. Nõng cao chất lượng tớn dụng gắn với tăng trưởng tớn dụng; xoỏ bỏ những ưu đói trong cơ chế tớn dụng nhằm tạo mụi trường kinh doanh bình đẳng; hoàn thiện cơ chế huy động tiết kiệm bằng VND và ngoại tệ với lói suất phự hợp để huy động tối đa vốn nhàn rỗi trong xó hội vào ngõn hàng; nghiờn cứu ỏp dụng cỏch phõn loại nợ dựa trờn cơ sở rủi ro và trớch dự phũng rủi ro theo cỏc chuẩn mực quốc tế để nõng cao uy tớn của ngõn hàng.
- Đối với cỏc dịch vụ mới như chiết khấu, cho thuờ tài chớnh, bao thanh toỏn, thẻ tớn dụng, bảo lónh ngõn hàng, thấu chi, cỏc sản phẩm phỏi sinh cần phải nõng cao năng lực marketing của cỏc NHTM, giỳp cỏc doanh nghiệp và cụng chỳng hiểu biết, tiếp cận và sử dụng cú hiệu quả cỏc dịch ngõn hàng; nõng cao tiện ớch của cỏc dịch vụ ngõn hàng; sử dụng linh hoạt cụng cụ phũng chống rủi ro gắn với cỏc đảm bảo an toàn trong kinh doanh ngõn hàng.
- Xõy dựng chiến lược phỏt triển sản phẩm, dịch vụ phự hợp trong từng thời kỳ, nghiờn cứu lợi thế và bất lợi của từng dịch vụ, giỳp khỏch hàng sử dụng cỏc dịch vụ ngõn hàng một cỏch hiệu quả nhất.
+ Phỏt triển hạ tầng kỹ thuật, đẩy mạnh ứng dụng cụng nghệ tiờn tiến để nhanh chúng tiếp cận với cụng nghệ hiện đại, quản trị và dịch vụ ngõn hàng mới, đỏp ứng nhu cầu ngày càng cao và đa dạng của khỏch hàng; đồng thời sớm xõy dựng hệ thống dự phũng dữ liệu, hoàn thiện hệ thống an ninh mạng và từng bước ỏp dụng cỏc chuẩn mực quốc tế trong hoạt động ngõn hàng.
+ Cỏc ngõn hàng cần cú chiến lược phỏt triển nguồn nhõn lực lõu dài, cú kế hoạch đào tạo và nõng cao chất lượng nguồn nhõn lực, đảm bảo cỏn bộ ngõn hàng cú nghiệp vụ chuyờn mụn giỏi, đỏp ứng được yờu cầu hiện đại hoỏ cụng nghệ ngõn hàng. Cú chớnh sỏch hợp lý và xõy dựng mụi trường văn hoỏ làm việc phự hợp để ổn định và khai thỏc được cỏc ưu thế tối đa của nguồn nhõn lực. Xõy dựng chiến lược phỏt triển nguồn nhõn lực cú tớnh dài hạn thụng qua hỡnh thức đào tạo tại nước ngoài. Tham gia cỏc chương trỡnh đào tạo do cỏc tổ chức quốc tế tổ chức tại Việt Nam, học tập kinh nghiệm quản lý điều hành thụng qua cỏc cổ đụng nước ngoài.
- Ngoài ra, các NHTM cần cải tiến và đơn giản hóa các thủ tục hành chính, thủ tục vay vốn nhằm tạo thuận lợi cho khách hàng.
3.3.6 Sử dụng có hiệu quả các chế tài xử phạt và xử lý vi phạm trong thanh tra
Sau khi Nghị định 202/2004/NĐ-CP ngày 10/12/2004 của Chính phủ có hiệu lực thi hành và được Thanh tra NHNN triển khai đến các NHTM trên địa bàn, các NHTM đã chú trọng hơn đến công tác kiểm tra, kiểm soát để nâng cao chất lượng các mặt nghiệp vụ, hạn chế các sai sót. Tuy nhiên, trong quá trình thanh tra vẫn phát hiện một số tồn tại, khuyết điểm cần xử phạt theo hướng dẫn tại Nghị định. Để việc xử phạt phát huy được tác dụng tích cực của nó thì trong thời gian tới phải thực hiện:
- Khi làm việc với đối tượng thanh tra yêu cầu giải trình các vấn đề phải lập thành biên bản làm việc, có ký xác nhận thực trạng và kết quả làm việc.
- Phải lập biên bản về vấn đề vi phạm cần xử phạt vi phạm hành chính.
- Trường hợp vi phạm lần đầu mà đối tượng vi phạm đã khắc phục ngay không để xảy ra thiệt hại có thể không xử phạt mà chỉ nhắc nhở. Nhưng từ lần thứ 2 trở đi hoặc vi phạm nghiêm trọng, vi phạm không khắc phục được hậu quả, cố ý vi phạm... phải kiên quyết xử lý vi phạm để giữ nghiêm kỷ cương, pháp luật và đảm bảo sự công bằng.
- Theo quy định tại điều 37 Nghị định 202/2004/NĐ-CP về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Việc uỷ quyền xử phạt vi phạm hành chính, căn cứ vào điều kiện cụ thể của Thanh tra NHNN Thành phố thì Chánh Thanh tra Chi nhánh nên thực hiện uỷ quyền xử phạt cho các Phó Chánh Thanh tra, Trưởng đoàn Thanh tra các NHTM, để đảm bảo tính kịp thời của quyết định xử phạt và tăng cường hiệu lực của cuộc thanh tra tại chỗ.
3.3.7 Tổ chức tốt việc thực hiện các kiến nghị sau thanh tra
Để thực hiện tốt các kiến nghị sau thanh tra, phải thực hiện tốt các giải pháp sau:
- Phải nâng cao chất lượng của kết luận thanh tra. Kiến nghị sau thanh tra phải rõ ràng, cụ thể về thời gian, không gian và đối tượng thực hiện. Các kết luận và kiến nghị thanh tra ngoài việc gửi cho Thanh tra NHNN và Giám đốc chi nhánh NHNN Hà Nội phải đồng gửi cho Tổng Giám đốc NHTMCP để nắm bắt được và chỉ đạo chỉnh sửa.
- Yêu cầu Tổng Giám đốc các NHTMCP được thanh tra phải giao trách nhiệm cho các phòng ban có liên quan lập kế hoạch và có biện pháp chỉnh sửa cụ thể sau thanh tra. Kế hoạch phải cụ thể, rõ ràng cho từng thời gian, cán bộ và phòng nghiệp vụ. Thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc chỉnh sửa sau thanh tra. Định kỳ có báo cáo gửi về Thanh tra chi nhánh NHNN.
- Kết thúc thời hạn chỉnh sửa theo yêu cầu. Thanh tra tổng hợp và tổ chức kiểm tra việc thực hiện các kiến nghị sau thanh tra. Xử lý nghiêm, đúng pháp luật những trường hợp đối tượng thanh tra không nghiêm túc chỉnh sửa, chỉnh sửa thiếu trách nhiệm hoặc còn để tái phạm. Làm được như vậy thì chắc chắn vai trò và vị thế của Thanh tra Ngân hàng, hiệu quả thanh tra sẽ được nâng cao.
3.3.8 Nghiên cứu, vận dụng chuẩn mực quốc tế về thanh tra ngân hàng vào Việt Nam
Hiện nay, hệ thống chuẩn mực về thanh tra giám sát ngân hàng do ủy ban Basle đề xuất được nhiều quốc gia áp dụng để nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng. Mục tiờu bao trựm nhất trong hoạt động của cơ quan này là đảm bảo sự hoạt động an toàn cú hiệu quả của hệ thống cỏc tổ chức tớn dụng trong nền kinh tế. Đảm bảo cho hoạt động của Cơ quan Thanh tra giỏm sỏt theo mụ hỡnh mới, một yờu cầu đặt ra đối với cỏc tổ chức tớn dụng (là đối tượng của cơ quan Thanh tra giỏm sỏt ngõn hàng) là việc đưa vào ỏp dụng cỏc chuẩn mực và thụng lệ quốc tế về hoạt động ngõn hàng, đặc biệt là 25 nguyờn tắc cơ bản của Basel đối với hoạt động thanh tra, giỏm sỏt ngõn hàng. hữu hiệu, đõy là những nguyờn tắc tối thiểu và được xem là tài liệu cốt lừi để cỏc cơ quan thanh tra, giỏm sỏt ngõn hàng và cỏc nhà quản lý tài chớnh tham khảo lựa chọn và ỏp dụng. Việc ỏp dụng đồng nhất nguyờn tắc BASLE tại mỗi nước sẽ là một bước đi quan trọng trong việc nâng cao tính ổn định tài chính của mỗi quốc gia và toàn cầu.
25 nguyên tắc cơ bản trong việc giám sát về tổ chức và hoạt động ngân hàng gồm 7 nhóm vấn đề lớn :
- Những điều kiện tiền đề để Thanh tra Ngân hàng hoạt động có hiệu quả (chuẩn mực 1). Các đơn vị chức năng thuộc hệ thống Thanh tra hiệu quả, phải có trách nhiệm và những mục tiêu rõ ràng trong việc thanh tra các NHTM, có sự độc lập nhất định, hoạt động trong khuôn khổ pháp luật phù hợp quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn trong hoạt động thanh tra, giám sát đảm bảo an toàn và chia sẻ thông tin.
- Cấp phép và cấu trúc (chuẩn mực 2-5). Những chuẩn mực này yêu cầu xác định rõ thẩm quyền cấp phép và thanh tra đối với hoạt động của các NHTM. Thanh tra Ngân hàng có quyền xem xét hoạt động chuyển quyền sở hữu hay điều chuyển lợi nhuận có khối lượng lớn của một ngân hàng cho các tổ chức khác.
- Những quy định và yêu cầu đảm bảo an toàn (chuẩn mực 6-15). Theo các chuẩn mực này, Thanh tra Ngân hàng cần được đảm bảo rằng các NHTM có các biện pháp đảm bảo an toàn, có quy trình nghiệp vụ chặt chẽ, hệ thống quản trị thông tin và rủi ro, hệ thống kiểm soát nội bộ hoạt động hiệu quả, có biện pháp phòng ngừa và đối phó với rủi ro của thị trường.
- Những phương thức thực hiện Thanh tra Ngân hàng (chuẩn mực 16-20). Các chuẩn mực về hình thức thanh tra (giám sát từ xa, thanh tra tại chỗ), các phương pháp thu thập, xử lý, phân tích, đánh giá thông tin thu được...)
- Các yêu cầu về thông tin (chuẩn mực 21). Đối với chuẩn mực này, đòi hỏi các NHTM phải duy trì một chế độ báo cáo phù hợp với quy định của chế dộ kế toán, để từ đó thanh tra viên có thể có được một cái nhìn xác thực về tình hình tài chính, khả năng sinh lời từ hoạt động kinh doanh của NHTM.
- Quyền hạn của thanh tra viên (chuẩn mực 22). Thanh tra viên phải được toàn quyền sử dụng các biện pháp thanh tra nhằm sửa chữa hay đưa ra các chế tài kịp thời khi NHTM không tuân thủ các quy định về an toàn, vi phạm pháp luật...Trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, thanh tra viên có quyền thu hồi giấy phép của NHTM.
- Hoạt động Ngân hàng đối ngoại (chuẩn mực 23-25). Thanh tra viên phải
làm quen với việc thanh tra hoạt động Ngân hàng quốc tế, thực hiện các biện pháp giám sát, đảm bảo an toàn hoạt động kinh doanh của các tổ chức tài chính quốc tế đặc biệt là các chi nhánh, các ngân hàng con của các ngân hàng nước ngoài. Thiết lập mối liên lạc và sự trao đổi thông tin giữa các thanh tra viên có liên quan, nhất là với các thanh tra viên ở quốc gia mà ngân hàng có trụ sở chính. Thanh tra Ngân hàng cần yêu cầu các ngân hàng nước ngoài tuân thủ các tiêu chuẩn như áp dụng đối với các ngân hàng trong nước.
Việc áp dụng các chuẩn mực trên chắc chắn sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của công tác thanh tra, giám sát NHTM ở Việt Nam nói chung và đối với các NHTMCP tại Hà Nội nói riêng. Tuy nhiên, cần vận dụng sao cho phù hợp với điều kiện khuôn khổ pháp luật Việt Nam, đi đôi với nó là thực hiện cải cách hệ thống chính sách, quy định pháp luật liên quan, cơ cấu lại hệ thống ngân hàng...chắc chắn chúng ta còn phải mất một thời gian dài để có thể áp dụng được các chuẩn mực này.
3.3.9 Các giải pháp khác
+ Thường xuyên duy trì, tăng cường mối liên hệ chặt chẽ giữa các phòng trong Chi nhánh NHNN Hà Nội trong hoạt động thanh tra. Giám sát, quản lý các ngân hàng thương mại là nhiệm vụ chung của NHNN. Vì vậy, các phòng chức năng có liên quan đến hoạt động thanh tra đều phải có trách nhiệm và góp phần thực hiện nhiệm vụ này trên cơ sở nắm bắt, trao đổi thông tin và phối hợp với phòng thanh tra để có biện pháp ngăn chặn, xử lý kịp thời.
+ Đổi mới và trang bị đầy đủ phương tiện hiên đại đảm bảo cho hoạt động thanh tra đạt hiệu quả cao. Đặc biệt là các phương tiện làm việc như máy vi tính, máy ảnh, máy ghi âm...
3.4 Một số kiến nghị
Để đảm bảo tính khả thi của các giải pháp đã nêu, Luận án đưa ra một số kiến nghị sau:
3.4.1 Kiến nghị đối với Quốc hội và Chính phủ
Luật Thanh tra có hiệu lực từ 01/10/2004 với một số điểm mới so với Pháp lệnh thanh tra, vì vậy Chính phủ cần sớm ban hành các văn bản quy phạm pháp luật qui định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Thanh tra, bảo đảm hoạt động thanh tra được thực hiện một cách thống nhất.
a. Ban hành Luật thanh tra ngân hàng
Luật thanh tra- văn bản có tính pháp lý cao nhất về hoạt động thanh tra, phù hợp hơn với hoạt động thanh tra hành chính. Bên cạnh đó, Luật thanh tra quy định những vấn đề về hoạt động thanh tra nói chung cũng phù hợp với phương pháp thanh tra tuân thủ, không phù hợp với thanh tra trên cơ sở rủi ro. Vì vậy việc ra đời một Luật thanh tra chuyên ngành thể hiện được tính đặc thù trong hoạt động thanh tra, giám sát các TCTD –một đối tượng hết sức nhạy cảm, là rất cần thiết.
b. Sửa đổi Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các Tổ chức tín dụng
Kinh nghiệm của cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay trên thế giới đang cho thấy vai trò rất quan trọng của công tác thanh tra giám sát hoạt động của hệ thống ngân hàng, mối quan hệ chặt chẽ giữa chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng cũng như vai trò quan trọng của NHNN trong quản lý và xử lý các sự cố trong hệ thống ngân hàng nhằm ngăn chặn và giảm thiểu nguy cơ phản ứng dây truyền, đổ vỡ của hệ thống ngân hàng cũng như hệ thống tài chính. Vì vậy, cần quy định đầy đủ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của NHNN về thanh tra giám sát hoạt động ngân hàng.
Luật NHNN cần sửa đổi theo hướng tăng cường vị thế, tính độc lập trong hoạt động của NHNN, trong đó có hoạt động thanh tra. Cơ quan thanh tra giám sát phải thuộc cơ cấu tổ chức của NHNN Việt Nam.
Luật các TCTD cần sửa đổi theo hướng và xử lý các ngân hàng có vấn đề; cũng như tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các TCTD.
3.4.2 Đối với các Bộ ngành
Các Bộ ngành, trong phạm vi chức năng thẩm quyền cần có những quy định, hướng dẫn cụ thể để giúp các NHTM bảo vệ được quyền lợi chính đáng của mình, đặc biệt là các quy định về công chứng, chứng thực, đăng ký giao dịch bảo đảm, phát mại tài sản thu hồi nợ, quy định về việc thi hành các bản án hình sự, dân sụ có liên quan đến các NHTM...
3.4.3 Đối với Ngân hàng Nhà nước
a. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến hoạt động Thanh tra ngân hàng và hoạt động của các NHTMCP để hoàn chỉnh môi trường pháp lý cho hoạt động thanh tra, cụ thể :
- Xây dựng các quy định về yêu cầu tối thiểu đối với hệ thống quản trị rủi ro nội bộ của các TCTD. Đây là nội dung hết sức quan trọng giúp các TCTD nâng cao năng lực quản trị rủi ro đồng thời là cơ sở để chuẩn bị cho việc thanh tra trên cơ sở rủi ro sau này.
- Tiếp tục hoàn thiện các quy định an toàn và giới hạn rủi ro trong hoạt động của các TCTD.
- Tiếp tục hoàn thiện và ban hành mới các chuẩn mực kế toán phù hợp với thông lệ và thực hành trên thế giới đối với các nghiệp vụ ngân hàng mới, đồng thời sửa đổi, bổ sung hệ thống tài khoản kế toán theo hướng mở có tính đến các nghiệp vụ ngân hàng sẽ thực hiện ở Việt nam trong tương lai.
- Sửa đổi, bổ sung Quy chế quyết định số 477/2004/QĐ-NHNN về chế độ báo cáo thống kê theo hướng quy trách nhiệm báo cáo của các TCTD về thực hiện các tỷ lệ an toàn trong hoạt động ngân hàng và việc phân loại tài sản, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro.
- Đánh giá lại hệ thống thông tin báo cáo của các NHTM phục vụ cho hoạt động quản lý nói chung và hoạt động thanh tra nói riêng. Từ đó, xây dựng lại hệ thống thông tin đầu vào tập trung tại 1 đầu mối, đảm bảo thông tin đầy đủ, chính xác, cập nhật theo yêu cầu quản lý đồng thời đảm bảo hợp lý, hiệu quả, không trùng lắp.
- Thiết lập cơ chế trao đổi thông tin và phối hợp hành động hữu hiệu giữa thanh tra ngân hàng với các cơ quan thanh tra, giám sát tài chính trong nước và quốc tế trong việc thanh tra giám sát hợp nhất các NHTM.
b. Cần có chính sách đãi ngộ đặc thù đối với cán bộ làm công tác thanh tra:
- Các Thanh viên phải được thường xuyên đào tạo và đào tạo lại, cập nhật kịp thời những kiến thức nghiệp vụ của ngân hàng hiện đại để nhanh chóng bắt kịp yêu cầu hội nhập.
- Quan tâm hơn nữa đến việc trang bị phương tiện kỹ thuật để cán bộ thanh tra ngân hàng có đủ điều kiện làm việc tốt hơn (kể cả những công nghệ tiếp nhận từ nước ngoài).
- Có chế độ đãi ngộ thích hợp đối với cán bộ làm công tác thanh tra như: phụ cấp thâm niên, phụ cấp công tác, chế độ khen thưởng xứng đáng và các điều kiện khác để động viên, khích lệ họ tiến thân trong sự nghiệp thanh tra.
Kết luận chương 3
Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng thanh tra của NHNN chi nhánh Hà Nội đối với các NHTMCP tại Hà Nội, đặc biệt là thực trạng các tồn tại và nguyên nhân tồn tại trong hoạt động thanh tra NHNN. Chương 3 đã đưa ra những định hướng phát triển và đổi mới hoạt động thanh tra ngân hàng, đề xuất một số giải pháp khắc phục và hoàn thiện hoạt động thanh tra của NHNN đối với các NHTMCP. Đồng thời, tác giả còn có một số kiến nghị nhằm tạo điều kiện hoàn thiện công tác thanh tra của NHNN đối với các NHTMCP tại Hà Nội với mong muốn tiếp tục nâng cao hiệu quả của hoạt động thanh tra của NHNN đối với các NHTMCP trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Kết luận
Trong phạm vi đối tượng và mục đích nghiên cứu của đề tài, luận văn đã hoàn thiện một bước việc nghiên cứu để làm sáng tỏ những vấn đề về lý luận và thực tiễn hoạt động thanh tra của NHNN đối với các NHTMCP, qua đó đã đưa ra những giải pháp tăng cường hoạt động thanh tra của NHNN đối với các NHTMCP trên địa bàn Hà Nội. Những kết quả mà luận văn đã đạt được có thể tóm tắt như sau:
1. Xuất phát từ lý luận chung về NHNN, luận văn đã nghiên cứu những vấn đề cơ bản về Thanh tra NHNN đối với các NHTM; làm rõ sự cần thiết phải thanh tra, giám sát đối với các NHTM; Nghiên cứu nội dung và các phương thức thanh tra; mối quan hệ giữa Thanh tra Ngân hàng với một số cơ quan kiểm tra, kiểm soát khác. Đồng thời giới thiệu kinh nghiệm về hoạt động thanh tra ngân hàng của một số nước trên thế giới.
2. Luận văn đã phân tích, đánh giá một cách khái quát về hoạt động của NHTMCP và Thanh tra NHNN Chi nhánh TP Hà Nội, từ đó đi sâu phân tích thực trạng hoạt động thanh tra, với những các kết quả đạt được và chỉ ra những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân tồn tại, hạn chế về tổ chức và hoạt động thanh tra của thanh tra NHNN đối với các NHTMCP trên địa bàn TP Hà Nội.
3. Trên cơ sở định hướng chiến lược phát triển ngành ngân hàng đến năm 2010, căn cứ những hạn chế đã chỉ ra trong hoạt động thanh tra và sự phát triển của NHTM, luận văn đã đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thanh tra của NHNN đối với các NHTMCP. Ngoài ra Luận văn còn đưa ra các kiến nghị với Chính phủ, Bộ ngành, với NHNN các vấn đề có liên quan đến các cơ chế, chính sách có liên quan đến hoạt động thanh tra ngân hàng.
Tác giả cũng nhận thức sâu sắc rằng đổi mới toàn diện hoạt động thanh tra giám sát để nâng cao hiệu quả của hoạt động này là một quá trình khó khăn, phức tạp và đòi hỏi phải có thời gian. Mỗi trong số các giải pháp đưa ra còn cần phải được tiếp tục nghiên cứu một cách cụ thể và toàn diện hơn; đồng thời cũng cần có sự nỗ lực và quyết tâm không chỉ của các thanh tra viên, Ban lãnh đạo thanh tra ngân hàng, lãnh đạo NHNN, mà còn là sự quyết tâm và kiên định của Chính phủ trên con đường đổi mới chung của cả nền kinh tế.
Với thời gian, kinh nghiệm và kiến thức còn hạn chế, tác giả mong muốn những tâm huyết và suy nghĩ bước đầu trong luận văn sẽ nhận được sự góp ý, chỉ bảo của thầy hướng dẫn TS Nguyễn Văn Hưng cùng các thày cô và đồng nghiệp để giúp tác giả có thể tiếp tục nghiên cứu cũng như có thể trở thành một nhân tố tích cực trong quá trình đổi mới hoạt động của thanh tra ngân hàng - NHNN.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Báo cáo tổng kết hoạt động ngân hàng trên địa bàn thành phố Hà Nội các năm 2005, 2006, 2007, 2008.
2. Báo cáo tổng kết công tác thanh tra của Thanh tra NHNN chi nhánh thành
phố Hà Nôi các năm 2004, 2005, 2006, 2007, 2008.
3. Lụât NHNN và Luật các TCTD năm 1997.
4. Luật NHNN và Luật các TCTD bổ sung và sửa đổi năm 2004.
5. Luật thanh tra năm 2004.
6. Nghị định số 91/1999/NĐ-CP ngày 04/9/1999 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Ngân hàng.
7. Quyết định số 398/1999/QĐ-NHNN3 ngày 09/11/1999 về việc ban hành Quy chế giám sát từ xa đối với các TCTD hoạt động tại Việt Nam.
8. Quyết định số 516/2000/QĐ-NHNN1 ngày 18/12/2000 của Thống đốc NHNN về việc ban hành chế độ thông tin, báo cáo áp dụng đối với các đơn vị thuộc NHNN và các TCTD.
9. Quyết định sô 477/2004/QĐ-NHNN1 ngày 29/4/2004 của Thống đốc NHNN về việc ban hành chế độ báo cáo thống kê áp dụng đối với các đơn vị thuộc NHNN và các TCTD.
10. Quyết định số 292/1998/QĐ-NHNN5 ngày 27/8/1998 của Thống đốc NHNN về việc ban hành Quy chế xếp loại các Tổ chức tín dụng cổ phần tại Việt Nam .
11. Quyết định số 400/2004/QĐ-NHNN ngày 16/4/2004 của Thống đốc NHNN về việc ban hành quy định xếp loại các NHTMCP của Nhà nước và nhân dân.
12. Quyết định số 83/2009/QĐ-TTg quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng trực thuộc NHNN Việt Nam,
13. Thông tư 04/2000/TT-NHNN3 ngày 28/3/2000 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 91/1999/NĐ-CP ngày 04/9/1999 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngân hàng .
14. Văn bản sô 1525/CV-TTra1 ngày 22/01/1999 hướng dẫn thực hiện Quy chế GSTX đối với các TCTD hoạt động tại Việt Nam.
15. Quyết định số 663/QĐ-NHNN ngày 26/6/2004 về kế hoạch hội nhập kinh tế quốc tế ngành ngân hàng.
16.Kế hoạch số 74/NHNN-CSTT ngày 11/05/2005 kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006-2010.
17. Sắc lệnh số 64/SL ngày 23/11/1945 của Chủ Tịch nước về việc thành lập Ban thanh tra đặc biệt.
18. Lê Nin toàn tập, NXB Tiến bộ Matxcova 1978, tập 31,36
19. Hiến pháp năm 1980, 1992
20. Pháp lệnh thanh tra năm 1990
21. Kỹ thuật thanh tra ngân hàng dành cho các nước đang phát triển - Viện khoa học ngân hàng năm 1994.
22. Sổ tay thanh tra thanh tra NHTM, tài liệu do dự án WB-SDC II PHRD 02 9943 cung cấp, gồm 3 tập
23. Thanh tra, giám sát, kiểm toán ngân hàng, NXB Thanh niên 2008
24. Tạp chí Ngân hàng tháang số tháng 02/2009 .
lời cam đoan
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu đã nêu trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng, kết quả của luận văn là trung thực và chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả Luận văn
Nguyễn Thị Mai Xuân
Mục lục
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TH2545.doc