Trải qua tiến trình lịch sử hình thành và phát triển hàng nghìn năm nhất là trong 20 năm hoạt động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội, ngành công nghiệp dệt may Việt Nam luôn biết kế thừa và phát huy truyền thống để ngày càng khẳng định vai trò và những đóng góp to lớn cho sự phát triển của kinh tế đất nước. Với vị thế là một ngành kinh tế mũi nhọn, công nghiệp dệt may đã trở thành hàng xuất khẩu chủ lực, luôn chiếm những vị trí hàng đầu về kim ngạch xuất khẩu, tham gia giải quyết các vấn đề xã hội bức thiết, tạo gần 2 triệu việc làm cho người lao động, góp phần đưa tên tuổi Việt Nam cùng với các sản phẩm của mình ra năm châu bốn biển trong tiến trình hội nhập khu vực và thế giới.
Việt Nam đang gia nhập vào hệ thống thương mại tự do toàn cầu, thực hiện đầy đủ AFTA vào năm 2006 và tiến hành đàm phán để gia nhập WTO trong tương lai. Đối với ngành dệt may Việt Nam, yếu tố quyết định thành công là khả năng cạnh tranh quốc tế dựa trên lợi thế so sánh. Lợi thế so sánh của ngành dệt may Việt Nam là việc xuất khẩu hàng may mặc theo hình thức gia công ủy thác CMT. Vì vậy, trước mắt ưu tiên trong chính sách của ngành dệt may phải được đặt vào việc tập trung phát triển và tăng cường sản xuất hàng may mặc xuất khẩu theo hình thức gia công ủy thác CMT. Về lâu dài, xuất khẩu trực tiếp phải trở thành phương thức xuất khẩu chủ yếu của các doanh nghiệp may Việt Nam nhưng gia công là bước đi quan trọng để tạo lập uy tín của sản phẩm dệt may Việt Nam trên thị trường thế giới. Thông qua gia công, các doanh nghiệp may có thể học hỏi kinh nghiệm Marketting quốc tế, tổ chức quản lý sản xuất, tiếp thu công nghệ mới, từng bước đổi mới công nghệ, tích lũy nguồn tài chính, chuẩn bị các điều kiện cần thiết để thực hiện xuất khẩu trực tiếp một cách có hiệu quả. Như vậy trong những năm tới, phương thức gia công vẫn phải được tiếp tục thực hiện với các doanh nghiệp may Việt Nam và thực hiện gia công xuất khẩu phải được xem như là một bước chuẩn bị cho việc chuyển sang hình thức xuất khẩu trực tiếp.
48 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1685 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp hoàn thiện phương thức xuất khẩu cho ngành may Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
năm, nay gần như không còn làm ăn với ngành may Việt Nam nữa. Một khách hàng lớn khác đến từ Israel, trước đây mỗi năm mua của Việt Nam đến 5 triệu áo sơ mi để xuất khẩu đi hàng chục nước trên thế giới, nay cũng cắt giảm đến một nửa đơn hàng ở Việt Nam để chuyển sang gia công ở Myanmar …”
Đây chỉ là một vài ví dụ mà hiệp hội dệt may Việt Nam đã đưa ra để cho thấy nhiều khách hàng lớn của ngành may đang dần rời bỏ Việt Nam để tìm đến những nguồn cung cấp mới ở Trung Quốc, Bắc Mỹ, Đông Âu, Bắc Phi … Theo một số chuyên gia nghiên cứu ngành dệt may thì ngành may Việt Nam đang mất dần lợi thế cạnh tranh do nhiều nguyên nhân trong đó có các nguyên nhân liên quan đến hệ thống phân phối và các chính sách của nhà nước.
Hiện tại, hình thức phân phối sản phẩm của ngành may chủ yếu dựa trên phương thức gia công xuất khẩu trong đó các doanh nghiệp Việt Nam hầu như không chịu rủi ro về việc tiêu thụ hàng hóa. Vai trò của các doanh nghiệp may Việt Nam trong quá trình sản xuất và lưu thông sản phẩm còn rất hạn chế nên tỷ lệ giá trị gia tăng được hưởng cũng rất thấp. Kênh lưu thông hàng may mặc chưa hòan thiện, các doanh nghiệp thiếu thông tin về thị trường, tự mình phát triển thị trường tiêu thụ dẫn đến không hiệu quả và buộc phải dựa vào khách hàng nước ngoài.
Trong khi đó, trước khi quyết định đặt gia công hay mua hàng may ở một nước nào, khách hàng thường cân nhắc các yếu tố như: Hệ thống chính trị ở nước bán hàng ổn định và đảm bảo làm ăn lâu dài với mức rủi ro thấp; chi phí gia công và các chi phí khác; thời gian sản xuất và giao hàng; các ưu đãi thương mại và thuế của nước nhập khẩu. Trong các yếu tố đó, Việt Nam có ưu thế là có hệ thống chính trị ổn định, đảm bảo làm ăn lâu dài, nhưng bên cạnh đó cũng có khá nhiều yếu tố không thuận lợi như môi trường kinh doanh chưa thực sự thông suốt, đổi mới chập chạp, thủ tục hàng chính rườm rà, phức tạp, các chi phí ngoại trừ chi phí gia công như chi phí thông tin liên lạc, vận chuyển khá cao; Việt Nam chưa được nhiều ưu đãi về thương mại và thuế của các thị trường nhập khẩu chính, hàng may xuất khẩu sang các nước vẫn bị khống chế bằng hạn ngạch và bị đánh thuế nhập khẩu cao. Do vậy nhiều khách hàng ở Nhật, EU và nhiều nước khác đang có xu hướng chuyển đơn đặt hàng vào các nước Trung Quốc, Đông Âu … Để hưởng các ưu đãi về thương mại, thuế quan và tận dụng các chi phí vận chuyện và liên lạc rẻ.
Các điều kiện ra nhập thị trường
Như đã đề cập ở phần trước, ngành công nghiệp may đòi hỏi vốn đầu tư không lớn, công nghệ không quá phức tạp, xuất đầu tư thấp, thu hồi vốn nhanh. Do vậy ngành này rất phù hợp với tổ chức quy mô doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đây cũng chính là lý do dẫn đến các điều kiện ra nhập cũng như rút lui thị trường này không quá khó khăn phức tạp. Như vậy, tính cạnh tranh của doanh nghiệp may không bền vững.
Các đối thủ cạnh tranh trên thị trường
Có thể nói khi xâm nhập vào thị trường thị trường may thế giới đặc biệt là thị trường may EU , Nhật bản , Mỹ bằng con đường xuất khẩu thì đối thủ cạnh tranh khổng lồ và đáng gờm nhất đối với các doanh nghiệp may Việt Nam là Trung Quốc
Trung Quốc là nước đông dân nhất thế giới lại nằm trên con đường tơ lụa nên ngành dệt may Trung Quốc phát triển hàng ngàn năm nay,vừa đảm bảo nhu cầu tiêu thụ trong nước,vừa đảm bảo giao thương quốc tế.Trung Quốc giữ vị trí hàng đầu trong ngành dệt may thế giới về sản lượng bông , vải bông và sản phẩm may mặc và đứng thứ 2 về sơ hoá học . Công nghiệp dệt may Trung quốc luôn giữ vị trí tiên phong trong nền kinh tế quốc dân,giá trị sản lượng của nganh dệt –may chiếm xấp xỉ 20% tổng giá trị sản lượng công nghiệp toàn quốc và la ngành công nghiệp lớn nhất nước . Giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Trung quốc chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tồng kim ngạch buôn bán hàng dệt may toàn cầu,trung bình kim ngạch xuât khẩu hàng may chiếm 20% kim ngạch xuất khẩu toàn cầu ,trong đó các thị trường truyền thống của Trung Quốc la Hồng Kông ,Nhật bản ,Mỹ,EU, Australia . Năm 2002,những thị trường này chiếm trên 80% tổng giá trị xuất khẩu của Trung quốc . Theo dự đoán của các chuyên gia nghiên cứu của ngân hàng thế giới,sau khi ra nhập WTO, đến 2010,kim ngạch xuất khẩu ngành may của Trung Quốc sẽ chiếm đến 47% thị trường may mặc của thế giới
Hiện nay ,nhiệm vụ chiến lược của Trung quốc là tăng cường khả năng cạnh tranh thông qua việc cơ cấu lại ngành dệt may , điều chỉnh quy mô sản xuất,hiện đại hoá thiết bị và nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm nhằm mục đích chuyển từ một quốc gia có ngành công nghiệp dệt may lớn thành nước có ngành công nghiệp dệt may mạnh .Chiến lược này được thực hiện dựa trên một số ưu thế của ngành dệt may Trung quốc như: đội ngũ nhân viên giỏi ,giá hàng may thấp chỉ khoảng 80% giá hàng cùng loại của Việt nam ,công tác maketing có hiệu quả,cơ cấu ngành dệt may đã phát triển ở mức nhất định và đặc biệt là hệ thống chính sách hỗ trợ và khuyến khích của chính phủ Trung Quốc . Dự báo trong những năm tới , Trung Quốc vẫn là nước dẫn đầu thế giới về xuất khẩu hàng dệt may . Do vậy việc Trung Quốc ra nhập WTO đã đặt hàng may mặc của Việt Nam trước những khó khăn hơn khi kinh doanh trên cùng một thị trường mục tiêu với các công ty Trung Quốc
Bên cạnh Trung Quốc , Hàn Quốc , Thái Lan , Singapore đều là các nước xuất khẩu hàng may với kim ngạch xuất khẩu cao hơn Việt Nam bởi họ tạo được nhiều lợi thế hơn so với các sản phẩm của Việt Nam . Năm 2001 , kim ngạch xuất khẩu hàng may của Thái Lan bằng 4 lần , Trung Quốc bằng hơn 25 lần của Việt Nam . Có thể nói mức độ cạnh tranh trên thị trường may trong khu vực Châu á là rất gay gắt .
2.2 Tình hình xuất khẩu trong những năm gần đây
2.2.1 Xuất khẩu là đầu ra chính cho sản phẩm dệt may Việt Nam
Năm 1992 là thời điểm vàng, mở ra cơ hội xuất khẩu các sản phẩm dệt may Việt Nam với việc ký kết hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam và EU. Từ 1993, hàng dệt may Việt Nam bắt đầu tìm đường ra thế giới và đến 1996 lần đầu tiên kim ngạch xuất khẩu vượt qua ngưỡng 1 tỷ USD (đạt 1,15 tỷ USD). Sản phẩm dệt may từ vị trí khiêm tốn trong các sản phẩm xuất khẩu chủ lực vào thời điểm trước năm 1990 đã vươn lên vị trí số 1 trong những năm 1996-1997 và ổn định ở vị trí thứ hai từ 1998- nay ( sau dầu thô) đạt mức tăng trưởng hàng năm 23,8%. Năm 2001 xuất khẩu hàng dệt may đạt 1,96 tỉ USD, gấp 16 lần so với năm 1990. Hiện tại, sản phẩm của ngành dệt may Việt Nam đã có mặt trên 100 nước và vùng lãnh thổ tại hầu khắp các châu lục so với gần 30 nước ở thời điểm năm 1990.
Sản phẩm dệt may Việt Nam được xuất khẩu sang 2 khu vực chính: thị trường có hạn ngạch do nước nhập khẩu ấn định số lượng từng loại sản phẩm như EU, Canada, Thổ Nhĩ Kỳ và thị trường không hạn ngạch như Nhật Bản, châu Á, Châu Mỹ. EU là thị trường xuất khẩu hàng dệt may theo hạn ngạch lớn nhất, chiếm 80% tổng kim ngạch xuất khẩu có hạn ngạch của Việt Nam, có tốc độ tăng trưởng kim ngạch cao, bình quân 23%/ năm. Nhật Bản là thị trường hàng may mặc lớn thứ ba và là thị trường nhập khẩu không hạn ngạch lớn nhất thế giới. Năm 1994, 1995, Việt Nam có mặt trong số 10 nước dẫn đầu về xuất khẩu hàng may vào Nhật Bản, đến năm 1996 vươn lên hàng thứ 8, năm 1997 vươn lên hàng thứ 7 và từ dó đến nay giữ vị trí thứ 5. Mỹ được xem là một thị trường đầy tiềm năng và triển vọng đối với hàng dệt may Việt Nam, đặc biệt là từ sau khi hiệp định thương mại Việt Mỹ được ký kết, hiện tại Mỹ chỉ đứng ở vị trí thứ 7 trong số các thị trường chính của Việt Nam, song trong tương lai, vị trí này sẽ được cải thiện và Việt Nam cũng xác định Mỹ là thị truờng chiến lược trong những năm sắp tới.
2.2.2 EU-Th ị trường chiến lược quan trọng hàng đầu
Từ trước tới nay, EU luôn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của thị truờng may Việt Nam, chiếm hơn 40% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu. Dù cho thời gian gần đây, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam có bị cuốn vào “dòng thác” tìm đường xuất khẩu vào thị trường Mỹ- một thị trường đầy tiềm năng và rất nhiều hứa hẹn – thì EU cũng là thị trường truyền thống và giữ vị trí chiến lược quan trọng hàng đầu.
EU- địa chỉ vàng cho hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam. Theo những đánh giá mới đây của các tổ chức dệt may quốc tế, EU vẫn là khu vực đứng đầu thế giới về nhập khẩu hàng may mặc, chiếm 49% tổng giá trị nhập khẩu hàng dệt may của tòan thế giới. Nhu cầu nhập khẩu hàng năm của EU vào khoảng 110 tỷ USD hàng quần áo may sẵn và hàng dệt các loại, đem đến cơ hội tuyệt vời cho các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Cơ hội này càng trở nên hấp dẫn hơn khi EU đang có xu hướng chuyển nguồn nhập khẩu sang các nước đang phát triển để tận dụng nguồn lao động giá rẻ của các nước này. Tỷ trọng mậu dịch 43% trong nội bộ EU và 17% nhập từ các nước đang phát triển đang dần được điều chỉnh theo hướng tăng tỷ lệ nhập khẩu từ châu Á- khu vực sản xuất hàng dệt may lớn nhất, chiếm tỷ trọng 60% khối lượng hàng dệt may xuất khẩu của toàn thế giới. Các nước thuộc EU là thị trường nhập khẩu hàng dệt may theo hạn ngạch lớn nhất của Việt Nam với tốc độ tăng trưởng kim ngạch lên đến trên 23%/năm. Tuy nhiên nếu nhìn từ phía EU thì Việt Nam chỉ là nhập khẩu lớn thứ 16 và chiếm 0,5% kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của EU. Trong đó, Đức là nước nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam, chiếm 41% tổng giá trị xuất khẩu, tiếp theo là Pháp 14%, Hà Lan 12%, Italia 9% và các nước khác chiếm 8%. Kim ngạch xuất khẩu EU bắt đầu tăng mạnh kể từ khi hiệp định buôn bán hàng dệt may được ký tắt vào tháng 12/1992 và liên tục được điều chỉnh bổ sung cho từng giai đoạn. Các sản phẩm xuất khẩu chủ lực chiếm tới 70% giá trị kim ngạch là những hàng quen làm, dễ thu lợi nhuận như: Áo jacket (51,7%), áo sơ mi (11% ), quần âu (5%), áo len và áo dài kim (3,9%). Các sản phẩm có yêu cầu phức tạp, chất lượng cao thì Việt Nam vẫn luôn chưa sản xuất được hoặc sản xuất với tỷ lệ rất nhỏ
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang EU
(Nguồn: Bộ Thương Mại và Tổng cục Hải Quan)
Đơn vị: Triệu USD
Năm
Xuất khẩu vào EU
Tăng (%)
So với tổng kim ngạch
1994
298
19.2
54.2
1995
355
19.1
47.3
1996
428
20.6
37.2
1997
460
7.5
34.1
1998
546
18.7
40.4
1999
605
10.8
35.96
2000
650
7.4
35.7
2.2.3: Thị trường Mỹ- cơ hội mới, thách thức lớn
Theo đánh giá của Bộ Thương Mại, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào Mỹ đang đạt cao nhất trong 4 thị trường xuất khẩu chính của mặt hàng này kể từ khi hiệp định thuơng mại Việt Mỹ có hiệu lực. Tính đến hết tháng 8/2002, trong tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành 1,56 tỷ USD thì kim ngạch xuất khẩu vào Mỹ đạt 420 triệu USD, vươn lên vị trí thứ 2 sau thị trường EU ( khoảng 450 triệu USD) và chiếm tỷ lệ gần 30%. Có thể nói hiệp định thương mại Việt Mỹ được ký kết 14/7/2000 đã đánh dấu một bước ngoặt có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong lịch sử quan hệ ngoại giao và hợp tác thương mại giữa chính phủ 2 nước Việt Nam và Mỹ, mở ra một kỷ nguyên mới đầy triển vọng, song cũng không ít thách thức cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và ngành dệt may nói riêng.
Hiệp định thương mại Việt Mỹ- cơ hội vàng cho các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may .
“Chúng ta phải thừa nhận rằng, không có thị trường thì không có sản xuất. Chính vì vậy, cần phải tạo ra thị trường mới, đột biến thì sản xuất mới có cơ hội để phát triển”- ông Nguyễn Văn Thông- Viện trưởng Viện kinh tế kỹ thuật dệt may Việt Nam khẳng định.
Việc mở rộng thị trường Mỹ, theo bà Đới thị Thu Thủy- phó tổng giám đốc tổng công ty dệt may Việt Nam ( Vinatex) kiêm tổng giám đốc công ty may Chiến Thắng cho biết “ Khi thị trường Mỹ mở ra, doanh nghiệp dệt may của Việt Nam có nhiều cơ hội và điều kiện để mở rộng thị trường bởi Việt Nam được đánh giá là một đất nước có truyền thống về may mặc, tay nghề của công nhân khá tốt và chi phí lao động cũng vừa phải. Hơn nữa, trong những năm đầu hiệp định thương mại Việt Mỹ có hiệu lực, hàng dệt may vào Mỹ được hưởng quy chế quan hệ thương mại bình thường và chưa có quota”.
Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, nhất là sau sự kiện 11/9, thì đây được coi là cơ hội vàng cho ngành dệt may Việt Nam. Theo đánh giá của hiệp hội dệt may và da giày Mỹ (AAFA), các doanh nghiệp Mỹ không muốn ký kết hợp đồng làm ăn với những quốc gia không ổn định về chính trị. Trong khi đó, Việt Nam luôn được cộng đồng quốc tế đánh giá là một thị trường tiềm năng, có nền chính trị ổn định và có mức đầu tư liên tục tăng trưởng. Một ví dụ cụ thể là trường hợp của công ty ERATEX có cơ sở sản xuất tại Indonesia, do bất ổn về chính trị, sau khi tìm hiểu và nghiên cứu, mới đây ERATEX đã ký biên bản hợp tác sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may với một đối tác của Việt Nam là công ty may Chiến Thắng, đồng thời phía ERATEX cũng quyết định chuyển một số máy móc, thiết bị chuyên dùng sẵn có từ cơ sở sản xuất ở Indonesia sang xí nghiệp may Thái Nguyên ( thuộc công ty may Chiến Thắng), mở đầu quan hệ hợp tác kinh doanh lâu dài với một đối tác Việt Nam.
Ngoài những thuận lợi cơ bản nói trên, chúng ta không thể không nói đến sự hỗ trợ đắc lực và hiệu quả của hơn 1 triệu người Việt Nam đang định cư tại Mỹ. Họ sẽ là nhân tố quan trọng, đóng vai trò cầu nối để đưa hàng Việt nam vào thị trường này. Điển hình như trường hợp của Việt kiều Nguyễn Cảnh Kỳ, người đã ký hợp đồng thuê thương hiệu sản phẩm AQ Silk của Việt nam để kinh doanh mặt hàng lụa tơ tằm trên địa phận bang Michigan trong thời gian 10 năm với giá trị hợp đồng 100 nghìn USD/năm.
Cơ hội bước đầu đã được chuyển thành những kết quả cụ thể trên thực tế. Nếu năm 2001, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ chỉ đạt 47,5 triệu USD thì chỉ tính đến hết tháng 8/2002, con số này đã lên đến 420 triệu USD, tăng gấp 9 lần, đứng thứ hai sau thị trường truyền thống EU. Với đà tăng trưởng này, ngành dệt may Việt Nam có cơ sở để đưa ra con số dự báo về tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ đạt mức từ 500-600 triệu USD, vượt 300% so với kế hoạch dự kiến ban đầu.
Bên cạnh đó là những thách thức lớn
Cơ hội là thế nhưng thách thức không phải là ít, nhất là sức ép của tiến trình hội nhập kinh tế toàn cầu. Theo như ông Thông cho biết, tháng 8/2003, các nước EU sẽ đồng loạt áp dụng quy định về nhãn mác sinh thái đối với hàng dệt may nhập khẩu; sang năm 2004 thị trường EU sẽ bãi bỏ hạn ngạch cho các nước thành viên WTO; năm 2006 xóa bỏ hàng rào thuế quan nhập khẩu khu vực thị trường ASEAN. Ngoài ra, có thể trong thời gian tới, chính phủ Mỹ sẽ ấn định hạn ngạch đối với hàng dệt may của Việt Nam.
Tại cuộc hội thảo được tổ chức tại Hà Nội ngày 19-20/8/2002 do hiệp hội dệt may và da giày Mỹ phối hợp với hiệp hội dệt may Việt Nam và viện quản trị kinh doanh trường ĐH Kinh tế quốc dân tổ chức, ông Lê Quốc Ân, chủ tịch VITAS cho biết “ Sau một thời gian thực hiện xuất khẩu hàng dệt may vào Mỹ, có rất nhiều vấn đề cần phải rút ra. Các doanh nghiệp cần xuất khẩu trực tiếp cho các công ty có “đẳng cấp” của Mỹ. Hiện nay, các doanh nghiệp trong nước chưa làm được điều này mà phải xuất qua các công ty trung gian của Hồng Kông, Đài Loan và Hàn Quốc… Việc xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào Mỹ phải qua một nước thứ 3 gây ra nhiều bất lợi đối với Việt Nam, bởi các doanh nghiệp sẽ phải mất thêm tiền cước phí vận chuyển, tiền chênh lệch giá”. Đến nay, xuất khẩu FOB sang thị trường Mỹ nói riêng và các thị trường khác nói chung mới chỉ đạt được mức hết sức khiêm tốn, khoảng 25-30% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam. Hạn chế là rõ ràng song nhiều khi cũng là vì “lực bất tòng tâm”.
2.3 Tình hình thực hiện phương thức gia công xuất khẩu của các doanh nghiệp may Việt Nam
Quá trình thực hiện gia công xuất khẩu trong ngành may Việt Nam được chia làm ba giai đoan như sau:
Giai đoạn 1978-1989: Việc gia công xuất khẩu cùng được tiến hành ở cả hai ngành dệt và may. Ở ngành dệt, các nhà máy dệt ở Việt Nam được cung cấp sợi nhập khẩu để dệt thành vải, trao trả các nước bạn, còn ở ngành may, các doanh nghiệp may ở Việt Nam đã nhận vải từ các doanh nghiệp dệt trong nước ( được dệt từ sợi nhập khẩu) và may thành sản phẩm để xuất khẩu cho nước bạn. Hình thức gia công xuất khẩu tiếp tục được phát triển và đạt đỉnh cao khi Việt Nam ký hiệp định thương mại năm 1987 với các nước XHCN. Khi đó, các mặt hàng may phổ biến là quần áo bảo hộ lao động, vỏ chăn, ga trải giường… được xuất khẩu với khối lượng khá lớn sang các nước này.
Giai đoạn 1990-1995: Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam bắt đầu tìm cách xác lập quan hệ với các đối tác thuộc khu vực II ( thị trường các nước TBCN, theo cách gọi lúc bấy giờ). Lúc này đi tiên phong không phải là các doanh nghiệp dệt mà là các doanh nghiệp may. Các khách hàng Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản đã bắt đầu tìm đến các doanh nghiệp may của Việt Nam với mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận cao. Một điểm cần lưu ý trong giai đoạn này là cho đến trước năm 1993, do lệnh cấm vận thương mại của chính phủ Mỹ nên Việt Nam hoàn toàn không có hạn ngạch xuất khẩu sang các nước. Chỉ sau khi hiệp định thương mại giữa Việt Nam và EU được ký kết vào tháng 10 năm 1993, thị trường xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam được chính thức xác lập và Việt Nam đã được cấp hạn ngạch xuất khẩu mặc dù còn hạn chế vào thị trường các nước EU. Năm 1993, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đạt 335 triệu USD, năm 1994: 554 triệu USD và năm 1995:850 triệu USD. Việc tổ chức sản xuất cũng có những thay đổi quan trọng, chuyển tiền hình thức tổ chức ngang sang hình thức tổ chức dọc, tức là mỗi phân xưởng được tổ chức thành các giây chuyền khép kín có đầy đủ các khâu cắt, may và hòan thiện để có thể sản xuất một loại sản phẩm hòan chỉnh. Hình thức tổ chức này đã làm tăng thêm tính chuyên môn hóa, nhờ vậy làm tăng năng suất lao động.
Giai đoạn 1995- nay: Sau khi chính phủ Mỹ xóa bỏ lệnh cấm vận thương mại với Việt Nam, hoạt động gia công xuất khẩu hàng may mặc ở Việt Nam chuyển sang phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Về chiều rộng, các doanh nghiệp tham gia gia công xuất khẩu hàng may mặc bao gồm cả các doanh nghiệp nhà nước trung ương, doanh nghiệp nhà nước do địa phương quản lý và các doanh nghiệp ngòai quốc doanh, bao gồm các công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn. Sản lượng gia công tăng mạnh, chủng loại mặt hàng được mở rộng. Đơn giá gia công từ vài đô la đến vài chục đô la một sản phẩm.
Do sự tăng về loại hình các doanh nghiệp thực hiện gia công tăng, số lượng gia công và chủng loại mặt hàng nên kim ngạch xuất khẩu tăng lên nhanh chóng nhờ đó đầu tư vào lĩnh vực may mặc cũng tăng mạnh. Có thể coi đây là giai đoạn hoàn thiện cả về tổ chức sản xuất và năng lực sản xuất, bao gồm cả việc nâng cao năng lực thiết bị, công nghệ và chất lượng sản phẩm.
2.3.1: Tình hình thực hiện phương thức gia công xuất khẩu trong ngành may Việt Nam
Quá trình thực hiện gia công xuất khẩu được thực hiện qua nhiều giai đoạn khác nhau. Quá trình thực hiện gia công xuất khẩu của các doanh nghiệp may Việt Nam bắt đầu từ tìm kiếm khách hàng và kết thúc bằng việc thanh lý hợp đồng gia công. Trong các công việc của quá trình này có mấy điểm đáng chú ý sau:
Thứ nhất, việc tìm kiếm khách hàng ( đối tác) được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau:
- Thông qua môi giới thương mại để doanh nghiệp Việt Nam và đối tác nước ngòai tiếp xúc với nhau.
- Doanh nghiệp Việt Nam và đối tác nước ngòai trực tiếp tìm gặp nhau qua các hội chợ, triển lãm trong và ngòai nước.
- Doanh nghiệp Việt Nam chủ động giới thiệu khả năng sản xuất bằng những phương thức khác nhau như đại diện thương mại Việt nam ở nước ngòai, thương mại điện tử …
- Các hãng nước ngòai trực tiếp vào khảo sát các doanh nghiệp dệt may Việt Nam.
- Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngòai ở Việt Nam đã có sẵn mối quan hệ với các đối tác nước ngoài.
Thứ hai, sản xuất thử ( chào hàng): Bên đối tác nước ngòai đặt yêu cầu cho doanh nghiệp Việt Nam được lựa chọn sản xuất thử một số kiểu sản phẩm với các kích cỡ và màu sắc khác nhau theo mẫu có sẵn, phía nước ngoài dùng mẫu này đi chào hàng ở các thị trường khác nhau ( có thể ở nước họ hoặc nước thứ 3). Việc sản xuất thử và chào mẫu thường được tiến hành trước khi đặt hàng khỏang một năm. Nếu mẫu mã nào được ưa chuộng và có triển vọng tiêu thụ, doanh nghiệp nước ngòai sẽ lập kế hoạch đặt hàng từ trước. Thông thường, các doanh nghiệp nước ngòai đặt gia công, đặt làm thử hàng chục mẫu, với nhiều kích thước khác nhau ( tổng cộng có thể lên tới hàng trăm mẫu). Sau khi chào hàng, có thể chỉ có vài mẫu được thị trường chấp nhận.
Thứ ba, đàm phán và kí kết hợp đồng gia công khoảng từ 2 đến 6 tháng sau khi chào mẫu, thu thập vào xử lý thông tin thị trường ( xu hướng tiêu dùng các mẫu hàng được thị truờng chấp nhận, dung lượng thị trường), doanh nghiệp nước ngoài đặt gia công sẽ chuẩn xác hóa lại các mẫu mã, quy cách của sản phẩm và tiến hành đàm phán với các doanh nghiệp gia công về các điều khỏan của hợp đồng gia công.
Đơn giá gia công được thỏa thuận trên cơ sở đánh giá độ phức tạp của sản phẩm, số lượng sản phẩm của mỗi mẫu mã. Về nguyên tắc giá gia công có kết cấu như hình dưới đây.Theo cơ cấu giá gia công, các doanh nghiệp may gia công sau khi đã trừ đi các chi phí có thể thu được lãi bằng 4% so với giá gia công. Lượng lãi của doanh nghiệp hoạt động trong điều kiện bình thường tỉ lệ thuận với lượng hàng nhận gia công. Ngoài ra, trong điều kiện phải bảo đảm được chất lượng theo quy định, doanh nghiệp gia công còn có thể thu lợi từ phần hạ thấp chi phí nguyên phụ liệu. Ngược lại, nếu không bảo đảm chất lượng và tiến độ thời gian giao hàng, phần lãi của doanh nghiệp bị giảm xuống. Về phía người lao động, thu nhập của họ phụ thuộc vào năng suất lao động nghĩa là phụ thuộc vào mức sản phẩm làm ra.
Nếu so với xuất khẩu bằng phương thức mua nguyên liệu bán sản phẩm, lợi ích của doanh nghiệp thu được sẽ thấp hơn.
Kết cấu giá gia công ( bình quân cho các mặt hàng)
Khoản mục
Tỉ trọng
Tiền lương
- Của công nhân sản xuất
- Của cán bộ quản lý
52%
44,7%
7,3%
Bảo hiểm xã hội
2%
Chi phí phụ liệu, bao bì
15%
Chi phí điện nước
4,5%
Khấu hao tài sản cố định
9%
Chi phí xuất nhập khẩu
6,5%
Lãi
4%
Cộng
100%
Nguồn: Công ty may Chiến Thắng
Thứ tư, doanh nghiệp nhận gia công tổ chức toàn bộ quá trình sản xuất theo yêu cầu của bên nước ngoài từ khâu giác mẫu đến đóng gói sản phẩm và giao hàng cho đối tác nước ngoài. Bên nước ngoài có thể trợ giúp hướng dẫn kỹ thuật sản xuất và giám sát quá trình sản xuất, hoặc bên nhận gia công đảm nhận hoàn toàn quá trình sản xuất, bên nước ngoài chỉ việc thu sản phẩm cuối cùng. Các giai đoạn sản xuất thử và sản xuất hàng loạt đôi khi được tiến hành trong khoảng thời gian ngắn vì việc nhập khẩu nguyên phụ liệu và xuất khẩu sản phẩm gặp những trục trặc trong khâu vận chuyển, giao nhận. Mặt khác, các doanh nghiệp đặt gia công thường không muốn vốn của mình bị tồn đọng trong một thời gian dài. Đó cũng chính là những nguyên nhân chủ yếu dẫn tới việc các doanh nghiệp nhận gia công thường phải tổ chức sản xuất tăng ca, tăng kíp, làm thêm giờ vào những thời điểm cao. Ngược lại, vào những thời gian gối vụ, chuyển mùa, công việc có thể giảm đáng kể.
Thực trạng gia công xuất khẩu hàng may mặc hiện nay ở Việt Nam thể hiện trên hai mặt chủ yếu là quy mô sản xuất và quy mô xuất khẩu.
Về quy mô sản xuất, theo thống kê của hiệp hội dệt may Việt Nam, các cơ sở may mặc là thành viên của VITAS với 392 cơ sở thuộc các thành phần kinh tế ở 35/61 tỉnh, thành phố trong cả nước, trong đó chủ yếu là các cơ sở may gia công xuất khẩu. Các cơ sở này đã thu hút gần 1 triệu lao động thường xuyên. Năng lực sản xuất của từng ngành đã lên tới trên 400 triệu sản phẩm sơ mi quy chuẩn/năm và được tập trung chủ yếu ở một số địa phương như Hà Nội, Đà Nẵng, Quảng Nam, Thành phố Hồ chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Cần Thơ … Quy mô của các cơ sở sản xuất cũng khác nhau. Có doanh nghiệp có năng lực sản xuất tới trên 10 triệu sản phẩm/ năm, nhưng cũng có nhiều cơ sở, năng lực sản xuất chỉ khoảng 1 triệu sản phẩm/ năm. Nhìn chung mỗi cơ sở chỉ tập trung vào sản xuất một số mã hàng cố định. Điều này có lý do từ sự đầu tư chuyên môn hóa của các cơ sở gia công, nhưng cũng có lý do từ các doanh nghiệp đặt gia công ,vì hầu hết các khách hàng nước ngoài cũng chỉ có thế mạnh về một số mặt hàng nhất định.Do năng lực sản xuất hạn chế nên hầu hết các doanh nghiệp chỉ nhận được các đơn hàng với sồ lượng nhỏ.
Về quy mô xuất khẩu: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam đã tăng mạnh trong các năm qua. Bình quân giai đoạn 1991-2001 tăng gần 29%/năm. Riêng giai đoạn 1991-1999 tăng bình quân 35%/năm. Năm 2001 kim ngạch xuất khẩu đạt 2,15 tỷ USD. Hàng dệt may của Việt Nam đã được xuất khẩu đi 174 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, và đã có mặt ở hầu hết các thị trường lớn của thế giới như thị trường Nhật Bản, EU, Bắc Mỹ, Đông Âu, Trung Đông … Trong cơ cấu thị trường xuất khẩu, khoảng 60% kim ngạch xuất khẩu thu được từ các thị trường phi hạn ngạch, chứng tỏ hàng dệt may của Việt Nam bước đầu đã có khả năng cạnh tranh về giá cả và chất lượng trên thị trường quốc tế.
2.3.2: Những nhận định khái quát về những đóng góp và hạn chế của gia công xuất khẩu hàng may mặc
2.3.2.1: Những đóng góp của gia công xuất khẩu hàng may mặc
Tạo nguồn ngoại tệ quan trọng phục vụ CNH-HĐH đất nước. Cùng với nhiều ngành công nghiệp khác, ngành dệt may đã có những đóng góp quan trọng vào xuất khẩu, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước. Từ năm 1994, ngành dệt may đã vươn lên hàng thứ 2 trong mười mặt hàng xuất khẩu có giá trị lớn của đất nước, trong đó, phần đóng góp chủ yếu là từ gia công xuất khẩu hàng may mặc ( Chiếm khoảng 80% kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may) và từ đó đến nay vẫn luôn giữ vững ở vị trí này.
Thu hút lao động xã hội, góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp và tạo sự ổn định chính trị xã hội. Theo thống kê chưa đầy đủ, toàn ngành dệt may Việt Nam hiện thu hút một lực lượng lao động khoảng 1,6 triệu người, trong đó trên 80% là hoạt động trong lĩnh vực may mặc, mà chủ yếu là gia công xuất khẩu. Lao động của ngành may không còn chỉ có ở những thành phố lớn, có truyền thống về nghề may mà đang phát triển ở hầu khắp các tỉnh đồng bằng và trung du trong toàn quốc, với nhiều loại hình tổ chức khác nhau như doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, hợp tác xã…
Góp phần tăng cường mỗi liên hệ sản xuất giữa các ngành. Nhờ phát triển gia công xuất khẩu hàng may mặc mà một loạt các ngành nghề liên quan đã có điều kiện để phát triển, tiêu biểu là hai ngành cơ khí và sản xuất các loại phụ liệu. Đối với ngành cơ khí, nhiều thiết bị lẻ trong dây chuyền may đã được các doanh nghiệp cơ khí trong nước chế tạo như máy cắt vòng, máy cắt đẩy tay, thiết bị là hơi, các bộ gá lắp, chân bàn, mô tơ điện… Ở khâu sản xuất phụ liệu, nhiều cơ sở sản xuất đã được hình thành để sản xuất các loại phụ liệu được sử dụng nhiều cho gia công xuất khẩu hàng may mặc như chỉ may, mex, tấm bông lót áo, các loại khoá kéo, khuy cúc, nhãn mác… từng bước tạo tiền đề cho việc xuất khẩu theo hình thức FOB.
Thu hút đầu tư nước ngoài. Ngoài các hình thức đầu tư thông thường vào ngành dệt may, gia công xuất khẩu hàng may mặc còn tạo điều kiện thu hút đầu tư nước ngoài dưới nhiều hình thức.
2.3.2.2: Những hạn chế cơ bản ảnh hưởng tới hiệu quả thực hiện gia công xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam:
Thứ nhất, khả năng tiếp cận thị trường nước ngoài còn hạn chế.
Theo phương thức gia công xuất khẩu, việc nắm nhu cầu của khách hàng và tổ chức tiêu thụ hàng hoá do tổ chức nước ngoài thực hiện, các doanh nghiệp Việt Nam hầu như không nắm được nhu cầu thực tế của thị trường. Đây là một bất lợi lớn của kinh doanh trong cơ chế thị trường.
Trong số các thị trường có hạn ngạch, EU được đánh giá là thị trường mà Việt Nam có nhiều lợi thế nhất. Mặc dầu Việt Nam đã có nhiều thành công khi xâm nhập thị trường này do số lượng hạn ngạch được hưởng ngày càng tăng, mức chuyển đổi giữa các loại hàng lớn, gần đây lại được phép sử dụng hạn ngạch dư thừa của các nước ASEAN… nhưng vẫn còn một số hạn chế so với nhiều nước khác trong khu vực: Số lượng hạn ngạch được hưởng còn thấp so với nhiều nước ( chỉ bằng 5% của Trung Quốc và 10-12 % của các nước ASEAN); số mặt hàng bị hạn chế bằng hạn ngạch lớn hơn so với các nước khác. Từ 1/1/2005, khi chế độ hạn ngạch được bãi bỏ hoàn toàn giữa các nước là thành viên của WTO, thì Việt Nam vẫn phải chịu những hạn chế này. Thị trường Mỹ là một thị trường lớn, có sức hấp dẫn cao. Tuy nhiên, từ tháng 7/2003, chính phủ Mỹ đã đặt quota cho hàng dệt may Việt Nam, gây khó khăn lớn cho các doanh nghiệp.
Ở thị trường Nhật Bản, hàng dệt may của Việt Nam gần đây phải chịu sức ép cạnh tranh lớn từ Trung Quốc ( quốc gia chiếm đến 87% thị phần dệt may ở thị trường này trong năm 2002). Xuất khẩu của Việt Nam vào Nhật năm 2002 chỉ đạt 540 triệu USD, giảm 20% so với năm 2001.
Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam có quá ít thông tin về thị trường và các đối tác nước ngoài có quan hệ gia công. Mạng lưới thương vụ của Việt Nam chưa đáp ứng nhu cầu thông tin về thị trường cho các doanh nghiệp. Trong khi đó, do nguồn lực tài chính và khả năng cán bộ còn hạn chế, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam chưa đủ khả năng tham gia thường xuyên các cuộc hội chợ triển lãm quốc tế, hay thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại, thiết lập văn phòng đại diện ở nước ngoài. Ngoài ra các doanh nghiệp cũng chưa biết cách khai thác thông tin về thị trường trên mạng Internet một cách có hiệu quả.
Thứ hai, nội lực và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường tuy đã được cải thiện nhưng vẫn còn thấp kém.
Việt Nam vẫn được coi là nước có nguồn lao động thành thạo và giá rẻ hơn so với nhiều nước trong khu vực. Song lợi thế này, nếu tính toán chi tiết thì không phải là lớn do giá gia công theo giờ thấp song năng suất lao động của công nhân Việt Nam chỉ bằng 2/3 của các nước khác trong khu vực. Do vậy, để bảo đảm tiến độ giao hàng đã cam kết, hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam phải tăng ca, phải làm thêm giờ. Điều này đã ảnh hưởng rất nhiều đến việc tổ chức sản xuất để đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Bộ luật lao động của Việt Nam quy định số giờ làm thêm của mỗi người lao động trong doanh nghiệp không được vượt quá 200 giờ/ năm. Nếu doanh nghiệp muốn làm thêm ngoài số giờ quy định này, phải có được sự thoả thuận của người lao động. Điều đó đã làm cho nhiều doanh nghiệp rất lúng túng khi phải thực hiện các đơn hàng gấp về thời gian.
Một thực tế đang diễn ra hiện nay trong ngành may là sự dịch chuyển lực lượng lao động giữa các doanh nghiệp cùng ngành và với các ngành khác do sự chênh lệch về điều kiện lao động và thu nhập của các doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp đã phải tuyển lao động mới, chất lượng lao động không đồng đều ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm, năng suất lao động và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Thậm chí nhiều doanh nghiệp còn không ký đuợc hợp đồng dài hạn với công nhân do công nhân không yên tâm sản xuất. Chính vì vậy, kỹ năng của lao động ngành may của Việt Nam thường không cao.
Trong ngành dệt may, ngành may được coi là ngành có tốc độ đổi mới máy móc, thiết bị và công nghệ nhanh, theo kịp với trình độ chung của các nước trong khu vực. Tuy nhiên, nhận định này chỉ đúng với các doanh nghiệp nhà nước thuộc Tổng công ty dệt may Việt Nam và một số ít doanh nghiệp nhà nước do địa phương quản lý. Các doanh nghiệp thuộc khu vực ngoài quốc doanh trong nước có quy mô nhỏ, tiềm lực kinh tế để đổi mới công nghệ rất hạn hẹp nên trình độ công nghệ thấp kém, hệ thống quản lý chất lượng lạc hậu làm cho năng suất lao động và chất lượng sản phẩm không cao. Điều đó đã ảnh hưởng tới khả năng nhận gia công.
Trong việc thực hiện gia công xuất khẩu, hình thức liên kết sản xuất theo kiểu vệ tinh giữa doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp nhỏ đã xuất hiện, song còn chưa phổ biến, các doanh nghiệp thực hiện hợp đồng gia công một cách biệt lập. Không những chưa thiết lập quan hệ hợp tác hỗ trợ nhau, các doanh nghiệp trong nước còn cạnh tranh với nhau qua việc phá giá gia công để giành hợp đồng gia công của các đối tác nước ngoài.
Thứ ba, môi trường thể chế cho tổ chức hoạt động gia công còn bất cập.
Sự cứng nhắc trong việc cho phép các doanh nghiệp Việt Nam tiếp nhận mẫu hàng gửi theo đường hàng không mà đối tác nước ngoài đã điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu thị trường.
Độ ổn định trong các chính sách và các quy định cụ thể không cao, làm cho các doanh nghiệp khó ứng phó kịp thời với những thay đổi.
Việc thực thi các chính sách và quy định chung của nhà nước có sự không đồng nhất giữa các địa phương. Có trường hợp chính sách của nhà nước trung ương thông thoáng nhưng chính quyền địa phương lại điều chỉnh gây khó khăn cho doanh nghiệp. Điều này tạo nên sự không bình đẳng trong môi trường hoạt động của các doanh nghiệp và địa phương so với các doanh nghiệp ở các thành phố lớn và các trung tâm công nghiệp.
CHƯƠNG III:GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHƯƠNG THỨC XUẤT KHẨU CHO NGÀNH MAY VIỆT NAM
3.1 Giải pháp cho các doanh nghiệp may nhận gia công xuất khẩu
Bên cạnh những thuận lợi vốn có, trong điều kiện phát triển mới, ngành may Việt Nam có thêm những cơ hội phát triển mạnh mẽ hơn. Đó là việc chính phủ Việt Nam đã phê duyệt chiến lược phát triển hàng dệt may Việt Nam đến năm 2010 khẳng định vị trí trọng yếu của ngành dệt may Việt Nam trong quá trình CNH-HĐH đất nước và xác định rõ phương hướng phát triển và chú trọng đầu tư cho ngành bằng các nguồn lực; hiệp định thương mại Việt Mỹ có hiệu lực; thị trường mở rộng với nhiều điều kiện thuận lợi hơn trước … tuy nhiên ngành may Việt Nam vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức mới.
Sức cạnh tranh của hàng dệt may chưa cao cả về chất lượng và giá cả, trong khi đó loại hàng hoá này lại càng có sự thay đổi về mẫu mã. Nguồn lực nội bộ của doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế.
Nguyên phụ liệu của ngành dệt may hiện đang ở tình trạng phụ thuộc vào nước ngoài: Mỗi năm phải nhập 130.000 tấn bông và 100% tơ sợi tổng hợp.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới đang suy giảm, từ đó nhu cầu nhập khẩu hàng hoá trong đó có hàng dệt may của các nước công nghiệp phát triển giảm.
Trung Quốc chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới. Đây là “ người khổng lồ” trong lĩnh vực dệt may và đã có mặt trên khắp các thị trường lớn.
Đặt trong điều kiện những cơ hội và thách thức trên, có thể khẳng định rằng trong những năm trước mắt, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam chưa thể từ bỏ xuất khẩu hàng may mặc bằng phương thức gia công để chuyển sang phương thức mua nguyên vật liệu xuất khẩu sản phẩm. Gia công xuất khẩu vẫn chiếm vị trí trọng yếu trong cơ cấu xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam. Vì vậy, để đảm bảo tính chủ động và tính hiệu quả của xuất khẩu bằng phương thức gia công, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần thiết phải có những đổi mới trong tổ chức quản lý.
Cụ thể, các doanh nghiệp này cần chú trọng đến các vấn đề sau:
Nâng cao chất lượng sản phẩm:
Các thị trường chính của Việt Nam đều là những thị trường đòi hỏi khắt khe về chất lượng, bởi vậy việc quan tâm bảo đảm chất lượng phải được đặt lên hàng đầu với các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu. Để đảm bảo chất lượng theo đúng yếu cầu khách hàng, cần chú ý tới những vấn đề chủ yếu sau:
- Kiểm tra chặt chẽ chất lượng và bảo quản nguyên phụ liệu
- Tuân thủ nghiêm ngặt yêu cầu của đối tác nước ngoài, đặt gia công về chủng loại và chất lượng nguyên phụ liệu, quy trình công nghệ sản xuất, quy cách kỹ thuật, nhãn mác, bao bì đóng gói.
- Thực hiện tốt công tác kiểm tra chất lượng từng công đoạn trong quá trình sản xuất đến khâu thành phẩm cuối cùng.
- Nâng cao trình độ chuyên môn và ý thức trách nhiệm của người lao động trong quá trình sản xuất sản phẩm.
- Xây dựng và áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến (ISO 9000, ISO 14000 và SA 8000) ở các doanh nghiệp dệt may xuất khấu.
Xác định hợp lý mức độ đa dạng hoá đối tác gia công trên thị trường
Trong quan hệ giữa các đối tác gia công, cả hai bên đặt hàng gia công và bên nhận gia công đều có mối quan hệ tương tác phụ thuộc lẫn nhau, nhưng trong đó bên nhận gia công thường phụ thuộc nhiều hơn. Sự phụ thuộc thể hiện ở chỗ bên nước ngoài quy định toàn bộ nhiệm vụ sản xuất của doanh nghiệp Việt Nam từ chủng loại, sản lượng, chất lượng, thời gian giao hàng đến hệ thống định mức kinh tế- kỹ thuật sản phẩm. Việc làm, thu nhập và đời sống của người lao động cũng phụ thuộc vào nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đó là một thực tế mà các doanh nghiệp Việt Nam phải chấp nhận khi trình độ sản xuất và quản lý còn thấp kém.
Trong điều kiện đó, việc đa dạng hoá đối tác gia công và thị trường gia công mang lại những lợi ích nhất định cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam như: tăng tính chủ động cho doanh nghiệp may Việt Nam, giảm thiểu rủi ro khi đối tác nước ngoài cắt giảm hợp đồng, trong nhiều trường hợp, các doanh nghiệp không sử dụng hết công suất, việc đa dạng hóa các đối tượng gia công nước ngoài cho phép công ty sử dụng đầy đủ hơn thiết bị máy móc hiện có và tăng thêm việc làm cho người lao động.
Tuy nhiên, việc mở rộng các đối tác gia công cũng gây nên những bất lợi cho doanh nghiệp. Đó là sự phức tạp trong quản lý, tổ chức sản xuất để đồng thời thực hiện tốt nhiều đơn hàng, sự phân tán manh mún của các đơn hàng làm giảm hiệu quả của sản xuất. Bởi vậy, vấn đề là giải quyết mối quan hệ giữa đa dạng hoá và tập trung hóa đối tác nước ngoài đặt gia công cho công việc. Nói chung, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam nên hướng tới ổn định hóa đối tác nước ngoài đặt gia công. Sự ổn định này tạo nên những thuận lợi trong đàm phán và thực hiện hợp đồng gia công, đồng thời giúp các doanh nghiệp Việt Nam tranh thủ sự trợ giúp về kỹ thuật và tài chính của đối tác nước ngoài để đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ kỹ thuật sản xuất và huấn luyện lao động.
Đầu tư đổi mới công nghệ
Bên cạnh sự phát triển theo chiều rộng ( xây dựng các doanh nghiệp mới thuộc các thành phần kinh tế hoặc các trung tâm công nghiệp dệt may). Việc phát triển theo chiều sâu phải được coi là hướng chủ đạo trong dệt may Việt Nam trong tương lai. Bởi lẽ, khi ưu thế về giá nhân công rẻ đang mất dần thì trình độ công nghệ cao là yếu tố cơ bản tạo nên sức hút với đối tác nước ngoài đặt gia công và tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Định hướng chung cho đổi mới công nghệ của ngành may là: Trong khâu chuẩn bị sản xuất: Thiết kế trên máy vi tính, trang bị máy chải vải tự động và máy cắt theo chu trình, cắt bằng tia laser; trong khâu may ráp sản phẩm; trong khâu hoàn thiện sản phẩm; đầu tư các máy thùa khuyết, đính cúc tự động …
Để thực hiện có hiệu quả việc đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ trong ngành may, cần giải quyết các vấn đề trọng yếu như nâng cao chất lượng, lập và khẳng định dự án đầu tư, đa dạng hoá các nguồn vốn, nâng cao chất lượng công tác đào tạo lao động, đổi mới tổ chức quản lý sản xuất. Trong đổi mới tổ chức sản xuất, đặc biệt quan tâm đến công tác quản lý lao động. Các doanh nghiệp cần chú trọng đến đời sống của người lao động, tạo sự gắn bó của người lao động với doanh nghiệp, hạn chế tình trạng luôn chuyển lao động. Sử dụng các hình thức thích hợp để nâng cao trình độ chuyên môn cho người lao động, coi đó là cơ sở quan trọng hàng đầu để tăng năng suất lao động, tăng thu nhập cho người lao động và phát huy lợi thế về nhân công và luôn quan tâm đến việc cải thiện môi trường lao động.
Định hướng chiến lược: Chuyển dần từ CMT sang FOB
Về lâu dài, phương thức xuất khẩu trực tiếp sẽ trở thành phương thức xuất khẩu chủ yếu của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Điều quan trọng là ngay từ bây giờ phải chuẩn bị những điều kiện cần thiết để thực hiện xuất khẩu, trực tiếp một cách có hiệu quả. Những điều kiện quan trọng nhất là : Tăng lượng vốn kinh doanh, trước hết là vốn lưu động, của doanh nghiệp bằng nhiều nguồn khác nhau; tạo lập và nâng cao uy tín thương hiệu hàng may mặc Việt Nam trên thị trường quốc tế; chú trọng việc thiết kế mẫu mã hàng hoá.
Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần xác định bước đi thích hợp từ gia công xuất khẩu sang xuất khẩu trực tiếp. Tuỳ theo khả năng cụ thể của mình, doanh nghiệp dệt may có thể lựa chọn các kiểu mua nguyên liệu, xuất khẩu thành phẩm thích hợp.
Ngoài ra các doanh nghiệp may cần có sự hỗ trợ của chính phủ. Chính phủ Việt Nam cần thể hiện vai trò trong định hướng đầu tư trong phát triển sản xuất cho ngành dệt may đồng thời hoàn thiện một số chính sách như đơn giảm các thủ tục hoàn thế nhập khẩu nguyên phụ liệu, việc phân bổ quota, mở rộng tín dụng ưu đãi cho các doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ sản xuất hàng xuất khẩu.
3.2 Chính sách của chính phủ Việt Nam “ Chiến lược tăng tốc phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010”
3.2.1: Chiến lược tăng tốc phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010
Chính phủ Việt Nam đang đặt ra mục tiêu thực hiện nhanh chóng việc chuyển đổi từ xuất khẩu theo hình thức CMT sang xuất khẩu theo hình thức FOB. Lý do chính của mục tiêu này là: Hiện nay ngành dệt may phục vụ xuất khẩu của Việt Nam chỉ thực hiện gia công một khâu trong toàn bộ công đoạn của ngành, đó là công đoạn may vốn yêu cầu tập trung nhiều lao động và đòi hỏi kỹ thuật tương đối thấp, dẫn đến kết quả giá trị gia tăng trong nước thấp. Thêm nữa, trong việc xuất khẩu theo hình thức CMT, hầu hết nguyên phụ liệu đều phải dựa vào nhập khẩu. Vì vậy, chính phủ Việt Nam mong muốn xuất khẩu theo hình thức FOB để phát triển sản xuất nguyên phụ liệu cho ngành may và coi đây sẽ là một nguồn thu ngoại tệ mới. “ Chiến lược tăng tốc phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010” có 2 mục tiêu như sau:
- Đối với ngành dệt, lấy năm 2005 làm năm bản lề, đề ra mục tiêu kế hoạch sản xuất cho năm 2010 và phát triển ngành này bằng việc khuyến khích đầu tư.
- Nhanh chóng nâng cao tỷ lệ nội địa hoá thông qua phát triển ngành dệt, đồng thời xuất khẩu sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam ( xuất khẩu sản phẩm theo FOB kiểu III).
3.2.2: Khả năng nhanh chóng nâng cao giá trị gia tăng dựa vào xuất khẩu hàng xuất khẩu theo điều kiện FOB loại III.
Trong chiến lược của chính phủ, một mục tiêu lớn đối với ngành may được đề ra là “ xuất khẩu theo hình thức FOB hàng may mặc do Việt Nam thiết kế mang thương hiệu Việt Nam”. Tuy nhiên việc nâng cao giá trị gia tăng trong nước của xuất khẩu hàng may mặc và việc phát triển ngành dệt lại là hai vấn đề riêng biệt. Điều quan trọng nhất để nâng cao giá trị gia tăng của hàng may mặc là xử lý những rủi ro trong quá trình sản xuất và lưu thông của ngành dệt may. Tuy nhiên chính phủ Việt Nam lại không thể hiện điểm này trong chính sách của mình. Ngay tại các nước công nghiệp dệt may phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc, nếu không tính đến các loại quần áo với tính năng riêng như quần áo thể thao thì việc xuất khẩu theo điều kiện FOB các thương hiệu của nước mình cũng không hề thành công. Hơn nữa ngành dệt may Việt Nam hiện nay đang yếu kém trong việc phát triển một cơ chế xử lý rủi ro của sản xuất và lưu thông nên mục tiêu này là thiếu khả thi. Vậy thì ngành dệt may Việt Nam nên tập trung vào những lĩnh vực nào?
Điều tra cho thấy hiện nay ngay kể cả trong ngành có sức cạnh tranh xuất khẩu tương đói là ngành may thì khả năng sản xuất của các nhà máy may nói chung ở Việt Nam vẫn ở mức rất thấp. Theo kết quả điều tra tại nhiều nhà máy may, năng suất lao động đối với áo sơ mi trung bình là 8 chiếc/ người/ngày, tương đương từ 1/3-1/4 năng suất nhà máy may cùng loại của Nhật Bản. Kết quả điều tra cũng cho thấy có hai nguyên nhân của hiện tượng này là (1) tỉ lệ sản phẩm phải may lại cao; (2) quản lý không phù hợp với sự cân bằng của công đoạn. Khi điều tra ý kiến của các công ty thương mại có vốn đầu tư Nhật Bản, họ thường xuyên cho rằng sự hấp dẫn của Việt Nam như một nơi xuất khẩu hàng may mặc theo hình thức gia công ủy thác CMT đang giảm xuống, còn sức cạnh tranh của Trung Quốc trong lĩnh vực này tăng lên. Tuy nhiên, dù đang trong tình trạng sức sản phẩm thấp do sự yếu kém trong quản lý các công đoạn may của các nhà máy may, Việt Nam vẫn đang duy trì được sức cạnh tranh của các nước trong lĩnh vực này. Điều này cho thấy, ngành may có một tiềm năng rất to lớn, có khả năng tăng cường hơn nữa sức cạnh tranh thông qua việc nâng cao năng lực sản xuất. Tóm lại, đây là ngành còn nhiều khả năng phát triển sản xuất hơn nữa nếu giải quyết được những trở ngại trong lĩnh vực quản lý sản xuất. Thêm nữa, như đã nói ở trên, các sản phẩm mà các nhà máy may của Việt Nam có thể sản xuất hiện vẫn còn khá hạn chế. Hiện tại, các nhà máy phần nhiều sản xuất những sản phẩm loại bình dân hoặc trung bình như áo sơ mi, quần lót dài cotton, áo jacket thể thao… Với nguyên liệu là vải cotton, vải pha T/C, vải pha polyester. Việt Nam hầu như không xuất khẩu hàng hóa cao cấp cho nam giới hay quần áo nữ dùng loại vải mềm mại. Nếu tập trung phát triển ngành may thông qua năng lực sản xuất thì ở bước tiếp theo có thể thực hiện đa đạng hóa mặt hàng theo từng loại, từng giai đoạn. Nói cách khác, cần ưu tiên, thúc đẩy sự tập trung cho ngành may hiện đang có khả năng cạnh tranh xuất khẩu thông qua việc giải quyết những cản trở về mặt sản xuất.
Mặt khác, để phát triển ngành dệt vốn là ngành cung cấp nguyên vật liệu cho ngành may, nên thực hiện thông qua việc tập trung phát triển ngành may. Như đã nói ở phần trước, gia công ủy thác theo hình thức CMT đối với các doanh nghiệp may Việt nam là một hình thức sản xuất, lưu thông có nhiều điểm lợi ở chỗ các doanh nghiệp có thể nhận được các đơn đặt hàng ổn định và nâng cao được năng lực sản xuất nhờ vào việc chuyển giao kỹ thuật từ nước ngoài. Sau khi cân nhắc những lợi điểm, xuất khẩu hàng may mặc dựa vào gia công ủy thác theo hình thức CMT là hình thức sản xuất lưu thông thích hợp với Việt Nam hiện nay và việc thúc đẩy sự tập trung cho ngành may nhờ vào hình thức này là công việc quan trọng nhất trước mắt.
KẾT LUẬN
Trải qua tiến trình lịch sử hình thành và phát triển hàng nghìn năm nhất là trong 20 năm hoạt động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội, ngành công nghiệp dệt may Việt Nam luôn biết kế thừa và phát huy truyền thống để ngày càng khẳng định vai trò và những đóng góp to lớn cho sự phát triển của kinh tế đất nước. Với vị thế là một ngành kinh tế mũi nhọn, công nghiệp dệt may đã trở thành hàng xuất khẩu chủ lực, luôn chiếm những vị trí hàng đầu về kim ngạch xuất khẩu, tham gia giải quyết các vấn đề xã hội bức thiết, tạo gần 2 triệu việc làm cho người lao động, góp phần đưa tên tuổi Việt Nam cùng với các sản phẩm của mình ra năm châu bốn biển trong tiến trình hội nhập khu vực và thế giới.
Việt Nam đang gia nhập vào hệ thống thương mại tự do toàn cầu, thực hiện đầy đủ AFTA vào năm 2006 và tiến hành đàm phán để gia nhập WTO trong tương lai. Đối với ngành dệt may Việt Nam, yếu tố quyết định thành công là khả năng cạnh tranh quốc tế dựa trên lợi thế so sánh. Lợi thế so sánh của ngành dệt may Việt Nam là việc xuất khẩu hàng may mặc theo hình thức gia công ủy thác CMT. Vì vậy, trước mắt ưu tiên trong chính sách của ngành dệt may phải được đặt vào việc tập trung phát triển và tăng cường sản xuất hàng may mặc xuất khẩu theo hình thức gia công ủy thác CMT. Về lâu dài, xuất khẩu trực tiếp phải trở thành phương thức xuất khẩu chủ yếu của các doanh nghiệp may Việt Nam nhưng gia công là bước đi quan trọng để tạo lập uy tín của sản phẩm dệt may Việt Nam trên thị trường thế giới. Thông qua gia công, các doanh nghiệp may có thể học hỏi kinh nghiệm Marketting quốc tế, tổ chức quản lý sản xuất, tiếp thu công nghệ mới, từng bước đổi mới công nghệ, tích lũy nguồn tài chính, chuẩn bị các điều kiện cần thiết để thực hiện xuất khẩu trực tiếp một cách có hiệu quả. Như vậy trong những năm tới, phương thức gia công vẫn phải được tiếp tục thực hiện với các doanh nghiệp may Việt Nam và thực hiện gia công xuất khẩu phải được xem như là một bước chuẩn bị cho việc chuyển sang hình thức xuất khẩu trực tiếp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
+Giáo trình kinh tế và quản lý công nghiệp
+Giáo trình quản trị chức năng thương mại của doanh nghiệp công nghiệp
+Chính sách công nghiệp thương mại Việt Nam trước hội nhập
+Hoàn thiện chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam
+Chính sách công nghiệp cho công cuộc đổi mới.Một số kinh nghiệm của Nhật Bản
+Tổng quan về cạnh tranh công nghiệp Việt Nam
+Chiến lược tăng tốc phát triển ngành dệt Việt Nam đến năm 2010 nhằm giải quyết việc làm và nâng cao kim ngạch xuất khẩu
Tổng công ty dệt may Việt Nam
+Chiến lược công nghiệp Việt Nam nhìn nhận trong quá trình gia nhập WTO 1999 ,Dean Spinanger
+Chính sách công nghiêp của Nhật
+CNH-HĐH Việt Nam và một số nước trong khu vực
+CNH-HĐH và chiến lược phát triền công nghiệp Việt Nam đén năm 2010 tầm nhìn 2020
+Tạp chí công nghiệp
+Thời báo kinh tế
PH Ụ LỤC
Trang
Lời mở đầu 01
CHƯƠNG I:TỔNG QUAN VỀ NGÀNH DỆT MAY VÀ CÁC PHƯƠNG THỨC XUẤT KHẨU 02
1.1:Lịch sử phát triển và khái quát ngành dệt may Việt Nam hiện nay 02
1.1.1:Lịch sử phát triển của ngành dệt may Việt Nam 02
1.1.2: Khái quát về ngành dệt may Viêt Nam hiện nay. 03
1.2 Các phương thức xuất khẩu của ngành may Việt Nam 05
1.2.1 Gia công xuất khẩu (CMT) 05
1.2.2Xuất khẩu trực tiếp (FOB) 07
CHƯƠNG II:THỰC TRẠNG PHƯƠNG THỨC XUẤT KHẨU CỦA NGÀNH MAY VIỆT NAM 09
2.1 Thực trạng về sức cạnh tranh ngành may Việt Nam 09
2.2 Tình hình xuất khẩu trong những năm gần đây 13
2.2.1 Xuất khẩu là đầu ra chính cho sản phẩm dệt may Việt Nam 13
2.2.2 EU-Th ị trường chiến lược quan trọng hàng đầu 14
2.2.3: Thị trường Mỹ- cơ hội mới, thách thức lớn 15
2.3 Tình hình thực hiện phương thức gia công xuất khẩu của các doanh nghiệp may Việt Nam 17
2.3.1: Tình hình thực hiện phương thức gia công xuất khẩu trong ngành may Việt Nam 19
2.3.2: Những nhận định khái quát về những đóng góp và hạn chế của gia công xuất khẩu hàng may mặc 21
2.3.2.1: Những đóng góp của gia công xuất khẩu hàng may mặc 21
2.3.2.2: Những hạn chế cơ bản ảnh hưởng tới hiệu quả thực hiện gia công xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam 22
CHƯƠNG III:GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHƯƠNG THỨC XUẤT KHẨU CHO NGÀNH MAY VIỆT NAM 25
3.1 Giải pháp cho các doanh nghiệp may nhận gia công xuất khẩu 25
3.2 Chính sách của chính phủ Việt Nam “ Chiến lược tăng tốc 28 phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010”
3.2.1: Chiến lược tăng tốc phát triển ngành dệt may 28 Việt Nam đến năm 2010
3.2.2: Khả năng nhanh chóng nâng cao giá trị gia tăng dựa vào 29 xuất khẩu hàng xuất khẩu theo điều kiện FOB loại III.
KẾT LUẬN 31
TÀI LIỆU THAM KHẢO 32
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28120.doc