Nghiệp vụ thanh toán tín dụng chứng từ nhìn chung còn nhiều vấn đề mới mẻ đối với các ngân hàng và các doanh nghiệp Việt Nam do ta chỉ vừa mới chuyển sang "nền kinh tế mở" khoảng hơn một thập niên lại đây, đặc biệt đối với NHĐT&PT Hà Nội, thời gian tiếp cận các hoạt động nghiệp vụ này chưa phải là nhiều, do đó sự thiếu kinh nghiệm, doanh số khiêm tốn, hiệu quả hoạt động chưa cao là điều khó tránh khỏi. Do đó việc tìm kiếm các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng phương thức tín dụng chứng từ của NHĐT&PT Hà Nội đang trở thành yêu cầu cấp thiết.
63 trang |
Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1284 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp hoàn thiện và phát triển hoạt động thanh toán quốc tế thông qua phương thức tín dụng chứng từ tại ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
7 việc định hướng những mặt hàng được phép nhập khẩu bằng L/C trả chậm chưa được quan tâm đúng mức nên xảy ra tình trạng mở L/C trả chậm tràn lan. Có những mặt hàng, năm nay cho phép xuất, nhập nhưng năm sau lại không cho phép xuất, nhập nữa làm cho các doanh nghiệp đã ký hợp đồng xuất nhập khẩu với nước ngoài rơi vào tình trạng khó khăn. nhiều doanh nghiệp trong qúa trình kinh doanh đã không theo kịp những quy định thay đổi nên bị động, dự báo nhu cầu thị trường không sát dẫn đến phát triển tràn lan như đối với các mặt hàng: Xi măng, thép, mía, gốm, sứ, gỗ...Một ví dụ khá cụ thể là trường hợp các doanh nghiệp sản xuất và lắp ráp xe máy trong nước. Theo kế hoạch từ đầu năm 2003 các doanh nghiệp sản xuất xe máy trong nước được cấp quota nhập 900.000 bộ linh kiện cho xe gắn máy. Tuy nhiên vào đầu tháng 2, dưới sức ép từ nhiều phía đặc biệt là vấn đề tai nạn giao thông gia tăng nhanh chóng, Chính phủ đã ra quyết định tăng thuế nhập khẩu. Thêm vào đó, theo qui định trong các văn bản về giao thông thì mỗi người chỉ được sở hữu một chiếc xe, ai muốn đăng ký xe phải có bằng lái ... và nhiều những qui định khác. Những qui định này đều phản ánh khá đúng những tâm tư tình cảm của nhân dân phù hợp với tình hình thực tế, song thực tế cho thấy vì không có thời gian chuẩn bị và đối phó với tình hình,mặc nhiên những qui định đang dồn các doanh nghiệp xe máy vào chỗ phá sản. Do giá đầu vào tăng đẩy chi phí lên cao, nhu cầu của người dân trong những tháng qua, đặc biệt đầu tháng 4 năm 2003 gần như đóng băng. Trong bối cảnh đó Ngân hàng cũng không đứng ngoài cuộc, bởi lẽ đối với mặt hàng xe máy, thông thường quota nhập khẩu được cấp vào đầu năm nên các doanh nghiệp trên cơ sở năng lực sản xuất, nhu cầu dân cư...để đưa ra quyết định nhập khẩu, mở L/C nhập khẩu. Vậy, nếu doanh nghiệp không thể tiêu thụ số linh kiện nhập khẩu trên trong khi L/C đã được mở và bên nước ngoài vẫn cứ thực hiện giao hàng, thì chắc chắn Ngân hàng Việt Nam phải thanh toán cho họ cho nên rủi ro xảy ra là điều không tránh khỏi.
+ Chính sách giá hối đoái: trong một thời gian dài từ 1993 đến 1997 tỷ giá hối đoái ổn định một cách cứng nhắc, không phản ánh đúng giá trị thực của đồng Việt Nam. Đến năm 1998, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã hai lần điều chỉnh tỷ giá hối đoái giữa USD và VND. Theo tư vấn của một số chuyên viên cao cấp của Ngân hàng Thế giới thì đồng VND nên neo theo USD ở mức 1 USD ăn 17000 VND. Điều này sẽ phản ánh chính xác hơn thực trạng của nền kinh tế Việt Nam. Một đồng tiền được đánh giá thấp hơn sẽ hạn chế nhập khẩu và khuyến khích nhập khẩu. Tuy nhiên việc giữ giá trị đồng VND ổn định và dần có xu hướng giảm trong thời gian tới sẽ thuận lợi cho hoạt động xnk. Một đồng tiền được đánh giá thấp hơn sẽ hạn chế nhập khẩu và khuyến khích nhập khẩu. Tuy nhiên việc giữ giá trị đồng VND ổn định và dần có xu hướng giảm trong thời gian tới sẽ thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu và hạn chế bớt rủi ro trong kinh doanh ngoại hối và thanh toán quốc tế của Ngân hàng.
+Việt Nam chưa có thị trường hối đoái hoàn chỉnh, mặc dù hiện nay đã có thị trường hối đoái nhưng hoạt động của thị trường này cũng còn kém sôi động, các thành viên tham gia vào thị trường này còn bị hạn chế, cung còn chưa đáp ứng đủ cầu, làm cho các ngân hàng thương mại khó cân đối nguồn ngoại tệ khi có nhu cầu để thanh toán L/C đã phát hành.
c. Nguyên nhân từ phía khách hàng:
Một là, Trình độ nghiệp vụ thanh toán quốc tế và nghiệp vụ ngoại thương của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu còn yếu kém dẫn đến kỹ năng lập chứng từ của khách hàng chưa cao, hoặc thực hiện sai một khâu của qúa trình thanh toán, hoặc hành động không đúng theo UCP 500 và các thông lệ tập quán quốc tế khác.
Do bước đầu tham gia vào qúa trình hội nhập thế giới, kiến thức kinh doanh xuất nhập khẩu và các kinh nghiệm chuyên môn của các doanh nghiệp Việt Nam chưa đáp ứng được những đòi hỏi của nền kinh tế thị trường. Những kiến thức về tập quán buôn bán quốc tế, các kiến thức về tập quán của các quốc gia đối tác và đặc biệt về thanh toán quốc tế còn rất hạn chế. Do vậy, trong qúa trình đàm phán hợp đồng ngoại thương cũng như trong qúa trình tổ chức thực hiện, dễ bị đối tác nước ngoài lợi dụng.
+ Đối với các khách hàng nhập khẩu, khi hoàn thành các thủ tục, tiến hành xin mở L/C thì NH mới phát hiện ra một số điều khoản bất lợi trong hợp đồng. Khi đó người bán nước ngoài hoàn toàn có quyền không chấp nhận sửa đổi, thậm chí nếu người bán có chấp nhận sửa đổi hợp đồng thì người mua cũng phải chịu toàn bộ các chi phí phát sinh. Thiếu kiến thức về kinh doanh ngoại thương và thanh toán quốc tế, thiếu kinh nghiệm trong đàm phán hợp đồng, dẫn đến việc doanh nghiệp bị đối tác nước ngoài ép những điều khoản bất lợi như: phải mở L/C xác nhận, trong khi họ không bị yêu cầu phải có bảo lãnh thực hiện hợp đồng; thoả thuận phía nước ngoài bao tiêu sản phẩm, nhưng không yêu cầu họ phải mở L/C đối ứng, để nước ngoài lừa bán máy cũ...Tại NHĐT&PT Hà Nội Thanh toán viên tư vấn cho khách hàng, khi người Mua nhận được yêu cầu từ phía đối tác nước ngoài phải mở L/C cho họ hưởng. L/C đó được soạn theo mẫu điện MT700 hoặc MT701, ở trường 73 có ghi “May add”. Khi thực hiện tư vấn, Thanh toán viên đã khuyến cáo với khách hàng rằng nếu ghi như Vậy sẽ gây bất lợi cho cả người mở L/C và cho cả Ngân hàng. Bởi lẽ, bên nước ngoài sẽ chủ động chuyển từ “May add” sang chế độ “Confirmed”. Như vậy, người hưởng lợi L/C sẽ cực kỳ thuận lợi, ngay sau khi họ gửi hàng cho bên Việt Nam họ có thể lập điện đòi tiền ngay Ngân hàng. Trong trường hợp này Ngân hàng sẽ phải thanh toán cho Ngân hàng nước ngoài cho dù hàng chưa cập cảng, rủi ro hàng mất, hàng thiếu và tranh chấp xảy ra người Mua phải chịu. Về phía Ngân hàng, khi phải thực hiện “Confirmed” nghĩa là chịu sự xác nhận của Ngân hàng thứ ba, chứng tỏ Ngân hàng không có uy tín và không được người Bán tin tưởng. Tuy NHĐT&PT Hà Nội đã tư vấn hết sức rõ ràng, đầy đủ với tinh thần trách nhiệm cao song khá đông các khách hàng đều không nghe theo tư vấn của Ngân hàng, dẫn đến những thiệt hại không đáng có.
+ Đối với khách hàng mới tham gia nghiệp vụ xuất khẩu, do những yêu cầu nghiêm ngặt của chứng từ trong thanh toán mà đặc biệt là chứng từ thanh toán theo phương thức L/C rất khó khăn để lập được một bộ chứng từ phù hợp với nội dung của L/C. Trước hết L/C xuất khẩu do NH nước ngoài phát hành có văn phong khác nhau, trong khi đó trình độ ngoại ngữ của cán bộ thanh toán của doanh nghiệp có hạn, dẫn tới việc lập chứng từ không đúng theo yêu cầu của L/C. Nhất là đối với một số những mặt hàng xuất khẩu như gạo, hàng hải sản..., số lượng chứng từ mà L/C yêu cầu xuất trình tương đối nhiều và phức tạp. Từ những sai sót đơn giản như lỗi chính tả... đến những sai sót phức tạp như thiếu loại chứng từ, chứng từ lập sai với yêu cầu của L/C, hoặc không thống nhất với nhau... đều có thể đem lại rủi ro cho khách hàng và từ đó làm ảnh hưởng tới uy tín của NHĐT&PT Hà Nội.
Do hiểu biết về nghiệp vụ xuất nhập khẩu chưa đầy đủ nên nhiều doanh nghiệp xuất khẩu đã không quan tâm đầy đủ đến một số điều kiện bất lợi trong hợp đồng cũng như trong L/C, thường xảy ra nhất là điều kiện giao hàng và thời hạn xuất trình chứng từ. Nếu khoảng thời gian cần thiết giữa ngày bắt đầu mở L/C và ngày giao hàng không tương xứng với chu trình sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp sẽ không giao kịp hàng theo yêu cầu. Thời hạn cần thiết để lập và xuất trình chứng từ, luân chuyển chứng từ đến ngân hàng nước ngoài cũng cần phải được tính toán hợp lý mới có thể đảm bảo cho việc đòi tiền được hợp lệ, đúng với thời hạn quy định trong tín dụng thư.
Hai là, Thiếu thông tin để lựa chọn đối tác trung thực nước ngoài.
Do thiếu các mối quan hệ với đối tác nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam không mua được hàng trực tiếp từ người sản xuất hoặc các nhà phân phối lớn mà phải ký hợp đồng với các công ty môi giới trung gian làm cho giá mua bị đẩy lên cao, thời gian thanh toán bị kéo dài, chi phí tăng, ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng đến kinh doanh của NH vì thông thường các L/C phát hành đều do NH tài trợ. Do không quan hệ trực tiếp với nhà cung cấp, lại thiếu thông tin về đối tác nên nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã bị đối tác nước ngoài lừa đảo.
Ba là, sự thiếu trung thực của một số khách hàng Việt Nam
Các tranh chấp phát sinh trong qúa trình thanh toán hàng nhập khẩu bằng L/C không chỉ bắt nguồn từ sự không trung thực của đối tác nước ngoài mà nhiều trường hợp còn do các doanh nghiệp Việt Nam gây ra. Ngoài việc thiếu hiểu biết, thiếu thông tin trong kinh doanh xuất nhập khẩu, nhiều doanh nghiệp Việt Nam chỉ quan tâm đến lợi nhuận trước mắt mà bỏ qua việc giữ uy tín để kinh doanh lâu dài, đạt được lợi ích dài hạn. Sau khi đã ký hợp đồng và yêu cầu NH mở L/C, do giá cả của hàng hoá có xu hướng hạ xuống, các doanh nghiệp trong nước lại muốn NH tìm mọi cách để trì hoãn thanh toán nhằm gây sức ép với công ty nước ngoài để họ phải giảm giá, thậm chí nhiều doanh nghiệp từ chối thanh toán và không chịu nhận hàng kể cả khi hàng hoá được giao đúng phẩm chất, đầy đủ về số lượng và bộ chứng từ xuất trình hoàn toàn phù hợp.
Những trường hợp như vậy đặt NH vào tình thế khó khăn khi xử lý tình huống. Nếu không thanh toán thì sẽ vi phạm thông lệ quốc tế, làm mất uy tín của bản thân NH và có thể bị NH nước ngoài kiện, nhưng nếu cứ tiến hành thanh toán thì phải dùng tiền của NH để thanh toán thay và việc thu hồi vốn từ phía khách hàng lại rất khó khăn và nhiều trường hợp gây ra tranh chấp với khách hàng.
Không chỉ thiếu trung thực với đối tác nước ngoài, nhiều doanh nghiệp còn tìm cách lợi dụng kẽ hở của luật pháp để lừa đảo, chiếm đoạt tài sản của NH. Họ yêu cầu NH phát hành L/C trả chậm để nhập hàng, sau khi nhận được hàng thì bán lấy tiền để sử dụng vào các mục đích khác, đến hạn thanh toán, NH phải đứng ra trả thay.
2.4.2. Nhóm nguyên nhân chủ quan
a- Trình độ nghiệp vụ thanh toán quốc tế của cán bộ cơ sở NHĐT&PT Hà Nội còn hạn chế.
Tại NHĐT&PT Hà Nội, hiện nay,Số lượng Thanh toán viên của Ngân hàng đang có sự đan xen giữa nguồn lao động trẻ mới vào làm việc và đội ngũ cán bộ đã từng công tác lâu năm. Đội ngũ trẻ với lòng nhiệt tình cao trong công việc, tinh thần học hỏi vươn lên là rất cao, song điểm yếu ở họ là thiếu kinh nghiệm thực tế, thiếu trình độ hiểu biết về pháp luật, thông lệ tập quán thương mại và thanh toán quốc tế cho nên công tác thanh toán quốc tế, đặc biệt thanh toán thông qua phương thức L/C gặp khó khăn.
Nhìn vào mặt bằng chung nguồn nhân lực của NHĐT&PT Hà Nội cho thấy, tình trạng Thanh toán viên có trình độ ngoại ngữ chưa cao dẫn đến những bất cập trong hoạt động thanh toán bằng L/C của Ngân hàng như: Soạn mẫu điện còn mất nhiều thời gian, sai sót về lỗi chính tả,...Giao dịch với khách quốc tế một cách trực tiếp còn rất hạn chế. Thêm vào đó, trình độ về tin học cũng đang là nguyên nhân của những khó khăn mà Ngân hàng đang phải đương đầu. Khá nhiều Thanh toán viên có trình độ ngoại ngữ và tin học yếu nên hiệu quả đem lại cho công việc không cao, nhất là các cán bộ ở các cơ sở, các địa phương khác trên địa bàn Hà Nội. Vì vậy, vấn đề đặt ra là NHĐT&PT Hà Nội phải đặt yếu tố con người vào trung tâm nâng cao năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ công nhân viên về mọi mặt. Từ đó mới có thể tạo nên động lực tiềm tàng cho sự nghiệp phát triển của NHĐT&PT Hà Nội trong tương lai.
b- Kinh doanh ngoại tệ chưa phát triển gây khó khăn cho nhu cầu thanh toán L/C
Quy định hiện nay về kinh nghiệm ngoại tệ và trạng thái ngoại hối của các chi nhánh gây nhiều hạn chế cho công tác kinh doanh ngoại tệ:
Nhằm mục đích quản lý tập trung nguồn ngoại tệ trong hệ thống, tránh tình trạng mua bán vòng vèo, NHĐT&PT Việt Nam, quy định: các chi nhánh NHĐT&PT không được bán ngoại tệ cho các chi nhánh trong cùng hệ thống NHĐT&PT và cho các NH khác; khi có ngoại tệ mua chưa bán vượt mức quy định phải chuyển về NHĐT&PT Việt Nam. Tuy nhiên, do tình trạng cán cân thanh toán L/C xuất, nhập khẩu chênh lệch khá lớn, buộc NHĐT&PT Hà Nội phải tìm mua từ khách hàng và các NH khác trên thị trường liên Ngân hàng.
Hơn nữa, khách hàng xuất khẩu của NHĐT&PT Hà Nội hiện nay còn ít, doanh số hoạt động thấp nên nguồn ngoại tệ mua được rất hạn chế. Trong khi đó, khách hàng mở L/C thường chỉ có tiền VND, chủ yếu trông chờ vào nguồn mua của NH để thanh toán nên vào những thời điểm khan hiếm ngoại tệ, nhu cầu thanh toán L/C lớn thì việc tìm nguồn ngoại tệ của Ngân hàng là rất căng thẳng.
c- Công nghệ thông tin chưa theo với tốc độ phát triển của Ngân hàng.
Việc cải tiến phần mềm chương trình TTQT và việc tham gia vào mạng SWIFT của NHĐT&PT Hà Nội đã tạo điều kiện cho việc mở L/C và thanh toán nhanh chóng, chính xác hơn trước. Tuy nhiên chương trình IBS đến nay vẫn chưa được hoàn thiện, còn thiếu rất nhiều mẫu điện quan trọng phục vụ cho việc chuyển tin.
Các bức điện của IBS được truyền chung với mạng thanh toán điện tử nên việc lập, truyền và nhận điện thường bị chậm, đặc biệt là trong những giờ cao điểm.
- Vấn đề trang bị kỹ thuật và công nghệ ngân hàng: Mặc dù đến nay NHĐT&PT Hà Nội đã đầu tư cho công nghệ ngân hàng khá hiện đại, hệ thống thanh toán ngoại tệ và nội tệ, hệ thống thanh toán với nước ngoài đã được vi tính hoá, đảm bảo nhanh chóng, chính xác. Nhưng so với yêu cầu của hiện đại hoá ngân hàng và với sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin thì chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiều công việc như thống kê, điều hành, quản lý hồ sơ khách hàng, quản lý ngân hàng đại lý chưa được vi tính hoá; Các dịch vụ thương mại điện tử như ngân hàng tại nhà, ngân hàng ảo... vẫn ở trong giai đoạn nghiên cứu. Điều này cũng ảnh hưởng đến qúa trình phân tích, quản lý, điều hành hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ của NHĐT&PT Việt Nam và ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của ngân hàng.
d- ứng dụng Marketing vào hoạt động thanh toán quốc tế còn hạn chế.
Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng có đặc điểm là thị trường thông dụng, sản phẩm mang tính đồng nhất, điều đó đòi hỏi Ngân hàng phải linh hoạt sáng tạo mới có khả năng giành được thắng lợi trong cạnh tranh. Nhận thức được điều đó, một số NHTM, đặc biệt là các NHCP, NH Liên doanh trên địa bàn Thành phố Hà Nội đều có tư duy Marketing hết sức nhạy bén và tinh tế. Ngược lại, cho đến nay, NHĐT&PT Hà Nội chưa có phòng Marketing riêng. Chức năng Marketing của Ngân hàng được giao cho phòng Nguồn vốn kinh doanh và tuỳ theo năng lực Marketing của từng phòng ban mạnh ai nấy làm. Mỗi phòng ban cũng phải đều thực hiện chức năng Marketing cho mình, kéo khách hàng về phía mình bao nhiêu thì kéo nên hiệu quả là không cao. Số còn lại tự các khách hàng có nhu cầu tìm đến Ngân hàng.
Marketing trong lĩnh vực Ngân hàng không chỉ đơn thuần là giới thiệu các loại hình dịch vụ của mình với lãi suất ưu đãi, phí phục vụ thấp. Mà hơn thế nữa phải là dịch vụ đi kèm với công tác tư vấn khách hàng, thái độ đón tiếp, uy tín an toàn trong hoạt động thanh toán. Đồng thời quan tâm đến khách hàng sau bán hàng, tức là sau khi cung cấp các dịch vụ Ngân hàng phải luôn giữ liên lạc với khách hàng. Thông báo, trạng thái tiền tệ trong tài khoản của họ thường xuyên, tổ chức các cuộc hội thảo, gặp gỡ trao đổi kinh nghiệm, khó khăn bức xúc của các doanh nghiệp từ đó để doanh nghiệp và Ngân hàng cùng nhau tháo gỡ.
Chương 3
Giải pháp hoàn thiện và phát triển hoạt động thanh toán bằng tín dụng chứng từ tại NHđT&PT Hà nộI
3.1. Các nhóm giải pháp cụ thể
3.1.1. Giải pháp về mặt nghiệp vụ
Hoàn thiện quy trình thanh toán tín dụng chứng từ sao cho thủ tục được đơn giản, nhanh gọn nhưng vẫn chính xác, chặt chẽ và có tính hấp dẫn cao thu hút được khách hàng. Đồng thời giảm được chi phí càng nhiều càng tốt, trên cơ sở đó giảm mức phí dịch vụ thanh toán tín dụng chứng từ đáp ứng khả năng cạnh tranh của Ngân hàng.
- Đơn giản hoá các khâu nghiệp vụ, chỉ tiến hành những khâu thật cần thiết
- Đảm bảo tính pháp lý cho mọi giao dịch giữa ngân hàng với khách hàng cũng như giữa các cán bộ, nhân viên, phòng ban trong ngân hàng với nhau. Mọi thoả thuận đều phải thể hiện bằng văn bản, rõ ràng chi tiết.
- Cần đa dạng hoá các loại thư tín dụng được sử dụng. Mặc dù việc lựa chọn là do khách hàng nhưng cán bộ nghiệp vụ cũng có thể tư vấn cho khách hàng chọn loại hình phù hợp nhất. Càng có phong phú các loại thư tín dụng thì việc sử dụng càng linh hoạt và hiệu quả hơn.
3.1.2. Nhóm giải pháp trong quản lý điều hành của NHĐT&PT Hà Nội
Một là, Hoàn thiện cơ cấu tổ chức:
+ Trong thời gian tới NHĐT&PT Hà Nội cần sớm hoàn thiện cơ cấu phòng ban, đảm bảo xây dựng được bộ máy quản lý điều hành gọn nhẹ, chặt chẽ, phân định rõ ràng từ HSC đến chi nhánh, thường xuyên có liên lạc, thông tin giữa trung ương và chi nhánh (tránh trường hợp có chi nhánh làm sai thông lệ thanh toán quốc tế mà tới khi nước ngoài khiếu nại HSC mới biết).
+ Nâng cao công tác quản trị và điều hành, thực hiện phối hợp nhịp nhàng giữa phòng Thanh toán quốc tế và các phòng ban khác, đặc biệt là phòng tín dụng, đồng thời phân định rõ chức năng và quyền hạn của từng phòng để tránh bị chồng chéo.
+ Cần sớm thành lập một phòng Marketing riêng, chuyên môn thực hiện công tác Marketing đối với khách hàng, thu thập thông tin thị trường đồng thời thực hiện tư vấn cho khách hàng khi cần thiết. Như người ta nói “tạo ra một thương hiệu Ngân hàng đã khó song vấn đề giữ được thương hiệu ấy còn khó hơn”
+ Ngân hàng cần xây dựng một trung tâm chuyên thu thập và xử lý thông tin các việc tranh chấp và quản lý rủi ro. Thực hiện cập nhật những điều khoản mới của UCP, các vụ tranh chấp đã xảy ra, từ đó phổ biến kinh nghiệm cho toàn cơ quan, đặc biệt cho các Thanh toán viên ở cơ sở, chi nhánh.
Hai là, Hoàn thiện hệ thống văn bản hướng dẫn
+ HSC cần tập hợp tài liệu văn bản có liên quan đến nghiệp vụ thanh toán quốc tế nói chung và tín dụng chứng từ nói riêng chuyển cho các chi nhánh nghiên cứu và vận dụng.
+ Việc phân loại khách hàng cũng như quy định biểu phí, mức ký quỹ không nên cố định mà phải thay đổi theo từng thời kỳ tuỳ theo tình hình biến động của thị trường, tình trạng kinh doanh tài chính của khách hàng cũng như của Ngân hàng:
Trước mắt cần quy định lại tỷ lệ ký quỹ và hạn mức mở L/C nhập khẩu bằng vốn tự có nhằm tạo điều kiện cho NH thu hút khách hàng , mức ký quỹ chỉ nên ở mức 5 - 20%. Không nên phân biệt tỷ lệ ký quỹ giữa L/C mở bằng vốn tự có và L/C mở bằng vốn vay Ngân hàng.
Theo biểu phí hiện nay, do NHĐT&PT Việt Nam ban hành chung cho toàn hệ thống:
+ Khách hàng ký quỹ từ 50% trở lên phí thanh toán 0,05% trị giá L/C tối thiểu là 5 USD và tối đa là 200 USD.
+ Khách hàng ký quỹ dưới 50% hoặc mở L/C bằng vốn NHĐT cho vay, bảo lãnh thì phí thanh toán là 0,1% trị giá L/C tối thiểu là 5 USD tối đa là 300 USD.
Chúng ta đều biết rằng trách nhiệm của Ngân hàng mở L/C là phải kiểm tra bộ chứng từ và phải thanh toán nếu bộ chứng từ phù hợp với điều kiện và điều khoản của L/C, nếu kiểm tra sai sót sau đó người Mua phát hiện từ chối thanh toán thì Ngân hàng phải chấp nhận rủi ro.
Ngoài ra với một L/C có giá trị lớn người Bán và người Mua luôn cẩn trọng với chứng từ cần xuất trình, chắc chắn chứng từ sẽ nhiều hơn, chi tiết phức tạp hơn, như vậy tỉ lệ chứng từ bất hợp lệ gia tăng kéo theo rủi ro trong quá trình kiểm tra của Ngân hàng cũng tăng theo. Đồng thời với L/C có giá trị lớn đồng nghĩa nếu có sai sót Ngân hàng phải chi trả nhiều hơn.
Bởi vậy cách tính phí như hiện nay chưa hẳn là hợp lý. Theo tôi : Ngân hàng nên khống chế mức thu phí tối thiểu vì với một L/C có giá trị thấp đến đâu thì những thao tác thực hiện cho một L/C đều phải như vậy. Và không nên khống chế mức tối đa khi thu phí thanh toán L/C mà phí sẽ tăng theo trị giá L/C.( Đối với phương thức nhờ thu thì Ngân hàng chỉ đóng vai trò là trung gian thu tiền hộ, nên rủi ro cho Ngân hàng là hầu như không có nên có thể đặt ra mức phí tối đa cho hình thức thanh toán quốc tế này).
Ba là: Hoàn thiện mô hình quản lý điều hành trong thanh toán quốc tế mang tính tập trung và giao quyền chủ động
3.1.3. Những giải pháp về nguồn ngoại tệ để thanh toán L/C
Cần thường xuyên củng cố mạng lưới kinh doanh, tăng trưởng nguồn vốn đặc biệt là vốn ngoại tệ để có đủ khả năng tài trợ cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu và đảm bảo nguồn vốn thanh toán L/C đã phát hành:
Chủ động hơn trong nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ, kích thích đẩy mạnh nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ, mang lại lợi nhuận và tạo ra nguồn vốn cho Ngân hàng. Tạo các mối quan hệ để khi có nhu cầu cấp bách về nguồn vốn thanh toán L/C thì có thể mua hoặc vay được từ những Ngân hàng này.
Đẩy mạnh hoạt động kinh doanh ngoại tệ, phát triển các bàn thu đổi ngoại tệ, thanh toán thẻ, séc du lịch, phát triển dịch vụ chi trả kiều hối nhằm tăng nguồn ngoại tệ mua vào của Ngân hàng. Quản lý việc sử dụng ngoại tệ, đảm bảo khả năng tái tạo ngoại tệ để phục vụ hoạt động thanh toán hàng xuất nhập khẩu.
Nguồn thanh toán L/C xuất khẩu chính là một nguồn vốn ổn định và chủ động để thanh toán L/C nhập khẩu, vì vậy phải quan tâm trong việc phát triển nghiệp vụ này bằng cách mở rộng hơn nữa hình thức cho vay thu mua và sản xuất hàng xuất khẩu, đối với những đơn vị cam kết thông báo L/C xuất khẩu và gửi bộ chứng từ thanh toán qua NHĐT&PT Hà Nội sẽ được áp dụng lãi suất vay ưu đãi, NHĐT&PT Hà Nội cần có chính sách ưu đãi đối với những khách hàng có tiềm năng xuất khẩu như: tư vấn miễn phí ngay từ khi ký hợp đồng, nhận L/C hoặc khi có những vướng mắc xảy ra, hướng dẫn họ cách lập bộ chứng từ xin thanh toán... tạo mọi điều kiện thuận lợi cho khách hàng tin tưởng và đến giao dịch tại NHĐT&PT Hà Nội.
Đẩy mạnh hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu. NHĐT&PT Hà Nội cần có giải pháp huy động vốn ngoại tệ, khai thác nguồn vốn tài trợ của nước ngoài, đồng thời nâng cao chất lượng hiệu quả công tác thẩm định và xét duyệt tín dụng / bảo lãnh.
3.1.4. Những giải pháp trong công tác tổ chức, đào tạo cán bộ
- Tổ chức các lớp học nghiệp vụ ngắn và dài hạn để đào tạo sâu hơn về chuyên môn thanh toán quốc tế trong đó quan trọng nhất là thanh toán tín dụng chứng từ. Những khoá học này cần mở rộng cho mọi nhân viên đều có điều kiện tham gia. Mời các chuyên gia nước ngoài về giảng dạy để các nhân viên Ngân hàng có điều kiện trau dồi cả nghiệp vụ cũng như ngoại ngữ.
- Cử người tham gia các cuộc hội thảo, hội nghị chuyên môn về thanh toán quốc tế trong nước cũng như nước ngoài để tiếp cận với các kiến thức hiện đại.
- Cử cán bộ đi học ở nước ngoài để tiếp thu, học hỏi những kiến thức nghiệp vụ sâu rộng của họ.
- Tổ chức các chuyến đi tham quan các ngân hàng khác có thể ở trong nước hoặc nước ngoài để học hỏi kinh nghiệm, nét hay, thế mạnh của họ.
- Có các giải pháp để bố trí sắp xếp các Thanh toán viên vào các công việc thích hợp với khả năng của từng người, nhằm phát huy thế mạnh của họ. Muốn vậy phải thường xuyên theo dõi sát sao để nhận định đánh giá được đặc điểm của từng người.
- Phát huy vai trò chủ động sáng tạo của các Thanh toán viên, tích cực lắng nghe ý kiến của họ, khuyến khích họ nêu ra các sáng kiến mới.
3.1.5. Những giải pháp về mặt công nghệ
Cho đến nay Ngân hàng đã chú trọng trang bị kỹ thuật hiện đại phục vụ cho TTQT. Tuy nhiên cần hoàn thiện mạng thanh toán quốc tế nội bộ (IBS) để sử dụng tối đa các bưu điện chuẩn của hệ thống thanh toán SWIFT. Đồng thời nâng cao tốc độ của đường truyền.
Thuê đường truyền riêng cho việc truyền tin TTQT. Việc này có thể làm tăng chi phí cho NH nhưng nó sẽ đem lại một khoản thu lớn hơn từ việc đẩy nhanh các tốc độ giao dịch, tránh lãng phí thời gian và nâng cao uy tín của NHĐT&PT Hà Nội đối với khách hàng trong nước và quốc tế. Ngân hàng cần nắm được nhu cầu về máy vi tính và các trang thiết bị khác của các chi nhánh để đáp ứng một cách hợp lý.
Khai thác triệt để chuyển tiền và thanh toán qua mạng SWIFT, phấn đấu đẩy nhanh tốc độ hơn nữa, đảm bảo giao dịch nhanh chóng, chính xác, an toàn, hiệu quả. Thường xuyên cập nhật các kỹ thuật hiện đại về SWIFT. Sớm triển khai công nghệ Ngân hàng ảo (Virtual banking). Trên cơ sở pháp lý về giá trị vật mang điện tử, phát triển dịch vụ ngân hàng tại nhà (Homebanking), trước mắt là đối với các khách hàng lớn trong giao dịch tín dụng chứng từ.
3.1.6. Nhóm giải pháp xây dựng chiến lược khách hàng
Đối với mọi hoạt động sản xuất kinh doanh thì khách hàng là một yếu tốc cực kỳ quan trọng quyết định khối lượng và quy mô hoạt động của doanh nghiệp, đặc biệt là trong cơ chế thị trường: "Khách hàng là thượng đế". Muốn mở rộng hoạt động TTQT nói chung và thanh toán L/C xuất nhập khẩu nói riêng, NHĐT&PT Hà Nội cần phải xây dựng chiến lược khách hàng dài hạn, tích cực và hấp dẫn vì lợi ích của khách hàng cũng như lợi ích của Ngân hàng.
Thứ nhất, Thực hiện đa phương hoá khách hàng theo hướng:
Củng cố và phát triển khách hàng truyền thống (các doanh nghiệp Nhà nước, các tổng công ty 90, 91): phát triển các khách hàng mới (các công ty liên doanh, văn phòng đại diện, tổ chức quốc tế, và một số thành phần kinh tế ngoài quốc doanh làm ăn có hiệu quả): mở rộng và phát triển quan hệ hợp tác với các ngân hàng bạn trong và ngoài nước, các tổ chức tài chính quốc tế...
Thứ hai, Nâng cao chất lượng dịch vụ phục vụ khách hàng
+ Đổi mới phong cách phục vụ, giao tiếp văn minh lịch sự, luôn sẵn sàng hướng dẫn và giúp đỡ khách hàng làm thủ tục nhanh chóng, chính xác. Sẵn sàng tư vấn giúp khách hàng là một trong những biện pháp quan trọng để thu hút và giữ được khách hàng.
Thứ ba, Thực hiện chính sách khách hàng linh hoạt
Để khuyến khích khách hàng, NH cần có biện pháp ưu đãi đối với những khách hàng có giao dịch lớn và thường xuyên với NH. Thủ tục phí tuy có quy định thống nhất nhưng giám đốc các chi nhánh được quyền điều chỉnh khi cần thiết.
Thứ tư, Tăng cường công tác tư vấn cho khách hàng
* Đối với các đơn vị xuất khẩu
Các đơn vị xuất khẩu thường gây ra rủi ro cho NH thương lượng chứng từ khi họ lập một bộ chứng từ không hoàn hảo và bị từ chối thanh toán. Để tránh những rủi ro đó NH có thể cố vấn cho họ những vấn đề sau:
+ Yêu cầu bên mua mở cho mình một L/C đảm bảo nhất - tức là có điều khoản thuận lợi và chứng từ yêu cầu thì dễ thực hiện. Ví dụ L/C xác nhận, cho phép đòi tiền bằng điện... tuy nhiên, không nhất thiết trường hợp nào cũng phải mở L/C xác nhận vì có thể sẽ phải chịu phí xác nhận và vì phí này thường rất cao sẽ gây khó khăn cho nhà nhập khẩu.
+ Tư vấn cho đơn vị trong việc chọn NH mở L/C và NH thanh toán. Những NH càng lớn, càng có uy tín, quan hệ tốt và thường xuyên thanh toán sòng phẳng thì việc thanh toán sẽ dễ dàng thuận lợi hơn. Tư vấn cho đơn vị cách thức đòi tiền. Nếu cho phép đòi tiền bằng điện thì có lợi hơn cả bởi vì tiền thu được nhanh hơn, tạo điều kiện tăng nhanh vòng quay của vốn.Tư vấn cho đơn vị cân nhắc các điều khoản về thanh toán, điều khoản quy định về chứng từ. Ví dụ: chứng từ do người mua lập, chứng từ có xác nhận của người mua... thì không nên đưa vào số chứng từ yêu cầu.
+ NH cũng nên tư vấn cho khách hàng cách giải quyết khi bộ chứng từ có sai sót.
Trường hợp sai sót có thể thay thế hoặc sửa chữa được, đề nghị khách hàng thay thế hoặc sửa chữa
Trường hợp sai sót không thể sửa chữa hay thay thế được, đề nghị khách hàng xin tu chỉnh L/C(nếu có thể) hoặc thông báo cho NHPH nêu rõ các sai sót, xin chấp nhận thanh toán.
Trường hợp sai sót không được chấp nhận, đề nghị khách hàng chuyển sang hình thức thanh toán nhờ thu hoặc trả lại chứng từ cho họ.
* Đối với các đơn vị nhập khẩu
Người nhập khẩu gây ra rủi ro cho NH mở khi họ mất khả năng thanh toán hoặc cố tình vi phạm cam kết của mình. Để đem lại lợi ích cho nhà xuất khẩu và bảo vệ quyền lợi của NH cần cố vấn cho họ những điểm sau:
+ Tư vấn cho nhà nhập khẩu nên mở L/C loại nào, cố vấn trong việc đưa các điều khoản vào L/C. Không nên đưa quá nhiều điều khoản vào L/C để dẫn đến sai sót. Tư vấn cho đơn vị trong việc chấp nhận các yêu cầu của bên bán khi mở L/C sao cho không làm tổn hại đến lợi ích của mình. Tránh tình huống bên nước ngoài đòi ghi vào L/C trường “ may add” để sau này họ lợi dụng bắt người Mua phải sử dụng L/C “confirmed”
+ Trong thanh toán nhập khẩu, việc quy định các điều khoản của Hợp đồng là rất quan trọng. Cán bộ NH không thể chỉ ngồi đợi đến khi khách hàng mang đơn đến xin vay tiền và mở L/C mới chỉ ra những bất lợi mà cần phải quan tâm đến khách hàng, tư vấn cho họ những điều cần thiết liên quan đến điều khoản thanh toán trước khi ký hợp đồng. Ví dụ khi hợp đồng quy định người nhập khẩu phải chuyển một phần tiền đặt cọc cho người xuất khẩu thì NH cần khuyên khách hàng yêu cầu một thư bảo lãnh tiền đặt cọc do NH người bán phát hành, trước khi chuyển tiền đi. Với những hợp đồng có giá trị lớn, mặt hàng hiếm hoặc người mua đã ký hợp đồng bán hàng ở trong nước, cán bộ NH có thể khuyên người mua yêu cầu NH người bán phát hành thư bảo lãnh thực hiện hợp đồng...Hoặc các vấn đề liên quan đến vận đơn, Ngân hàng nên tư vấn cho khách hàng hình thức vận tải nào là phù hợp, ví dụ đối với vận tải bằng container thì việc hàng hoá bị chuyển tải là đương nhiên(tuy nhiên không phải nhà nhập khẩu Việt Nam nào cũng hiểu biết điều đó), hoặc chẳng hạn đối với các loại hàng hoá có tính thời vụ, tính chất mau hỏng cao... như gạo,cà phê,...thì khách hàng nên thực hiện thuê tàu chuyến là thích hợp nhất. Tuy cước phí vận tải có đắt song khách hàng có thể an tâm về chất lượng hàng hoá, tiến độ giao hàng, lịch trình của tàu. Chính những việc làm này sẽ làm cho người mua tin tưởng tìm đến NH để mở L/C đồng thời giảm thiểu được rủi ro cho người nhập khẩu và NH.
+ Trong tương lai NHĐT&PT Hà Nội có thể thành lập văn phòng tư vấn cho khách hàng về nghiệp vụ thanh toán xuất nhập khẩu và cung cấp thông tin về đối tác nước ngoài. Việc làm này vừa đáp ứng nhu cầu khách hàng vừa làm tăng thu nhập cho NH.
+ Ngân hàng cần có chính sách giá hợp lý, đảm bảo tính cạnh tranh. Phí thấp sẽ tạo ra sự hấp dẫn để lôi kéo khách hàng, tuy nhiên phí thấp thì có ảnh hưởng đến thu nhập của Ngân hàng. Điều quan trọng là trong chính sách giá cả của NHĐT&PT Hà Nội là áp dụng mức giá sao cho phù hợp với từng loại khách hàng, từng đối tượng và từng loại dịch vụ.
Thứ năm, Đẩy mạnh công tác tiếp thị quảng cáo
Thành lập một bộ phận tiếp thị để thường xuyên tìm hiểu nhu cầu của khách hàng, tiếp xúc với khách hàng, NHĐT&PT Hà Nội cũng nên thường xuyên tổ chứ hội nghị khách hàng để cùng trao đổi, rút kinh nghiệm, cùng tìm hiểu UCP, về giới hạn trách nhiệm của NH, tìm hiểu thông tin thị trường... Các hội nghị này không những giúp khách hàng rút ra được những kinh nghiệm trong TTQT mà còn là cơ hội để khuếch trương, quảng cáo cho hoạt động thanh toán của NH, tăng cường hoạt động quảng cáo nhằm thu hút các doanh nghiệp có tình hình tài chính tốt, có hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu hoặc có nhu cầu mua bán ngoại tệ, về giao dịch và TTQT tại NHĐT&PT Hà Nội.
3.1.7 Giải pháp về công tác ngân hàng đại lý
* Tăng cường hợp tác quốc tế trong hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ và mở rộng có hiệu quả mạng lưới ngân hàng đại lý và cơ cấu tiền gửi ngoại tệ hợp lý:
Trong nghiệp vụ thanh toán quốc tế, hệ thống mạng lưới ngân hàng đại lý có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc triển khai có hiệu quả nghiệp vụ này. Việc thiết lập và mở rộng quan hệ đại lý với ngân hàng các nước mang ý nghĩa chiến lược để phát triển nghiệp vụ thanh toán quốc tế bằng L/C ở các NHTM nói chung và NHĐT&PT Hà Nội nói riêng.
Củng cố mối quan hệ đối ngoại với các ngân hàng đại lý hiện nay. Mở rộng quan hệ đại lý với các ngân hàng trên thế giới cả về số lượng và chất lượng theo định hướng lựa chọn các ngân hàng đại lý, các đối tác nước ngoài có uy tín, phù hợp trong từng lĩnh vực để xây dựng các mối quan hệ ngân hàng đại lý chặt chẽ. thuận lợi chính của việc sử dụng mối quan hệ với các NH đại lý là chi phí thâm nhập thị trường nước ngoài thấp, không cần cung cấp nhân sự cũng như cung cấp các phương tiện mà có thể tận dụng ngay bộ máy quản lý của các ngân hàng đại lý để phục vụ cho nhu cầu kinh doanh của NHĐT&PT Hà Nội.
Thông qua mối quan hệ với các Ngân hàng đại lý chúng ta sẽ tận dụng được các hạn mức tín dụng, hạn mức xác nhận L/C, hạn mức thanh toán, hạn mức tái tài trợ L/C, hạn mức kinh doanh ngoại tệ, ký kết các hiệp định khung vay vốn trung dài hạn để cho vay các dự án nhập thiết bị công nghệ. Chính vì vậy phải luôn lấy phương châm uy tín, hiệu quả, đảm bảo đôi bên cùng có lợi để duy trì được mối quan hệ ngân hàng đại lý bền vững lâu dài.
Tiến tới thiết lập các văn phòng đại diện ở các nước khác nữa để xây dựng thêm các mối quan hệ mới. Tất nhiên phải tính toán nhu cầu hợp lý khi mở mang quan hệ, tránh tiêu tốn những chi phí không cần thiết. Với các Ngân hàng đã có quan hệ đại lý phải thường xuyên liên lạc, cung cấp các thông tin cần thiết về Ngân hàng và các giao dịch giữa hai bên, tôn trọng lợi ích của họ, làm cho họ tin tưởng rằng khi quan hệ với NHĐT&PT Hà Nội sẽ luôn có được hai chữ: “lợi nhuận và hiệu quả”. Vì vậy, NHĐT&PT Hà Nội trong thời gian tới cần xúc tiến các biện pháp để có thể thiết lập quan hệ mở tài khoản với các Ngân hàng đại lý có nhu cầu thanh toán lớn, có thể là thông qua các Ngân hàng khác (đã có quan hệ đại lý), các tổ chức hiệp hội, ... để làm trung gian giới thiệu.
Bên cạnh việc mở rộng quan hệ đại lý, để cho hoạt động thanh toán bằng L/C có hiệu quả cao và thuận lợi, NHĐT&PT Hà Nội cần thiết phải cân đối nguồn ngoại tệ dự trữ tại các ngân hàng thường xuyên có quan hệ thanh toán và phải tính toán tỷ lệ dự trữ các loại ngoại tệ cho phù hợp. Nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán bằng các loại ngoại tệ khác nhau của các doanh nghiệp. Đặc biệt là sau khi đồng EURO ra đời, phải dự trữ trước nhu cầu cần dùng để thanh toán bằng tiền EURO của các doanh nghiệp có làm ăn với các nước thuộc liên minh châu Âu (EU), để duy trì một khả năng thanh toán cần thiết có thể đáp ứng nhu cầu giao dịch bất cứ lúc nào của khách hàng mà không bị thiệt thòi trong chuyển đổi tỷ giá.
Để thực thi các giải pháp trên, NHĐT&PT Hà Nội ngoài cơ sở vật chất kỹ thuật về vốn và chất xám, cần có sự hỗ trợ từ phía Chính phủ và các Ban ngành liên quan.
3.2. Một số kiến nghị
3.2.1. Kiến nghị đối với Chính phủ và các ngành liên quan
* Chính phủ tạo điều kiện phát huy hiệu quả nhất các tiềm năng của ngân hàng:
Hiện nay Đảng và Nhà nước đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế đồng bộ từng bước xây dựng một nền kinh tế phát triển bền vững. Việt Nam cũng ngày càng tiến đến hội nhập với nền kinh tế khu vực và kinh tế thế giới. Đây cũng là những điều kiện thuận lợi để cho NHĐT&PT Hà Nội có thể phát triển các hoạt động kinh doanh nói chung cũng như hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu bằng tín dụng chứng từ nói riêng. Tuy nhiên để có thể nâng cao hiệu quả của các hoạt động này về phía Đảng và Nhà nước cần:
Thứ nhất, sớm nghiên cứu, soạn thảo và áp dụng hệ thống luật lệ, tạo môi trường pháp lý cho hoạt động thanh toán quốc tế nói chung và tín dụng chứng từ nói riêng.
Hoạt động thanh toán quốc tế có liên quan đến mối quan hệ kinh tế quốc tế. Do vậy, luật pháp mỗi nước cần phải có những quy định cụ thể để điều chỉnh mối quan hệ này trong sự tương quan với thông lệ quốc tế UCP 500.
- Chính phủ cần sớm ban hành các văn bản pháp lý, quy chế về giao dịch thanh toán xuất nhập khẩu, trong đó đề cập đến mối quan hệ pháp lý giữa hợp đồng ngoại thương của người mua, người bán với giao dịch thanh toán tín dụng chứng từ giữa các ngân hàng, nêu rõ quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm của nhà nhập khẩu, nhà xuất khẩu và các ngân hàng khi tham gia vào quan hệ tín dụng chứng từ:
Trước hết cần đề cập đến các vấn đề sau:
+ Quyền được miễn thanh toán của Ngân hàng mở khi quan hệ giao nhận hàng bị trọng tài tuyên án huỷ bỏ.
+ Quyền được nhận hàng của Ngân hàng mở khi người thế chấp lô hàng mất khả năng thanh toán.
+ Quyền được bảo lưu số tiền chiết khấu của Ngân hàng chiết khấu trong quan hệ chiếu khấu miễn truy đòi. Cần phải có quy chế chiết khấu hối phiếu lập theo thư tín dụng, cụ thể hoá luật quốc tế làm cơ sở giải quyết tranh chấp giữa Ngân hàng chiết khấu và doanh nghiệp xuất khẩu.
- Nhà nước cần có những văn bản chỉ đạo các ngân hàng giải quyết các tồn tại trong thanh toán quốc tế nói chung và L/C trả chậm nói riêng. Nhà nước có thể quản lý chặt chẽ các điều kiện vay và trả nợ, xây dựng hạn mức bảo lãnh cho các ngân hàng, đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra và kiến nghị xử lý các vi phạm.
- Củng cố và phát triển Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, tạo điều kiện cho các NHTM Việt Nam hợp tác cùng tìm hiểu khách hàng và đối tác, giúp đỡ và tương trợ nhau trong qúa trình hòa nhập vào cộng đồng thế giới, cùng nghiên cứu và hạn chế bớt rủi ro, cùng có kiến nghị đối với chính sách của Đảng và Nhà nước.
Thứ hai, Cần có các văn bản liên ngành nhằm phối kết hợp chặt chẽ hoạt động của ngân hàng với hoạt động của các bộ, ngành liên quan nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của ngân hàng. Ví dụ: giữa ngân hàng với Bộ Thương mại, Tổng cục Hải quan, Tổng cục Thuế, ngành Tư pháp.
Ban hành các văn bản pháp lý chỉ đạo các ngành hữu quan thống nhất thực hiện các văn bản đã được ban hành về nghiệp vụ ngân hàng, tránh sự mâu thuẫn trong việc hướng dẫn thực hiện các văn bản này của các cơ quan khác nhau.
Cần cải cách mạnh mẽ các thủ tục hành chính trong quản lý xuất nhập khẩu, tinh giảm thủ tục hải quan. Ngành hải quan phải phối hợp với các bộ, ngành, tăng cường hơn nữa công tác chống buôn lậu và quản lý thị trường nội địa nhằm tăng nguồn thu ngân sách, bảo hộ nền sản xuất trong nước, tăng lượng ngoại tệ thanh toán qua NH. Cần có biện pháp xử phạt nghiêm với những vụ vi phạm, phạt nặng các vụ buôn lậu và có chính sách thưởng phạt nghiêm minh đối với cán bộ hải quan.
Thứ ba, tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước trong điều tiết chính sách tiền tệ, chính sách thị trường và chính sách thương mại nhằm đẩy mạnh xuất khẩu, quản lý chặt chẽ nhập khẩu.
- Có các chính sách khuyến khích hoạt động xuất nhập khẩu, qua đó tạo cơ hội cho NH mở rộng và phát triển hoạt động thanh toán quốc tế.
- Khẩn trương thành lập quỹ tín dụng hỗ trợ xuất khẩu để tiến tới thành lập ngân hàng xuất nhập khẩu quốc doanh với chức năng tài trợ và bảo hiểm xuất khẩu.
- Điều hành chính sách tỷ giá hối đoái mềm dẻo linh hoạt nhằm khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu nhưng vẫn bảo đảm ổn định vĩ mô nền kinh tế.
3.2.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước.
Một là, Hoàn thiện và phát triển thị trường ngoại tệ liên NH, tiến tới thành lập thị trường hối đoái ở Việt Nam.
Trong thời gian tới Ngân hàng Nhà nước cần có các biện pháp sau:
Giám sát và buộc các NHTM phải xử lý trạng thái ngoại hối của mình trong ngày bằng việc mua hoặc bán ngoại tệ trên thị trường liên ngân hàng. Mở rộng đối tượng tham gia vào thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Phát triển các nghiệp vụ vay mượn ngoại tệ, nghiệp vụ đầu cơ, nghiệp vụ tiền gửi qua đêm và các hình thức mua bán ngoại tệ như: mua bán kỳ hạn, hợp đồng tương lai, hoán đổi ngoại tệ, quyền mua, quyền bán... Cần tăng cường hơn nữa vai trò của Ngân hàng Nhà nước trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng.
Hai là, công tác điều hành chính sách tỷ giá cần linh hoạt phù hợp với thực tế.
Tỷ giá hối đoái là một yếu tố rất nhạy cảm, nó không những ảnh hưởng tới lĩnh vực xuất nhập khẩu mà còn tác động tới toàn bộ các mặt hoạt động của đời sống kinh tế - xã hội. Việc lựa chọn chế độ tỷ giá thả nổi có sự điều tiết quản lý của Nhà nước là hoàn toàn hợp lý, song cần đổi mới cơ chế điều hành tỷ giá theo hướng tự do hoá dần với những bước đi thích hợp. Với nỗ lực đưa giá trị đồng Việt Nam trở về đúng giá trị thực của nó mới có thể đánh giá đúng được sức mạnh của nền kinh tế.
Ba là, tăng cường chất lượng hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng Ngân hàng Nhà nước.
Việc thu thập, phân tích, xử lý kịp thời và chính xác các thông tin về tình hình tài chính, quan hệ tín dụng, khả năng thanh toán, tư cách pháp nhân của các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài là vô cùng quan trọng. Để công tác thông tin phòng ngừa rủi ro đạt hiệu quả cao, Ngân hàng Nhà nước cần tăng cường trang bị các phương tiện thông tin hiện đại cho trung tâm để có điều kiện thu thập thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời. Cần phải có cơ chế khuyến khích và bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng về việc cung cấp thường xuyên các thông tin về tình hình dư nợ của các doanh nghiệp tại tổ chức tín dụng...
3.2.3. Kiến nghị đối với khách hàng
a. Nâng cao trình độ nghiệp vụ ngoại thương và trình độ thanh toán quốc tế.
Một vấn đề bức thiết đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam là phải tổ chức đào tạo cán bộ, nâng cao trình độ nghiệp vụ ngoại thương, trình độ pháp lý trong thương mại quốc tế. Ngoài các nghiệp vụ ngoại thương, doanh nghiệp còn cần phải nắm vững nghiệp vụ và thông lệ TTQT, cụ thể cần phải nắm vững nội dung UCP và các thông lệ thanh toán quốc tế khác để hiểu rằng hợp đồng và L/C, chứng từ và hàng hoá là độc lập với nhau, cần nâng cao kỹ năng trong việc lập chứng từ và kiểm tra nội dung L/C...
Mỗi doanh nghiệp nên có một bộ phận pháp chế hoặc sử dụng tư vấn pháp lý để tránh được các bất đồng hoặc tranh chấp có thể xảy ra trong kinh doanh và trong thanh toán. Khi soạn thảo hợp đồng ngoại thương, doanh nghiệp phải tìm hiểu kỹ càng về thủ tục, cân nhắc kỹ các điều khoản, đặc biệt là điều khoản về thanh toán trước khi ký, hợp đồng phải sử dụng ngôn ngữ rõ ràng, chính xác... vì các điều khoản hợp đồng chặt chẽ sẽ là cơ sở để làm tốt việc thanh toán L/C sau này và khi đã quyết định lựa chọn phương thức thanh toán L/C phải hết sức chú ý đến yêu cầu nghiêm ngặt của bộ chứng từ.
b. Tìm hiểu kỹ và lựa chọn bạn hàng nước ngoài tin cậy.
Bên cạnh việc thận trọng khi ký hợp đồng, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cần tièm hiểu kỹ về đối tác nước ngoài vì dù hợp đồng có chặt chẽ đến đâu nhưng nếu đối tác cố tình lừa đảo thì quyền lợi của các doanh nghiệp Việt Nam vẫn có thể bị vi phạm.
Đa số các vụ tranh chấp xảy ra là do doanh nghiệp chưa chú trọng chọn đúng đối tác trong kinh doanh. Việc tìm hiểu thực lực và uy tín của bạn hàng là hết sức cần thiết. Hiện nay, khi các Ngân hàng Việt Nam còn chưa cung cấp nghiệp vụnày, các doanh nghiệp có thể thông qua Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), Trung tâm thông tin tín dụng thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam để có các thông tin đáng tin cậy về đối tác làm ăn. Các doanh nghiệp có thể nhờ ngân hàng phục vụ mình tìm hiểu đối tác kinh doanh thông qua hệ thống các ngân hàng đại lý tại nước ngoài.
Trong quan hệ mua bán với nước ngoài, cần phải tuân thủ thông lệ quốc tế không trái với luật pháp quy định của Việt Nam, không nên vì lợi nhuận ngắn hạn mà làm ăn thiếu trung thực, đánh mất uy tín của doanh nghiệp và cả nền kinh tế đất nước, gây thiệt hại cho lợi ích dài hạn của quốc gia cũng như của doanh nghiệp.
c. Tranh thủ sự tư vấn của NHĐT&PT Hà Nội
Để tránh rủi ro cho mình, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam ngoài việc tranh thủ sự hỗ trợ về vốn từ các ngân hàng thương mại, còn cần phải dựa vào các ngân hàng để nắm bắt thêm thông tin, xin tư vấn về các điều khoản thanh toán quốc tế trước khi ký kết hợp đồng ngoại thương. Ngay cả khi có những tranh chấp xảy ra thì ngân hàng cũng có thể hạn chế đến mức tối đa những thiệt hại cho khách hàng Việt Nam, nhất là thanh toán được thực hiện bằng L/C.
3.4. Kiến nghị với Uỷ ban Ngân hàng - Phòng Thương mại và Công nghiệp quốc tế về điều chỉnh, bổ sung một số điều khoản của UCP
UCP 500 là một tài liệu được nhiều chuyên gia có uy tín trong lĩnh vực tài chính ngân hàng và pháp lý xây dựng nên, đồng thời đây là tài liệu đã được chỉnh sửa, bổ sung nhiều nên có tính chặt chẽ và tính thực tiễn cao. Tuy vậy, UCP 500 vẫn cần phải tiếp tục sửa đổi cho hoàn thiện, dễ vận dụng, đáp ứng được yêu cầu ngày càng phát triển của thương mại và thanh toán quốc tế.
Trong thực tế hiện nay, có vấn đề là các Ngân hàng và người xin mở L/C phải thanh toán một bộ chứng từ đòi tiền sau khi thực hiện đúng điều 13 UCP 500 mà chưa xác định được tính chân thực của yêu cầu đòi tiền này hay còn có bộ chứng từ đòi tiền phù hợp khác sẽ được gửi đến sau là một điều không hợp lý. Do đó cần bổ sung quy định về xác định hiệu lực pháp lý của bộ chứng từ đòi tiền và thư tín dụng cần thông báo (như: định nghĩa rõ ràng chứng từ là gì?, như thế nào là chứng từ phù hợp?, ngoài Hối phiếu có thể dùng Hoá đơn thương mại đòi tiền được không?, thế nào là sự cẩn thận thích đáng của ngân hàng trong việc kiểm tra chứng từ?, còn một số điều khoản mâu thuẫn nhau thì sử dụng thế nào?...)
Tóm lại, trên đây là một số giải pháp và kiến nghị để nâng cao hiệu quả hoạt động thanh toán quốc tế bằng tín dụng chứng từ của NHĐT&PT Hà Nội. Việc phát triển của ngành ngân hàng nói chung cũng như NHĐT&PT Hà Nội nói riêng trong lĩnh vực thanh toán quốc tế cũng như mọi lĩnh vực hoạt động của Ngân hàng có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước và góp phần thực hiện các mục tiêu chiến lược mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.
Kết luận
H
oạt động thanh toán quốc tế đặc biệt là hoạt động thanh toán sử dụng phương thức tín dụng chứng từ là một trong những nhân tố góp phần thúc đẩy qúa trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, là cơ sở để hoà nhập và bình đẳng trên thị trường thương mại quốc tế, bởi vậy thanh toán tín dụng chứng từ trở thành một trong những mảng hoạt động dịch vụ lớn của các NH thương mại. Nghiệp vụ thanh toán tín dụng chứng từ nhìn chung còn nhiều vấn đề mới mẻ đối với các ngân hàng và các doanh nghiệp Việt Nam do ta chỉ vừa mới chuyển sang "nền kinh tế mở" khoảng hơn một thập niên lại đây, đặc biệt đối với NHĐT&PT Hà Nội, thời gian tiếp cận các hoạt động nghiệp vụ này chưa phải là nhiều, do đó sự thiếu kinh nghiệm, doanh số khiêm tốn, hiệu quả hoạt động chưa cao là điều khó tránh khỏi. Do đó việc tìm kiếm các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng phương thức tín dụng chứng từ của NHĐT&PT Hà Nội đang trở thành yêu cầu cấp thiết.
Tài liệu tham khảo
1. David Cox - Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại, Nhà xuất bản Thống kê 1998
2. PGS. NGƯT Đinh Xuân Trình - Giáo trình thanh toán quốc tế trong ngoại thương, Nhà xuất bản giáo dục 1998.
3. Lại Ngọc Quý, Bài "Thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng thương mại Việt Nam và một số kiến nghị" - Tạp chí ngân hàng số 9 năm 2000.
4. PGS. TS Bùi Xuân Lưu - Giáo trình Kinh tế ngoại thương, Nhà xuất bản giáo dục 1998.
5. Luật các tổ chức tín dụng số 07/1997, Quốc hội nước CHXHCNVN thông qua 10/05/1997.
6 GS.TS Lê Văn Tư, chuyên viên kinh tế Lê Tùng Vân- Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu, thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ, Nhà xuất bản Thống kê năm 2000
7. Ngân hàng Hồng Kông- Cẩm nang thanh toán quốc tế, Nhà xuất bản Viện thông tin khoa học xã hội năm 2000
8. Nghị định của Chính phủ số 63/1998/NĐ-CP ngày 17/08/1998 về Quản lý ngoại hối.
9. Nguyễn Trọng Thuỳ - Hướng dẫn áp dụng UCP 500, Nhà xuất bản thống kê 1995.
10. PTS. Lê Văn Tề - Nghiệp vụ ngân hàng quốc tế, Nhà xuất bản thống kê 1997.
11. “Quy trình thanh toán quốc tế” mang MS: QT-TQ-02 theo quyết định của Tổng giám đốc NHĐT&PT Việt Nam có hiệu lực từ 01/09/2001
12. Các quyết định số 30/1998/TTQT về quy chế nghiệp vụ TTQT, số 31/1998/TTQT về hướng dẫn mở L/C trả chậm, số 32/1998/TTQT qui định Quy trình nghiệp vụ TTQT của Thanh toán viên, số 34/1998/TTQT qui định Hương dẫn nghiệp vụ chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất.
13. Các số báo cuối năm của TBKTVN, Tạp chí Ngân hàng
Mục lục
Lời Mở đầu 1
Chương 1 : tổng quan về phương thức tín dụng chứng từ
1.1. Khái niệm chung phương thức tín dụng chứng từ (TDCT) 2
1.2. Qui trình nghiệp vụ thanh toán trong phương thức tín dụng chứng từ(TDCT) 7
1.3. Phương thức TDCT dưới tác động của thông lệ quốc tế và luật pháp quốc gia 8
1.3.1. Quá trình ra đời và phát triển của UCP: 9
1.3.2.Tính chất pháp lý của UCP 500 9
1.3.3. áp dụng UCP vào Việt Nam 10
1.3.4. Mối quan hệ giữa UCP 500 và hệ thống luật quốc gia 10
1.4. Thư tín dụng thương mại 11
1.4.1. Khái niệm 12
1.4.2. Chức năng của L/C 12
1.4.3. Đặc điểm & tính chất của L/C 12
1.4.4. Nội dung chủ yếu của L/C 14
1.5. Các loại thư tín dụng và trường hợp vận dụng 15
1.6. Quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan chủ yếu trong phương thức TDCT 18
Chương 2 : thực trạng thanh toán bằng TDCT tại NHđt & pt Hà Nội
2.1. Khái quát về hoạt động thanh toán quốc tế tại NHĐT&PT Hà Nội 21
2.2. Tình hình hoạt động thanh toán quốc tế bằng L/C tại NH 23
2.2.1. Thanh toán hàng nhập khẩu bằng L/C 24
2.2.2. Thanh toán hàng xuất khẩu bằng L/C 26
2.3. Những thành tích chủ yếu và hạn chế tồn tại trong hoạt động thanh toán quốc tế của NHĐT&PT Hà Nội.
2.3.1. Những thành tích 29
2.3.2. Những hạn chế và tồn tại 31
2.4. Một số nguyên nhân ảnh hưởng hạn chế đến hoạt động TTQT bằng L/C tại NHĐT&PT Hà Nội
2.4.1. Nhóm nguyên nhân khách quan 34
2.4.2. Nhóm nguyên nhân chủ quan 40
Chương 3 : Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ tại Ngân hàng đầu tư và phát triển hà nội
3.1 Các nhóm giải pháp cụ thể.
3.1.1. Những giải pháp về nghiệp vụ 43
3.1.2. Những giải pháp trong quản lý điều hành của NHĐT&PT Hà Nội 43
3.1.3. Những giải pháp về nguồn ngoại tệ để thanh toán L/C 45
3.1.4. Những giải pháp trong công tác tổ chức, đào tạo cán bộ 46
3.1.5. Những giải pháp về mặt công nghệ 47
3.1.6. Giải pháp xây dựng chiến lược khách hàng 47
3.1.7. Giải pháp về công tác ngân hàng đại lý 51
3.2. Một số kiến nghị
3.2.1. Kiến nghị đối với Chính phủ và các ngành liên quan 53
3.2.2 Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước. 55
3.2.3. Kiến nghị đối với khách hàng 56
3.3.4. Kiến nghị với Uỷ ban Ngân hàng - Phòng Thương mại và Công nghiệp quốc tế về điều chỉnh, bổ sung một số điều khoản của UCP 57
Kết luận 59
Danh mục tài liệu tham khảo
Danh mục chữ viết tắt
HSC : Hội sở chính
IBS : Mạng thanh toán quốc tế nội bộ
ICC : phòng Thương mại quốc tế
L/C : Thư tín dụng
NH : Ngân hàng
NHĐT&PT Hà Nội : Ngân hàng Đầu tư và phát triển Hà Nội
NHPH : Ngân hàng Phát hành
NHTB : Ngân hàng Thông báo
NHCK : Ngân hàng Chiết khấu
TDCT : Tín dụng chứng từ
TTQT : Thanh toán quốc tế
SWIFT : Hiệp hội Viễn thông Tài chính liên Ngân hàng toàn Cầu
UCP 500 : Các quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ, bản sửa đổi năm 1993, Phòng Thương mại quốc tế, xuất bản số 500
XK : Xuất khẩu
NK : Nhập khẩu
XNK : Xuất nhập khẩu
HĐMBNT : Hợp đồng mua bán ngoại thương
HĐNT : Hợp đồng ngoại thương
CN : Chi nhánh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0231.doc