Trung tâm giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh cùng với TTCK Việt Nam đã đi vào hoạt động được gần 2 năm. Chúng ta đã có một kênh huy động vốn để phục vụ đắc lực cho công cuộc Công nghiệp hóa-Hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, ngoài vấn đề là làm sao cho TTCK Việt Nam vượt qua được những thử thách ban đầu để hoạt động có hiệu quả thì vấn đề tìm ra những giải pháp hữu hiệu cho TTCK chúng ta hoàn thiện và phát triển hơn nữa trong quá trình hội nhập kinh tế còn mang ý nghĩa to lớn hơn. Vì điều này tác động trực tiếp đến sự tăng trưởng mang tính lâu dài của nền kinh tế Việt Nam nói chung và của TTCK Việt Nam nói riêng.
Mặc dù TTCK Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn về cơ sở vật chất cũng như về công tác quản lý điều hành trước quá trình hội nhập kinh tế: diễn biến về cung-cầu hàng hóa, giá cả còn bất thường, cung thì thiếu, cầu thì không ổn định, dẫn đến giá cả cũng thay đổi không ổn định theo; hành lang pháp lý còn thiếu sót, bất cập, không đồng bộ; chưa có các nhà tạo lập thị trường thực sự; hoạt động thị trường còn mang tính sơ khai; tóm lại chưa có những tiền đề đáng kể cho việc hội nhập, nhưng với sự nghiên cứu, phân tích sâu sắc về những nguyên nhân gây ra tình trạng trên thì chúng ta hoàn toàn có thể đề ra những giải pháp thiết thực để hoàn thiện và phát triển thể chế thị trường bậc cao này nhằm phục vụ đắc lực cho quá trình hội nhập kinh tế, và sau đó là quá trình hội nhập TTCK.
88 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1566 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp hoàn thiện và hoàn thiện thị trường chứng khoán Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tư mới mẻ này.
Vì vậy để khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các tầng lớp dân cư hiểu về CK & TTCK, Nhà nước cần thực hiện các biện pháp kích cầu đầu tư CK sau:
3.3.4.1. Phát triển kinh tế, tăng thu nhập cho dân cư.
Đây là một giải pháp tổng quát ở tầm vĩ mô. Nó được thể hiện ở sự biến đổi chung của bộ mặt đất nước thể hiện ở cơ sở hạ tầng phát triển, tỷ trọng công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ trong GDP, thu nhập GDP trên đầu người. Ngoài ra, nó còn được thể hiện ở cuộc sống hàng ngày của dân cư qua mức chi tiêu cao hay thấp. Rõ ràng khi các chỉ số này càng cao nó thể hiện thu nhập dân cư cao, người dân có nhu cầu tiết kiệm và đầu tư.
Để phát triển kinh tế, Nhà nước cần có các chương trình, kế hoạch cụ thể 5, 10, 20 năm. Đồng thời qua từng giai đoạn lại cần có các chính sách cụ thể để điều hòa nền kinh tế, giữ nhịp độ tăng trưởng. Trên cơ sở mục tiêu tổng quát chung của nền kinh tế, ở mỗi vùng, mỗi địa phương cần xây dựng những chiến lược riêng nhằm phát huy thế mạnh của vùng, phát triển kinh tế địa phương nâng cao đời sống dân cư. Bên cạnh đó, Nhà nước cần tăng cường hơn nữa các chương trình xóa đói giảm nghèo, phối hợp giữa các vùng trong phát triển kinh tế, tạo sự phát triển cân đối và mạnh mẽ cho nền kinh tế.
3.3.4.2. Tạo điều kiện cho các tầng lớp dân cư có thu nhập thấp và trung bình có thể mua bán Chứng Khoán.
Mục tiêu của chương trình này là hỗ trợ về mặt tài chính để người lao động mua ngay cổ phiếu tại doanh nghiệp mà mình đã và đang gắn bó nhằm tạo điều kiện cho người lao động làm chủ doanh nghiệp, mở rộng đối tượng đầu tư, hạn chế nạn đầu cơ, lũng đoạn thị trường và tăng tính linh hoạt của thị trường. Để đạt được mục tiêu này, có thể áp dụng các hình thức hỗ trợ tài chính cho công nhân như sau:
- Cho phép các DNNN bán cổ phần đã phát hành trước đây và cổ phần mới phát hành theo giá chiết khấu cho công nhân nghèo.
- Thành lập quỹ tín thác CK của công nhân và phân phối cổ phiếu quỹ này (theo giá thị trường hoặc giá CK) cho công nhân có mức thu nhập trung bình và thấp.
- Cho công nhân vay tiền với lãi suất ưu đãi để mua cổ phiếu do doanh nghiệp phát hành và trả dần tiền vay trong vòng từ 3 - 7 năm.
- Cho phép các doanh nghiệp Nhà nước trích lợi nhuận trước thuế để mua cổ phiếu sau đó phân phối lại cho công nhân.
3.3.4.3. Tuyên truyền, phổ cập, giáo dục về Chứng khoán và TTCK .
Để khắc phục tình trạng không hiểu biết về CK & TTCK thì không còn con đường nào khác là phải tuyên truyền qua các phương tiện thông tin đại chúng như báo đài, vô tuyến truyền hình, thực hiện việc tuyên truyền đến tận khu phố, cụm dân cư. Để xây dựng TTCK cần phải đào tạo đội ngũ cán bộ qua các trường Đại học , đào tạo dài hạn, mở các lớp ngắn hạn dưới hình thức cấp chứng chỉ cho những người không có nhu cầu tìm hiểu sâu về TTCK, đưa việc giới thiệu về TTCK vào các cấp học phổ thông, từng bước hình thành một nền văn hóa chứng khoán cho công chúng.
3.3.4.4. Tăng tính hấp dẫn của hình thức đầu tư vào chứng khoán.
Cần phải tăng khối lượng CK và đa dạng hóa các loại hình doanh nghiệp thuộc nhiều ngành, lĩnh vực khác nhau tham gia cung ứng CK, đáp ứng nhu cầu đa dạng của nhà đầu tư. Chất lượng chứng khoán cần phải được không ngừng cải thiện: nâng cao mức sinh lời và khả năng lưu chuyển của CK & TTCK bằng cách mạnh dạn CPH những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, quy mô vốn lớn, các doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh trong những ngành nghề có khả năng phát triển như: hàng không, bưu điện, điện lực, ngân hàng...chứ không phải chỉ cổ phần hóa những DNNN làm ăn yếu kém, thua lỗ hoặc làm ăn có hiệu quả nhưng quy mô nhỏ như hiện nay. Chừng nào trên TTCK hiện diện các CK của doanh nghiệp mạnh thuộc các ngành kinh tế mũi nhọn của Việt Nam thì chừng đó TTCK mới trở thành "phong vũ biểu" để đo tình trạng sức khỏe của nền kinh tế.
3.3.5. Nâng cao vai trò của tổ chức tài chính trung gian trên Thị trường chứng khoán.
3.3.5.1. Về sự tham gia hoạt động của các tổ chức tài chính trung gian.
Hiện nay, các loại hình trung gian tài chính tham gia trên thị trường tài chính Việt Nam gồm có: các NHTM, các công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư (quỹ đầu tư bao gồm có 3 loại hình: các quỹ hỗ trợ phát triển ở địa phương, các quỹ đầu tư mạo hiểm, các quỹ đầu tư chứng khoán, trong đó, ở Việt Nam chỉ tồn tại 2 loại hình quỹ đầu tư đầu tiên), các công ty Chứng khoán và các công ty tài chính. Các trung gian tài chính ngày càng phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng. Đến nay, Việt Nam đã có 6 ngân hàng thương mại Quốc doanh, 48 ngân hàng thương mại cổ phần, 8 công ty cho thuê tài chính, 5 công ty tài chính, 1 quỹ tín dụng trung ương, 21 quỹ tín dụng khu vực 960 quỹ tín dụng nhân dân cơ sở, 23 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 4 ngân hàng liên doanh với nước ngoài, 11 công ty bảo hiểm, 8 công ty chứng khoán, 5 quỹ đầu tư phát triển v.v...
Tuy nhiên nếu xét về sự tham gia hoạt động trên thị trường tài chính nói chung và TTCK nói riêng thì hoạt động của các trung gian tài chính là còn khá hạn chế. Cụ thể là:
+Thứ nhất, tiềm lực tài chính thấp dẫn đến quy mô hoạt động nhỏ bé, và thu thập không cao. Quy mô vốn chủ sở hữu của các trung gian tài chính còn quá nhỏ bé. Các NHTM Quốc doanh có quy mô vốn chủ sở hữu lớn nhất, song lại phân tán ở hệ thống các chi nhánh tri khắp các địa phương. Mặt khác, do yếu kém trong quản trị điều hành, lượng vốn khả dụng cho đầu tư chứng khoán thấp. Tình trạng nợ xấu, nợ tồn đọng cũng là nguyên nhân làm giảm tiềm lực tài chính của các trung gian tài chính.
+Thứ hai, hoạt động còn đơn điệu. Do ảnh hưởng nặng nề của cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp, các trung gian tài chính Việt Nam chủ yếu tập trung hoạt động trên thị trường truyền thống và rủi ro trong hoạt động là rất cao. Tính chủ động trong việc tìm kiếm và triển khai các hoạt động mới yếu, hoạt động thiếu năng động, trông chờ vào sự chỉ đạo, định hướng của cấp trên. Hệ thống quản lý của các trung gian tài chính còn yếu kém, trình độ, năng lực cán bộ còn nhiều hạn chế, quy chế chỉ đạo giám sát và kiểm soát hoạt động còn chồng chéo, nặng về hành chính gây ảnh hưởng lớn đến tính tự chủ của các chi nhánh.
+ Thứ ba, năng lực cạnh tranh ở mức thấp. Các trung gian tài chính Việt Nam có năng lực cạnh tranh thấp, chưa xây dựng được nét đẹp văn hóa trong kinh doanh. Phong cách phục vụ kém, chất lượng cán bộ chưa cao, tổ chức và điều hành chưa hoàn thiện, công nghệ thấp là các nguyên nhân làm giảm năng lực cạnh tranh của các trung gian tài chính Việt Nam.
+Thứ tư, loại hình trung gian tài chính chưa phong phú. Việt Nam chưa có loại hình quỹ đầu tư chứng khoán và công ty quản lý quỹ. Hiện chỉ có quỹ đầu tư nước ngoài và quỹ đầu tư phát triển đang hoạt động trên thị trường Việt Nam, song các quỹ đầu tư phát triển gần như chưa có các hoạt động trên TTCK .
Sở dĩ Việt Nam chưa có loại hình quỹ đầu tư chứng khoán và công ty quản lý quỹ là do, một phần do TTCK chưa phát triển, thiếu hàng hóa để hình thành đa dạng các danh mục đầu tư. Mặt khác, hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, việc định hướng mô hình quỹ đầu tư chứng khoán và công ty quản lý quỹ chưa hợp lý. Việc xác định đúng mô hình tổ chức và hoạt động, từ đó có các giải pháp phát triển hữu hiệu là yêu cầu cấp thiết để phát triển loại hình trung gian tài chính này ở Việt Nam.
Các trung gian tài chính nước ngoài ở Việt Nam chưa phát triển vì thị trường Việt Nam mới được mở cửa và chưa hẳn là hấp dẫn đối với trung gian tài chính nước ngoài. Hơn nữa, các hạn chế do Chính Phủ đặt ra, tính phức tạp trong các thủ tục hành chính cũng ngăn cản việc thành lập các trung gian tài chính nước ngoài và hoạt động của các tổ chức này tại Việt Nam.
Từ những hạn chế trong sự tham gia hoạt động của các trung gian tài chính trên TTCK , chúng tôi xin đề ra một số giải pháp sau:
*Đa dạng hóa loại hình trung gian tài chính nhằm tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh trên thị trường tài chính quốc gia
Mục tiêu của giải pháp là phát triển hệ thống các NHTM theo hướng các ngân hàng đa năng đồng thời phát triển đa dạng các loại hình trung gian tài chính như: các Công ty tài chính đa ngành và chuyên ngành; Công ty thuê mua chuyên ngành và đa ngành; quỹ đầu tư; công ty quản lý quỹ; Công ty Bảo hiểm chuyên ngành và đa ngành; Công ty chứng khoán .v.v.
Để thực hiện giải pháp này, Chính Phủ cần nghiên cứu, thiết lập các dự án đầu tư thành lập các doanh nghiệp trung gian tài chính, thiết kế và triển khai chương trình tiếp thị đầu tư, từ đó có chính sách vận động các doanh nghiệp và công chúng đầu tư tham gia góp vốn dưới hình thức cổ phần.
Cần nghiên cứu cổ phần hóa các trung gian tài chính Nhà nước để thu hút các thành viên trong xã hội góp vốn cùng với Nhà nước để phát triển loại hình doanh nghiệp này. Cần đặc biệt quan tâm phát triển loại hình công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm, ngân hàng, các quỹ đầu tư bởi đây là loại hình trung gian đầu tư chủ yếu trên TTCK .
*Chuyển mô hình hoạt động của quỹ hỗ trợ phát triển sang hoạt động theo mô hình quỹ đầu tư mạo hiểm Nhà Nước.
Quỹ đầu tư chứng khoán là một trung gian đầu tư mà nguồn vốn được tập trung từ nhiều tổ chức và cá nhân các nhà đầu tư, được quản lý chuyên nghiệp và vốn được sử dụng đầu tư vào một tập hợp các chứng khoán của các công ty và tổ chức vì mục đích sinh lời. Với lợi thế nhờ chuyên môn hóa trong hoạt động đầu tư chứng khoán, lợi thế tiết kiệm nhờ quy mô, lợi thế về đa dạng hóa đầu tư, quỹ đầu tư chứng khoán là hình thức đầu tư phổ biến trong nền kinh tế thị trường
Việc chuyển quỹ đầu tư phát triển thành quỹ đầu tư mạo hiểm Nhà nước có huy động sự tham gia của các nhà đầu tư có tổ chức sẽ làm tăng hiệu quả hoạt động của quỹ. Toàn bộ lợi nhuận từ nguồn vốn Ngân sách sẽ được giữ lại tái đầu tư, tăng vốn điều lệ của quỹ. Việc chuyển đổi mô hình này cũng có thể áp dụng đối với các quỹ hỗ trợ phát triển địa phương.
Hiện nay, các quỹ đầu tư nước ngoài hoạt động có hiệu quả cho thấy một dấu hiệu, nếu Việt Nam không phát triển mô hình quỹ đầu tư này thì trong tương lai không xa, các ngành công nghệ cao, các khu vực tăng trưởng cao sẽ nằm trong tay của các tổ chức và cá nhân nước ngoài.
*Hình thành và phát triển các quỹ đầu tư chứng khoán
Việc hình thành và phát triển quỹ đầu tư chứng khoán là một nhu cầu bức xúc đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, Việt Nam hiện nay mới chỉ công nhận loại hình quỹ đầu tư tín thác. Để phát triển mô hình này, cần hội đủ các điều kiện: Sự phát triển của TTCK ; hệ thống pháp luật đồng bộ; hệ thống thông tin hoàn hảo; hệ thống giám sát chặt chẽ; đặc biệt, là sự phát triển cao của các trung gian tài chính và lòng tin vững chắc của công chúng đối với các tổ chức này. Tất cả các điều kiện này đều chưa hội đủ ở TTCK Việt Nam.
Theo chúng tôi, ở Việt Nam, cần phát triển cả mô hình quỹ đầu tư có quản lý với các lý do sau:
Thứ nhất, Quỹ đầu tư có quản lý được hình thành và quản lý như một công ty cổ phần, do đó, các nhà đầu tư nắm giữ cổ phiếu của quỹ có đầy đủ các quyền và lợi ích như các cổ đông trong các công ty cổ phần. Với kiến thức còn thấp của các nhà đầu tư Việt Nam, lòng tin đối với các trung gian tài chính chưa cao thì mô hình công ty sẽ có lợi thế cao hơn so với mô hình tín thác, do các nhà đầu tư được hưởng những quyền can thiệp nhất định vào hoạt động của quỹ.
Thứ hai, hiện nay đã có một số "quỹ đầu tư tư nhân" được thành lập bởi một nhóm các nhà đầu tư và được giao cho một số cá nhân phụ trách. Hoạt động này có tính chất tự phát nên chất lượng đầu tư không cao và tạo nên những rủi ro cho các nhà đầu tư. Quy mô của các "quỹ đầu tư tư nhân" không lớn, cộng với lượng hàng hóa trên thị trường chính thức còn thấp nên khả năng đa dạng hóa đầu tư không cao. Các quỹ này chủ yếu đầu tư vào các cổ phiếu của các công ty niêm yết và các công ty có tin đồn chuẩn bị niêm yết.
Đây chính là dấu hiệu cho thấy, công chúng đầu tư Việt Nam có ý thức đầu tư cao và đã biết chung sức để hoạt động đầu tư có hiệu quả hơn. Các nhà quản lý thị trường cần biết khai thác yếu tố này để phát triển thị trường.
*Hình thành và phát triển các công ty quản lý quỹ
Một vấn đề quan trọng, quyết định trong việc phát triển quỹ đầu tư là hình thành và phát triển công ty quản lý quỹ. Theo quy chế về tổ chức và hoạt động của quỹ đầu tư chứng khoán và công ty quản lý quỹ, ban hành kèm theo quyết định 05/1998/QĐ-UBCK3 của Chủ tịch ủy ban Chứng khoán Nhà Nước, công ty quản lý quỹ phải là công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn đáp ứng các yêu cầu của ủy ban chứng khoán Nhà nước về vốn, về đội ngũ nhân viên, quản lý, về cơ sở vật chất, kỹ thuật, và phải được ủy ban Chứng khoán Nhà nước cấp giấy phép. Tuy nhiên các quy định này còn chưa được đầy đủ và chuẩn xác.
Việt Nam hiện nay chưa có công ty quản lý quỹ và thiếu đội ngũ chuyên gia trong lĩnh vực quản lý quỹ đầu tư. Để nhanh chóng phát triển loại hình quỹ đầu tư, tận dụng lợi thế hiện có của các trung gian tài chính, theo tôi, cần khuyến khích các trung gian tài chính phát triển hoạt động quản lý quỹ đầu tư. Trước hết, có thể cho phép các trung gian tài chính Nhà nước tham gia hoạt động quản lý quỹ đầu tư với các Quỹ đầu tư mạo hiểm Nhà nước và Quỹ đầu tư hình thành từ chứng khoán hóa cổ phiếu của Chính Phủ.
3.3.5.2. Về sự tham gia của các tổ chức tài chính trung gian nước ngoài trên Thị trường chứng khoán Việt Nam
Theo kết quả cuộc điều tra do chúng tôi tiến hành đối với các nhà đầu tư trên TTCK Việt Nam, 92,61% nhà đầu tư được hỏi cho rằng nên cho phép sự tham gia của các trung gian tài chính có yếu tố nước ngoài trên TTCK Việt Nam. Qua sự phân tích, chúng tôi cũng thấy rằng cần thiết phải có sự tham gia này. Đây là một bước tiến hết sức quan trọng trong quá trình từng bước hội nhập quốc tế của TTCK Việt Nam. Hiện nay, đã có các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài và các ngân hàng liên doanh hoạt động tại Việt Nam, tuy nhiên,vẫn chưa có sự tham gia của những trung gian tài chính có yếu tố nước ngoài này trên TTCK Việt Nam. Chúng ta cần có biện pháp khuyến khích sự tham gia của các tổ chức tài chính nước ngoài trên TTCK Việt Nam. Thời gian qua, nhiều tổ chức tài chính nước ngoài như các các công ty bảo hiểm, các ngân hàng liên doanh và ngân hàng nước ngoài đã hoạt động có hiệu quả tại Việt Nam. Tuy nhiên, các tổ chức này đang bị những phân biệt đối xử và những rào cản hạn chế hoạt động trên thị trường Việt Nam. Thu hút các tổ chức này tham gia thị trường sẽ góp phần phát triển TTCK Việt Nam vì đầu tư chứng khoán được xem là một thế mạnh của các trung gian tài chính nước ngoài.
Trong thanh toán chứng khoán, chỉ có một ngân hàng được chỉ định thanh toán cho việc mua bán chứng khoán là Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Mặt khác, các ngân hàng thương mại không được kinh doanh chứng khoán, muốn kinh doanh chứng khoán, các Ngân hàng phải thành lập các công ty chứng khoán và trên thực tế, chưa có công ty chứng khoán thuộc chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh nào được thành lập.
Như vậy, theo chúng tôi, để thúc đẩy sự tham gia của các trung gian tài chính nước ngoài trên TTCK Việt Nam, cần phải có các giải pháp sau:
Thứ nhất, cần phải có các thay đổi về hành lang pháp lý cho phù hợp, lược bỏ bớt các điều khoản gây cản trở việc tham gia hoạt động của các tổ chức này trên thị trường tài chính Việt Nam. Cũng cần phải tạo điều kiện để các tổ chức này được quyền cạnh tranh bình đẳng, không bị đối xử bất công, đặc biệt là trong chính sách thuế. Chính sách thuế cần phải được xây dựng và thi hành sao cho vừa bảo vệ được các trung gian tài chính trong nước, vừa khuyến khích được trung gian tài chính nước ngoài. Theo chúng tôi, nên giảm thuế thu nhập cho các trung gian tài chính nước ngoài mới đi vào hoạt động tại Việt Nam trong 2 năm đầu tiên, để họ có thể có được động lực tiếp tục tham gia nhiều hơn nữa vào Thị trường tài chính Việt Nam.
Thứ hai, từng bước mở rộng phạm vi những ngân hàng được thực hiện thanh toán cho hoạt động mua bán, không chỉ giới hạn trong những ngân hàng quốc doanh mà còn phải mở rộng đến những ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh. Thực hiện giải pháp này, một mặt, chúng ta tận dụng được công nghệ thanh toán hiện đại của các ngân hàng nước ngoài, điều mà các ngân hàng thương mại quốc doanh còn thiếu, mặt khác, chúng ta đã tạo điều kiện để các ngân hàng này được cạnh tranh lành mạnh trong hoạt động thanh toán và qua đó tìm kiếm một phần lợi nhuận thông qua hoạt động thanh toán.
Thứ ba, Cho phép các công ty chứng khoán nước ngoài được thực hiện tất cả các nghiệp vụ như môi giới, tư vấn, bảo lãnh phát hành, tự doanh, quản lý danh mục đầu tư. Việc thực hiện các nghiệp vụ cũng phải được đối xử bình đẳng, không phân biệt là công ty chứng khoán trong nước hay nước ngoài.
Thứ tư, cho phép các quỹ đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các quỹ đầu tư chứng khoán được phép hoạt động trên TTCK Việt Nam. Điều này giúp kích cầu chứng khoán, vì các quỹ đầu tư chứng khoán khi đi vào hoạt động, nó sẽ đầu tư vào chứng khoán, nó sẽ mua, bán chứng khoán để tìm kiếm lợi nhuận và làm cho nhu cầu về chứng khoán tăng lên. Kích cầu là một trong những biện pháp nhằm tăng khối lượng giao dịch chứng khoán. Điều đó sẽ thúc đẩy sự phát triển của TTCK Việt Nam, đặc biệt là trong bối cảnh mà nhu cầu về chứng khoán ở các nhà đầu tư Việt Nam còn tương đối thất thường.
3.3.6. Mở rộng sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài
Khi tiến hành điều tra đối với các nhà đầu tư trên TTCK Việt Nam về nhận xét của họ đối với số lượng nhà đầu tư nước ngoài tham gia trên TTCK Việt Nam, 100% trong số họ trả lời rằng có quá ít các nhà đầu tư nước ngoài tham gia trên TTCK Việt Nam, và họ cũng cho rằng nên có một quy định rộng rãi hơn cho phép sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài trên TTCK Việt Nam.
Tuy nhiên, khi đặt ra vấn đề khuyến khích sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài, nhiều nhà quản lý cũng như các công ty có cổ phiếu niêm yết lo lắng về nguy cơ thôn tính của các nhà đầu tư nước ngoài. Những lo lắng này là không thừa vì thực tế đã có nhiều vụ thôn tính lẫn nhau thông qua TTCK . Song đối với Việt Nam hiện nay, theo Quyết định số 139/1999/QĐ- TTg thì một số tổ chức nước ngoài nắm giữ tối đa 7% số cổ phiếu của một công ty, và các cá nhân nước ngoài năm giữ tối đa 3%, tổng số cổ phiếu nước ngoài nắm giữ tối đa 20%. Với quy định như vậy thì việc thôn tính khó có thể xảy ra. Hơn nữa, với TTCK còn non trẻ như ở Việt Nam, sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài là rất cần thiết và cần được khuyến khích.
Sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài với số lượng càng tăng sẽ tạo tâm lý an tâm cho nhà đầu tư trong nước, không những thế nhà đầu tư nước ngoài có kinh nghiệm trình độ trong phân tích chứng khoán, dự đoán xu hướng biến động của giá cả trên cơ sở đó ra quyết định đầu tư chứ không dựa vào những thông tin không chính thức của thị trường từ đó giảm tình trạng "ăn theo" hiện nay trên thị trường chứng khoán Việt Nam . Sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài cũng tạo ra sức hút lôi kéo thêm nhà đầu tư trong nước tham gia vào thị trường.
Không những vậy, nhà đầu tư nước ngoài với khả năng về vốn, họ sẽ trở thành nhà đầu tư dài hạn, chứ không phải là nhà đầu tư ngắn hạn như phần lớn các nhà đầu tư trong nước hiện nay, sẽ góp phần ổn định cho thị trường.
Để thực hiện điều này , trong thời gian tới UBCKNN nên cho phép các nhà đầu tư nước ngoài lưu kí chứng khoán tại các CTCK hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam.Đồng thời Chính phủ nên mở rộng các ngành nghề được phép bán CK cho nhà đầu tư nước ngoài lên khoảng từ 50 đến 55 ngành,lĩnh vực đặc biệt là các ngành mà Nhà nước không nhất thiết phải nắm 100% vốn.Chúng ta cũng nên lập danh sách các lĩnh vực, ngành nghề được phép ưu tiên bán CK cho nhà đầu tư nước ngoài để tranh thủ khoa học, công nghệ, vốn, trình độ quản lý...
3.3.7.Cho phép các công ty trong và ngoài nước niêm yết chéo.
TTCK Việt Nam đang thiếu cung hàng hóa, tính đến 31/5/2002 mới chỉ có 17 loại cổ phiếu và 7 loại trái phiếu, để tăng cung, một giải pháp có thể thực hiện là cho phép các công ty nước ngoài niêm yết CK trên TTGDCK HCM. Điều đó làm tăng thêm số lượng và chủng loại CK, nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của nhà đầu tư.
Với sự tham gia niêm yết của các công ty nước ngoài làm ăn có hiệu quả sẽ tạo được môi trường đầu tư tốt với những hàng hóa có chất lượng. Các công ty trong nước muốn tăng độ hấp dẫn của CK cạnh tranh với CK của các công ty nước ngoài sẽ phải không ngừng đổi mới về cơ cấu quản lý, chiến lược kinh doanh mang lại doanh thu lớn cho công ty. Như vậy các công ty nước ngoài tạo động lực cho sự phát triển của các công ty trong nước.
UBCK NN phải xúc tiến hợp tác với UBCK các nước trong việc thiết lập các quy chế về niêm yết chéo , khi có các quy chế cho phép niêm yết chéo thì các công ty trong nước cũng có thể tham gia niêm yết trên các TTCK nước ngoài. Các công ty trong nước có điều kiện tiếp xúc với một lượng vốn lớn trên thị trường thế giới đó là cơ hội tốt cho các công ty trong nước thỏa mãn nhu cầu về vốn, qua đó làm giảm gánh nặng về nhu cầu vốn đầu tư trong nước. Không những thế, sự tham gia thị trường thế giới là những trải nghiệm rất hữu ích cho các công ty thay đổi cách nhìn và tư tưởng kinh doanh, từng bước phá vỡ dần lối làm ăn bao cấp XHCN đang còn tồn tại khá nặng nề trong các doanh nghiệp.
Tóm lại, việc cho phép nhà đầu tư và các công ty nước ngoài tham gia TTCK Việt Nam là điều cần thiết. Tuy nhiên mọi vấn đề đều có hai mặt đòi hỏi UBCK NN và BTC cần có những quy định phù hợp vừa có tác dụng phát huy hiệu quả của yếu tố nước ngoài đồng thời cũng đảm bảo an toàn cho sự phát triển bền vững của TTCK Việt Nam.Theo chúng tôi , trong thời gian tới UBCKNN nên xây dựng lộ trình cụ thể cho việc phát hành và niêm yết chéo trên TTCK các nước.
3.3.8. Nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa
Trong quá trình hoàn thiện và phát triển TTCK chúng ta đều nhận thấy quan điểm giữ vững độc lập và định hướng XHCN là quan điểm chủ đạo, quyết định sự phát triển và hội nhập TTCK. Mà nhân tố quyết định, đảm bảo giữ vững định hướng XHCN là vai trò quản lý của Nhà nước trên TTCK. Vì vậy, theo chúng tôi, trong thời gian tới chúng ta có thể áp dụng các biện pháp sau đây để tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước.
3.3.8.1. Nâng cao hiệu quả hoạt động công tác kế hoạch hóa
Hoạt động quản lý của Nhà nước phải đảm bảo sự kết hợp đúng đắn giữ kế hoạch và thị trường, đây chỉ là yêu cầu đối với các nước đang phát triển như Việt Nam mà còn là yêu cầu, nhiệm vụ của các nước Tư bản phát triển.
Trên TTCK, công tác kế hoạch hóa của Nhà nước thể hiện ở các hoạt động: kế hoạch hóa số lượng, chủng loại, tổng giá trị trái phiếu Chính phủ phát hành và giao dịch trên thị trường, kế hoạch hóa các nguồn vốn huy động trong và ngoài nước trên TTCK, kế hoạch hóa số lượng công ty thuộc các ngành khác nhau được tham gia niêm yết CK trên TTCK...
Chính nhờ công tác kế hoạch hóa các hoạt động trên TTCK mà đảm bảo các hoạt động trên TTCK phục vụ một cách hiệu quả nhất cho các chính sách, chiến lược phát triển. Công tác kế hoạch hóa được gắn với thị trường sẽ đảm bảo cho TTCK trong tiến trình hội nhập tránh được sự thao túng từ bên ngoài, đảm bảo sự phát triển của TTCK nằm trong xu hướng chung của đất nước: phát triển độc lập theo định hướng XHCN.
3.3.8.2. Nhà nước phải nâng cao vai trò định hướng cho sự phát triển của TTCK .
Hiện nay trên thế giới không có nước nào để mặc cho TTCK phát triển một cách tự phát mà đều có sự quản lý, giám sát chặt chẽ và định hướng nhằm làm cho sự phát triển của TTCK phù hợp với đường lối phát triển của mỗi quốc gia. Để phát triển và hội nhập TTCK thành công chúng ta cũng không thể để TTCK Việt Nam phát triển một cách tự phát. Để thực hiện điều này thì chúng ta không chỉ sử dụng các biện pháp can thiệp mang tính hành chính trực tiếp mà cùng với sự hoàn thiện và phát triển của TTCK, chúng ta phải đi tới xóa bỏ các biện pháp hành chính, thay vào đó là các biện pháp mang tính gián tiếp, mang tính định hướng cho sự phát triển của thị trường.
Để có thể định hướng sự phát triển của TTCK một cách sát thực thì yêu cầu đặt ra là chúng ta phải dự tính được những biến động mạnh, mang tính hệ thống và toàn diện có thể xảy ra đối với TTCK, từ đó để có được những giải pháp cụ thể giúp điều chỉnh hoạt động của TTCK theo hướng giảm thiểu và khắc phục những biến động đó. Vấn đề này đặc biệt quan trọng khi chúng ta bước vào tiến trình hội nhập TTCK. Khi bước vào TTCK quốc tế, TTCK non trẻ của Việt Nam sẽ phải đương đầu với rất nhiều thử thách, biến động mạnh từ thị trường quốc tế gây ảnh hưởng xấu tới hoạt động trên TTCK. Vì vậy để phát triển và hội nhập TTCK có hiệu quả thì việc định hướng phát triển TTCK phải bắt đầu từ việc xây dựng mô hình hoạt động phù hợp cho TTCK. Điều này đòi hỏi chúng ta trong thời gian tới phải hoàn thiện hoạt động của TTGDCK Tp HCM, thành lập TTGDCK tại Hà Nội rồi trên cơ sở hai TTGD này hình thành Sở GDCK và một thị trường phi tập trung hiện đại theo yêu cầu phát triển của TTCK quốc tế.
3.4. Các kiến nghị nhằm hoàn thiện và phát triển TTCK Việt Nam trong tiến trình hội nhập khu vực và thế giới.
Để phát triển và hội nhập thành công TTCK thì theo chúng tôi ngoài những giải pháp cụ thể ở trên thì có một số ý kiến đề xuất xuất phát từ thực tiễn hoạt động của TTCK Việt Nam như sau:
3.4.1. Đối với Chính phủ:
3.4.1.1. Xác định rõ mô hình hoạt động của Uỷ ban chứng khoán nhà nước.
Theo đánh giá của chúng tôi và cũng như của nhiều chuyên gia khác thì UBCKNN là một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy sự ra đời và phát triển của TTCK Việt Nam.
Ngày 28/11/1996, CP đã ra Nghị định số 75/CP về việc thành lập UBCKNN, đây là một trong những bước đi đầu tiên của Chính Phủ trong việc tổ chức và quản lý TTCK ở nước ta. UBCKNN ra đời đã tạo những điều kiện cơ bản, nền tảng vững chắc đảm bảo cho TTCK ra đời và hoạt động suôn sẻ. Trong thời gian hoạt động của mình, UBCKNN luôn thể hiện vai trò, vị trí hết sức quan trọng, giúp tham mưu cho Chính Phủ về đường lối, chủ trương và chính sách phát triển thị trường, nâng cao khả năng quản lý Nhà nước, giám sát việc tuân thủ pháp luật của các tổ chức, cá nhân tham gia thị trường.
Nhưng hiện nay, trên các diễn đàn CK &TTCK có sự xuất hiện quan điểm cho rằng nên để UBCKNN chịu sự quản lý của Bộ Tài chính để có điều kiện kết hợp giữa công tác CPH DNNN và hoạt động của TTCK. Hình thức tổ chức này sẽ làm cho công tác CPH DNNN và hoạt động của TTCK có điều kiện thúc đẩy lẫn nhau. ý kiến này đang có được rất nhiều sự ủng hộ, nhất là khi mà hiện nay, quá trình CPH DNNN của chúng ta được tiến hành rất chậm chạp, các doanh nghiệp sau khi được CPH lại chưa muốn phát hành và niêm yết cổ phiếu trên TTCK.
Xem xét quan điểm này và từ thực tiễn đòi hỏi của TTCK Việt Nam, chúng tôi nhận thấy rằng: Để có thể phát triển và hội nhập TTCK thì trong thời gian tới Chính phủ phải có ý kiến rõ ràng về vấn đề mô hình hoạt động của UBCK. Theo chúng tôi, UBCKNN vẫn phải là một cơ quan thuộc Chính Phủ thực hiện các chức năng tổ chức và quản lý Nhà nước về CK & TTCK với mục tiêu chính là tạo môi trường thuận lợi cho việc phát hành và kinh doanh CK, nhằm khuyến khích việc huy động các nguồn vốn dài hạn trong và ngoài nước, đảm bảo cho TTCK hoạt động có tổ chức, an toàn, công khai, công bằng và hiệu quả, bảo vệ quyền hợp pháp của nhà đầu tư. Theo chúng tôi, yêu cầu về phát triển TTCK trong thời gian tới có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định mô hình hoạt động của UBCKNN. Trong thời gian tới, TTCK Việt Nam sẽ đứng trước yêu cầu và thách thức hội nhập của TTCK quốc tế, điều này buộc chúng ta phải mở cửa hoạt động của TTCK trong thời gian tới. Mà rõ ràng yêu cầu của tiến trình hội nhập TTCK mà cụ thể là yêu cầu của nhà đầu tư và các tổ chức nước ngoài khi tham gia TTCK Việt Nam đều mong muốn có một cơ quan quản lý ngành CK độc lập và mạnh vì họ cho rằng cơ quan này đảm bảo tính khách quan trong quá trình quản lý và giám sát thị trường, giúp họ yên tâm hơn khi tham gia hoạt động trên TTCK Việt Nam. Hơn nữa việc UBCKNN đứng độc lập sẽ giúp cho UBCKNN tránh được tình trạng quản lý hành chính chồng chéo, tránh được việc phải chịu sự quản lý của quá nhiều cấp trong hoạt động của nó. Việc tổ chức UBCKNN là một cơ quan thuộc Chính Phủ sẽ tạo điều kiện cho nó có thể kết hợp, hợp tác chặt chẽ với các Bộ, ngành hữu quan để điều hành hoạt động của TTCK Việt Nam một cách suôn sẻ, lành mạnh, ổn định, hiệu quả và phát triển theo kịp sự phát triển của TTCK các nước trong tiến trình hội nhập khu vực và Quốc tế.
3.4.1.2. Về vấn đề cổ phần hóa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Để hội nhập TTCK , chúng ta không thể không có các biện pháp tạo dựng những cơ sở ban đầu cho việc giao dịch CK quốc tế trên TTCK Việt Nam. Một trong những biện pháp này là cổ phần hóa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Cổ phần hóa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ góp phần tạo thêm hàng hóa cho TTCK Việt Nam đang còn trong giai đoạn sơ khai, tạo điều kiện để phát triển nhanh chóng TTCK nước ta.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế nước ta, được khuyến khích phát triển lâu dài, bình đẳng với các thành phần kinh tế khác. Tính đến hết tháng 8 năm 2001, trên phạm vi cả nước có khoảng 2700 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký trên 40 tỷ USD, trong đó có gần 1. 400 dự án đã đi vào sản xuất kinh doanh, với số vốn đã thực hiện gồm 19 tỷ USD. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phần lớn tập rung trong những ngành, lĩnh vực kinh doanh dễ thu lợi nhuận hiện đang đóng góp trên 13% tổng sản phẩm quốc nội, 36% tổng sản lượng công nghiệp, hơn 20% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước (chưa kể đóng góp của ngành công nghiệp khai thác dầu khí hoàn toàn thực hiện thông qua các dự án FDI). Trên thực tế, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đang tồn tại với tư cách là một trong những khu vực kinh tế mạnh nhất xét theo tiêu chí về tính liên tục và ổn định của tăng trưởng.
Chúng tôi xin đề ra một số kiến nghị nhằm đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài như sau:
+ Thứ nhất, Chính phủ cần hoàn thiện khung pháp lý, tạo môi trường thích hợp cho hoạt động cổ phần hóa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Một khung pháp lý tương đối hoàn chỉnh sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư thực hiện chương trình cổ phần hóa vốn đầu tư của họ, đồng thời bảo đảm an toàn hoạt động của TTCK.
Trước mắt Chính phủ cần ban hành một qui chế tạm thời hướng dẫn việc cổ phần hóa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đủ sức tháo gỡ các vướng mắc, tạo hành lang pháp lý cho các cơ quan chức năng và doanh nghiệp thực hiện thí điểm cổ phần hóa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Nghị quyết số 09/2001/NĐ-CP ngày 28/8/2001 của Chính phủ về tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài thời kỳ 2001- 2005 đã cho phép xây dựng qui chế thực hiện thí điểm việc chuyển đổi doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sang hoạt động theo hình thức Công ty cổ phần và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này được đăng ký niêm yết trên TTCK. Xuất phát từ tình hình thực tế hiện nay, cần sớm ban hành qui chế thí điểm cổ phần hóa doanh nghiệp FDI và lựa chọn một số doanh nghiệp FDI đang kinh doanh có hiệu quả trong một số lĩnh vực để thực hiện thí điểm cổ phần hóa, rút kinh nghiệm điều chỉnh, bổ sung chính sách trước khi thực hiện đại trà.
+ Thứ hai, cần sớm khắc phục xung đột về pháp lý giữa Luật đầu tư nước ngoài và một số văn bản pháp luật khác. Luật Doanh nghiệp hiện hành của Việt Nam đã quy định cụ thể về công ty cổ phần. Tuy nhiên, Luật này cũng như luật khuyến khích đầu tư trong nước chưa cho phép nhà đầu tư nước ngoài thành lập doanh nghiệp cổ phần với mức không quá 30% vốn điều lệ của doanh nghiệp Việt Nam. Trong khi đó, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam lại quy định: phần góp vốn của bên nước ngoài hoặc các bên nước ngoài vào vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh không dưới 30% vốn pháp định. Do đó, cần có quy định về mặt nguyên tắc để phân biệt doanh nghiệp cổ phần có vốn đầu tư nước ngoài với doanh nghiệp cổ phần thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp. Theo đó, doanh nghiệp cổ phần có vốn đầu tư nước ngoài phải có ít nhất một sáng lập viên nước ngoài, tổng giá trị cổ phần do các cổ đông nước ngoài nắm giữ không dưới 30% vốn điều lệ của doanh nghiệp. Doanh nghiệp cổ phần có vốn đầu tư nước ngoài được hưởng các quyền lợi và thực hiện các nghĩa vụ theo quy định của Luật đầu tư nước ngoài. Mỗi cổ đông chịu trách nhiệm trong phạm vi cổ phần mình nắm giữ và được tự do chuyển nhượng cổ phần.
+ Thứ ba, xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp FDI khi cổ phần hóa. Tài sản của doanh nghiệp FDI được hình thành từ vốn góp của chủ đầu tư (vốn pháp định) và vốn vay. Đối với doanh nghiệp liên doanh mà bên Việt Nam góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất, thực chất là phần vốn góp của Nhà nước, được tính cho toàn bộ thời gian liên doanh, cần xác định trách nhiệm quản lý đối với phần vốn này. Nếu giá trị quyền sử dụng đất quy định tại giấy phép đầu tư được chuyển thành cổ phần của Nhà nước trong doanh nghiệp FDI cổ phần hóa, thì phải có quy định đảm bảo cho doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa không phải nộp thêm tiền thuê đất. Nếu doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa phải chuyển sang thuê đất, thì giá trị vốn góp của bên Việt Nam chỉ tương đương với giá trị quyền sử dụng đất trong thời gian từ khi doanh nghiệp liên doanh nhận bàn giao đất tới khi chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, giá trị này nhỏ hơn giá trị vốn góp mà bên Việt Nam đăng ký tại giấy phép đầu tư. Trong trường hợp đó, hoặc là bên Việt Nam phải huy động các nguồn vốn khác để bù vào phần giá trị quyền sử dụng đất bị hụt đi do cổ phần hóa, hoặc Nhà nước phải cho phép doanh nghiệp được giảm vốn pháp định tương ứng với phần giảm giá trị quyền sử dụng đất của bên Việt Nam. Trong trường hợp này, cách giải quyết đơn giản nhất là chuyển từ cơ chế góp vốn bằng quyền sử dụng đất sang cả chế doanh nghiệp thuê đất của Nhà nước.
+ Thứ tư, về đơn vị giá trị cổ phần và mệnh giá cổ phiếu của doanh nghiệp FDI. Theo các văn bản hiện hành về cổ phần hóa, giá trị cổ phần đều xác định trên cơ sở đồng Việt Nam ,điều này đã tạo thuận lợi cho việc giao dịch các cổ phiếu này.Nghị định 48/1998/NĐ-CP về CK &TTCK cũng quy định doanh nghiệp chỉ được phát hành chứng khoán ghi bằng đồng Việt Nam. Theo chúng tôi CK của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng phải được ghi bằng đồng Việt Nam khi niêm yết trên TTCK Việt Nam.Nếu doanh nghiệp phát hành CK ra thi trường quốc tế thì CK của doanh nghiệp sẽ được ghi bằng ngoại tệ.
+ Thứ năm, cần khuyến khích các doanh nghiệp FDI sau khi cổ phần hóa niêm yết trên TTCK Việt Nam bằng một cơ chế ưu đãi thỏa đáng như miễn thuế thu nhập phát sinh khi niêm yết cổ phiếu và chuyển nhượng cổ phiếu trong thời gian đầu tham gia TTCK. Ngoài ra, Nhà nước cần nghiên cứu, ban hành quy định cho phép và hướng dẫn doanh nghiệp cổ phần FDI được phát hành cổ phiếu và niêm yết trên thị trường nước ngoài.
3.4.2. Đối với Bộ Tài chính.
3.4.2.1. Về việc định giá doanh nghiệp cổ phần hóa
Quy trình và phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp để triển khai CPH hiện nay vẫn còn có những điểm chưa hợp lý. Nếu như theo công thức tính giá trị doanh nghiệp hiện hành thì giá trị doanh nghiệp có thể được xác định như sau:
+ Giá trị doanh nghiệp theo sổ sách kế toán: là tổng giá trị tài sản thể hiện trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp theo chế độ kế toán hiện hành.
+ Giá trị thực tế của doanh nghiệp: là tổng giá trị thực tế của tài sản (hữu hình và vô hình) thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp tính theo giá thị trường tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp. Có thể đưa ra công thức như sau:
+ Giá trị thực tế của doanh nghiệp = Giá trị thực tế của tài sản hiện vật + Giá trị vốn bằng tiền + Nợ phải thu + Chi phí dở dang + Giá trị tài sản ký quỹ + Giá trị tài sản đầu tư + Giá trị tài sản vô hình + Lợi thế thương mại (nếu có).
Cho đến nay, những căn cứ chủ yếu để xác định giá trị doanh nghiệp khi thực hiện cổ phần hóa là Bảng cân đối kế toán. Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính phản ánh tổng quát về tài sản, nguồn vốn của một doanh nghiệp, song còn có một số hạn chế, nhiều thông tin về tài chính của doanh nghiệp chưa được thể hiện như chỉ tiêu về giá trị dùng thước đo tiền tệ đối với lao động trí tuệ và lao động chân tay.
Trước thực trạng đó, chúng tôi xin đưa ra một số kiến nghị đối với việc định giá doanh nghiệp cổ phần hóa:
Thứ nhất, khi định giá giá trị doanh nghiệp, bên cạnh các căn cứ quá khứ và hiện tại của tài sản, phải đặc biệt chú ý đến các lợi ích tương lai mà cả người bán và người mua có thể đạt được thông qua phép tính giá trị hiện tại của các lợi ích ròng kỳ vọng trong tương lai của cả hai bên.
Thứ hai, xuất phát điểm để xem xét giải quyết vấn đề là mức thay đổi phúc lợi xã hội khi tiến hành chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp. Thông qua phương trình này các lợi ích cơ bản của các đối tượng có liên quan đến việc mua bán doanh nghiệp, đó là 3 đối tượng: doanh nghiệp, người tiêu dùng và Nhà nước, được đề cập tới một cách tương đối toàn diện thông qua các khái niệm về giá trị doanh nghiệp như: giá trị tư hữu dưới sự vận hành của tư nhân, giá trị xã hội dưới sự vận hành của tư nhân, giá trị xã hội dưới sự vận hành của Nhà nước cũng như các hệ số giá trị của một đồng thu nhập của Nhà nước hay của tư nhân đối với phúc lợi xã hội.
Thứ ba, việc mua bán doanh nghiệp phải dựa trên nguyên tắc thỏa thuận đôi bên, thông qua thương lượng, nên việc xác định mức giá tối thiểu mà Nhà nước chấp nhận được và mức giá tối đa mà người mua doanh nghiệp có thể chấp nhận được sẽ tạo nên một miền giá để đôi bên thương lượng.
Thứ tư, bên cạnh việc xác định giá trị doanh nghiệp qua kiểm kê đánh giá lại tài sản, có thể tiến hành định giá giá trị doanh nghiệp qua đấu thầu. Bởi vì cách làm này có những ưu điểm được thể hiện như sau:
- Nó phần nào giúp tránh được sự phức tạp và chậm chạp của việc kiểm kê đánh giá lại tài sản.
Nếu được tổ chức tốt, đấu thầu có thể xác định được giá trị cao nhất đối với DNNN.
Đấu thầu công khai cũng có thể góp phần định ra mức giá gần hơn với giá trị kinh tế đích thực của doanh nghiệp.
3.4.2.2. Về hoàn thiện hệ thống kế toán - kiểm toán
Những năm vừa qua chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn trong việc phát triển hệ thống kế toán đặc biệt chúng ta đã ban hành được các chế độ kế toán đặc thù trong lĩnh vực CK và TTCK .Đây sẽ là một nhân tố quan trọng góp phần vào sự ổn định hoạt động, phát triển và hội nhập của TTCK.
Để tạo dựng khung pháp lý cần thiết và hỗ trợ cho hoạt động của TTCK, Bộ Tài chính đã ban hành các văn bản pháp qui về tài chính, kế toán gồm: Hướng dẫn tạm thời chế độ quản lý tài chính đối với hoạt động của TTGDCK (thông tư số 10/1999/TT - BTC ngày 9/1/1999), Hướng dẫn chế độ quản lý tài chính đối với Công ty Chứng khoán cổ phần và trách nhiệm hữu hạn (thông tư số 11/2000/TT - BTC Ngày 1/2/2000).
Chế độ kế toán TTGDCK (Quyết định số 105/1999/QĐ-BTC ngày 30/8/1999); chế độ kế toán các CTCK (Quyết định số 99/2000/QĐ-BTC ngày 13/6/2000) được thiết kế dựa trên nguyên tắc phản ảnh rõ ràng tình hình tài chính và kết quả hoạt động của từng loại giao dịch chứng khoán, đáp ứng yêu cầu quản lý Nhà nước và của bản thân đơn vị, đồng thời phải đáp ứng được yêu cầu của các đối tượng có mối quan hệ kinh tế trực tiếp, gián tiếp kể cả các đối tượng quan tâm đến hoạt động của TTCK.
Tuy nhiên, kế toán chứng khoán là lĩnh vực còn quá mới mẻ nên không thể tránh khỏi những thiếu sót bất cập. Tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế đã và đang đặt ra rất nhiều các yêu cầu đòi hỏi phải giải quyết. Việt Nam phải xây dựng một cách đồng bộ hoàn chỉnh khuôn khổ pháp luật của công tác kế toán, làm sao cho toàn bộ các hệ thống pháp luật về kế toán phải có các điểm tựa và phù hợp với yêu cầu quản lý của bản thân cơ sở, phù hợp với yêu cầu quản lý Nhà nước. Về kế toán trong điều kiện kinh tế thị trường và phải tiếp cận phù hợp với những tiêu chuẩn thông lệ quốc tế từ đó xây dựng hệ thống các chuẩn mực kế toán của Việt Nam. Đây là một yêu cầu rất lớn. Để đáp ứng yêu cầu này chúng ta phải xúc tiến xây dựng ngay một khuôn khổ pháp lý cho kế toán và hoạt động kế toán,đó chính là Luật kế toán. Luật kế toán sẽ là công cụ điều chỉnh mọi hoạt động về kế toán, Luật kế toán tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động quản lý ở cơ sở cũng như hoạt động quản lý của Nhà nước về kế toán và hoạt động kế toán.
Cùng với kế toán, hoạt động kiểm toán cũng đòi hỏi phải được hoàn thiện. Việt Nam phải khẩn trương tạo dựng một khuôn khổ pháp lý cho hoạt động kiểm toán. Có quy chế hoạt động kiểm toán độc lập, phù hợp với yêu cầu kinh tế thị trường, phù hợp với các chuẩn mực quốc tế về kiểm toán, soạn thảo và công bố các chuẩn mực kiểm toán Việt Nam.
Phải thiết lập một hệ thống giám sát hoạt động kiểm toán, cần đảm bảo về mặt pháp lý, tính độc lập khách quan trong kiểm toán. Hoạt động kiểm toán và chất lượng hoạt động kiểm toán là rất quan trọng, nó cho phép đánh giá tình hình tài chính và khả năng phát triển của doanh nghiệp, từ đó cho phép đánh giá chất lượng các CK và giá cả CK cũng như cho phép đánh giá tình hình tài chính, hoạt động của các chủ thể trên TTCK Việt Nam.
Kết luận
Trung tâm giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh cùng với TTCK Việt Nam đã đi vào hoạt động được gần 2 năm. Chúng ta đã có một kênh huy động vốn để phục vụ đắc lực cho công cuộc Công nghiệp hóa-Hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, ngoài vấn đề là làm sao cho TTCK Việt Nam vượt qua được những thử thách ban đầu để hoạt động có hiệu quả thì vấn đề tìm ra những giải pháp hữu hiệu cho TTCK chúng ta hoàn thiện và phát triển hơn nữa trong quá trình hội nhập kinh tế còn mang ý nghĩa to lớn hơn. Vì điều này tác động trực tiếp đến sự tăng trưởng mang tính lâu dài của nền kinh tế Việt Nam nói chung và của TTCK Việt Nam nói riêng.
Mặc dù TTCK Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn về cơ sở vật chất cũng như về công tác quản lý điều hành trước quá trình hội nhập kinh tế: diễn biến về cung-cầu hàng hóa, giá cả còn bất thường, cung thì thiếu, cầu thì không ổn định, dẫn đến giá cả cũng thay đổi không ổn định theo; hành lang pháp lý còn thiếu sót, bất cập, không đồng bộ; chưa có các nhà tạo lập thị trường thực sự; hoạt động thị trường còn mang tính sơ khai; tóm lại chưa có những tiền đề đáng kể cho việc hội nhập, nhưng với sự nghiên cứu, phân tích sâu sắc về những nguyên nhân gây ra tình trạng trên thì chúng ta hoàn toàn có thể đề ra những giải pháp thiết thực để hoàn thiện và phát triển thể chế thị trường bậc cao này nhằm phục vụ đắc lực cho quá trình hội nhập kinh tế, và sau đó là quá trình hội nhập TTCK.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề hội nhập với sự tồn tại, phát triển của TTCK , nhóm nghiên cứu khoa học lớp Ngân hàng 41 A đã nghiên cứu và thực hiện đề tài: "Giải pháp hoàn thiện và phát triển TTCK Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế hiện nay". Mặc dù chúng tôi đã hết sức cố gắng tìm kiếm,thu thập tài liệu nhưng vì trình độ còn hạn chế nên bài viết này chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Chúng tôi rất mong nhận được sự đóng góp xây dựng của các thầy cô giáo cùng tất cả các bạn.
Một lần nữa, chúng tôi xin chân thành cảm ơn!
Phần phụ lục
bảng tổng kết phiếu thu thập
ý kiến nhà đầu tư tiềm năng
Bảng 1: Nơi làm việc
Nơi làm việc
số người
Doanh nghiệp nhà nước
224
Công ty cổ phần
59
Công ty TNHH
35
DN có vốn ĐT nước ngoài
133
Doanh nhiệp tư nhân
28
Các trường hợp khác
112
Tổng số
591
Bảng 2: Thu nhập
Thu nhập
số người
Dưới 1 triệu đồng
183
1-1,5 triệu đồng
146
1,5-3 triệu đồng
129
Trên 3 triệu đồng
133
Tổng số
591
Bảng 3: Hình thức đầu tư
Các hình thức đầu tư
số người
Thành lập doanh nghiệp
17
Mua bảo hiểm
105
Gửi ngân hàng
252
Các hình thức khác
175
Bảng 4: ý định đầu tư chứng khoán
Tiêu thức
số người
Có
254
Không
204
Không có ý kiến
133
Tổng số
591
Bảng 5: Lý do đầu tư
Lý do
số người
Lãi cao
133
Dễ mua bán
109
An toàn
11
Theo phong trào
35
Bảng 6: Tầm quan trọng của kiến thức về chứng khoán
Mức độ quan trọng
số người
Rất quan trọng
136
Quan trọng
82
Bình thường
20
Không quan trọng
16
Tổng số
254
Bảng 7: Nguồn kiến thức về thị trường chứng khoán
Các nguồn kiến thức
số người
Học đại học
119
Qua các lớp bồi dưỡng
14
Đọc tài liệu
157
Các nguồn khác
46
Bảng 8: Nguyên nhân không đầu tư chứng khoán
Nguyên nhân
số người
Thu nhập thấp
123
Thị trường hoạt động không hiệu quả
67
Tiện ích của công ty chứng khoán chưa cao
42
Kiến thức hạn chế
63
Hàng hoá chưa hấp dẫn
56
Đầu tư vào hoạt động khác
49
Bảng 9: Mức độ thường xuyên tìm hiểu về thị trường chứng khoán
Mức độ
số người
rất thường xuyên
31
Thường xuyên
207
Không thường xuyên
353
Tổng số
591
Bảng 10:Nguồn tìm hiểu về thị trường chứng khoán
Nguồn
số người
sách
67
Báo, tạp chí
381
Truyền hình
266
Qua bạn bè
109
Bảng 11: Các tạp chí thường đọc
Tạp chí
số người
Chứng khoán Việt Nam
74
Thời báo kinh tế Việt Nam
301
Đầu tư chứng khoán
94
Tạp chí khác
178
báo cáo thu thập ý kiến của các nhà đầu tư
I
Những thông tin cá nhân
Bảng 1: Tổng kết về nơi làm việc
Nơi làm việc
số người
Doanh nghiệp nhà nước
39
Công ty cổ phần
26
Công ty TNHH
19
Doanh nghiệp có vốn ĐT nước ngoài
7
Doanh nghiệp tư nhân
52
Các trường hợp khác
33
Tổng số
176
Bảng 2: Nơi mở tài khoản
Công ty chứng khoán
số người
CTCK của Ngân hàng ĐT & PT
20
CTCK của Ngân hàng ACB
6
CTCK Bảo Việt
97
CTCK của Ngân hàng NN & PTNT
33
CTCK Thăng Long
7
CTCK của Ngân hàng Công Thương
13
CTCK Sài Gòn
0
CTCK Đệ Nhất
0
Tổng số
176
Bảng 3: Số dư tài khoản
Giá trị (tiệu đồng)
số người
Dưới 50 triệu
136
50 - 100 triệu
34
100 - 500 triệu
6
Trên 500 triệu
0
Tổng số
176
Bảng 4: Lý do mở tài khoản tại công ty chứng khoán
Lý do
số người
Thuận tiện về địa lý
156
Cơ sở vật chất hiện đại
13
Mức phí thấp
0
Đội ngũ cán bộ có trình độ
0
Hiệu quả hoạt động cao
0
Thái độ phục vụ tốt
26
Uy tín của CTCK
0
Các lý do khác
13
Bảng 5: Số lần giao dịch mỗi tháng
số lần
số người
Dưới 5 lần
110
5 - 10 lần
46
Trên 10 lần
20
Tổng số
176
Bảng 6: Nguồn kiến thức về chứng khoán
Các nguồn
số người
Học đại học
26
Tự đọc tài liệu
123
Qua các lớp bồi dưỡng
13
Các nguồn khác
14
Bảng 7: Các loại tạp chí thường đọc
Tạp chí
số người
Chứng khoán Việt Nam
98
Thời báo kinh tế Việt Nam
117
Đầu tư chứng khoán
111
Tạp chí khác
13
II.Nhận xét của nhà đầu tư về thị trường chứng khoán
Bảng 1: Đánh giá về số lượng
Chỉ tiêu
số người
Đủ
33
Thiếu
143
Tổng số
176
Bảng 2: Đánh giá về chất lượng
Chất lượng
Chỉ tiêu
Cao
Trung bình
Thấp
Tổng số
Tính sinh lợi
19
65
92
176
Tính thanh khoản
13
78
85
176
Tính rủi ro
97
59
20
176
Bảng 3: Hàng hoá đầu tư
Hàng hoá
số người
Cổ phiếu
156
Trái phiếu
20
Tổng số
176
Bảng 4: Các nghiệp vụ tiếp cận
Trả lời
Nghiệp vụ
Có
Không
Môi giới
162
14
Quản lý danh mục đầu tư
81
95
Cao
110
Mức phí
Trung bình
39
Thấp
13
Nhanh
13
Quy trình đặt lệnh
Trung bình
52
Chậm
97
Rất tốt
6
Cung cấp thông tin
Tốt
39
Trung bình
72
Kém
45
Bảng 5: Đánh giá về số lượng công ty niêm yết
số lượng
số người
Quá nhiều
0
Đủ
26
Thiếu
85
Rất thiếu
65
Tổng số
176
Bảng 6 : Đánh giá về chất lượng công ty niêm yết
Chất lượng
số người
Tốt
45
Trung bình
72
Xấu
20
Không có ý kiến
39
Tổng số
176
Bảng 7: Đánh giá về điều kiện niêm yết
Cao
52
Mức vốn điều lệ
Trung bình
98
Thấp
26
R ấ t hợp lý
13
Thời gian làm ăn có lãi
Hợp lý
137
Không hợp lý
26
Bảng 8: Đánh giá về tình hình giao dịch cổ phiếu
Chỉ tiêu
số người
Nhiều
6
Bình thường
65
ít
105
Bảng 9: Nguyên nhân giao dịch trái phiếu ít
Nguyên nhân
số người
Lãi suất thấp
92
Loại hình không đa dạng
52
Tính thanh khoản thấp
65
Cả ba lý do trên
66
ý kiến khác
0
Bảng 10: Đánh gía về biến động giá cả
Chỉ tiêu
số người
rất ổn định
6
ổn định
20
Không ổn định
150
Tổng số
176
Bảng 11: Đánh giá về sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài
Chỉ tiêu
số người
Nhiều
0
ít
130
rất ít
46
Tổng số
176
Bảng 12: Đánh giá về biên độ giao động giá
Chỉ tiêu
số người
rất phù hợp
0
phù hợp
71
Không phù hợp
105
Tổng số
176
Bảng 13: ý kiến về biên độ giao động
Chỉ tiêu
số người
Dưới 2%
0
2 - 5%
45
5 - 7%
27
Trên 7%
33
Tổng số
105
Bảng 14: ý kiến về thời hạn thanh toán
Thời gian
số người
T +1
26
T +2
104
T + 3
46
T + 4
0
Tổng số
176
Bảng 15: Đánh giá về mức độ ảnh hưởng của các biện pháp
quản lý của UBCKNN
Mức độ
Quy định
Nhiều
ít
Không có
Phí giao dịch
85
64
27
Giá tham chiếu
65
104
7
Giới hạn số chứng khoán
trong một lệnh mua
98
65
13
III
ý kiến của nhà đầu tư để hoàn thiện TTCK Việt Nam
Bảng 1: Việc lựa chọn thị trường
Thị trường
số người
OTC
139
Bảng 2
37
Tổng số
176
Bảng 2: Vấn đề thuế thu nhập từ đầu tư chứng khoán
ý kiến
số người
Không đánh thuế
59
Miễn thuế trong thời gian đầu
110
Đánh thuế ngay từ đầu
7
Tổng số
176
Bảng 3: Thời gian miễn thuế
Thời gian
số người
Dưới 2 năm
7
2 - 5 năm
84
Trên 5 năm
19
Tổng số
110
Bảng 4: sự cần thiết phải tăng số lượng công ty chứng khoán
Chỉ tiêu
số người
Cần thiết
111
Không cần thiết
52
Không có ý kiến
13
Tổng số
176
Bảng 5: Những vấn đề cần khắc phục ở CTCK
Nội dung
số người
Cơ sở vật chất
123
Mức phí
95
Thái độ phục vụ
98
Đội ngũ cán bộ
97
Bảng 6: ý kiến về việc mở đại lý CTCK xuống các địa phương
ý kiến
số người
Nên
130
Không nên
46
Tổng số
176
Bảng 7: ý kiến về việc phát triển CTCK có sự tham gia của yếu tố nước ngoài
ý kiến
số người
Nên
163
Không nên
0
Không có ý kiến
13
Tổng số
176
Bảng 8: ý kiến về việc mở cửa TTCK
ý kiến
số người
Có
117
Không
46
Không có ý kiến
13
Tổng số
176
Bảng 9: Loại hình nhà đầu tư nước ngoài cần phát triển
ý kiến
số người
Cá nhân
26
Tổ chức
7
Cả hai
143
Tổng số
176
Bảng 10: Các loại lệnh nên áp dụng trong thời gian tới
ý kiến
Loại lệnh
Có
Không
Không có ý kiến
Lệnh dừng
111
13
52
Lệnh thị trường
111
6
59
Bảng 11: Các hình thức giao dịch nên áp dụng
ý kiến
Hình thức giao dịch
Có
Không
Không có ý kiến
Bán khống
98
39
39
Mua bằng tài khoản ký quỹ
143
0
33
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35362.doc