Trong quá trình hình thành và hoàn thiện TTCK ở Việt Nam, những năm gần đây đã gặt hái được một số thành tựu đáng ghi nhận. Tuy nhiên, những hạn chế của thị trường vẫn là những vấn đề được nhiều người nhắc đến. Những hạn chế này do những nguyên nhân khách quan và chủ quan đem lại: hạn chế do điều kiện thị trường mới hình thành; hạn chế từ trong suy nghĩ, tâm lý của những nhà điều hành thị trường, các nhà đầu tư và công chúng Những hạn chế này cần phải được khắc phục trong thời gian sắp tới.
35 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1522 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp hoàn thiện và phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2/2003 có 123 chứng khoán niêm yết, trong đó có 22 cổ phiếu, với giá trị vốn 1120 tỷ đồng và 101 trái phiếu, với giá trị vốn 11461 tỷ đồng; 13 công ty chứng khoán thành viên, trong đó 6 công ty của ngân hàng. Số còn lại là của các doanh nghiệp và thị trường chứng khoán tư nhân. Đến ngày 31/12/2003 đã có 700 phiên giao dịch khớp giá một lần (mỗi phiên có 1 giá giao dịch), từ đầu năm 2002 đến nay mỗi tuần giao dịch 5 phiên, hiện nay mỗi phiên khớp giá 2 lần.
Trong hơn 4 năm hoạt động thị trường chứng khoán Việt Nam đã diễn biến qua 3 giai đoạn rõ rệt:
Giai đoạn đầu: từ ngày giao dịch đầu tiên đến giữa tháng 6/2001, thời kỳ khủng hoảng thiếu trầm trọng, cầu vượt cung hàng chục lần, giá cổ phiếu tăng đồng loạt, tăng hết mức khống chế. Chỉ số VN-Index từ 100 điểm ngày giao dịch đầu tiên, đến ngày 25/6/2001 lên đến 571,04 điểm, giá cổ phiếu bình quân tăng từ 7 – 10 lần.
Giai đoạn hai: Từ ngày 25/6/2001 đến đầu tháng 11/2001, thị trường khủng hoảng thừa, giá giảm đồng loạt, giảm liên tục, giảm hết mức khống chế; VN- Index từ 571,04 điểm sau chưa đầy 4 tháng xuống còn 190 điểm (giảm 3 lần).
Giai đoạn 3: Từ cuối năm 2001 đến nay, thị trường trong tình trạng trầm lắng, VN-Index tiếp tục đi xuống, nhưng ở mức nhẹ hơn, năm 2003 chỉ số biến động trong khoảng từ 140 – 150 điểm. Doanh số giao dịch cổ phiếu trong 2 năm 2002 – 2003 bình quân mỗi phiên từ 2-3 tỷ đồng, thời kỳ cao nhất trước đây mỗi phiên từ 30- 35 tỷ đồng vì giá thị trường giảm liên tục trong một thời gian dài, nên hầu hết người đầu tư đều bị thua lỗ, một bộ phận lớn đã bổ việc hoặc đóng băng tài khoản, số người tham gia rất ít. Và, vì doanh số giao dịch thấp, các công ty chứng khoán bị thua lỗ. Năm 2004, quỹ đầu tư chứng khoán đầu tiên đã tiến hành huy động vốn và đi vào hoạt động. Tính đến hết tháng 6/ 2004; có 820 phiên giao dịch đã được thực hiện thành công tại Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành Phố Hồ Chí Minh với tổng giá trị giao dịch trung bình mỗi phiên hơn 17 tỷ đồng. Ngày 30/6/2004 chỉ số VN-Index là 249,7 điểm tăng 80,56 điểm cơ sở (khoản 47,6%) so với dầu năm. Tổng giá trị thị trừơng tính cùng thời điểm là 3,4% GDP tăng hơn 2 lần so với năm 2003. Như vậy tốc độ suy giảm của thị trường chứng khoán đã chậm hẳn và thị trường chứng khoán đang có dấu hiệu hồi phục. Một kế cục mang lại nhiều hy vọng mới cho năm 2004.
Hoạt động của thị trường chứng khoán
- Về công tác tổ chức và vận hành TTGDCK
Trung tâm giao dịch Chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh (TTGDCK) được tổ chức theo mô hình tập trung với quy mô nhỏ, thực hiện chức năng xác định giá chứng khoán theo quan hệ cung cầu và tạo cơ hội luân chuyển vốn cho nhà đầu tư.
Khi thị trường bắt đầu hoạt động chỉ có 2 cổ phiếu được niêm yết, giao dịch tại TTGDCK với tổng giá trị vốn niêm yết là 270 tỷ đồng, đến nay tổng giá trị chứng khoán niêm yết là gần 6600 tỷ đồng bao gồm trên 1000 tỷ đồng cổ phiếu của 21 công ty cổ phần và trên 5500 tỷ đồng trái phiếu chính phủ và trái phiếu NH Đầu tư và Phát triển, Thời gian đầu TTGDCK chỉ thực hiện giao dịch 3 phiếu 1 tuần, từ tháng 3/2002 đã nâng lên 5 phiên 1 tuần. Tính đến 30/6/2003 TTGDCK đã tổ chức được 570 phiên giao dịch chứng khoán liên tục, an toàn, trị giá chứng khoán giao dịch đạt gần 3700 tỷ đồng trong đó giao dịch cổ phiếu khoảng 88% và giao dịch trái phiếu gần 12%.
TTGDCK đã thực hiện tốt chức năng của một lưu ký chứng khoán trong điều kiện cơ sở kỹ thuật cũng như nhân lực còn hạn chế. Hệ thống lưu ký hoạt động tương đối hiệu quả, vì thế đã rút ngắn thời gian thanh toán từ 4 ngày xuống còn 3 ngày…
Từ 20/6/2003 TTGDCK đã áp dụng một số giải pháp kỹ thuật như: hạ thấp lô giao dịch cổ phiếu, tăng từ 1 lên 2 lần khớp lệnh tong một phiên giao dịch, bổ sung lệnh giao dịch tại mức giá khớp lệnh, giảm tỷ lệ ký quỹ tối thiểu xuống 70%. Việc áp dụng các giải pháp kỹ thuật bước đầu có tác dụng thu hút thêm các nhà đầu tư, đa dạng hình thức lệnh giao dịch, tăng thêm lựa chọn cho nhà đầu tư, tập dượt cho việc khớp lệnh sau này.
- Về phát triển hàng hoá cho TTCK
Đến 30/6/2003, UBCKNN đã cấp phép đăng ký lại để niêm yết lại cho 21 công ty cổ phần với tổng giá trị cổ phiếu niêm yết là 1086 tỷ đồng; cấp phép niêm yết cho ngân hàng Đầu tư và Phát triểnvới tổng giá trị trái phiếu niêm yết 157 tỷ đồng. TTGDCK đã phối hợp với Bộ Tài chính tổ chức hơn 50 đợt trái phiếu chính phủ, trái phiếu của quỹ hỗ trợ đầu tư và phát triển được hơn 5400 tỷ đồng đưa ra niêm yết trên TTGDCK. UBCKNN cũng đã cấp giấy phép phát hành thêm cổ phiếu cho 5 công ty với tổng giá trị trên 155,4 tỷ đồng. Hiện nay UBCKNN đang xem xét hồ sơ xin đăng ký niêm yết cổ phiếu của 2 công ty (Công ty cổ phần cơ khí xăng dầu và Công ty cổ phần Bông Bạch Tuyết).
Qua 4 năm hoạt động cho thấy công tác tạo hàng hoá cho TTCK là rất quan trọng. Mặc dù trong thời kỳ đầu việc triển khai công tác này còn nhiều khó khăn, song đến nay số lượng hàng hoá niêm yết đạt trên 6000 tỷ đồng, đây là một sự cố gắng rất lớn của UBCKNN cũng như các Bộ, ngành, địa phương.
Các công ty niêm yết bước đầu đã thực hiện tốt các quy định về công bố thông tin trên TTCK và chú trọng nâng cao chất lượng quản trị công ty. Tuy nhiên, do TTCK là một lĩnh vực mới, phức tạp nên các công ty niêm yết cũng đã bộc lộ một số hạn chế nhất định.
Hiện nay việc phát triển cho TCK đang gặp nhiều khó khăn, số lượng hàng hoá có tăng nhưng rắt chậm, các công ty niêm yết chủ yếu vẫn là các công ty có quy mô vốn nhỏ, chưa có phát hành trái phiếu công ty. Trái phiếu công trình niêm yết trên TTGDCK; khối lượng trái phiếu chính phủ đấu thầu qua TTGDCK còn ít, chưa đáp ứng được nhu cầu huy động vốn.
- Về hoạt động của các tổ chức trung gian tên thị trường.
+Hoạt động của công ty chứng khoán
Đến 30/6/2002, UBCKNN đã cấp phép cho 12 công ty chứng khoán với tổng số vốn điều lệ là 465 tỷ đồng để triển khai các nghiệp vụ: môi giới bảo lãnh phát hành, tự doanh, quản lý danh mục đầu tư và tư vấn đầu tư.
Qua 3 năm tham gia thị trường, về cơ bản các công ty chứng khoán đều tuân thủ các quy định pháp lệnh về chứng khoán và TTCK. Bước đầu, các công ty chứng khoán đã tập trung hoàn thiện bộ máy tổ chức, nâng cao năng lực nghiệp vụ phục vụ khách hàng; một số công ty đã tăng vốn điều lệ, sử dụng phương thức nhận lệnh giao dịch gián tiếp qua fax, mạng trực tuyến…, mở thêm chi nhánh, phòng giao dịch, đại lý nhận lệnh, tại các tỉnh,thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Bình Dương, Đồng Nai, Long An, Đà Nẵng, các công ty chứng khoán đã xây dựng được một đội ngũ nhân viên nghiệp vụ kinh doanh được đào tạo tốt.
+ Hoạt động của các tổ chức trung gian,hỗ trợ khác
UBCKNN đã chọn Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam làm ngân hàng chỉ định thanh toán, thực hiện thanh toán tiền cho các giao dịch chứng khoán. Tính đến 30/6/2003, ngân hàng đã thực hiện thanh toán bù trừ cho các giao dịch chứng khoán một cách kịp thời, chính xác với tổng số tiền khoảng 1000 tỷ đồng. Hiện nay ngân hàng thanh toán đang triển khai hoạt động theo hướng vừa là hoạt động lưu ký vừa là ngân hàng phục vụ hoạt động của TTCK.
Để phục vụ cho chuyển giao chứng khoán nhanh chóng, an toàn và thực hiện dịch vụ liên quan đến quyền của người nắm giữ chứng khoán, đến nay đã có 5 ngân hàng lưu ký và 11 công ty chứng khoán. Hiện nay thị trường chứng khoán đã có hệ thống lưu ký chứng khoán tập trung hoạt động ổn định. Nhà đầu tư nước ngoài đã được phép mở tài khoản giao dịch trực tiếp tại các công ty chứng khoán, ngân hàng trong nước, do vậy đã có tác động tích cực khuyến khích sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường. Tuy vậy hiện nay cơ sở vật chất của hệ thống này còn yếu kém, nghiệp vụ lưu ký, đăng ký và thanh toán bù trừ chưa được tự động hoá, phải xử lý thủ công làm tăng thời gian, chi phí, độ an toàn thấp.
Đến nay, UBCKNN đã chấp thuận cho 7 tổ chức kiểm toán độc lập kiểm toán báo cáo tài chính của các tổ chức phát hành niêm yết chứng khoán và tổ chức kinh doanh chứng khoán gồm 6 tổ chức kiểm toán trong nước và 1 tổ chức kiểm toán nước ngoài. Các tổ chức kiểm toán được chấp thuận đã đáp ứng được yêu cầu kiểm toán cho các đối tượng tham gia thị trường chứng khoán; mặc dù vậy trong quá trình triển khai nhiệp vụ này một số tổ chức kiểm toán cũng có những thiếu sót nhất định, chất lượng báo cáo kiểm toán chưa cao. UBCKNN đã phối hợp chặt chẽ với Bộ tài chính trong việc quản lý các tổ chức kiểm toán để có các biện pháp quản lý kịp thời.
- Về tham gia của các nhà đầu tư trong và ngoài nước
Mặc dù TTCK Việt Nam mới hình thành và hoạt động được 3 năm nhưng đã thu hút được sự tham gia của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Số lượng các nhà đầu tư tham gia thị trường liên tục tăng: cuối năm 2000 có gần 3000 tài khoản giao dịch; cuối năm 2001 có gần 9000 tài khoản giao dịch, cuối năm 2002 có hơn 13000 tài khoản và đến 30 thị trường chứng khoán;30/6/2003 có hơn 14500 tài khoản giao dịch, trong đó có hơn 90 nhà đàu tư tổ chức và 35 nhà đầu tư nước ngoài. Sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài góp phần quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của thị trường.
Trên thực tế, nhà đầu tư tham gia thị trường chủ yếu là nhà đầu tư cá nhân, ít vốn, tham gia thị trường mang tính chất thăm dò, khi thị trường có dấu hiệu bất ổn thì rút vốn tại thị trường. Nhà đầu tư còn vốn quá ít. Số lượng tài khoản giao dịch thường xuyên giao dịch chỉ khoảng 100 tài khoản. Mặt khác, do quy mô của thị trường nhỏ, chính sách đối với nhà đầu tư nước ngoài chưa thực sự rõ ràng, cơ chế mở tài khoản lưu ký, giao dịch còn phức tạp nên chưa thu hút được đông đảo đầu tư nước ngoài; phần lớn nhà đầu tư nước ngoài là người cư trú tại Việt Nam.
- Về công tác quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán.
+ Xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý
UBCKNN phối hợp với cơ quan đã xây dựng được một hệ thống các văn bản pháp luật về chứng khoán và các chính sách quản lý thị trường chứng khoán tương đối đầy đủ để điều chỉnh các hoạt động trên thị trường chứng khoán: Nghị định số 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998 của chính phủ chứng khoán và thị trường chứng khoán; Nghị định số 22/2000/NĐ-CP ngày 10/7/2000 về xử phạt hành chính ….
Hiện nay, UBCKNN đã hoàn thành dự thảo nghị định thay thế Nghị định số 48/1998/NĐ-CP, dự thảo Quyết định của thủ tướng chính phủ về tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài vào TTCK Việt Nam trình chính phủ ký ban hành; đang dự thảo nghị định định số 22/2000/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán ban hành trong năm 2003.
Xây dựng kế hoạch, chiến lược phát triển thị trường chứng khoán
UBCCNN đã trình chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển TTCK Việt Nam trong giai đoạn tới.
+ Công tác thanh tra giám sát hoạt động thị trường
Thời gian vừa qua công tác thanh tra giám sát được tập trung chủ yếu và vấn đề tuân thủ quy định của pháp luật của các tổ chức tham gia trong thị trường. Qua đó kịp thời phát hiện nhứng thiéu sót của công ty niêm yết. Bên cạnh đó thanh tra UBCKNN đã kiểm tra, khuyến nghị TTGDCK cần tăng cường giám sát các hoạt động giao dịch chứng khoán, kịp thời phát hiện nhứng giao dịch không công bằng để có biện pháp giao dịch thích hợp. Các năm vừa qua đã thực hiện được nhiều đợt thanh tra định kỳ cũng như thanh tra, xử lý các trường hợp đột xuất; đã xử phạt hành chính vi phạm công bố thông tin của công ty đồ hộp Hạ long và công tycổ phần đồ hộp Biên Hoà ….
+ Công tác đào tạo, tuyên truyền
Trong thời gian qua Trung tâm Nghiên cứu và bồi dưỡng nghiệp vụ chứng khoán trực thuộc UBCKNN đã mở 18 lớp học miễn phí cho trên 2500 người làm công tác tuyên truyền,báo chí và công chúng quan tâm; thực hiện hàng chục chuyên đề về TTCK trên đài truyền hình Việt Nam: mở 65 lớp đào tạo cơ bản và năng cao về TTCK cho hơn 4200 học viên. Văn phòng đại diện của UBCKNN tại TP HCM đã tích cực phổ biến, tuyên truyền hiểu biết về TTCK cho lãnh đạo các ban nghành tại 11 tỉnh, thành phố miền Trung và miền Nam. Thời gian tới cần đẩy mạnh công tác đào tạo, tuyên truyền để mở rộng phạm vi, tăng số lượng các đối tượng tham gia TTCK.
+ Hợp tác quốc tế
UBCKNN đã tranh thủ được sự giúp đỡ song phương và đa phương từ hơn 20 quốc gia, và các uỷ ban chứng khoán, các sở giao dịch chứng khoán và các tổ chức tài chính quốc tế khác như Ngân hàng phát triển châu á (ADB), Công ty tài chính quốc tế (IFC) trong trợ giúp xây dựng khuôn khổ pháp lý, thực hiện thông lệ quốc tế về quản trị công ty, xây dựng lộ tình phát triển thị trường vốn cũng như đào tạo nguồn nhân lực cho TTCK Việy Nam ….Ngoài ra UBCKNN chính thức gia nhập Tổ chức quốc tế các uỷ ban chứng khoán vào tháng 5/2001có điều kiện tranh thủ kỹ thuật từ các tổ chức cũng như các nước hội viên trong việc phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam.
+Xây dựng cơ sở vật chất và đào tạo lại nhân lực
Đã xây dựng được các hệ thống máy móc thiết bị phục vụ giao dịch, thanh toán, lưu ký chứng khoán; trụ sở và trang thiết bị phục vụ hoạt động quan lý, kinh doanh chứng khoán, đây là điều kiện quan trọng cho sự phát tiển sắp tới. Hiện nay, TTGDCK đang xây dựng hệ thống giao dịch hiện đại; các công ty chứng khoán đã đang có kế hoạch nâng cấp hệ thống thiết bị phục vụ kinh doanh chứng khoán và mở rộng phạm vi quy mô hoạt động….
Cùng với quá trình chuẩn bị thành lập TTCK, UBCKNN đã hình thành được tổ chức bộ máy bao gồm bộ phận chức năng theo quy định của của chính phủ thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với hoạt động thị trường. UBCKNN coi trọng công tác đào tạo nguồn nhân lực tổ chức cho hơn 1000 lượt cán bộ tham gia các lớp đào tạo về chuyên môn, ngoại ngữ, quản lý nhà nước, tài chính, quản trị doanh nghiệp, kế toán, kiểm toán,; hơn 400 lượt các bộ được cử đi tham gia học tập, khảo sát ngắn hạn tại nước ngoài; hơn 50 cán cán bộ được cử đi đào tạo sau đại học…
2.2. Đánh giá tình hình hoạt động của thị trường chứng khoánViệt Nam hiện nay.
2.2.1. Kết quả đạt được
Thứ nhất, đã mở ra một thị trường chứng khoán theo mô hình tập trung với quy mô nhỏ. Hoạt động của thị trường chứng khoán mặc dù chưa phát triển mạnh như mong muốn song bước đầu đã được triển khai khá suôn sẻ, không gây ra những biến động lớn hoặc tác động tiêu cực tới đời sống kinh tế xã hội của đất nước. Trên cơ sở đó các chủ thể tham gia trên thị trường, từ các cơ quan lãnh đạo, tổ chức quản lý, điều hành, người đầu tư, các tổ chức môi giới kinh doanh và các công ty niêm yết tự rút ra những bài học cho chính mình để có một tương lai tốt hơn.
Thứ hai, đã xây dựng được một hệ thống các tổ chức trung gian tham gia hoạt động trên thị trường chứng khoán, bao gồm các công ty chứng khoán, các tổ chức lưu ký, ngân hàng lưu ký, ngân hàng chỉ định thanh toán. Các trung gian tài chính đã làm tốt vai trò môi giới mua bán chứng khoán trên thị trường tập trung; tích cực tham gia bảo lãnh phát hành và tư vấn cho các công ty trong việc niêm yết và cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư, thực hiện tốt việc thanh toán, bù trừ các giao dịch chứng khoán trên thị trường.
Thứ ba, đã hình thành được tâm lý đầu tư chứng khoán trong công chúng, sự ham muốn đầu tư chứng khoán trong công chúng tốt hơn khi chưa có thị trường. Hiện nay công chúng đã dần làm quen với một phương thức đầu tư mới với khoảng 14500 nhà đầu tư, trong đó có hơn 90 nhà đầu tư có tổ chức và 35 nhà đầu tư nước ngoài.
Thứ tư, hoạt động của thị trường chứng khoán góp phần thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nứơc và áp dụng những thông lệ tốt nhất trong quản trị công ty trong đó việc thực hiện công khai thông tin về hoạt động sản xuất kinh doanh và quản trị doanh nghiệp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng tạo ra tiền đề phấn đấu cho sự phát triển vững chắc của doanh nghiệp nói chung và công ty niêm yết nói riêng.
Thứ năm, hoạt động quản lý, vận hành thị trường của UBCKNN và TTGDCK thành phố Hồ Chí Minh đã có những cải tiến và từng bước hoàn thiện trên cơ sở rút kinh nghiệm từ hoạt động thực tiễn, Công tác hoạch định chính sách và định hướng phát triển thị trường chứng khoán đã cơ bản đáp ứng được yêu cầu trước mắt và bước đầu hoạch định chiến lược lâu dài cho thị tường. Khung pháp lý, các chính sách cho hoạt động và khuyến khích tham gia thị trường chứng khoán, các đề xuất giải pháp được xây dựng bước đầu đã đáp ứng được yêu cầu điều chỉnh, giám sát hoạt động, thu hút các đối tượng đầu tư và kinh doanh trên thị trường chứng khoán.
Chúng ta đã xây dựng được một thị trường có hệ thống giao dịch khá hiện đại, việc giao dịch diễn ra an toàn không có sai sót kỹ thuật,. Tuy nhiên mới ở giai đoạn đầu phát triển, thị trường chứng khoán đã có một bước tiếp cận nhất định với những chuẩn mực quốc tế trong việc phát triển thị trường chứng khoán và thu hút nhà đầu tư trong nước cũng như nước ngoài.
Thị trường chứng khoán Việt Nam đạt được các kết quả trên là nhờ những thuận lợi cơ bản sau:
Thứ nhất, chúng ta có hệ thống chính trị ổn định, hơn mười lăm năm đổi mới, từ đại hội Đảng khoá VI năm 1986, chúng ta thu hút được những thành quả đáng phấn khởi, uy tín của Đảng cộng sản Việt Nam được củng cố, nhân dân tin đảng, mới chấp hành tốt chủ trương đường lối đổi mới của Đảng.
Thứ hai, nền kinh tế nước ta đạt mức tăng trưởng cao và ổn định, mức tăng GDP hàng năm bình quân từ 6% đến 7%, năm 1986 tăng 2,4 so với năm 1995…lạm phát được kiểm soát ở mức dưới 10% một năm (năm 1995: 12,7%; năm 1996: 4,5%; năm 2002: 3,1%..).
Thứ ba, chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đang giải phóng sức lực cho sản xuất kinh doanh, huy động mọi nguồn lực cho phát triển thị trường chứng khoán đáp ứng cho nhu cầu đầu tư và phát triển kinh tế – xã hội Việt Nam.
Thứ tư, quá trình cải cách và cơ cấu lại hệ thống ngân hàng Việt Nam đảm bảo an toàn và hiệu quả trong hoạt động kinh doanh theo luật các tổ chức tín dụng. Hệ thống này bao gồm ngân hàng nhà nước, các ngân hàng thương mại 100% vốn nước ngoài, ngân hàng liên doanh, ngân hàng cổ phần, công ty tài chính … đã có sự cạnh tranh hợp tác mạnh mẽ, hiệu quả kinh doanh tăng lên, lãi suất cho vay ngày một giảm tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch mua bán chứng khoán ở nước ta.
Thứ năm, nhà nước quyết tâm cao trong việc tạo hàng hoá cho thị trường, đó là đã phát hành 4000 tỷ đồng công trái cây dựng tổ quốc, một khối lượng lớn trái phiếu đặc biệt của chính phủ nhằm tăng vốn điều lệ cho các ngân hàng thương mại quốc doanh, tín phiếu kho bạc, trái phiếu ngân hàng đầu tư và phát triển khoảng 2000 tỷ đồng, thường xuyên đổi mới cải cách doanh nghiệp nhà nước, thực CPH các doanh nghiệp nhà nước, thực hiện cổ phần hóa nhằm tăng cường chứng khoán có uy tín cho thị trường.
Thứ sáu, chúng ta đang tiến hành cải cách đổi mới nền hành chính quốc gia, tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật, đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức đủ “tâm” đủ ‘tầm’ hoành thành tốt nhiệm vụ.
Thứ bảy, hệ thống công nghệ thông tin của ta đang phát triển theo chiến lược tăng tốc của nghành bưu điện. Phát triển hệ thống thông tin hiện đại là điều kiện hỗ trợ phát triển TTCK Việt Nam.
Thứ tám, con người Việt Nam bản chất cần cù, chịu khó, thông minh, dễ tiếp cận với cái mới, ham học hỏi. Vì thế trong thời gian không xa chúng ta sẽ có những chuyên gia chứng khoán, những nhà tạo lập thị trường và phân tích chuyên nghiệp.
Thứ chín, nước ta là nước đang phát triển, tài nguyên thiên nhiên chưa được thăm dò, khai thác, đây là yếu tố quan trọng thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Thứ mười, các văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán như : Thông báo số 91/TB/TW, ngày 28/9/1991 của thường vụ Bộ chính trị về việc chuẩn bị thành lập TTCK ở Việt Nam; Nghị định số 75/1996/NĐ-CP ngày 28/11/1996 của thủ tướng về thành lập Uỷ Ban cứng khoán nhà nước;… Đây là hệ thống văn bản pháp luật cơ sở bước đầu cho hoạt động của TTCK Việt Nam.
2.2.2 Hạn chế
a, Hạn chế
Một là: Hạn chế về mặt khuôn khổ pháp luật và năng lực hoạch định chính sách.
Xét trên phương diện khuôn khổ luật pháp, trở ngại lớn nhất hện nay là TTCK chưa có được một Luật Chứng khoán toàn diện và đầy đủ. Lĩnh vực chứng khoán và TTCK còn chịu sự điều tiết của các văn bản pháp luật khác như Luật Doanh nghiệp, luật tổ chức tín dụng, Luật phá sản. Do vị thế pháp lý của NĐ144 thấp hơn các luật liên quan và môi trường pháp lý hiện hành còn chưa đầy đủ thì những bất cập xung quanh những văn bản pháp luật liên quan đến TTCK là điều khó tránh khỏi. Một môi trường pháp lý ổn định và đầy đủ là nhân tố đầu tiên để đảm bảo lòng tin của các nhà đầu tư. Các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài chỉ có thể đầu tư vào TTCK nếu họ cảm thấy vốn đầu tư cũng như kỳ vọng sinh lời của họ được đảm bảo, được bảo vệ bởi một khuôn khổ pháp luật minh bạch và an toàn. Điều này cho thấy sự cần thiết và tầm quan trọng của việc xây dựng một Luật Chứng khoán.
Bên cạnh đó, năng lực hoạch định chính sách và thực thi luật pháp cũng là một vấn đề cần tính đến. Đánh giá một cách khách quan, UBCK và những cơ quan quản lý liên quan khác trên thị trường vốn chưa có đủ năng lực cần thiết để thực hiện chức năng quản lý, giám sát và cưỡng chế thực thi các chính sách trên TTCK một cách hiệu quả. Điều này xuất phát từ thực trạng đội ngũ cán bộ quản lý thị trường thiếu kinh nghiệm, khả năng xây dựng và thực thi các chính sách thích hợp nhằm khuyến khích sự phát triển của thị trường, thu hút và bảo vệ nhà đầu tư.
Hai là: Hạn chế về mặt thể chế thị trường.
Xét trên góc độ thu hút vốn đầu tư thì những hạn chế về mặt thể chế thị trường là một trở ngại đáng kể, không chỉ trên phương diện đảm bảo an toàn cho chu trình lưu chuyển vốn đầu tư mà còn trên phương diện duy trì tính toàn vẹn của công chúng đầu tư trong và ngoài nước. Đối với một thị trường mới hình thành và phát triển thì việc chưa có được một thể chế thị trường hoàn chỉnh là điều tất yếu. Sự vắng mặt của các tổ chức tự quản, tổ chức định mức tín nhiệm, trung tâm lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán, phạm vi hoạt động còn hạn hẹp và tính chuyên môn hoá chưa cao của các công ty chứng khoán, sự hạn chế trong tư cách độc lập của cơ quan quản lý chứng khoán là những điểm yếu khiến cho nhà đầu tư trong nước cũng như nước ngoài coi việc đầu tư vào TTCK phần nào mang tính chất mạo hiểm. Bên cạnh đó, sự thiếu hoàn thiện trong thể chế thị trường cũng khiến cho nhà đầu tư trong nước và nước ngoài gặp phải những khó khăn trong việc ra quyết định đầu tư và phải đối mặt với những rủi ro.
Ba là: Hạn chế về nguồn cung chứng khoán
Một hạn chế nổi bật về nguồn cung chứng khoán xét từ góc độ thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài là số lượng hàng hoá còn ít ỏi và chất lượng hàng hoá còn chưa cao. Một TTCK với 24 cổ phiếu niêm yết của những công ty có công ty có quy vốn chưa phải là lớn không thể đại diện cho nền kinh tế Việt Nam để các nhà đầu tư nước ngoài có thể nhìn nhận và đánh giá sức khoẻ cũng như triển vọng của toàn bộ nền kinh tế nhằm đưa ra các quyết đầu tư có cơ sở. Tương tự, số lượng chứng khoán niêm yết quá ít ỏi trên thị trường cũng khiến cho các nhà đầu tư trong nước chưa có được nhiều sự lựa chọn để thay thế cho các khoản tiền gửi ngân hàng theo truyền thống của minh. Các cổ phiếu niêm yết trên thị trường chưa thực sự là cổ phiếu của những công ty mạnh nhất để thuyết phục nhà đầu tư trong nước và nước ngoài rằng tiền bạc của họ sẽ sinh lời thông qua những cổ phiếu đó.
Bốn là : Hạn chế về cơ sở nhà đầu tư
Do bối cảnh kinh tế và xã hội, TTCK chưa có được một cơ sở nhà đầu tư hoàn thiện bao gồm các nhà đầu tư có tổ chức và nhà đầu tư cá nhân như những thị trường phát triển khác. Phần lớn các nhà đầu tư trên thị trường là nhà đầu tư nhỏ lẻ và chưa có đủ kinh nghiệm cũng như kiến thức về đầu tư chứng khoán. Đây là một vấn đề có tính hai mặt. TTCK chưa hoàn thiện, thiếu các định chế có vai trò trụ cột trong kiến tạo thị trường; Hệ thống văn bản pháp luật chưa đầy đủ, hàng hoá ít ỏi là một nguyên nhân khiến cho TTCK chưa thực hấp dẫn với các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Ngược lại, sự thiếu mặn nồng của các nhà đầu tư lại khiến cho thị trường không có động lực phát triển cần thiết.
Các nhà đầu tư nước ngoài còn dè dặt với TTCK do chưa tiếp cận được với những thông tin doanh nghiệp cần thiết để ra quyết định đầu tư. Trong đó nhà đầu tư trong nước lại gặp phải những trở ngại về mặt kiến thức và kinh nghiệm.
Năm là: Nền kinh tế Việt Nam còn khó khăn, thu nhập của dân chúng còn thấp, nguồn vốn lại bị phân tán, đầu tư vào các tài sản thay thế như tiền gửi ngân hàng, đầu tư bất động sản, ngoại tệ …chưa có chính sách phù hợp để khai thác nguồn lực tài chính trong dân. TTCKchưa thực sự trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn cho đầu tư phát triển. Hiện nay, tỷ lệ đầu tư vào công chứng khoán còn quá nhỏ bé, tổng giá trị thị trường mới chiếm khoảng 1,6% GDP.
Mặt khác, kiến thức và sự hiểu biết của công chúng đầu tư cũng như kinh nghiệm và khả năng kinh doanh của các công ty chúng khoán còn hạn chế cũng là nguyên nhân dẫn đến TTCK hoạt động chưa tốt.
b, Nguyên nhân
Những tồn tại và hạn chế nêu trên bắt nguồn từ các nguyên nhân cơ bản sau:
Một là, TTCK là một bộ phận cấu thành của thị trường tài chính nhưng chưa được xây dựng và phát triển một cách riêng rẽ, thiếu chiến lược tổng thể phát triển thị trường tài chính cũng như sự phối hợp chưa chặt chẽ giữa các Bộ, nghành liên quan trong hoạch định và thực thi các chính sách và giải pháp.
Hai là, chứng khoán niêm yết còn hạn chế về mặt số lượng, chất lượng chưa cao. Nhiều doanh nghiệp chưa tiếp cận kịp thời với thị trường vốn mà còn ỷ lại vào sự bao cấp, ưu đãi của nhà nước hoặc thói quen vay ngân hàng, mặt khác doanh nghiệp còn ngại công bố thông tin, công khai tài chính khi tham gia nêm yết.
Ba là, thị trường còn thiếu vắng các nhà đầu tư có tổ chức (Ngân hàng, bảo hiểm, quỹ đầu tư,các tổ chức đàu tư chứng khoán chuyên nghiệp) nên ảnh hưởng đến tính ổn định của thị trường do tác động tâm lý của các nhà đầu tư nhỏ, thiếu tính chuyên nghiệp.
Bốn là,việc quản lý và điều điều hành thị trường của UBCKN, TTGDCK còn bất cập, hạn chế do thiếu chủ động và thiếu kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ quản lý thị trường.
Năm là, vai trò của nhà nước hỗ trợ thị trường là rất quan trọng nhưng chưa được chú ý đúng mức như các chính sách khuyến khích ưu đãi, đặc biệt là ưu đãi về thuế đối với các tổ chức tham gia thị trường.
Sáu là, những biến động trong thời gian qua về thị trường bất động sản, giá vàng, lãi xuất ngân hàng tăng …cũng tác động, ảnh hưởng xấu đến TTCK.
Bẩy là, sự bất cập của tién trình cổ phần hoá (CPH) . Từ năm 1992 đến nay, việc thực hiện CPH chỉ đạt 63% kế hoạch đặt ra xét về mặt số lượng các doanh nghiệp cần CPH, con số 6% số vốn tại các DNNN được CPH trong suốt thời kỳ này lại càng cho thấy những doanh nghiệp được CPH chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Sự bất cập này bắt nguồn từ những khó khăn trong định giá tài sản, xử lý nợ quá hạn, những hạn chế về năng lực và những tồn tại về mặt tư tưởng người quản lý doanh nghiệp.
Tám là, các doanh nghiệp chưa nhận thức đầy đủ về lợi ích của việc ra niêm yết tạiTTCK. Chưa quen với một văn hoá kinh doanh minh bạch, các doanh nghiệp coi việc công bố thông tin và đáp ứng những chuẩn mực về kiểm toán, kế toán, quản trị công ty là một gánh nặng và không muốn ra niêm yết trên TTCK.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện và phát triển
thị trường chứng khoán Việt Nam
3.1. Định hướng phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam đến 2010.
3.1.1 Mục tiêu chiến lược tổng quát
Căn cứ nhiệm vụ mà Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đề ra: ‘Đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đaị hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Đưa GDP năm 2010 lên ít nhất gấp đôi năm 2000. Phát triển nhanh và bền vững thị trường vốn, nhất là thị trường vốn dài hạn và trung hạn. Tổ chức và vận hành thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm an toàn, hiệu quả …”; trên cơ sở những mặt còn hạn chế của thị trường chứng khoán hiện nay, đồng thời xuất phát từ nhu cầu của nền kinh tế và các xu hướng, thách thức của thị trường chứng khoán trong tương lai, ngày 5 tháng 8 năm 2003, tại quyết định số 163/2003/QĐ-TTG Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt chiến lược phát triển TTCK Việt Nam đến năm 2010 với mục tiêu như sau:
Phát triển TTCK cả về quy mô và chất lượng hoạt động nhằm tạo ra kênh huy động vốn trung và dài hạn cho đầu tư phát triển, góp phần phát triển thị trường tài chính Việt Nam; duy trì trật tự, an toàn, mở rộng phạm vi, tăng cường hiệu quả quản lý, giám sát thị trường nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người đầu tư; từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh và chủ động hội nhập thị trường tài chính quốc tế.
Trong đó, chiến lược cũng nêu rõ 4 quan điểm và nguyên tắc phát triển thị trường chứng khoán, đó là:
- Phát triển TTCK phù hợp với điều kiện thực tế và định hướng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, với các tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế, từng bước hội nhập với thị trường tài chính khu vực và quốc tế.
- Xây dựng TTCK thống nhất trong cả nước, hoạt động an toàn hiệu quả góp phần huy động vốn cho đầu tư phát triển và thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
- Nhà nước thực hiện quản lý bằng pháp luật, tạo điều kiện để TTCK hoạt động và phát triển; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp và có các chính sách khuyến khích các chủ thể tham gia TTCK.
Bảo đảm tính thống nhất của thị trường tài chính trong pham vi quốc gia, gắn việc phát triển TTCK với việc phát triển thị trường vốn, thị trường tiền tệ, thị trường bảo hiểm.
3.1.2. Định hướng phát triển TTCK Việt Nam đến năm 2010.
- Mở rộng quy mô của TTCK tập trung, phấn đấu đưa tổng giá trị thị trường đến năm 2005 đạt mức 2-3%GDP và đến năm 2010 đạt mức 10-15%GDP;
a, Tập trung phát triển thị trường trái phiếu, trước hết là trái phiếu chính phủ để huy động vốn cho ngân sách nhà nước và cho đầu tư phát triển.
b, Tăng số lượng các loại cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung nhằm quy mô về vốn cho các doanh nghiệp và nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các công ty niêm yết.
- Xây dựng và phát triển các trung tam giao dịch chứng khoán, Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm lưu ký chứng khoán nhằm cung cấp các dịch vụ giao dịch, đăng ký, lưu ký và thanh toán chứng khoán theo hướng hiện đại hoá;
a, Xây dựng trung tâm GDCK TP.HCM thành sở giao dịch chứng khoán với hệ thống giao dịch, hệ thống giám sát, và công bố thông tin thị trường tự động hoá hoàn toàn.
b, Xây dựng thị trường giao dịch cổ phiếu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Hà Nội; chuẩn bị điều kiện để sau năm 2010 chuyển thành TTCK phi tập trung (OTC).
c,Thành lập trung tâm lưu ký độc lập cung cấp các dịch vụ đăng ký chứng khoán, lưu ký và thanh toán cho hoạt động giao dịch chứng khoán của sở giao dịch chứng khoán và trung tâm giao dịch chứng khoán; mở rộng phạm vi lưu ký của chứng khoán chưa niêm yết.
- Phát triển các định chế tài chính trung gian cho TTCK
a, Tăng quy mô và phạm vi hoạt động ngiệp vụ kinh doanh, dịch vụ của các công ty chứng khoán. Phát triển các CTCK theo hai loại hình: CTCK đa nghiệp vụ và CTCK chuyên doanh nhằm tăng chất lượng cung cấp dịch vụ và khả năng chuyên môn hoá hoạt động nghiệp vụ.
b, Khuyến khích và tạo điều kiện các tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế có đủ điều kiện thành lập các Cty CK, khuyến khích các Cty CK thành lập các chi nhánh, phòng giao dịch, đại lý nhận lệnh tại các tỉnh, thành phố lớn, các khu vực đông dân cư trong cả nước.
c, Phát triển các công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán cả về quy mô lẫn chất lượng hoạt động. Đa dạng hoá các loại hình sở hữu đối với công ty quản lý quỹ đâu tư. Khuyến khích các CTCK thực hiện việc quản lý danh mục đầu tư .
d, Thành lập một số công ty định mức tín nhiệm để đánh giá, xếp loại rủi ro các loại chứng khoán niêm yết và định mức tín nhiệm của các doanh nghiệp Việt Nam.
- Phát triển các nhà đầu tư có tổ chức và các nhà đầu tư cá nhân
a, Thiết lập hệ thống các nhà đầu tư có tổ chức bao gồm các NHTM, các CTCK, các công ty tài chính, các công ty bảo hiểm, các quỹ bảo hiểm, quỹ đầu tư, …tạo điều kiện cho các tổ chức này tham gia thị trường với vai trò là các nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và thực hiện chức năng của các nhà tạo lập thị trường.
b, Mở rộng và phát triển các loại hình quỹ đầu tư chứng khoán; tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nhỏ, các nhà đầu tư cá nhân tham gia vào thị trường chứng khoán thông qua góp vốn vào cấc quỹ đầu tư.
Điều kiện phát triển Thị trường chứng khoán Việt Nam về chiều sâu
Thứ nhất, Chính sách pháp luật về TTCK phải đầy đủ, có quy định hết sức rõ ràng và cụ thể để bảo dảm nguyên tắc công khai, minh bạch cho TTCK và tạo điều kiện thuận lợi cho sự tham gia của các chủ thể có liên quan. Về điểm này, mặc dù trong thời gian qua, các quy định pháp luật về chứng khoán của nước ta đã được sửa đổi và bổ sung khá nhiều nhưng thực tế lại chậm được triển khai và vẫn chưa thật sự đầy đủ, rõ ràng, cũng như cũng chưa đáp ứng được những yêu cầu phát triển của thị trường.
Thứ hai, Quy mô của thị trường phải lớn, hàng hoá trên TTCK phải phong phú và đa dạng; nghĩa là phải có nhiều loại cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư, các công cụ phái sinh… Đây là một điểm rất yếu của TTCKViệt Nam hiện nay. Ngoại trừ sự phong phú và đa dạng của trái phiếu Chính phủ, các loại hàng hoá khác trên thị trường hiện còn quá ít và thậm chí chưa xuất hiện.
Thứ ba, phải có nhiều chủ thể tham gia thị trường như CTCK, các quỹ đầu tư, các công ty bảo hiểm …Sự tham gia gia của các định chế tài chính này sẽ giúp mở rộng quy mô của thị trường, cung cấp nhiều sản phẩm dịch vụ có liên quan, tạo nên sự sôi động và thúc đẩy thị trường phát triển.
Thứ tư, các tổ chức tham gia thị trường như các công ty niêm yết, công ty chứng khoán, cơ quan thông tin đại chúng .. và có những hiểu biết nhất định về TTCK.
3.2. Giải pháp
3.2.1. Giải pháp trước mắt
Một là, sửa đổi Nghị định 48/1998/ NĐ- CP theo hướng mở rộng phạm vi điều chỉnh phù hợp với thực tiễn, yêu cầu phát triển của thị trường. UBCKNN đã phối hợp với các Bộ, nghành liên quan dự thảo Nghị định và đã trình Chính phủ. Bên cạnh việc sửa đổi Nghị định 48/CP, cần phải sửa đổi ban hành các chính sách, văn bản về thuế, phí, chế độ kế toán, kiểm toán, chế độ quản lý ngoại hối, và sở hữu của các bên nước ngoài theo hướng tăng cường tính công khai minh bạch, và tiếp tục hỗ trợ ưu đãi cho thị trường phát triển.
Hai là, tăng cường số lượng và chất lượng vủa các chứng khoán niêm yết trên thị trường.
Tăng nguồn cung chứng khoán là một biện pháp chính sách không thể thiếu trong quá trình phát triển TTCK và thu hút đầu tư qua TTCK. Phần lớn nguồn hàng tiềm năng cho TTCK là các doanh nghiệp cổ phần hoá. Do vậy, tiến trình cổ phần hoá có ý nghĩa quan trọng đối với việc phát triển TTCK. Các DNNN cần được trợ giúp để thực hiện các thủ tục tái cơ cấu, định giá chào bán chứng khoán lần đầu ra công chúng. Cơ chế CPH sẽ được đổi mới nhằm tăng hiệu quả và rút ngắn thời gian thực hiện các thủ tục CPH. Để giải quyết các khó khăn trong quá trình định giá doanh nghiệp thực hiện CPH, việc định giá tài sản của những doanh nghiệp này phải do các tổ chức trung gian thị trường thực hiện thay cho những hội đồng định giá trong nội bộ doanh nghiệp trước đây. Tính chuyên môn hoá cao và tư cách độc lập của các định chế trung gian như công ty kiểm toán và công ty chứng khoán sẽ giúp xác định được mức giá chính xác cho cổ phiếu chào bán của doanh nghiệp, hạn chế những yếu tố tiêu cực trong quá trình CPH. Việc chào bán chứng khoán của các doanh nghiệp CPH này sẽ được thực hiện thông qua đấu thầu công khai tại các TTGDCK, tạo điều kiện cho công chúng đầu tư dễ dàng tham gia vào tiến trình chuyển đổi doanh nghiệp và tạo thị trường giao dịch cho cổ phiếu của doanh nghiệp CPH. Sự kết nối đồng thời các thủ tục CPH và niêm yết này sẽ giúp loại bỏ sự trì trệ trong CPH và khoảng cách thời gian giữa thời điểm CPH và việc ra niêm yết trên TTCK. Bên cạnh tiến trình này, việc CPH các Tổng công ty lớn của nhà nước và các ngân hàng thương mại quốc doanh, chuyển đổi các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thành công ty CP để chuẩn bị niêm yết trên TTCK cũng là một giải pháp chính sách tích cực nhằm gia tăng chất lượng hàng hoá chứng khoán trên thị trường.
Ba là, mở rộng mạng lưới và quy mô hoạt động nâng cao chất lượng dịch vụ của các công ty chứng khoán; thành lập một số quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán.
Bốn là, hoàn thiện một bước cơ sở vật chất, kỹ thuật của thị trường bằng cách nâng cấp, hiện đại hoá hệ thống giao dịch và giám sát thị trường của TTGDCK; khẩn trương mua sắm lắp đặt trang thiết bị, hệ thống thông tin liên lạc hiện đại cho các sàn giao dịch (cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư) hoạt động tại hai trung tâm giao dịch chứng khoán, bởi lẽ trong thời gian tới, chúng ta sẽ thực hiện khớp lệnh liên tục khi có số lượng công ty niêm yết và công ty chứng khoán tăng nhiều, số lượng tài khoản giao dịch lớn, kỹ thuật giao dịch qua mạng Internet; tự động hoá một bước hệ thống lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán. Xây dựng TTGDCK hà Nội cho giao dịch cổ phiếu của cá doanh nghiệp vừa và nhỏ làm cơ sở cho phát triển thị trường OTC.
Năm là, phát triển TTCK trong mối tương quan với thị trường tài chính.
Để đảm bảo mục tiêu phát triển thị trường tài chính một cách cân đối, toàn diện và hiệu quả với sự gắn kết chặt chẽ và hài hoà giữa các khu vực cấu thành thị trường, việc xây dựng TTCK cầ được thực hiện trong mối liên kết chặt chẽ với thị trường bảo hiểm và thị trường tiền tệ. Thị trương bảo hiểm là một khu vực cung cấp các nhà đầu tư có tổ chức với tiềm lực tài chính dồi dào nhất cho TTCK và ngược lại, TTCK tạo ra những công cụ đầu tư đa dạng để các công ty bảo hiểm có thể quản lý các danh mục đầu tư của mình một cách hiệu quả. Trong bối cảnh hiện nay, thị trường bảo hiểm tại Việt Nam đã thu hút được một số lượng khách hàng đáng kể và huy động được nguồn vốn khá lớn. Đến cuối năm 2003 doanh thu phí bảo hiểm của năm công ty bảo hiểm nhân thọ đang hạot động đạt trên 7000 tỷ đồng, gấp 2 lần so với doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ cùng kỳ trước đó; Dự phòng bảo hiểm nhân thọ đến cuối năm 2003 đạt gần 11.000 tỷ đồng. Hầu hết các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ có kỳ hạn từ 5 năm trở lên, vì thế đây là nguồn vốn đầu tư dài hạn cho thị trường vốn. Xét trên một phương diện nào đó, các công ty bảo hiểm chính là một bộ phận lớn tạo nên cơ sở nhà đầu tư có tổ chức và cung cấp nguồn vốn dài hạn, ổn định cho TTCK. Vấn đề cần giải quyết hiện nay là khuyến khích các công ty bảo hiểm tham gia vào TTCK và tạo ra những hàng hoá hấp dẫn trên thị trường để có thể đảm bảo khả năng sinh lợi của những công ty này khi tham gia đầu tư trên TTCK.
Với tư cách là một thị trường vốn dài hạn, TTCK cần được phát triển song song với thị trường tiền tệ, tức là thị trường cung cấp các nguồn vốn ngắn hạn thông qua tín dụng ngân hàng. Mối liên hệ giữa thị trường vốn và thị trường tiền tệ trước hết được phát triển qua thị trường trái phiếu, hoán đổi và các nghiệp vụ thị trường mở thực hiện giao dịch ngắn hạn các công cụ nợ dài hạn là mục tiêu quan trọng của giải pháp này.
Sáu là, giải pháp về tổ chức-điều hành
Sắp xếp, hoàn thiện tổ chức bộ máy của UBCKNN, TTGDCK theo tinh thần NĐ30/2003/NĐ-CP ngày 1/4/2003 của chính phủ nhằm nâng cao khả năng quản lý điều hành giám sát thị trường thông qua việc tổ chức và hoàn thiện các hoạt động theo dõi, kiểm tra, thanh tra các hoạt động trên thị trường để kịp thời ban hành chính sách điều chỉnh phù hợp và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật.
Bẩy là, đẩy mạnh công tác đào tạo tuyên truyền phổ cập và nâng cao kiến thức cho công chúng và các đối tượng tham gia TTCK.
3.2.2 Giải pháp lâu dài
Một là, đảm bảo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định và lành mạnh thông qua các chủ trương chính sách phát triển kinh tế – xã hội tổ chức thực hiện thành công các mục tiêu nghị quyết đại hội về tỷ lệ tăng trưởng GDP, kiềm chế lạm phát củng cố hoạt động thu chi ngân sách đây là tiền đề quan trọng để phát triển TTCK và củng cố lòng tin của công chúng đầu tư.
Hai là, đẩy mạnh phát triển hàng hoá có chất lượng cao trên thị trường mở rộng kênh huy động vốn bằng trái phiếu chính phủ, trái phiếu công ty, trái phiếu công trình. Phấn đấu đưa tổng giá trị thị trường chiếm khoảng 2-3% GDP vào năm 2005 và 10 –15% năm 2010.
Ba là, khuyến khích các nhà đầu tư có tổ chức tham gia thị trường, phát triển hệ thống quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, nghiên cứu thành lập các tổ chức tín nhiệm .
Bốn là, hoàn thiện cơ bản khung pháp lý cho TTCK bằng cacchs xây dựng luật chứng khoán, dự kiến trình quốc hội ban hành vào năm 2006; đi theo đó là sửa đổi các luật có liên quan.
Năm là, tăng cường phối hợp giữa các Bộ, nghành, địa phương nhằm bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất về chủ trương, chính sách phát triển TTCK. Hoạt động của thị trường vốn nói chung và TTCK nói riêng đòi hỏi phải có sự kếy hợp đồng bộ các chính sách tài chính tiền tệ; Để phát triển TTCK không chỉ có vai trò của UBCKNN mà còn có vai trò của các bộ, nghành, địa phương liên quan dưới sự chỉ đạo thống nhất của chính phủ.
3.3 Một số kiến nghị với Chính phủ để thực hiện được các giải pháp phát triển TTCK nêu trên, UBCKNN xin kiến nghị với chính phủ như sau:
Một là, Chính phủ cần xây dựng chiến lược tổng thể về phát triển thị trường tài chính, gắn thị trường tiền tệ với TTCK, trong đó có sự phối hợp tham gia của Bộ Kế hoạch - Đầu tư, Bộ Tài chính, NHNN và UBCKNN. Trước mắt đề nghị Chính phủ xem xét ban hành Nghị định thay thế Nghị định 48/CP về chứng khoán và TTCK, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chiến lược phát triển nghành chứng khoán đến năm 2010.
Hai là, đề nghị Chính phủ giao cho ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp chủ trì phương án đẩy mạnh chương trình CPH doanh nghiệp nhà nước theo tinh thần nghị quyết TW III theo hướng kết hợp ngay từ đầu lựa chọn các doanh nghiệp lớn, đủ tiêu chuẩn để đưa ra niêm yết; khuyến khích và cho phép một số ngân hàng thương mại cổ phần tham gia niêm yết trên TTCK; đồng thời giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư sớm thí điểm CPH một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để đưa vào niêm yết.
Ba là, Chính phủ chỉ đạo xây dựng môi trường kinh doanh cạnh tranh lành mạnh hơn giữa các doanh nghiệp thông qua việc hạn chế, tiến tới xoá bỏ bao cấp về vốn cho doanh nghiệp và cải tiến hệ thống quản trị doanh nghiệp. Việc giảm bao cấp về vốn có thể thực hiện thông qua việc chỉ đạo các doanh nghiệp lớn phát hành chứng khoán để huy động vốn qua thị trường. Việc cải tiến hệ thống quản trị doanh nghiệp cần được thực hiện đồng bộ qua các giải pháp củng cố hệ thống kế toán, nâng cao vai trò của hệ thống kiểm toán độc lập, và áp dụng các thông lệ quốc tế về quản trị công ty đối vối doanh nghiệp.
Bốn là, trong giai đoạn hiện nay chính phủ cần có chính sách tiếp tục ưu đãi thuế đối với các công ty niêm yết, công ty chứng khoán, quỹ đầu tư, công ty quản lý quỹ, các tổ chức lưu ký chứng khoán, người đầu tư trong và ngoài nước để khuyến khích các đối tượng tham gia TTCK. Trước mắt, đề nghị miễn thuế thu nhập doanh nghiệp cho các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư, công ty niêm yết trong thời hạn 5 năm tính từ thời điểm tham gia thị trường.
Năm là, Nới lỏng hạn chế đối với người đầu tư nước ngoài(ĐTNN) bằng việc Thủ tướng chính phủ ban hành quyết định thay thế quyết định 139/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ về tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài vào TTCK Việt Nam để thu hút thêm vốn của nhà ĐTNN vào thị trường và cũng để đồng bộ với các quy định khác của Chính phủ về việc mua cổ phần doanh nghiệp Việt Nam đối với nhà ĐTNN.
Sáu là, Chính phủ giao bộ Tài chính chủ trì sớm thành lập công ty tài chính nhà nước có chức năng mua, bán chứng khoán để hỗ trợ thị trường và bình ổn giá chứng khoán khi thị trường có biến động xấu.
Để thực hiện được các giải pháp phát triển TTCK cần phải xây dựng kế hoạch chương trình tổ chức thực hiện dưới sự chỉ đạo trực tiếp và kiên quyết của Chính phủ và có sự phối hợp chặt chẽ của UBCKNN và các Bộ ngành, địa phương. Chúng ta tin rằng việc đánh gía đúng các kết quả đạt được; nhìn rõ những nguyên nhân của hạn chế, thiếu sót; xác định rõ mục tiêu phát triển TTCK và có giải pháp đúng, tổ chức thực hiện tốt sẽ đưa TTCK Việt Nam đóng vai trò xứng đáng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế- xã hội nước ta.
Kết luận
Đối với một nền kinh tế đang chuyển đổi như Việt Nam hiện nay, TTCK đóng góp một vai trò không nhỏ trong việc thúc đẩy các thành phần khác cùng phát triển. Việc đầu tư đúng mức cho TTCK cả trên phương diện lý luận và thực tiễn là việc làm mà cả Chính phủ, các nhà nghiên cứu và các nhà đầu tư cần phối hợp thực hiện. Trên thực tế ở các nước phát triển, TTCK phát triển ở trình độ cao đã là nhân tố vô cùng quan trọng và không thể thiếu được trong nền kinh tế. Mỗi khi TTCK có biến động, lập tức cả thị trường tài chính rối loạn như mắc phải một “căn bệnh cảm cúm”.
Trong quá trình hình thành và hoàn thiện TTCK ở Việt Nam, những năm gần đây đã gặt hái được một số thành tựu đáng ghi nhận. Tuy nhiên, những hạn chế của thị trường vẫn là những vấn đề được nhiều người nhắc đến. Những hạn chế này do những nguyên nhân khách quan và chủ quan đem lại: hạn chế do điều kiện thị trường mới hình thành; hạn chế từ trong suy nghĩ, tâm lý của những nhà điều hành thị trường, các nhà đầu tư và công chúng… Những hạn chế này cần phải được khắc phục trong thời gian sắp tới.
Để tiến tới hoàn thiện TTCK Việt Nam hiện nay có nhiều giải pháp. Mỗi giải pháp có tác dụng tới một hay một số các khuyết điểm. Do vậy cần phối hợp sử dụng đồng thời các giải pháp với các liều lượng hợp lý phù hợp với từng giai đoạn phát triển và bối cảnh nền kinh tế nhằm phát huy tối đa tác dụng của mỗi giải pháp đó.
Tài liệu tham khảo
Lý thuyết tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính – F.Mishkin.
Lý thuyết tài chính tiền tệ- Khoa Ngân hàng- Tài chính ĐH Kinh tế quốc dân
Giáo trình Thị trường chứng khoán- Khoa ngân hàng- Tài chính ĐH Kinh tế Quốc dân
Công ty cổ phần và thị trường tài chính- NXB Chính trị Quốc gia
Nghị định 144/2003/NĐ-CP
Tạp chí chứng khoán Việt Nam các năm từ 2000 đến 9/2004
Tạp chí đầu tư chứng khoán các năm từ 1/2000 đến 12/2003
Tạp chí tài chính.
Mục lục
Phần mở đầu.......................................................................................................1
Khái niệm và bản chất của TTCK................................................................2
1.1.1 Các quan điểm về TTCK.......................................................................2
1.1.2 Khái niệm TTCK...................................................................................2
1.1.3 Bản chất của TTCK...........................................................................….2
Vai trò và nguyên tắc hoạt động của TTCK..................................................3
1.2.1 Vai trò của TTCK...............................................................................…3
Vai trò của TTCK .....................................................................................3
Nhược điểm của TTCK.........................................................................….4
1.2.2 Nguyên tắc của TTCK .......................................................................….4
Vị trí cấu trúc của TTCK ...........................................................................…5
1.3.1Vị trí của TTCK...................................................................................…5
1.3.2 Cấu trúc của TTCK..............................................................................…5
Hàng hoá trên TTCK..................................................................................…7
1.4.1 Tráiphiếu............................................................................................….7
1.4.2 Cổ phiếu..............................................................................................…9
1.4.3 Chứng chỉ có nguồn gốc từ chứng khoán..............................................11
Các chủ thể tham gia trên TTCK..................................................................11
1.5.1 Nhà phát hành........................................................................................12
1.5.2 Nhà trung gian.......................................................................................12
1.5.3 Nhà đầu tư.............................................................................................12
1.5.4 Các tổ chức quản lý giám sát và hỗ trợ ……………………............….13
Chương 2 Thực trạng tình hình hoạt động của TTCK Việt Nam hiện nay
Thực trạng về hoạt động của TTCK Việt Nam
trong những năm gần đây.........................................................................14
Quá trình hình thành và phát triển................................................................14
Hoạt động của TTCK.................................................................................…15
Đánh giá tình hình hoạt động của TTCK Việt Nam hiện nay..................…19
2.2.1Kết quả đạt được.........................................................................................19
2.2.2 Hạn chế................................................................................................…..21
Hạn chế....................................................................................................21
Nguyên nhân............................................................................................23
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện và phát triển TTCK Việt Nam
3.1 Định hướng phát triển của TTCK Việt Nam đến năm 2010........................25
3.1.1 Mục tiêu chiến lược tổng quát..............................................................25
3.1.2 Định hướng phát triển TTCK Việt Nam đến 2010...............................26
3.2 Giải pháp......................................................................................................27
3.2.1 Giải pháp trước mắt...............................................................................27
3.2.2 Giải pháp lâu dài...................................................................................30
3.3 Một số kiến nghị với Chính phủ...................................................................30
Kết luận………………………………………………………………………..32
Tài liệu tham khảo…………………………………………………………… 33
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33653.doc