Nguồn vốn huy động chiếm vị trí vô cùng quan trọng, nó mang tính chất quyết định đến quy mô hoạt động kinh doanh của Ngân hàng đặc biệt là đối với Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng trong giai đoạn hiện nay.
Quán triệt chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước là phát huy nguồn nội lực, nguồn vốn trong nước đóng vai trò quyết định, do vậy Ngân hàng phải không ngừng cải tiến hoạt động kinh doanh trong đó phải khai thác triệt để nguồn vốn trong nước đặc biệt là nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư. Từ đó Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng càng có thêm điều kiện để mở rộng quy mô đầu tư kinh doanh, tăng tích luỹ, mở rộng thị phần cho hoạt động của minh.
70 trang |
Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 820 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp huy động vốn trong dân cư tại Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng Nam Á vừa qua đã làm giảm sút lòng tin quần chúng nói chung và dân cư quận Hai Bà Trưng nói riêng. Họ đã sử dụng đồng tiền nhàn rỗi dưới nhiều dạng khác nhau, chẳng hạn một số hộ dân cư đã chuyển số tiền nhà rỗi đó sang săn lùng đồng tiền ngoại tệ hoặc dưới dạng vàng bạc.v.v.....
Do vậy với chức năng đi vay để cho vay, Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng đã đi sâu nghiên cứu về hoạt động huy động vốn trong dân cư.
II. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN TRONG CƯ DÂNTẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG HAI BÀ TRƯNG.
Từ sau đại hội Đảng lần thứ VII, cũng như các doanh nghiệp khác, Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng gặp nhiều khó khăn khi chuyển sang kinh tế thị trường. Từ năm 1993 - 1994, hoà chung với sự tăng trưởng của nền kinh tế, Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng đã có nhiều đổi mới trong công tác tổ chức, xoá bỏ đầu mối trung gian Ngân hàng công thương thành phố, chuyển Ngân hàng cơ sở thành các chi nhánh Ngân hàng công thương khuvực. Năm 1995 tình hình sản xuất kinh doanh và đời sống xã hội trên địa bàn Hai Bà Trưng gặp nhiều kho khăn nhiều doanh nghiệp trước đây được bao cấp nên đến nay sản xuất không có hiệu quả, hàng hoá không tiêu thụ được do hàng ngoại nhập cạnh tranh quá lớn dẫn đến việc sản xuất kinh doanh ngày càng khó khăn hơn, một số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh không có hiệu quả và bị lỗ vốn. Nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ bị phá sản, trở thành những gánh nặng cho Ngân hàng và xã hội. Trong bối cảnh như vậy nhưng Ngân hàng vẫn tìm mọi biện pháp để khai thác vốn. Chỉ trong năm 2000 ngân hàng đã có 3 lần tăng giảm lãi suất nhưng vẫn trong tình trạng chung, vốn huy động vẫn chưa phát huy hết hiệu quả bởi các doanh nghiệp không có nhu cầu vay vốn hoặc nếu có nhu cầu vay lại không đủ điều kiện. Trong lĩnh vực tín dụng, nạn lừa đảo, sử dụng vốn sai mục đích v.v... ngày càng có chiều hướng gia tăng, nhất là khối kinh tế ngoài quốc doanh. Đứng trước hoàn cảnh đó Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng vẫn tiếp tục huy động vốn từ các tầng lớp dân cư bằng nhiều hình thức khác nhau, phải chăng đây là kết quả của những cố gắng nỗ lực của chính Ngân hàng và nó được thể hiện ở công tác tổ chức, các hình thức và những chính sách đúng đắn.
1. Công tác tổ chức huy động vốn của Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng.
Là người đi vay để cho vay nên tạo nguồn vốn dồi dào là điều sống còn của Ngân hàng, là tiền đề để mở rộng tín dụng. Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng đã tổ chức huy động vốn qua hệ thống quỹ tiết kiệm, qua hệ thống các phòng giao dịch và tại trụ sở của Ngân hàng.
1.1. Hệ thống quỹ tiết kiệm.
Từ cơ chế bao cấp chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường đòi hỏi các ngân hàng phải năng động hơn, mở rộng đầu tư tăng hiệu quả trong kinh doanh. Để đạt được kết quả như mong muốn, đòi hỏi công tác điều hành và quản lý hoạt động tiền gửi dân cư phải thường xuyên đổi mới cho phù hợp với tình hình thực tế. Hơn nữa với chức năng là người đi vay để cho vay nên sự tăng trưởng dư nợ cho nền kinh tế. Chính vì vậy nhiều quỹ tiết kiệm đã ra đời.
Việc huy động tiền gửi trong dân cư hiện nay được thực hiện qua 12 quỹ tiết kiệm nằm rải rác khắp quận Hai Bà Trưng tạo sự thuận lợi cho mọi tầng lớp dân cư dẫu chỉ là khách vãng lai hay có hộ khẩu thường trú tại địa bàn cũng có thể gửi tiền. Hoạt động của các quỹ tiết kiệm không những chỉ thu hút tiền gửi với cơ chế lãi suất thích hợp và thái độ phục vụ khách hàng tốt nhất mà còn tăng thêm dịch vụ thu đổi mua bán Ngoại tệ... tạo điều kiện thuận lợi cho các tầng lớp dân cư trong việc gửi và rút tiền
1.2 Hệ thống phòng giao dịch:
Với hệ thống gồm 2 phòng giao dịch là phòng giao dịch chợ Hôm và phòng giao dịch Trương Định và 12 quỹ tiết kiệm Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng đã cung cấp một cách tốt nhất các dịch vụ sản phẩm của mình đến với người tiêu dùng. Bên cạnh việc cung cấp các sản phẩm dịch vụ của mình các phòng giao dịch cũng góp phần không nhỏ vào việc tạo vốn cho Ngân hàng như nhận tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi các tổ chức kinh tế v.v...
1.3. Tại trụ sở chính.
Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng đặt trụ sở chính tại số 285 đường Trấn Khát Chân.
Tại trụ sở chính bao gồm nhiều phòng ban như phòng nguồn vốn, phòng kinh doanh, phòng tổng hợp, phòng thông tin điện toán, phòng kho quỹ, phòng kế toán....phòng kế toán tại trụ sở cũng bao gồm cả kế toán giao dịch khách hàng, kế toán tiết kiệm để phục vụ dân cư trong việc gửi tiền và sử dụng các dịch vụ sản phẩm của Ngân hàng. Phòng thông tin điện toán nhận và truyền kịp thời, cung cấp số liệu nhanh chóng chính xác và đầy đủ, tạo điều kiện thuận lợi cho ban lãnh đạo trong công tác quản lý điều hành đạt hiệu quả cao.
2. Các hình thức huy động vốn trong dân cư.
Trong thời gian qua, tại trụ sở Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng đến các phòng giao dịch và các quỹ tiết kiệm đều có chung nhận thức đúng đắn về hoạt động thu hút nguồn vốn trong dân cư là huy động tiền gửi dân cư không chỉ và yêu cầu thực hiên chính sách mà còn do yêu cầu của hoạt động kinh doanh đòi hỏi phải có nguồn vốn không ngừng lớn mạnh, ổn định vững chắc và lãi suất hợp lý. Để đạt được mục tiêu chiến lược ấy, trong những năm qua Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng đã áp dụng rất nhiều biện pháp hữu hiệu để chỉ đạo điều hành hoạt động này.
Theo báo cáo tổng kết công tác kinh doanh năm 2000 của Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng thì tổng nguồn vốn huy động đến 31/12/2000 là 1.566 tỷ đồng tăng 210 tỷ tương đương 15,4 % so với năm 1999. Để đánh giá chi tiết hơn ta nghiên cứu bảng số liệu sau:
Bảng 1
BẢNG KẾT CẤU NGUỒN VỐN HUY ĐỘNG
Đơn vị: tỷ đồng
Năm
Chỉ tiêu
1998
1999
2000
Doanh số
Tỷ trọng
Doanh số
Tỷ trọng
Doanh số
Tỷ trọng
Tổng nguồn vốn huy động
Trong đó:
1211
100
1356
100
1566
100
- Từ dân cư
795
65,7
966
71
1052
67
-Từ các tổ chức k. tế
416
34,3
390
29
514
33
Qua biểu ta thấy từng nguồn vốn huy động tại Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng đều có sự biến động đều, có sự tăng lên hoặc giảm xuống như Tổng nguồn vốn huy động năm 1999 tăng 145 tỷ đồng tương đương 12% so với năm 1998. Năm 2000 tổng nguồn vốn huy động tăng 210 tỷ đồng tương đương 15,4% so với năm 1999 trong đó
* Nguồn huy động đồng tiền gửi của các tổ chức kinh tế năm 1999 giảm 26 tỷ đồng tương đương –6,25% so với năm 1998. Năm 2000 tiền gửi của tổ chức kinh tế này tăng124 tỷ tương ứng với 31,8 % so với năm 1999 đây là nguồn vốn huy động có lãi suất thấp.
Với phương châm "phát triển an toàn - hiệu quả" Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng đã có nhiều biện pháp tích cực đẩy mạnh phục vụ nên các, chỉ tiêu đều vượt kế hoạch tăng trưởng so với năm trước tính đến 31/12/2000. Tổng nguồn vốn của chi nhánh đạt 1566 tỷ đồng tăng 210 tỷ tương đương 15,4% so với cuối năm 1999 trong đó cơ cấu nguồn vốn có bước chuyển mới: tiền gửi dân cư đạt 1052 tỷ đồng tăng 86 tỷ đồng tương đương 8,9%. Tiền gửi các tổ chức kinh tế đạt 514 tỷ đồng tăng 124 tỷ đồng tương đương 31,8 % tiền gửi ngoại tệ tăng 29,6%
Với số lượng tăng như vậy, Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng được xếp loại giỏi về công tác huy động vốn
2.1. Huy động bằng tiền gửi tiết kiệm.
Để duy trì tốc độ phát triển kinh tế hàng năm từ 9-10 % thì phải duy trì tỷ trọng đầu tư cao và đáp ứng nhu cầu lớn về vốn. Đồng thời rút ra từ bài học các cuộc khủng hoảng kinh tế ở các nước khác cho thấy mối nguy hiểm của việt trông chờ vào vốn đầu tư nước ngoài. Do vậy, để duy trì tăng trưởng kinh tế ở mức độ cao, trước hết phải dựa vào nguồn tiết kiệm trong nước, bên cạnh đó tiềm năng về vốn trong dân cư rất lớn, đỏi hỏi các ngân hàng phải phát huy hết khả năng của mình để thu hút lượng tiền nhàn rỗi này phục vụ cho công cuộc phát triển của đất nước.
Là một Ngân hàng công thương lâu đời, Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng có đầy đủ lợi thế để thu hút khách hàng. Với hệ thống quỹ tiết kiệm rộng khắp cùng với việc tổ chức quản lý chặt chẽ nên tổng nguồn vốn của Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng nói chung và tiền gửi của dân cư nói riêng tăng lên với tốc độ cao trong các năm từ 1998 -2000
Năm 1998 là 1211 tỷ đồng
Năm 1999 là 1356 tỷ đồng
Năm 2000 là 1566 tỷ đồng
Điều này chứng tỏ sự phục vụ tận tình chu đáo của cán bộ công nhân viên Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng và sự uy tín giữ được uy tín đối với khách hàng.
Trong cơ cấu nguồn vốn huy động của Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng tiền gửi tiết kiệm luôn chiếm tỷ trọng lớn và nó được biểu hiện qua bảng số liệu sau:
Biểu 2 : TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG VỐN CỦA DÂN CƯ
Đơn vị tính: tỷ đồng
Năm
Chỉ tiêu
1998
1999
2000
So sánh 1999/2000
Doanh số
Tỷ trọng
Doanh số
Tỷ trọng
Doanh số
Tỷ trọng
+
(-)
% +
(-)
Nguồn vốn huy động dân cư
Trong đó:
795
100
966
100
1052
100
86
8,9
- Tiền gửi tiết kiệm
712
89,6
960
99
1052
100
92
9,6
- Tiền gửi kỳ phiếu
83
10,4
6
1
Từ khi nhà nước ban hành khung lãi suất cho cả hệ thống Ngân hàng thì khả năng cạnh tranh về lãi suất giữa các Ngân hàng hầu như bị triệt tiêu những nguồn tiết kiệm trong dân cư lại luôn chảy vào các Ngân hàng công thương, phải chăng đây chính là bề dày kinh nghiệm và uy tín của mình đối với người dân.
Bên cạnh đó từ những năm 1995 đến nay sự ra đời của các Ngân hàng thương mại cổ phần cũng như các Ngân hàng liên doanh, các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài ở nước ta làm cho thị trường liên Ngân hàng diễn ra gay gắt nhưng Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng vẫn luôn giữ vững được uy tín đối với khách hàng. Hơn nữa, Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng nằm trên địa bàn quận Hai Bà Trưng, mật độ dân cư đông đúc với mức thu nhập khá cao nên số dư tiền gửi tiết kiệm tại Ngân hàng cao.
Điều này được chứng minh qua việc tăng lên không ngừng qua biểu 2.
* Tiền gửi tiết kiệm cụ thể: doanh số năm 1999 chỉ có 966 tỷ đồng.
năm 2000 là 1052 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 100% trong nguồn huy động dân cư, tăng 86 tỷ đồng tương đương 9,6% so với năm 1999.
* Nguồn vốn huy động từ hình thức phát hành kỳ phiếu của Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng.
Năm 1999 phát hành kỳ phiếu doanh số thu là 6 tỷ đồng. Năm 2000 ngân hàng không phải dụng đếnhình thức phát hành kì phiếu.
Vai trò của cán bộ nhân viên cũng góp phần quan trọng trong công tác huy động vốn các cán bộ tiết kiệm đã nắm bắt được tình hình thu nhập của từng loại đối tượng, biết và hiểu sâu được tâm lý của mọi tầng lớp dân cư, có thái độ phục vụ nhiệt tình giao tiếp văn minh lịch sự. Cán bộ chuyên trách không ngừng nâng cao nghiệp vụ, dần xoá bỏ thủ tục rườm rà,tiết kiệm thời gian tăng năng suất lao động...
Sự đổi mới công nghệ, hiện đại hoá công cụ làm việc giúp đẩy nhanh tiến trình làm việc, gây ấn tượng, tạo niềm tin với khách hàng.
Hiện nay Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng huy động tiền gửi tiết kiệm dưới dạng tiền gửi không kỳ hạn tiền gửi có kỳ hạn với thời hạn 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng. Để nghiên cứu cơ cấu của từng loại, ta xem xét số liệu sau.
Biểu 3:
CƠ CẤU NGUỒN VỐN HUY ĐỘNG TIẾT KIỆM
Đơn vị tính: tỷ đồng.
Năm
Chỉ tiêu
1999
2000
so sánh 1999/2000
Doanh số
Tỷ trọng
Doanh số
Tỷ trọng
+
(-)
% +
(-)
Nguồn vốn huy động tiết kiệm
1. Tiết kiệm VNĐ
960
714
100
74,4
1052
637
100
60,6
92
- 77
9,6
- 10,8
- Tiền gửi không kỳ hạn
13
1,4
16
1,5
3
23
- Tiền gửi có kỳ hạn
701
73
621
59
-80
-11,4
+ dưới 12 tháng
560
58
401
38,1
- 159
-28,3
+ Từ 12 tháng
141
15
220
20,9
79
56
2.TK = Ntệ quy VND
246
25,6
415
39,4
169
68,7
Qua biểu 3 ta thấy tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn chiếm tỷ trọng rất nhỏ năm 2000 nguồn vốn huy động tăng 92 tỷ đồng tương đương 9,6% trong đó.
* Tiết kiệm VND giảm 77 tỷ tương đương – 10,8% so với năm 1999
Trong đó.
- Tiền gửi,tiết kiệmkhông kỳ hạn tăng 3 tỷ so với năm 1999.
- Tiền gửi có kỳ hạn tgiảm 80 tỷ tương ứng – 11,4% so với năm 1999 trong đó tiết kiệm có kỳ hạn dưới 12 tháng chiếm tỷ trọng 38,1% trong vốn huy động tiết kiệm. Năm 2000 giảm 159 tỷ tương đương –28,3% so với năm 1999. Tiếtkiệm có kỳ hạn 12 tháng trở lên chiếm tỷ trọng 20,9% trong nguồn vốn huy động tiết kiệm năm 2000 tăng 79 tỷ tương đương 56% so với năm 1999.
* Tiền gửi tiết kiệm bằng Ngoại tệ qui Việt Nam đồng tăng 169 tỷ tương ứng + 68,7% so với năm 1999.
Từ kết cấu nguồn vốn tiền gửi tiết kiệm như trên ta thấy nguồn vốn huy động tiền gửi tiết kiệm rất ổn định bởi chủ yếu là tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn, chiếm tỷ trọng 98,6% trong tổng nguồn huy động tiết kiệm ( năm 2000).
Vì mục đích của khách hàng gửi tiền loại hình này là hưởng lãi nên hầu hết các khách hàng sử dụng tiền gửi có kỳ hạn để được hưởng mức lãi suất cao hơn. Điều này cũng giúp cho Ngân hàng chủ động hơn trong việc sử dụng vốn đầu tư kinh doanh.
Việc rút tiền trước kỳ hạn rất hạn chế bởi nó ảnh hưởng đến kế hoạch sử dụng vốn của Ngân hàng. Tuy nhiên Ngân hàng công thương Việt Nam đã có chính sách cho những người rút tiền trước hạn sẽ được hưởng một mức lãi suất không kỳ hạn, tạo ra tâm lý thoải mái trong việc gửi tiền và rút tiền của người dân.
Theo qui định của Ngân hàng Nhà nước cho phép các Ngân hàng thương mại được quyền sử dụng một phần nguồn vốn ngắn hạn vào cho vay trung dài hạn, bên cạnh đó nhờ tính ổn định cao của nguồn tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn nên Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng đã sử dụng một số vốn ngắn hạn vào cho vay trung và dài hạn nhằm đẩy nhanh tốc độ phát triển của nền kinh tế nhưng vẫn đảm bảo khả năng thanh toán của Ngân hàng, tôn trọng qui định chung và đem lại lợi nhuận tối đa cho Ngân hàng. Đó chính là sự thành công cuả Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng trong công tác huy động vốn. Có được sự thành công này là nhờ công tác quản lý và điều hành vốn của Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng ổn định và hợp lý, Ngân hàng đã khai thác triệt để số vốn đã huy động với lãi suất thực dương. Mặc dù phải trả với mức lãi suất cao hơn lãi suất tiền gửi của các tổ chức kinh tế song bù lại Ngân hàng có được nguồn vốn có tính ổn định cao giúp cho Ngân hàng thực hiện tốt các kế hoạch kinh doanh của mình.
Nguồn vốn từ tiết kiệm đóng vai trò quan trọng trong tổng nguồn vốn huy động của Ngân hàng nhưng Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng không chỉ dừng lại ở đó mà đã đa dạng hoá các hình thức huy động trong sự chỉ đạo của Ngân hàng công thương Việt Nam.
2.2. Huy động bằng kỳ phiếu trái phiếu.
Kỳ phiếu trái phiếu là hình thức huy động vốn rất hấp dẫn đối với mọi tầng lớp dân cư của Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng nhờ lãi suất huy động cao. Nhưng Ngân hàng chỉ phát hành kỳ phiếu khi cần vốn cho mục đích nào đó do vậy còn gọi là kỳ phiếu có mục đích như phát hành kỳ phiếu có mục đích nhằm huy động tiền tiết kiệm tạm thời nhàn rổi trong dân dư để đầu tư vào các dự án kinh doanh có hiệu quả hoặc nhằm mục đích thu hút lượng tiền từ lưu thông góp phần kìm chế cơn sốt vàng và đôla Mỹ. v. v...
Mặc dù nguồn nguồn vốn huy động tăng nhưng huy động bằng kỳ phiếu trái phiếu lại giảm điều này được biểu hiệu qua biểu 4 như sau:
Biểu 4:
TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG VỐN KỲ PHIẾU
Đơn vị tính: tỷ đồng.
Năm
Chỉ tiêu
1998
1999
2000
So sánh 1999/2000
+
(-)
% +
(-)
Vốn huy động kỳ phiếu
Trong đó:
83
6
0
-6
1. Bằng VNĐ
64
2. NTệ qui VNĐ
19
6
0
-6
Qua biểu 4 thể hiện năm 1998 công tác huy động vốn qua hình thức phát hành kỳ phiếu VND là 83 tỷ năm 1999 là 6 tỷ. Năm 2000 không huy động vốn bằng kì phiếu.
Việc phát hành kỳ phiếu có sự hạn chế bởi phải huy động với mức lãi suất cao hơn các hình thức khác. Hơn nữa do hoạt động tín dụng của toàn hệ thống Ngân hàng công thương còn phần nào hạn chế.
Như vậy, việc phát hành kỳ phiếu của Ngân hàng trong thời gian qua đã căn cứ vào yêu cầu của thị trường, gắn công tác huy động vốn với mục đích kinh doanh của Ngân hàng. Để hình thức huy động vốn này đạt hiệu quả cao hơn đòi hỏi Ngân hàng phải tuân thủ các yêu cầu của cấp quản lý. Bên cạnh đó việc ra đời và hoạt động của thị trường chứng khoán với các công cụ chuyển dịch linh hoạt nhỏ cổ phiếu trái phiếu do các doanh nghiệp các Ngân hàng kho bạc v.v... phát hành sẽ giảm bớt được phần nào nhược điểm của việc phát hành kỳ phiếu trái phiếu và khi đó sẽ tạo được sức hấp dẫn hơn đối với các tầng lớp dân cư.
Với những hình thức huy động trên, Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng đã phát huy hết lợi thế sẵn có của mình đó chính là do địa bàn Quận Hai Bà Trưng rộng, giao thông thuận tiện, số lượng dân đông cùng với sự tìm hiểu và nắm bắt được cơ cấu của từng tầng lớp dân cư nên đã vận dụng nhiều chính sách huy động khác nhau để tận dụng mọi nguồn tiền nhàn rỗi trong dân như huy động cả nội tệ, ngoại tệ v.v...
So với tổng nguồn huy động từ dân cư thì nguồn tiền gửi ngoại tệ chiếm tỷ trọng nhỏ nhưng luôn có chiều hướng gia tăng.
Để có niềm tin trong quần chúng nhân dân và có số nguồn tăng lên như vậy không chỉ do đa dạng hoá các hình thức huy động mà công tác tổ chức cũng được ngân hàng công thương Hai Bà Trưng chú ý quan tâm. Trong đó đặc biệt là đổi mới về lề lối làm việc, có phong cách lịch sự, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho khách hàng gửi và rút tiền. Ngoài ra ngân hàng còn quan tâm đến việc nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật ở tất cả các phòng giao dịch, các quĩ tiết kiệm. Nắm bắt được tâm lý của dân cư. Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng đã có chế độ tặng quà vào những ngày lễ, tết với những người có số dư tiền gửi cao trong các năm, mặc dù lãi suất tiền gửi tiết kiệm năm 2000 giảm rất nhiều lần, giảm liên tục cụ thể là:
Biểu 5
LÃI SUẤT TIẾN KIỆM VND 2000
TT
Ngày thực hiện
Lãi suất OKH
Lãi suất có kỳ hạn
1 tháng
3 tháng
6 tháng
12 tháng
1
11/4
0,15
0,2
0,27
0,35
0,45
2
18/9
0,15
0,2
0,35
0,40
0,50
3
1/12
0,2
0,25
0,45
0,5
0,55
Mặc cho lãi suất tiết kiệm tăng, giảm như biểu trên nhưng số tiền gửi của dân cư vẫn tăng lên, đó chính là một trong những thành công của ngân hàng.
2.3. Huy động vốn dưới hình thức mở tài khoản cá nhân.
Việc khuyến khích khách hàng mở và sử dụng tài khoản tiền gửi cá nhân cũng là một trong những hình thức để đa dạng hoá nguồn vốn huy động. Do đó Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng có số lượng khách hàng lớn đến mở và sử dụng tài khoản cá nhân tại Ngân hàng qua bảng số liệu sau:
Biểu: 6
TÌNH HÌNH MỞ VÀ SỬ DỤNG TÀI KHOẢNG TIỀN GỬI CÁ NHÂN
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
1999
2000
So sách
+ (-)
% ±
Số lượng Tài khoản
899
1017
+ 118
+ 13.1
Doanh số
264
320
+ 56
+ 21.2
Thanh toán
+ Tiền mặt
+ không dùng tiền mặt
152
112
179
141
+27
+29
+17.7
+25.9
Qua biểu ta thấy năm 2000 Ngân hàng đã thu hút thêm được 118 cá nhân đến mở và sử dụng tài khoản tiền gửi cá nhân. do đó đã làm cho doanh số thanh toán năm 2000 tăng 56 tỷ đồng trong đó thanh toán không dùng tiền mặt tăng 29 tỷ đồng tương đương 25,9% so với năm 1999, và doanh số thanh toán bằng tiền mặt tăng 27 tỷ tương ứng 17,7%.
Trong quí 1 năm 2001 Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng đã có thêm 43 khách đến mở và sử dụng tài khoản tiền gửi cá nhân, do đó tổng số tài khoản là 1060 với doanh số thanh toán là 177 tỷ đồng. Như vậy đã tạo thêm vốn khả dụng cho Ngân hàng với lãi suất đầu vào thấp.
Có được kết quả trên là do Ngân hàng đã tích cực trong việc tuyên truyền những thuận lợi của việc sử dụng tài khoản cá nhân. Hơn nữa, Ngân hàng luôn tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng như không thu lệ phí mở tài khoản, hướng dẫn tỷ mỉ cho khách hàng trong khi làm thủ tục, trả lãi suất cho họ bằng lãi suất của tiền gửi không kỳ hạn v.v... do đó dân chúng đã từng bước quen dần với hình thức thanh toán qua Ngân hàng.
3. Công tác sử dụng vốn:
Hiện nay công tác huy động vốn và sử dụng vốn của Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng đều được chú trọng. Ngân hàng luôn đặt mục tiêu an toàn lên hàng đầu mặc dù lợi nhuận là mục đích cuối phải phấn đấu thực hiện. Trên cơ sở số vốn huy động Ngân hàng đã tiến hành phân phối sử dụng vốn một cách hợp lý và dư nợ có chiều hướng gia tăng điều đó được thể hiện ở biểu sau.
Biểu:7
TÌNH HÌNH CÔNG TÁC SỬ DỤNG VỐN
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
1999
2000
So sánh
+ (-)
%
Tổng dư nợ
413
585
+172
41,6
Cho vay ngắn hạn
322
400
+78
24,2
Tỷ trọng trong tổng dư nợ
77,7%
68,3%
Cho vay trung, dài hạn
91
185
+94
103
Tỷ trọng trong tổng dư nợ
23,3%
31,7%
Lãi thu
39
35
-4
-10,2
Qua số liệu trên ta thấy dư nợ cho vay có mức tăng đáng kết tăng từ 172 tỷ tương ứng tăng 41,6% so với năm 1999.
Cho vay trung dài hạn có xu hướng tăng nhanh hơn tăng 103%, điều đó phản ánh một cơ cấu cho vay thích hợp, tăng cường đầu tư chiều sâu cho doanh nghiệp nhằm đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, chất lượng tín dụng cũng không ngừng được cải thiện thông qua hiệu quả sử dụng vốn cũng như tỷ trọng. Tổng dư nợ chiếm 30% tổng nguồn vốn huy động, tỷ lệ này chứng tỏ khả năng cho vay của Ngân hàng với huy động vốn rất hợp lý có hiệu quả vừa mang lại lợi nhuận cho Ngân hàng vừa tạo điều kiện cho quá trình huy động vốn thuận lợi hơn.
Với mục tiêu tiếp tục phát triển dư nợ cả về tốc độ và chất lượng Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng mở rộng đầu tư cho khu vực kinh tế quốc doanh, cho những dự án lớn khả thi với khách hàng truyền thống và cho các doanh nghiệp làm ăn có hiệu qủa vốn tín dụng ngắn hạn đã đáp ứng kịp yêu cầu sản xuất kinh doanh xuất khẩu của nhiều doanh nghiệp trên địa bàn như Công ty dệt kim Đông Xuân, Công ty dệt Hà Nội, Công ty xây lắp Thương mại I... vốn tín dụng trung và dài hạn được đẩy nhanh tiến độ, giải ngân, giúp doanh nghiệp đổi mới thiết bị máy móc, nâng cao chất lượng hàng hoá.
Quy mô tín dụng được mở rộng đó là hoạt động kinh doanh chủ yếu nhất của Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng, nó đem lại nguồn thu chủ yếu cho Ngân hàng cụ thể kết quả kinh doanh qua 2 năm của Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng.
BIỂU: 8
KẾT QUẢ KINH DOANH
Đơn vị tỷ đồng
Năm
Chỉ tiêu
1999
2000
So sánh
+ (-)
%
å thu nhập
111
93
-18
-16,2
å chi phí
96
76
-20
-20,8
Lợi nhuận
15
17
+2
13,3
Năm 2000 tổng thu nhập 93 tỷ đồng giảm 18 tỷ đồng tương ứng
–16,2% so năm 1999. Tổng chi phí năm 2000 giảm hơn năm 1999 là -20 tỷ đồng . Ngân hàng vẫn đạt mục đích tối đa hoá lợi nhuận của mình tăng 13,3% lợi nhuận so với năm 1999. Đây chính là thành công của Ngân hàng.
III. NHỮNG TỒN TẠI VÀ NGUYÊN NHÂN RÚT RA TỪ THỰC TIỄN TRONG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG HAI BÀ TRƯNG
Trên đây là thực trạng công tác huy động vốn của Ngân hàng Công thương Hai Bà Trưng trong thời gian qua. Qua phân tích ta có thể thấy Ngân hàng đã cố gắng nhằm nâng cao công tác huy động vốn. Trong thực tế Ngân hàng cũng đạt được những thành tựu nhất định: Vốn huy
động trong dân cư năm 2000 có tăng so với năm 1999 tăng 86 tỷ đồng với tỷ lệ tăng 8,9%, tuy nhiên bên cạnh đó cũng còn những mặt tồn tại như:
- Công tác huy động vốn chưa tạo ra nguồn vốn đủ lớn để phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế.
- Tiền gửi các tổ chức kinh tế, tiền gửi không kỳ hạn còn chiếm tỷ trọng thấp.
Các hình thức huy động vốn chưa thật phong phú đa dạng.
Những tồn tại trên do 2 nhóm nguyên nhân sau:
1. Nguyên nhân khách quan:
1.1. Nguyên nhân từ phía chính sách
Năm 2000 có 3 đợt giảm, tăng lãi suất của Ngân hàng Nhà nước cũng gây nên những khó khăn cho Ngân hàng đối với công tác huy động vốn cũng như công tác cho vay nhất là đối với huy động vốn, đây là một công cụ của Ngân hàng Nhà nước nhằm thực thi chính sách tiền tệ,việc tăng giảm lãi suất trên có nghĩa rằng Ngân hàng Nhà nước thực thi chính sách tiền tệ nới lỏng khi nền kinh tế có chiều hướng suy thoái.
Sự ra đời của hai pháp lệnh ngân hàng cùng các văn bản khác đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động ngân hàng nói chung và công tác huy động vốn nói riêng. Tuy vậy, hoạt động trong cơ chế thị trường có nhiều rủi ro nên để đảm bảo quyền lợi cho người gửi tiền, cần duy trì quỹ bảo hiểm tiền gửi trong hệ thống ngân hàng cũng như các chính sách có liên quan khác.
Hơn nữa, một số luật ở các lĩnh vực khác có liên quan đến hoạt động Ngân hàng và bên cạnh đó có các văn bản dươí luật chưa được ban hành đây đủ chặt chẽ từ đó sản xuất kinh doanh trong nước phải cạnh tranh gay gắt với hàng nhập lậu và hàng ngoại. Vì vậy dẫn tới một số Doanh nghiệp phải đổi hướng sản xuất kinh doanh để phù hợp với những thay đổi của Nhà nước, thậm chí nhiều doanh nghiệp bị lỗ cho nên đã ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động Ngân hàng, nhất là khi huy động vốn trong dân cư tăng với đầu vào tương đối cao nhưng sử dụng vốn lại bị hạn chế. Do đó, không phát huy khai thác triệt để được nguồn vốn tiềm tàng trong dân cư.
1.2 Nguyên nhân từ dân cư:
Xuất phát từ số lượng dân cư trên địa bàn Hai Bà Trưng rất lớn nhưng thu nhập của đa số dân chúng chưa cao, số tiền họ gửi tiết kiệm chủ yếu là để tích luỹ dần cho nhu cầu chi tiêu trong tương lai gần.
Mặc dù trong dân cư hiện nay còn số lượng tiền nhàn rỗi rất lớn nhưng Ngân hàng cũng khó khai thác triệt để nguồn này bởi vì thực chất lãi xuất tiền gửi chưa hấp dẫn, mặt khác do thói quen dùng tiền mặt, nên một số dân cư đã tích trữ bằng ngoại tệ và bằng vàng trong nhà, ổn định hơn và thuận lợi trong công tác sinh hoạt hàng ngày gia đình của họ.
Việc hàng loạt các quỹ tín dụng nhân dân sụp đổ vào những năm 1980 và gần đây nhiều vụ làm ăn phi pháp liên quan đến hoạt động của Ngân hàng khiến cho người dân chưa thực sự tin tưởng vào hệ thống Ngân hàng Việt Nam.
1.3 Nguyên nhân từ môi trường kinh tế trong nước chưa ổn định
Trước hết phải nói đến môi trường huy động vốn. Nằm trên địa bàn Hai Bà Trưng có tới 3 Ngân hàng, hệ thống quỹ tín dụng nhân dân tạo nên môi trường cạnh tranh gay gắt trong công tác khai thác vốn trong dân cư.
Nền kinh tế Việt Nam hiện nay, tuy đã thoát khỏi khủng hoảng nhìn chung vẫn còn là một nước có nền kinh tế chậm phát triển, tỷ lệ phát triển mất cân đối giữa các ngành kinh tế, dẫn đến một số ngành thì cần vốn nhưng ngược lại Ngân hàng lại thừa vốn và không đáp ứng yêu cầu của người cần vốn. Mặc dù Ngân hàng đã hết sức cố gắng nhưng kết quả vẫn còn thấp, từ đó cũng ảnh hưởng tới công tác huy động vốn.
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở các nước Đông Nam Á ít nhiều có ảnh hưởng đến nền kinh tế chưa mấy ổn định của Việt Nam thì việc ảnh hưởng đến chất lượng và số lượng huy động vốn từ dân cư của các NHTM nói chung và Ngân hàng Công thương Hai Bà Trưng nói riêng không đạt là điều khó tránh khỏi.
2. Nguyên nhân chủ quan.
2.1. Công tác tổ chức.
Mặc dù công tác tổ chức từ CBCNV đến mạng lưới quỹ tiết kiệm luôn được đổi mới và hoàn thiện những vẫn chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu thực tiễn trong công tác huy động vốn. Hạn chế về thái độ phục vụ khách hàng cũng bắt nguồn từ nguyên nhân khách quan: khách hàng gửi tiền ở đâu thì rút tiền ở đó nên có lúc khách hàng tập trung ở quầy giao dịch khá đông, làm cho nhân viên không kịp đón khách và xử lý nghiệp vụ. Chính vì vậy Ngân hàng cần phải mở thêm quỹ tiết kiệm tạo điệu kiện thuận lợi cho mọi tầng lớp dân cư trong địa bàn Hai Bà Trưng cũng như ngoài khu vực.
Tính đa dạng của các hình thức huy động vốn còn hạn chế, các công cụ huy động còn kém linh hoạt, tính lỏng của một số công cụ còn thấp các dịch vụ sản phẩm của Ngân hàng cung ứng ra thị trường còn có hạn, vấn đề thông tin quảng cáo còn chưa đủ mạnh.
Công tác marketing Ngân hàng chưa thực sự quan tâm tới hoạt động marketing Ngân hàng. Marketing Ngân hàng phải được hiểu là một phương pháp quản trị tổng hợp nó được bắt đầu từ việc xác định nhu cầu sản phẩm dịch vụ Ngân hàng và nhận thức về môi trường kinh doanh trên cơ sở đó để tổ chức toàn bộ hoạt động Ngân hàng nhằm đáp ứng tốt nhu cầu của nhóm khách hàng đã chọn và thực hiện mục tiêu lợi nhuận đã xác định. Ở Việt Nam hoạt động marketing mới chỉ dừng ở việc thực hiện thông qua chiến lược khách hàng và nó mới chỉ tập trung vào một số mặt lợi ích. Nó chưa thực sự là một chiến lược marketing hoàn chỉnh.
2.2 Công tác thanh tra kiểm soát
Huy động vốn là điều kiện sống còn của các Ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng Công thương Hai Bà Trưng nói riêng. Chính vì vậy việc thanh tra kiểm soát là một biện pháp không thể xem nhẹ mà phải mang tính thường xuyên nhằm ngăn ngừa những hành vi tham ô lợi dụng trong lĩnh vực này. Có thể mới đảm bảo an toàn tài sản của dân cư, nâng cao uy tín của Ngân hàng đối với các tầng lớp dân cư.
Tóm lại: Huy động vốn nói chung và đặc biệt là huy động vốn trong dân cư nói riêng là một vấn đề có tính cấp thiết nhưng cũng có tính lâu dài. Chính vì vậy Ngân hàng Công thương Hai Bà Trưng trong thưòi gian qua đã xác định được điều đó và đã đổi mới, đa dạng hoá các hình thực huy động vốn, vừa đảm bảo cho quá trình hoạt động của Ngân hàng, vừa đáp ứng yêu cầu vốn cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Song để giải quyết được vấn đề này không chỉ một thời gian ngắn của mỗi một Ngân hàng mà đòi hỏi phải có sự nỗ lực của toàn hệ thống Ngân hàng Việt Nam có sự hỗ trợ đặc lực của Nhà nước, các ngành, các cấp có liên quan. Để hoàn thiện hơn nữa trong công tác này thì đòi hỏi và bắt buộc phải có những giải pháp tối ưu không chỉ đối với hệ thống ngân hàng mà cả đối với các cấp, các ngành nói chung.
CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM MỞ RỘNG KHẢ NĂNG HUY ĐỘNG VỐN TRONG DÂN CƯ
I. SỰ CẦN THIẾT PHẢI TIẾP TỤC HOÀN THIỆN CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN
Chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đặt ra nhiều khó khăn thử thách cho các cấp, các ngành trong nền kinh tế. Với tư cách là một thành viên tham gia vào nền kinh tế thị trường, hơn ai hết các Ngân hàng thương mại đều nhận thức được rằng để tồn tại và phát triển thì các Ngân hàng phải thực sự cải tiến đổi mới nâng cấp các hoạt động để thích nghi và đáp ứng được các đòi hỏi cảu nền kinh tế, trong đó nâng cao chất lượng và đa dạng hoá hình thức huy động vốn trong dân cư không nằm ngoài sự đổi mới đó. Khi công tác huy động vốn thực sự có hiệu quả sẽ tạo động lực cho hệ thống Ngân hàng nói riêng và cho cả nền kinh tế nói chung tiến triển và ngược lại. Nói như vậy để thấy rằng, việc tăng cường các hình thức huy động vốn nhàn rồi trong dân cư tại các Ngân hàng thương mại cho ngành ngân hàng và rộng hơn là nền kinh tế rất quan trọng. Tuy nhiên việc mở rộng khai thác vốn trong dân cư là một vấn đề khó khăn, phức tạp bởi lẽ nó chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố tác động.
Vốn đáp ứng cho nhu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước là một vấn đề cực kỳ quan trọng và cấp bách trong cuộc sống hiện nay và nhiều năm tới ở nước ta. Trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế, Đảng ta đã chỉ rõ “chính sách tài chính quốc gia hướng vào việc tạo vốn, và sử dụng vốn có hiệu quả trong toàn xã hội, tăng nhanh sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân, điều tiết quan hệ tích luỹ – tiêu dùng theo hướng nâng dần tỷ lệ tích luỹ...”. Tạo vốn và sử dụng vốn có hiệu quả là những vấn đề đang được chính phủ và Ngân hàng đặc biệt quan tâm. Có huy động được nguồn vốn bên ngoài và phát triển nhanh chóng nguồn vốn trong nước mới có thể đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Lịch sử kinh tế thế giới đã cho thấy sự thất bại của một số nước do hoàn toàn ỷ lại vào đầu tư bên ngoài, đồng thời cũng chứng minh rõ những thành công về công nghiệp hoá, hiện đại hoá là do có sự độc lập tự chủ về kinh tế (chú trọng khuyến khích tiết kiệm tiêu dùng, đẩy mạnh tích luỹ trong nước, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn vốn...)
Nguồn vốn tiết kiệm và tích luỹ từ trong nước là gốc bền vững vô tận, nó vừa là điều kiện để huy động, sử dụng tại chỗ, vừa tạo khả năng tiếp nhận hấp thụ tốt mọi nguồn vốn khác từ ngoài vào. Vậy chúng ta khẳng định lại rằng hiện tại và lâu dài việc “mở rộng khai thác triệt để nguồn vốn trong dân cư” là việc làm có tính cấp thiết đối với các Ngân hàng thương mại.
II. NHỮNG GIẢI PHÁP CỤ THỂ TRONG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN TRONG DÂN CƯ
Lý luận và thực tiễn đã chứng minh rằng nguồn vốn huy động trong đó đặc biệt là nguồn huy động từ dân cư là nguồn chính yếu phục vụ đầu tư kinh doanh của Ngân hàng thương mại cũng như cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Việc quản lý tốt vốn huy động kể cả đầu vào và đầu ra sẽ giúp cho Ngân hàng nhanh chóng đạt được mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận của mình.
Qua việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và tình hình thực tế công tác huy động vốn trong dân cư của Ngân hàng Công thương Hai Bà Trưng, thấy cần cải tiến, sửa đổi một số điểm cho phù hợp, đáp ứng tốt hơn nữa nhu cầu của khách hàng.
Để góp phần vào công việc ấy, tôi xin đưa ra một số kiến nghị sau:
1. Giải pháp đối với Ngân hàng:
1.1 Tạo những tiện ích thực sự cho người dân
Chỉ thanh toán qua Ngân hàng thì mọi người dân mới có điều kiện tiếp xúc với Ngân hàng và qua đó hình thành nên thói quen gửi tiền vào Ngân hàng. Cho dù không phải là gửi tiền theo dạng tiết kiệm thì với sự tập trung cao độ đồng tiền của xã hội vào Ngân hàng cũng là một điều kiện tốt cho sự phát triển kinh tế của Nhà nước.
* Phát triển tài khoản cá nhân, phát hành séc cá nhân, thẻ thanh toán, thẻ rút tiền tự động:
Việc mở và sử dụng tài khản tiền gửi cá nhân đã và đang được áp dụng tại Ngân hàng Công thương Hai Bà Trưng. Song để khuyến khích phát triển hơn nữa, ngân hàng cần quan tâm những vấn đề sau:
- Ngân hàng có thể cung cấp các dịch vụ thanh toán miễn phí cho khách hàng và cá nhân trong thời gian đầu khi họ mở tài khoản để họ thấy được những tiện ích và dần làm quen với các thể thức thanh toán qua Ngân hàng.
- Để khắc phục thói quen thích dùng tiền mặt trong thanh toán của dân cư, cần triển khai mở tài khoản và sử dụng séc cá nhân phải an toàn và có hiệu quả thiết thực. Tổ chức thanh toán séc phải nhanh chóng, chính xác, đảm bảo giữ bí mật tuyệt đối số dư trên tài khoản cá nhân của khách hàng. Với những khách hàng quen và có thu nhập thường xuyên nên có chính sách ưu đãi như cho phép sử dụng tài khoản vãng lai có dư nợ trong một hạn mức nhất định. Mở rộng các dịch vụ cung ứng đối với loại hình thanh toán này như dịch vụ chi lương, dịch vụ khấu trừ (tiền điện, nước, điện thoại...)
- Đối với thẻ thanh toán: Hiện nay dịch vụ thanh toán này còn hạn chế, chỉ có ở hệ thống Ngân hàng ngoại thương và Ngân hàng cổ phần Á Châu. Mặc dù có những ưu điểm nổi bật như nhanh chóng, tiện dụng và an toàn, nhưng việc dùng thẻ vẫn còn gặp nhiều khó khăn và chưa mấy phổ biến do thu nhập dân cư còn thấp, hệ thống trang thiết bị của ngân hàng chưa hiện đại. Để phát hành thẻ trong tương lai, ngân hàng cần đầu tư nghiêm cứu việc sản xuất thẻ, thiết bị xử lý thống tin cho các loại thẻ. Ngân hàng chọn sử dụng các loại thẻ phải phù hợp với điều kiện cụ thể và khả năng của khách hàng và ngân hàng. Đồng thời ngân hàng cần cài đặt hệ thống máy tính thông tin liện lạc hiện đại, có đội ngũ nhân viên kỹ thuật và nghiệp vụ tương xứng.
1.2. Khuyến khích người dân gửi tiền vào ngân hàng.
Trong tình hình hiện nay giá cả tương đối ổn định thì lãi suất huy động hiện nay thực sự không mâý hấp dẫn người dân gửi tiền nữa. Do vậy việc khuyến khích người gửi tiền vào ngân hàng không còn đơn thuần chỉ là việc tăng lãi suất nhưng nếu tăng lên thì phải cân đối tính toán đầu ra sao cho phù hợp, Ngân hàng cần phải có một số biện pháp thiết thực, hữu hiệu để khuyến khích người dân gửi tiền.
- Khuyến khích bằng lợi ích vật chất: trong cơ chế thị trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay, để có được ưu thế vững vàng, Ngân hàng không chỉ những quan tâm đến vấn đè đáp ứng tốt các nhu cầu của khách hàng mà còn phải chú ý đến cả mặt vật chất và tinh thần. Khắc phục tình trạng gửi tiền để tham dự sổ số có thưởng, hình thức này chỉ đem lại may mắn cho vài người như trước đây. Chúng ta nên có những món quà lưu niệm vào những ngày lễ, dù ít hay nhiều tuỳ theo số dự tiền gửi và tính truyền thống của từng khách hàng mà có sự khuyến khích bằng vật chất tương ứng. Những việc làm này tuy nhỏ nhưng lại có tác dụng rất tích cực, nó tạo sự gần gũi thân thiện giữa ngân hàng với khách hàng, giữ cho mối quan hệ này ngày càng được mở rộng và bền vững.
Tạo sự thuận lợi cho khách hàng trong việc gửi và rút tiền:
+ Khách hàng gửi tiền ở nơi này nhưng có thể rút tiền ở nơi khác: việc này đòi hỏi ngân hàng cần thay mẫu số tiết kiệm để khi chi trả có thể nhận biết, phân biệt được sổ thật hay sổ giả, phải nối mạng giữa các phòng giao dịch và các quỹ để dễ dàng đối chiếu, kiểm tra kiểm soát.
+ Khi gửi tiền vào ngân hàng, khách hàng có thể được hưởng một số quyền lợi như được ngân hàng tư vấn miễn phí trong thực hiện tín dụng thuê mua,....
+ Để khắc phục được tâm lý của nhiều người dân cho rằng tiền gửi tiết kiệm có tính lãi thấp không tiện dụng, nên chăng ngân hàng thay thế sổ tiết kiệm bằng một loại chứng chỉ tiền gửi có khả năng chuyển nhượng. Việc này sẽ tạo sự tiện dụng cho người gửi tiền khi họ có nhu cầu chi tiêu đột xuất mà không tiện đến Ngân hàng rút tiền hoặc rút tiền trước thời hạn được hưởng lãi suất thấp, ... Hơn nữa, việc này còn đảm bảo nguồn vốn tiền gửi ổn định cho Ngân hàn, tránh được tình trạng rút tiền đột xuất gây khó khăn trọng việc cân đối vốn của Ngân hàng.
1.3 Tổ chức và mở rộng mạng lưới hoạt động.
Ngân hàng nên nhanh chóng triển khai thực hiện kế hoạch mở thêm các quỹ tiết kiệm, tạo nên mạng lưới hoạt động rộng lớn, thu hút triệt để nguồn tiền tiết kiệm trong dân cư, góp phần đẩy mạnh nguồn vốn huy động. Biện pháp này nằm thuận tiện cho khách hàng trong việc gửi và rút tiền tiết kiệm, góp phần khắc phục được tình trạng khách hàng tập trung quá đông ở một quầy giao dịch, tránh tình trạng khách hàng phải chờ lâu, tăng thêm sức hấp dẫn cho hình thức gửi tiền tiết kiệm.
1.4. Duy trì thực hiện bảo hiểm tiền gửi:
Với thực tế, người dân chưa mấy tin tưởng vào hệ thống ngân hàng cũng như sự ổn định của đồng nội tệ và nền kinh tế, muốn thu hút thêm khách hàng gửi tiền vào Ngân hàng nên duy trì chính sách bảo hiểm tiền gửi để đề phòng trường hợp ngân hàng bị phá sản hoặc đồng tiền bị mất giá. Duy trì chính sách này sẽ làm cho người dân yên tâm về số tiền gửi được bảo toàn cả gốc và lãi. Hơn nữa với sự an tâm của người gửi tiền, ngân hàng sẽ thu hút được ngày càng nhiều vốn tiền gửi, tạo được nguồn vốn kinh doanh ổn định, không sợ bị phá sản do người gửi tiền rút tiền ồ ạt cùng một thời điểm.
Vậy nên duy trì hình thức bảo hiểm gửi dưới dạng bảo toàn tiền gửi trong cộng đồng các thành viên. Trên cơ sở đó các thành viện là các Ngân hàng thương mại tham gia với tư cách đảm bảo quyền lợi cho mình, thu hút người dân gửi tiền nhiều hơn, từ đó sẽ có những nguồn vốn để đầu tư cho nền kinh tế tăng trưởng.
1.5. Nâng cao công nghệ của Ngân hàng.
Ngoài những nét chung, mỗi Ngân hàng thương mại cần phải làm giầu cho tôn chỉ riêng của mình trên mọi phương diện đối nội và đối ngoại sao cho khách hàng mỗi khi thấy biểu tượng của Ngân hàng là hiểu ngay đặc trưng hoạc thế mạnh của Ngân hàng đó là gì, thậm chí liên quan đến cả sắc phục, vị trí và phương pháp tiếp cận khách hàng của mỗi Ngân hàng.
Ngày nay, công nghệ tin học đã và đang làm thay đổi nhiều thói quen trong cuộc sống. Trong điều kiện như vậy, hoạt động Ngân hàng sẽ trở thành vật cản sẽ mất khách hàng nếu Ngân hàng không biết chủ động và đẩy nhanh quá trình hiện đại hoá các công nghệ trong lĩnh vực kinh doanh của mình.
Vì vậy, trước mắt Ngân hàng Công thương Hai Bà Trưng nên cơ giới hoá toàn bộ hệ thống quỹ tiết kiệm tức là phải trang bị đồng loạt hệ thống máy tính cho các quỹ tiết kiệm, sau đó nối mạng với máy chủ tại trụ sở, đảm bảo an toàn tài sản và giảm bớt thời gian trong quá trình giao dịch với khách hàng và giúp cho việc quản lý nguồn vốn dễ dàng hơn. Mặt khác, cần cung cấp trang thiết bị để tiến hành các dịch vụ mới như thẻ thanh toán, thẻ rút tiền tự động.
Để thực hiện cơ giới hoá toàn bộ hệ thống các quỹ tiết kiệm thì Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng phải đào tạo 100% cán bộ hệ thống quỹ sử dụng máy vi tính thành thạo.
1.6. Huy động kết hợp sử dụng vốn có hiệu quả.
Huy động vốn đã là một vấn đề kho khăn nhưng sử dụng vốn cũng là vấn đề cực kỳ quan trọng và được nhiều người quan tâm. Nếu sử dụng vốn sai mục đích không có hiệu quả không những làm thiệt hại đến người vay tiền mà còn ảnh hưởng tới Ngân hàng có nguy cơ mất vốn, hoặc không sử dụng triệt để nguồn vốn huy động sẽ dẫn tới ứ đọng vốn, ảnh hưởng tới lợi nhuận của Ngân hàng.
Bài học thực tế trong thời gian qua (vụ Minh Phụng, Công ty dệt Nam Đinh) đã cho thấy những tồn tại của hệ thống Ngân hàng cũng như các chủ doanh nghiệp, hậu quả của những tồn tại đó bây giờ là gánh nặng của toàn xã hội nói chung và hệ thống Ngân hàng Công thương nói riêng.
Với tình hình như hiện nay Ngân hàng cần giải quyết tốt hơn nữa mỗi quan hệ giữa huy động vốn và sử dụng vốn. Ngoài việc thực hiện tốt các nghiệp vụ cho vay sẵn có. Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng cần mở rộng thêm các hình thứnc tín dụng khác như tín dụng thuê mua, dịch vụ môi giới bất động sản, các dịch vụ tư vấn về đầu tư kinh doanh,.
Trong 1 hệ thống Ngân hàng phát triển, các Ngân hàng cạnh tranh với nhau chủ yếu bằng hệ thống dịch vụ Ngân hàng, 1 công cụ cạnh tranh không có giới hạn. Tỷ trọng các khoản thu từ dịch vụ Ngân hàng đang ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu của kinh doanh Ngân hàng. Để hoạt động kinh doanh dịch vụ sớm trở thành công cụ cạnh tranh săn bắt trong việc thu hút khachs hàng, tăng nguồn vốn huy động, đồng thời làm tăng nguồn vốn thu nhập cho Ngân hàng ngoài các dịch vụ đã áp dụng Ngân hàng nên tiến hành các dịch vụ sau:
+ Dịch vụ tư vấn đầu tư, tư vấn thông tin:
Trong dịch vụ tư vấn đầu tư, Ngân hàng có thể hướng dẫn khách hàng xây dựng một dự án, lựa chọn sản phẩm sản xuất, tính toán nguồn tài trợ cho dự án với lãi suất tiền vay có lợi nhất
Trong việc tham gia thị trường tiền tệ Ngân hàng có thể tư vấn cho khách hàng với số lượng vốn nhất định và thời gian cần thết để tham gia, thị trường tiền tệ ngắn ngày được hưởng lãi suất cao.
Trong kinh doanh ngân hàng, thông tin được coi là tiền. Vì vậy thông tin có giá trị và có thể đem bán. Trong mô hình các Ngân hàng hiện đại nghiệp vụ tư vấn thông tin đã trở lên cự kỳ quan trọng. Các Ngân hàng đều có bộ phận tư vấn và có quan hệ chặt chẽ với cơ quan thông tin chuyên môn để có thể cung cấp dịch vụ thông tin cho khách hàng.
+ Dịch vụ tư vấn tài chính:
Nhiều khi Ngân hàng cũng phải giúp cho doanh nghiệp trong việc lập tài chính, phân tích tài chính hoặc lập hẳn một kế hoạch thuế (với các món thuế lập như thế nào để có chi phí thấp nhất).
+ Tư vấn về luật pháp
Ngân hàng có thể giúp nhiều cá nhân doanh nghiệp nắm rõ để thực hiện đúng các luật pháp hiện hành như luật công ty, luật kinh tế các loại hình dịch vụ này có thể phát triển mạnh ở ta bởi vì hiện nay có rất nhiều người lãnh đạo công ty xí nghiệp nhưng thiếu hiểu biết về phát luật, về thông tin và về công nghệ đặc biệt có công ty tư nhân không có cả ban tài chính.
1.7. Đẩy mạnh hoạt động Marketing Ngân hàng.
Trong những năm qua, marketing Ngân hàng là hoạt động chưa được quan tâm đầu tư khai thác thích đáng. Để đó cũng là một trong những nguyên nhân giải thích một phần tại sao đa số người dân Việt Nam còn thiếu những hiểu biết cơ bản về ngân hàng cũng như những tiện ích trong việc sử dụng các dịch vụ mà Ngân hàng cung cấp. Do đó trong chiến lược huy động tiền gửi ngân hàng cần khuyếch trương quảng cáo để người dân biết đến hoạt động của mình, thấy được những lợi ích khi giao dịch với Ngân hàng. Việc quảng cáo phải được tiến hành thường xuyên trên các phương tiện thông tin đại chúng, tập trung vào các vấn đề như hình thức gửi, lãi suất, lợi tích của khách hàng có được khi gửi tiền, Cũng nên có những hình thức khuyến mại đối với khách hàng nhằm duy trì mối quan hệ thường xuyên và cũng bởi chính họ là người quảng cáo tuyên truyền tốt nhất cho Ngân hàng. Ngoài ra Ngân hàng cũng cần mở rộng cung cấp thông tin tư vấy giúp người dân biết những nơi đầu tư có lợi,
1.8 Phải xây dựng được đội ngũ cán bộ làm tốt công tác huy động vốn.
- Yếu tố con người là yếu tố quyết định đến sự thành công hay thất bại của mọi hoạt động kinh doanh. Điều này đòi hỏi Ngân hàng phải có được một đội ngũ cán bộ tinh thông về nghiệp vụ có tinh thần trách nhiệm có tác phong lịch thiệp dễ mến. Trên cơ sở nhu cầu về nhân sự cho công việc Ngân hàng tiến hành tuyển dụng theo những tiêu chuẩn đã được xây dựng, không ngừng đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ cho người lao động. Sắp xếp bố trí lao động hợp lý đúng người đúng việc phát huy sức mạnh của tập thể và tác nhân người lao động bên cạnh đó phải có các giải pháp để khuyến khích động viên người lao động mang hết sức lực nhiệt tình tâm huyết ra phục vụ công việc.
Phải có chính sách phát triển nguồn nhân lực với mục tiêu là nâng cao toàn diện trình độ của đội ngũ cán bộ công nhân viên đặc biệt là các nhân viên làm công tác huy động vốn. Phải xây dựng được chương trình đào tạo cho từng nhóm đối tượng đặc biệt về kiến thức chuyên môn, kiến thức về kinh tế thị trường. Chú trọng đào tạo các kỹ năng gây thiện cảm, kỹ năng đàm phán thuyết phụcv.v....
1.9 Không ngừng nâng cao vị thế và uy tín
của Ngân hàng trên thương trường tạo lòng tin đối với người gửi tiền để thu hút vốn được tốt hơn.
2. Các giải pháp hỗ trợ
Hiện nay các doanh nghiệp trong nước đang chịu sự cạnh tranh gay gắt với hàng ngoại nhập, hàng nhập lậu và không ít gặp khó khăn trong việc tìm chỗ đứng vứng chắc cho mình trên thị trường. Tâm lý của người dân rất nhạy cảm với những thay đổi của nền kinh tế, nên để tạo điều kiện thuận lợi cho hệ thống Ngân hàng thể nâng cao được chất lượng và hiệu quả huy động vốn trong dân cư, nhà nước cần có những biện pháp hợp lý hướng vào các mục tiêu vĩ mô sau:
Để ổn định tiền tệ cần phải giải quyết tốt chính sách lãi suất và tỷ giá:
2.1. Về lãi suất
Lãi suất là công cụ quan trọng trong việc huy động vốn của Ngân hàng. Hiện nay nhiều loại hình Ngân hàng cùng hoạt động cạnh tranh trên thị trường, để đảm bảo tính cạnh tranh và khuyến khích những nỗ lực của từng Ngân hàng, chính sách lãi suất cần thực hiện theo hướng sau:
Điều chỉnh lãi suất theo nguyên tắc thị trường và mỗi quan hệ giữa cung cầu vốn: lãi suất đầu ra quyết định lãi suất đầu vào, căn cứ vào lãi suất sử dụng vốn để quyết định lãi suất huy động vốn, vừa đảm bảo lợi ích của người gửi tiền vừa đảm bảo lợi nhuận cho Ngân hàng.
2.2. Về tỷ giá
Nền kinh tế phát triểm tạo khả năng nâng cao thu nhập và tích luỹ trong xã hội. Tỷ giá hối đoái giữa đồng nội tệ và ngoại tệ đóng vai trò là chất xúc tác đẩy nhanh quá trình chuyển hoá các khoản tích luỹ có trong dân cư thành vốn đầu tư thông qua trung gian tài chính như ngân hàng. Hiện nay tỷ giá ngoại tệ cũng tương đối ổn định những chưa thể sử dụng cơ chế tự do hối đoái hoàn toàn vì thị trường hối đoái chưa phát triển, chưa có đầy đủ các công cụ gián tiếp giúp ngân hàng trung ương có thể linh hoạt trong can thiệp và trung hoà các mục tiêu cảu chính sách tiền tệ. Bởi vậy cơ chế điều hành tỷ giá do ngân hàng nhà nước công bố tỷ giá chính thức và biên độ tỷ giá giao dịch là phù hợp với tình hình thực tế Việt Nam. Song trong giai đoạn tới cũng cần tập trung quỹ ngoại tệ nhà nước do Ngân hàng nhà nước quản lý để luôn có một lượng ngoại tệ đủ để can thiệp vào thị trường lúc cần thiết, hoàn thiên thị trường hối đoái và thị trường ngoại tệ để Ngân hàng nhà nước có cơ chế điều hành và can thiệp điều chỉnh hợp lý.
2.3 Hoàn thiện môi trường pháp lý:
Đây là một đòi hỏi cần thiết đối với nền kinh tế nói chung và đặc biệt cần thiết đối với ngành Ngân hàng nói riêng, nó là hành lang pháp lý cho hoạt động của Ngân hàng cũng như củng cố lòng tin của người dân vào sự vững mạnh của hệ thống Ngân hàng. Vì vậy nhà nước cần tạo môi trường pháp lý, chính trị, kinh tế ổn định vững chắc, đề ra các mục tiêu kế hoạch ổn định phát triển dài hạn để người dân nhìn vào tương lai và tin vào đó, đồng thời làm cho người dân nhận thức được vai trò trách nhiệm của mình trong công cuộc xây dựng đất nước. Phát động phong trào toàn dân tiết kiệm và xử lý nghiêm minh các tệ nạn tham nhũng, làm thiệt hại tài sản của nhà nước.
Hiện nay, Ngân hàng thương mại huy động vốn trung và dài hạn qua phát hành trái phiếu nói chung là khó khăn. Vì khả năng chuyển từ trái phiếu thành tiền và ngược lại là không đơn giản. Nếu có thị trường vốn tập trung, thì việc phát hành trái phiếu của Ngân hàng sẽ rất thuận lợi. Thị trường vốn sẽ giải quyết mâu thuẫn giữa khả ngăng cung cấp các nguồn vốn ngắn hạn và nhu cầu sử dụng vốn dài hạn, người phát hành chứng khoán để huy động vốn dài hạn, người mua chững khoán thì có thể bán chứng khoán để lấy tiền mặt vào bất kỳ lúc nào. Thị trường vốn giúp cho người đầu tư có thể tuỳ ý lựa chọn nơi và hình thức đầu tư. Có thị trường vốn, sẽ tạo điều kiện thu hút được số vốn nhàn rỗi trong xã hội vào công cuộc đầu tư.
KẾT LUẬN
Nguồn vốn huy động chiếm vị trí vô cùng quan trọng, nó mang tính chất quyết định đến quy mô hoạt động kinh doanh của Ngân hàng đặc biệt là đối với Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng trong giai đoạn hiện nay.
Quán triệt chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước là phát huy nguồn nội lực, nguồn vốn trong nước đóng vai trò quyết định, do vậy Ngân hàng phải không ngừng cải tiến hoạt động kinh doanh trong đó phải khai thác triệt để nguồn vốn trong nước đặc biệt là nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư. Từ đó Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng càng có thêm điều kiện để mở rộng quy mô đầu tư kinh doanh, tăng tích luỹ, mở rộng thị phần cho hoạt động của minh.
Quá trình nghiên cứu thực tế để đi đến hoàn chỉnh luận văn này mặc dù bản thân đã có nhiều cố gắng nhưng do thời gian có hạn trình độ của bản thân còn nhiều hạn chế nên không thể tránh khỏi những khiếm khuyết. Nhưng là 1 cán bộ được làm việc tại Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng, tôi thực sự tâm huyết với sự nghiệp của ngành tôi tin tưởng rằng một số kiến thức mà bản thân đưa ra phần nào cũng có tác dụng nho nhỏ vào việc nâng cao hiệu quả phát triển nguồn vốn của ngân hàng thương mại nói chung và của Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng nói riêng.
Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo đặc biệt là thầy giáo Tiến sỹ Tô Ngọc Hưng và các anh chị em tại Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng đã giành cho tôi sự giúp đỡ to lớn quý báu để tôi hoàn thành luận văn này.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tiền tệ tín dụng Ngân hàng
2. Ngân hàng thương mại và các nghiệp vụ Ngân hàng thương mại
3. Tiền tệ Ngân hàng và thị trường tài chính
4. Những điều kiện cần thiết về hoạt động Ngân hàng
5. Tạp chí Ngân hàng
6. Thời báo Ngân hàng
7. Báo cáo tài chính năm 1999
8. Báo cáo tài chính năm 2000
9. Marketing trong Ngân hàng
10. Ngân hàng Việt Nam trong quá trình xây dựng và phát triển.
11. Nghiệp vụ kinh doanh Ngân hàng nâng cao.
Ý KIẾN NHẬN XÉT CỦA NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG
BÀ TRƯNG
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 8449.doc