Những hoạt động kinh doanh của DNNQD đã trực tiếp giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, tăng thu nhập cho người lao động, tăng lợi nhuận cho chủ doanh nghiệp và nhờ đó đã làm tăng thu nhập cho toàn bộ nền kinh tế. Thông qua hoạt động của các DNNQD một số lượng lớn các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ được tạo ra trong nền kinh tế, tổng sản phẩm quốc dân không ngừng tăng lên, trong đó đóng góp của khối các DNNNQD là rất đáng kể. Các DNNQD hoạt động trong rất nhiều ngành nghề và lĩnh vực, có tính linh hoạt và thích nghi cao với những thay đổi của thị trường bởi vậy khi hoạt động của các doanh nghiệp thuộc loại hình này được mở rộng đã góp phần to lớn vào tăng thu nhập cho nền kinh tế, cải thiện mọi mặt đời sống. Các hoạt động kinh tế trở nên sôi động và có tính cạnh tranh cao hơn đã góp phần cải thiện môi trường kinh tế, tăng khả năng cạch tranh của các doanh nghiệp trong nước. Các DNNQD không có được những ưu đãi như các doanh nghiệp nhà nước bởi vậy các DNNQD luôn phải cố gắng nỗ lực trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm do mình cung cấp, tăng năng suất, giảm các chi phí bất hợp lý nhờ vậy nâng cao hiệu quả kinh doanh. Chính sự phát triển và cạnh tranh của các DNNQD buộc các doanh nghiệp nhà nước phải cải tiến để cạnh tranh.
95 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1001 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam Chi nhánh Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thuận ghi trên hợp đồng tín dụng. Tuy nợ quá hạn không trực tiếp phản ánh hoạt động mở rộng cho vay nhưng nó có vai trò rất quan trọng trong việc đánh giá chất lượng của khoản cho vay và như vạy trực tiếp ảnh hưởng đến quyết định có tiếp tục cho vay hay không của ngân hàng với một khách hàng nhất định và như vậy sẽ ảnh hưởng đến kết quả hoạt động mở rộng cho vay của ngân hàng.
Doanh số thu nợ cũng có sự vận động tương ứng qua các năm 2005, 2006, 2007 là 1,986tỷ; 2,236 tỷ; 3,008 tỷ đồng. Sở dĩ năm 2005 doanh số thu nợ tăng đột biến là do doanh số cho vay ngắn hạn trong năm tăng mạnh, và ngân hàng dã thực hiện tốt công tác thu nợ, các khoản vay đều dược cán bộ tín dụng thường xuyên kiểm tra đôn đốc, thu nợ kịp thời. Doanh số cho vay tăng, giảm tương ứng với doanh số thu nợ, do đó tỷ lệ nợ quá hạn là rất ít. Năm 2005, năm 2006, năm 2007 tỷ lệ nợ quá hạn lần lượt là 0.46%, 0.28%, 0.08%.
Để đạt được kết quả đó, trong những năm qua NHĐT&PT Hà Tây luôn tuân thủ đúng giới hạn tín dụng, cơ cấu giới hạn tín dụng trung ương giao, trung thực, minh bạch và cẩn trọng trong nghiệp vụ tín dụng, lấy chất lượng tín dụng – an toàn cho vay – hiệu quả đầu tư làm mục tiêu, động lực phát triển bền vững. Luôn quan tâm đến chất lượng tín dụng, đảm bảo 100% các khoản vay đều được kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay, chủ động phối hợp với các khách hàng gặp khó khăn để tìm biện pháp tháo gỡ, không để nợ quá hạn phát sinh lớn, chủ động giảm bớt nợ quá hạn. Ngân hàng không ngừng gia tăng chất lượng và qui mô dư nợ có đảm bảo bằng tài sản đối với các khoản vay, các khách hàng. Thiết lập và đánh giá tài sản đảm bảo trên 3 yếu tố cơ bản là: quyền sở hưu tài sản, tính pháp lý của tài sản và giá trị cầm cố – thế chấp - chuyển nhượng được trên thị trường.
Tỷ lệ nợ quá hạn phản ánh hiệu quả sử dụng vốn của các khách hàng bởi tỷ lệ nợ quá hạn chỉ rõ với một đồng vốn cho vay thì sẽ có bao nhiêu phần là nợ quá hạn. Tỷ lệ nợ quá hạn càng cao thì hiệu quả cho vay càng thấp. Trong thời gian trước khi cho vay DNNQD rủi ro rất cao nhưng tỷ lệ này giảm rõ rệt vào các năm tiếp theo. Tuy chỉ tiêu nợ quá hạn chỉ là chỉ tiêu gián tiếp không phản ánh trực tiếp hiệu quả của mở rộng cho vay DNNQD nhưng nó phản ánh rủi ro có thể xảy ra khi cho vay một đối tượng nào đó. Quan sát bảng trên có thể thấy việc mở rộng cho vay DNNQD là hoàn toàn hợp lý khi mà nguy cơ rủi ro đã giảm đáng kể.
2.3. Đánh giá chung
2.3.1. Đánh giá kết quả đạt được trong hoạt động mở rộng cho vay đối với DNNQD tại NHĐT&PT Hà Tây.
Ngay từ những ngày đầu thành lập Chi nhánh NHĐT&PT Hà Tây đã có nhiệm vụ là phục vụ các Doanh nghiệp Nhà nước, các tổng công ty thuộc lĩnh vực xây lắp cơ bản. Bởi vậy, các hoạt động của sở trong thời gian trước thường thiếu tính đa dạng, không chủ động, thiếu tính tức cực. Trong mấy năm trở lại đây nhận thức được những thay đổi của thị trường, cùng với những thay đổi của BIDV nói chung, hoạt động của sở đã có những thay đổi rõ rệt và Chi nhánh đã thu được nhiều kết quả rất đáng khích lệ. Hoạt động tín dụng là một trong số các mặt hoạt động thu được nhiều thành tích nhất của sở. Trước những thay đổi của thị trường, trong xu thế hội nhập, và trước sức ép cạnh tranh và do những thay đổi pháp lý, NHĐT&PT Hà Tây đã tiến hành đa dạng hóa các khách hàng của mình. Hoạt động cho vay DNNQD đã có những biến chuyển theo hướng thuận lợi cho các doanh nghiệp. Số lượng khách hàng thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đến giao dịch ngày càng tăng, chất lượng của các khoản vay ngày một nâng cao. Dư nợ tín dụng, doanh số cho vay và doanh số thu nợ của các DNNQD đều tăng lên nhanh chóng qua các năm.. Việc cấp tín dụng trung và dài hạn cho các DNNQD đã được cải thiện và nâng dần trong tổng dư nợ DNNQD của Chi nhánh. Điều này rất phù hợp với định hướng của sở là phát triển tín dụng đối với khách hàng là DNNQD hoạt động trong lĩnh vực sản xuất đặc biệt là các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các doanh nghiệp mà sản phẩm đã được thị trường chấp nhận. Đây có thể nói là một hướng đi rất phù hợp với sở bởi đây là một trong những sở trường khi cho vay DNNN cho nên khi chuyển sang cho vay DNNQD định hướng trên giúp cán bộ tín dụng của sở chủ động hơn, có kinh nghiêm hơn , và tăng khả năng cạnh tranh với các ngân hàng khác. Dựa trên việc phân tích các chỉ tiêu phản ánh mở rộng tín dụng DNNQD ở trên có thể cho thấy việc mở rộng cho vay của SGD I với các DNNQD đã có rất nhiều kết quả tốt đẹp tạo thuận lợi cho những định hướng trong thời gian tới trong việc đẩy mạnh cho vay DNNQD, giảm tỷ trọng cho vay DNQD.
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân.
2.3.2.1. Hạn chế
- Những thành tích mà NHĐT&PT Hà Tây đã đạt được không phải là ít nhưng trong việc cấp tín dụng cho các DNNQD vẫn còn một số hạn chế cần khắc phục:
- NHĐT&PT Hà Tây đã có nhiều biện pháp đẩy mạnh hoạt động cho vay DNNQD nhưng so với mức chung của toàn ngành thì tỷ trọng cho vay DNNQD vẫn còn ở mức thấp và chưa tương xứng với tiềm năng của sở.
- Mặc dù đã có những thay đổi nhưng cách nhìn nhận của sở đối với các DNNQD nhất là các doanh nghiệp có quy mô nhỏ còn nhiều bất cập.
- Phương thức cho vay còn nhiều hạn chế hầu hết là cho vay theo hạn mức, cho vay theo dự án đầu tư. Các sản phẩm tín dụng và dịch vụ đi kèm còn thiếu tính đa dạng, đồng bộ. Chính sách lãi suất chưa thực sự linh hoạt và còn cao hơn khi so sánh với lãi suất mà DNNN phải trả khi vay vốn. Các kỳ hạn cho vay chưa hợp lý ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng.
- Các hoạt động tài trợ cho DNNQD vẫn thiếu tính đồng bộ, thiếu những tiêu chuẩn cụ thể trong việc cho điểm xếp hạng doanh nghiệp, thẩm định tài chính doanh nghiệp. Thủ tục cho vay còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tài sản đảm bảo, định giá tài sản thế chấp, báo cáo tài chính công ty
- Chưa đáp ứng đầy đủ và kịp thời nhu cầu vay vốn của khách hàng. Các DNNQD có nhu cầu vốn trung và dài hạn lớn nhưng NHĐT&PT Hà Tây vẫn chưa cung cấp kịp thời các khoản cho vay trung và dài hạn, nếu cấp thì lại có những đòi hỏi khắt khe về tài sản đảm bảo.
- Hoạt động cho vay DNNN vẫn chiếm phần lớn cơ cấu cho vay của sở trong khi đó rủi ro từ cho vay các doanh nghiệp này là rất lớn, các dự án trọng điểm không áp dụng đầy đủ các biện pháp về bảo đảm dẫn đến dư nợ có tài sản đảm bảo chưa cao.
- Hệ thống thông tin tín dụng chưa được chú trọng, thiếu tính đồng bộ, cập nhật chưa cao. Chưa có bộ phận chuyên phụ trách các chính sách marketing, các cán bộ tín dụng vẫn phải đồng thời đóng hai vai trò là người tiếp thị và cho vay. Thông tin hai chiều giữa NHĐT&PT Hà Tây và các DNNQD còn nhiều hạn chế, chưa đầy đủ.
- Đội ngũ cán bộ tín dụng đa số còn trẻ, được đào tạo bài bản nhưng rất thiếu kinh nghiệp thực tế nên bản lĩnh chưa thực vững vàng. Đôi khi thiếu tính chủ động sáng tạo, chưa thực sự bám sát thị trường.
2.3.2.2. Nguyên nhân.
* Nguyên nhân từ phía khách hàng.
Hiệu quả hoạt động kinh doanh của nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn kém gây ảnh hưởng xấu tới cách nhìn nhận, đánh giá của ngân hàng với đối tượng doanh nghiệp này đặc biệt là các doanh nghiệp có quy mô nhỏ. Do thiếu vốn, thiếu tính chuyên nghiệp và hiểu biết trong quản lý, do công nghệ lạc hậu, do khai thác thông tin thị trường chưa tốt nên sản phẩm sản xuất ra còn nhiều hạn chế, không tiêu thụ đươc do đó ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng trả nợ của các doanh nghiệp.
Các phương án sản xuất kinh doanh trình xin vay vốn, các báo cáo tài chính chưa đầy đủ, thiếu tính minh bạch, nhiều thông tin khách hàng cung cấp thiếu tính chính xác làm cán bộ tín dụng mất thời gian và chi phí lớn để đánh giá, xác minh.
Các DNNQD thường không có khả năng tài chính để đáp ứng đầy đủ yêu cầu về tài sản thế chấp, tài sản đảm bảo nợ vay, nhiều tài sản thiếu căn cứ pháp lý nên rất khó khăn cho ngân hàng khi tiến hành cho vay.
Nhiều chủ doanh nghiệp khi vay vốn chưa xác định được mục đích sử dụng vốn vay hợp lý, nhiều trường hợp ngay từ khi vay vốn đã có ý định chiếm dụng vốn dẫn tới giảm uy tín của các khách hàng khác đối với ngân hàng.
* Nguyên nhân từ phía NHĐT&PT Hà Tây.
Thứ nhất: Quy định về cho vay ngoài quốc doanh còn chưa phù hợp, việc áp dụng còn nhiều hạn chế.
Về tài sản thế chấp: Tài sản thế chấp của người vay tại ngân hàng đa phần là bất động sản như đất đai, nhà cửa, kho tàng...ngân hàng được quyền năm giữ những giấy tờ sở hữu còn người vay có trách nhiệm quản lý tài sản thế chấp và chỉ có quyền sở hữu gián tiếp, do đó người vay không thể bán tài sản của mình cho bên thứ ba. Nhưng cũng chính điều này làm hạn chế việc mở rộng tín dụng, tài sản thế chấp có thể tồn tại dưới hình thức động sản như ô tô, thuyền bè, hàng tại kho, vàng, đá quý...thường ít được ngân hàng chấp nhận không phải vì chúng không có giá trị mà vì ngân hàng không thể nắm giữ những giấy tờ liên quan do nó luôn đi kèm quá trình vận động của tài sản. Điều này làm phát sinh rủi ro khi người vay có thể bán tài sản cho bên thứ ba, cho nên các ngân hàng chấp nhận rất hạn chế hình thức thế chấp bằng động sản.
Một khía cạnh khác liên quan đến tài sản thế chấp đó là vấn đề định giá chúng. Mặc dù hiện nay các ngân hàng đã thừa nhận giá trị thương mại trên thị trường và lấy làm căn cứ định giá tài sản. Tuy nhiên trong điều kiện thị trường không ổn định, giá các loại tài sản này lại biến động thường xuyên nên việc định giá chúng rất khó khăn. Có thể gây ra mất mát vốn khi xử lý tài sản đảm bảo mà giá trị của nó bị trượt giá, điều này gây trở ngại tâm lý cho người vay nói “được”.
Hơn nữa nhiều khi các điều kiện vay vốn được đáp ứng tốt nhưng khi đến khâu tài sản đảm bảo lại phát sinh nhiều vấn đề như: thiếu giấy tờ chứng minh quyền sở hữu hoặc không có do tài sản đã được mua đi bán lại nhiều lần hoặc do ông bà cha mẹ để lại mà chưa có chứng nhận, cấp lại theo quy định mới. Trong khi đó ngân hàng luôn coi tài sản thế chấp là điều kiện quan trọng nhât để cho vay đối với KT-NQD.
Phương thức cho vay: Hiện nay ngân hàng chỉ áp dụng duy nhất một phương thức cho vay đối với KT-NQD đó là cho vay từng lần (theo món). Việc áp dụng phương thức cho vay này có thể giúp ngân hàng giám sát và quản lý món vay chặt chẽ hơn. Song nó không đáp ứng được yêu cầu của hầu hết khách hàng, đặc biệt đối với những khách hàng có vòng quay vốn thường xuyên. Việc không đa dạng phương thức cho vay đã hạn chế đáng kể khả năng mở rộng tín dụng của ngân hàng. Do nó không phù hợp với nhu cầu vốn trong các giai đoạn của quá trình vay vì thế có thể phát sinh hiện tượng vốn vay không sử dụng hết hoặc không đủ vốn để trang trải các nhu cầu. Hai biểu hiện đều không tốt, nếu thừa có thể tạo điều kiện cho doanh nghiệp sử dụng vốn vay sai mục đích, ngược lại nếu thiếu sẽ ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của quá trình sản xuất kinh doanh, có thể gây ra rủi ro đối với khoản vay.
Công tác thẩm định: Hiện nay công tác thẩm định đối với KT-NQD còn gặp nhiều khó khăn. Do người cho vay còn hạn chế về mặt trình độ chuyên môn nghiệp vụ, nắm không rõ các quy định quy chế hoạch toán kế toán, quy trình thẩm định doanh nghiệp nên công tác thẩm định còn nhiều lúng túng sai sót, đánh giá không đúng hiệu quả của dự án sản xuất kinh doanh và khả năng thực tế của khách hàng. Mặt khác, cán bộ tín dụng thường trú trọng đến sổ sách kế toán, các báo cáo tài chính do doanh nghiệp gửi lên mặc dù có tham khảo một số nguồn thông tin khác. Nhưng nói chung là làm chưa tốt, việc xuống đánh giá thực tế hoạt động của các doanh nghiệp còn ít. Do đó đã xẩy ra những rủi ro như năm 2000 khi một cán bộ tín dụng cho một hộ cá thể vay vốn có tài sản thế chấp là căn nhà 2 tầng, được định giá là 230 triệu đồng nhưng thực tế người vay không phải là người chủ sở hữu ngôi nhà đó, tên người vay và tên chủ sở hữu trên giấy tờ nhà là khác nhau nhưng cán bộ tín dụng không phát hiện ra, do đó đã để mất vốn. Mặt khác trình độ quản lý của các chủ DNNQD thấp nên các báo cáo tài chính, luận chứng kinh tế kỹ thuật do họ lập thường không chính xác, thiếu xót. Vì vậy chỉ dựa vào các báo cáo đó để thẩm định thì có thể ngân hàng bỏ qua cơ hội cho vay. Do đó công tác thẩm định cần hoàn thiện hơn nữa.
Thủ tục cho vay còn nhiều vướng mắc nhiều khâu phức tạp khiến cho cán bộ ngân hàng khó có thể mở rộng cho vay được. Các doanh nghiệp thường “kêu” là thủ tục vốn vay qua ngân hàng phức tạp, phiền hà, điều này đúng với các doanh nghiệp. Nhưng nhìn từ phía ngân hàng thì thủ tục nhiều như vậy thì họ mới có thể cho vay được, họ mới có thể bảo toàn vốn cho ngân hàng và xã hội. Đồng thời họ phải có nghĩa vụ thực hiện đầy đủ các quy trình, thể lệ được quy định trong các văn bản hiện hành. Trên thực tế ngân hàng rất muốn cho vay, vì ngoài trách nhiệm cũng cấp vốn cho nền kinh tế còn là vấn đề thu nhập, nhưng quyết định cho vay hay không lại là cả một sự cân nhắc kỹ càng, nhiều khi còn cần lòng dũng cảm. Nếu một số ít các doanh nghiệp có đầy đủ điều kiện thì lúc này chính doanh nghiệp lại lựa chọn ngân hàng hoặc những dự án mà ngân hàng cho rằng không hiệu quả thì rất dễ quyết định. Nhưng với bộ phận khá đông các doanh nghiệp không thật đầy đủ điều kiện trong khi ngân hàng xét thấy những dự án phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả thì rất khó nói là “được” hay “không được”. Nếu máy móc phải có đủ thủ tục mới cho vay thì ngân hàng mất thu nhập và nhiều quyền lợi khác đã đành mà cũng thấy thiệt thòi cho doanh nghiệp. Nếu mà cho vay kịp cơ hội làm ăn của doanh nghiệp, ngân hàng sẽ không yên tâm được cho đến khi khách hàng trả hết gốc, lãi mới thôi, bởi sản xuất kinh doanh là có rủi ro, trình độ thẩm định là có giới hạn. Vấn đề tâm lý nhậy cảm không kém phần quan trọng đó là khi người “làm công ăn lương” nói “đồng ý”, nếu việc trôi chảy thì lợi ích món vay trước hết và cơ bản thuộc về tập thể, nhưng nếu món vay gặp trục trặc thì trách nhiệm cá nhân rất nặng nề, pháp luật sẽ ngó tới người quyết định cho vay. Ngược lại nếu trả lời “không”, trong hầu hết tất cả các trường hợp, quyền lợi cá nhân không bị ảnh hưởng. Chính điều này làm một bộ phận cán bộ tín dụng có tâm lý thẩm định khắt khe, máy móc dẫn đến bỏ sót những dự án khả thi là điều không tránh khỏi. Do vậy, thủ tục cho vay cần phải được củng cố lại để đảm bảo lòng tin của ngân hàng đối với doanh nghiệp cũng như tạo cơ hội để doanh nghiệp phát triển.
Thứ hai: Chính sách tín dụng của ngân hàng còn chưa thực sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, còn chú trọng nhiều đến kinh tế quốc doanh.
Về quy mô tín dụng: Với chức năng đầu tư cho xây dựng và phát triển ngân hàng đầu tư và phát triển luôn hướng tới việc tìm kiếm và đầu tư, cho vay đối với những dự án lớn và có hiệu quả. Một mặt, góp phần thực hiện đường lối chiến lược kinh tế của Đảng, mặt khác về phía ngân hàng, tạo điều kiện nâng cao doanh số cho vay, dư nợ, tăng thu nhập thậm chí nếu có “trục trặc” thì vẫn được nhà nước bảo hộ. Cho nên đối tượng khách hàng mà ngân hàng thường xuyên quan tâm nhắm tới là các doanh nghiệp nhà nước, các tổng công ty lớn. Vấn đề tài sản thế chấp tài sản cũng dễ dàng hơn, nhiều trường hợp một số khoản vay không cần đảm bảo. Chính sách tín dụng của ngân hàng hạn chế với KT-NQD cũng một phần do sự làm ăn kém hiệu quả của khu vực này, Ngoài ra trong quá trình thẩm định nếu giá trị tài sản thế chấp thấp hơn mức vay nhưng khách hàng là doanh nghiệp nhà nước thì sẽ thực hiện tín chấp đối với phần không đủ. Nhưng các DNNQD phải đảm bảo bằng tài sản 100% giá trị món vay, cho nên quy mô tín dụng quốc doanh bao giờ cũng lớn hơn NQD. Nhìn theo một cách khác ta thấy, các DNNQD đa phần là những doanh nghiệp vừa và nhỏ, quy mô vốn nhỏ bé do đó những tài sản hình thành phần lớn có giá trị thấp nên không thể đảm bảo cho một món vay lớn được. Vì vậy mà DNNQD có quan hệ tín dụng với ngân hàng chủ yếu vay vốn lưu động, vốn trung và dài hạn rất nhỏ bé trong tổng dư nợ.
Phương thức cho vay: Có sự không bình đẳng trong việc áp dụng các phương thức cho vay đối với các TPKT. Đối với doanh nghiệp nhà nước họ có thể được cấp tín dụng dưới nhiều hình thức như: hạn mức tín dụng, vay từng lần, thuê mua, bảo lãnh...Trong khi đó tín dụng cấp cho khu vực NQD thông thường chỉ áp dụng hình thức cho vay từng lần (theo món) theo hình thức đảm bảo là cầm cố hoặc thế chấp.
Thứ ba: Năng lực cán bộ còn nhiều hạn chế dẫn đến những sai sót, ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng.
Trong quá trình hoạt động Chi nhánh luôn quan tâm, đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao trình độ cán bộ công nhân viên, đặc biệt là cán bộ tín dụng. Coi đó là cơ sở và nền tảng làm nên hiệu quả kinh doanh cao. Song hệ thống ngân hàng của chúng ta vẫn còn lạc hậu, nghiệp vụ mang tính cơ bản và có số lượng ít. Nó phản ánh trình độ phát triển kinh tế nước ta đồng thời cho thấy sự cách biệt so với các nước khác. Vì vậy hệ thống ngân hàng luôn trong quá trình đổi mới và tự hoàn thiện nhằm nâng cao trình độ của cán bộ công nhân viên, đáp ứng những đòi hỏi của sự đổi mới và phát triển của nền kinh tế trong từng giai đoạn. Tuy nhiên sự đổi mới và nâng cao này luôn đi sau những thay đổi về nhu cầu một nhịp. Thị trường luôn biến động, công nghệ ngân hàng không ngừng thay đổi, nhiều ngành nghề mới ra đời, quá trình chuẩn hoá hệ thống ngân hàng theo hệ thống quản lý chất lượng ISO trong khi cán cán bộ của Chi nhánh phần lớn còn rất trẻ nhiều khi thiếu kinh nghiệm chưa nắm bắt được động thái của doanh nghiệp, thực trạng kinh doanh và tình hình tài chính của khách hàng, do đó phát sinh những món nợ vay kém hiệu quả gây ra những khoản nợ quá hạn, khó đòi hoặc bỏ qua những khoản vay đối với khách hàng làm ăn có hiệu quả.
Trong quá trình kiểm tra, giám sát món vay, một số trường hợp cán bộ tín dụng còn hời hợt, thiếu tập trung làm theo chiếu lệ. Cũng từ những hạn chế trên mà đôi khi không đối phó được những thủ đoạn lừa đảo tinh vi của khách hàng. Hệ thống thông tin tín dụng chưa được cung cấp kịp thời, đặc biệt những thông tin về dự báo tài chính vĩ mô, định hướng phát triển của ngành vùng còn thiếu, chưa kịp thời. Chưa nói đến tình trạng chất lượng thông tin chưa cao dẫn đến thiếu cơ sở khi muốn xây dựng kế hoạch, giải pháp mang tính dài hạn. Tất cả những vấn đề này ảnh hưởng lớn đến việc thực hiện nhiệm vụ của cán bộ tín dụng.
* Nguyên nhân khác.
Do tính định hướng trong các văn bản pháp luật với hoạt động của các DNNQD còn chưa rõ ràng. Sự phân biệt đối xử với các doanh nghiệp còn xảy ra tương đối phổ biến.
Những biến động bất lợi của thị trường giá cả dẫn tới rủi ro cho người kinh doanh nhất là khi họ chưa đủ trình độ dự đoán được xu thế của thị trường. Giá nguyên vật liệu, nhiên liệu lên cao, lạm phát tăng làm cho các chi phí của doanh nghiệp tăng cao trong khi sản phẩm bán ra có thể không tăng được giá do cạnh tranh dẫn tới khả năng trả nợ giảm, các DNNQD dè dặt trong đầu tư vào các ngành công nghiệp và chế biến hàng hóa có chất lượng cao.
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP MỞ RỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI CÁC DNNQD TẠI NHĐT&PT HÀ TÂY
3.1.Định hướng trong phát triển cho vay đối với các DNNQD tại NH ĐT&PT Hà Tây.
3.1.1. Mục tiêu của NH ĐT&PT Hà Tây.
Căn cứ vào các mục tiêu hoạt động của Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam chi nhánh Hà Tây:
- Bám sát định hướng phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, mục tiêu nhiệm vụ kế hoạch của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam .
- Tiếp tục tăng trưởng và phát triển bền vững; Lấy an toàn, chất lượng và hiệu quả làm mục tiêu hàng đầu.
- Định hướng hoạt đông của Chi nhánh năm 2007 chỉ đạo quyết liệt chuyển dần sang mô hình Ngân hàng bán lẻ nhằm hướng tới mục tiêu phát triển ổn định lâu dài. Lựa chọn, duy trì nền khách hàng cũ, mở rộng hướng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng vào khối khách hàng tại các Khu, cụm, điểm công nghiệp, các làng nghề truyền thống.
- Đổi mới cách thức quản lý - quản trị kinh doanh - quản trị điều hành, Tập trung cho công tác đào tạo và đào tạo lại cán bộ trong thời kỳ mới.
- Mở rộng màng lưới hoạt động hướng tới các Khu, cụm, điểm công nghiệp, các làng nghề truyền thống, lắp đặt thêm máy ATM, các điểm chấp nhận thẻ POS...
- Triển khai các biện pháp quyết liệt để xử lý nợ tồn đọng;tận thu nợ xấu, nợ ngoại bảng; trích đủ dự phòng rủi ro hoạt động và kiểm soát được rủi ro
- Phát huy ưu thế sẵn có trong việc cung cấp các dịch vụ truyền thống, mở rộng và đa dạng danh mục sản phẩm, tập trung vào sản phẩm dịch vụ ngân hàng bán lẻ, các sản phẩm công nghệ cao.
3.1.2. Định hướng mở rộng cho vay các DNNQD trong thời gian tới tại NH ĐT&PT Hà Tây.
Hoạt động tín dụng bên cạnh việc tiếp tục thực hiện phục vụ tốt khách hàng truyền thống, các tổng công ty với các dự án lớn thuộc khối quốc doanh sẽ thực hiện phát triển tín dụng dịch vụ đối với khách hàng là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động trong lĩnh vực sản xuất đặc biệt là trong các khu công nghiệp, doanh nghiệp mà sản phẩm đã được thị trường chấp nhận.
Quy định mức lãi suất cho vay tối thiểu phù hợp với các NHTM quốc doanh trên từng địa bàn, đặc biệt đị bàn có tính cạnh tranh cao. Điều chỉnh lãi suất cho vay ngắn hạn và lãi suất trung dài hạn với cùng khách hàng vay bằng ngoại tệ.
Bổ sung chính sách với khách hàng mới có quan hệ, khách hàng mới được thành lập có quan hệ.
Có chính sách tài sản đảm bảo linh hoạt đối với khách hàng lớn, hoạt động kinh doanh hiệu quả, khách hàng truyền thống của ngân hàng.
3.2. Giải pháp mở rộng cho vay đối với các DNNQD tại NHĐT&PT Hà Tây.
3.2.1. Hoàn thiện chính sách tín dụng đối với DNNQD tại NH ĐT&PT Hà Tây.
Nền kinh tế nước ta đang đang phát triển và thu được nhiều kết quả đáng khích lệ, các doanh nghiệp ngày càng tăng lên cả về số lượng và chất lượng. Đối tượng khách hàng mà ngân hàng phục vụ ngày càng đa dạng và phong phú. Hiện nay, tại NHĐT&PT Hà Tây khối tín dụng chia làm hai khối là tín dụng quốc doanh và tín dụng ngoài quốc doanh. Tín dụng quốc doanh chuyên thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến khối doanh nghiệp nhà nước, khối tín dụng ngoài quốc doanh thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, chuyên trách trong cho vay ngoài quốc doanh. Bởi vậy có thể thấy đối tượng phục vụ của bộ phận tín dụng ngoài quốc doanh là rất lớn. Tuy nhiên, trong khi tiến hành phân tích khách hàng thì chưa có sự phân chia rạch ròi, cụ thể thế nào là DNNQD có quy mô nhỏ? thế nào là DNNQD có quy mô vừa? thế nào là DNNQD có quy mô lớn? Mặc dù pháp luật đã có quy định cụ thể về quy mô, đặc điểm của các loại hình doanh nghiệp nhưng đó là những quy định chung nhất, mang tính tổng quan nhất.
Trong hồ sơ tín dụng của BIDV đã có quy định quy trình tín dụng và quản lý tín dụng chung cho toàn hệ thống, đó là quy trình thống nhất nên mang tính chiến lược cao và để thực hiện được dễ dàng ngân hàng thường có các văn bản hương dẫn. Tuy nhiên do đối tượng các DNNQD rất đa dạng Chi nhánh Chi nhánh NHĐT&PT Hà Tây cần phân chia các doanh nghiệp, các phương án vay vốn theo mức độ khác nhau để thực hiện các công việc một cách chuyên môn hóa hơn, tức là cần có sự hướng dẫn cụ thể hơn của Chi nhánh NHĐT&PT Hà Tây với khối tín dụng ngoài quốc doanh. Sau đây xin đưa ra gợi ý như sau:
* Chi nhánh NHĐT&PT Hà Tây cần nghiên cứu và đưa xếp hạng cụ thể hơn về quy mô của doanh nghiệp cũng như quy mô phương án vay vốn theo các mức lũy tiến để từ đó đối chiếu xem xét hồ sơ cần hoàn thành, phân cấp thực hiện
Từ việc xem xét, đối chiếu nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp, quy mô doanh nghiệp theo quy định chung sẽ ảnh hưởng đến các mặt hoạt động khác như thủ tục hồ sơ cần chuẩn bị, thủ tục thẩm định dự án, các bộ phận và cá nhân chuyên tráchNếu có sự phân chia cụ thể như vậy thì chi phí cho việc đánh giá khách hàng giảm bớt, chi phí thời gian cho khách hàng và ngân hàng giảm, số lượng cán bộ chuyên trách cũng giảm.
* Sau khi đã có sự phân chia đối tượng khách hàng cụ thể như trên cần xây dựng hệ thống tính điểm cho nhóm khách hàng một cách cụ thể, như thiết lập hệ thống câu hỏi để đánh giá, tính điểm tín dụng. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam cùng Chi nhánh NHĐT&PT Hà Tây sẽ đưa ra mẫu đánh giá cho các nhóm khách hàng cụ thể hơn như vậy thông qua chuẩn hóa quy trình đánh giá tín dụng tại ngân hàng, tính điểm cho phép giảm bớt chi phí và thời gian cho vay hay cho thuê với doanh nghiệp, cho phép mở rộng tín dụng với các DNNQD.
Cùng với quá trình xếp loại, tính điểm cho khách hàng, cán bộ tín dụng tiến hành kiểm tra thông tin và thực hiện thẩm định đánh giá khách hàng, phương án xin tài trợ
* Phân cấp thẩm quyền quyết định cấp tín dụng
Việc phân cấp thẩm quyền cấp tín dụng có tác động trực tiếp đến việc quản lý, kiểm soát các khoản vay. Với các khoản vay nhỏ, sau khi xem xét , cho điểm khách hàng nếu hồ sơ vay được chấp nhận thì có thể thực hiện các công việc cần thiết để giải ngân luôn mà không cần qua bộ phận thẩm định, các phòng ban liên quan để tiết kiệm thời gian và chi phí. Để thực hiên tốt công việc giải ngân, giảm nguy cơ rủi ro cần đưa ra quy định về mức phán quyết khoản vốn giải ngân của một người, nhóm người, ban giám đốc, hội đồng quản trịCó như vậy mới đảm bảo tính thống nhất và gắn liền quyền lợi và trách nhiệm của người ra quyết định.
3.2.2. Hoàn thiện chính sách Marketing
Kinh doanh tiền tệ là một phạm trù hết sức trừu tượng rất khó đánh giá, xem xét một cách cụ thể. Khách hàng rất khó khăn trong việc nhìn nhận đâu là một ngân hàng thực sự kinh doanh hiệu quả, ngân hàng cung cấp dịch vụ hoàn hảo đến mức nào. Hình ảnh và uy tín của ngân hàng trong tâm trí khách hàng là cơ sở cho việc ra quyết định lựa chọn sản phẩm của ngân hàng cung cấp. Để tạo được ấn tượng với khách hàng cần hoàn thiện chính sách marketing của ngân hàng, công tác marketing cần chuyên nghiệp hơn. Để hoàn thiện chính sách marketing cần thực hiện một số giải pháp sau:
3.2.2.1.Thành lập một bộ phận chuyên môn hóa về hoạt động marketing ngân hàng.
Hoạt động marketing của các NHTM nước ta thực hiện chưa thực sự chuyên nghiệp, thiếu tính thống nhất. Với khối NHTM nhà nước thì hoạt động marketing còn rất nhiều hạn chế. Thực tế, hầu như cán bộ tín dụng nào cũng phải đảm nhiệm thêm vai trò của một cán bộ marketing, bởi vậy các hoạt động tìm kiếm khách hàng, tiếp thị khách hàng, giải đáp thắc mắcđều do cán bộ tín dụng thực hiện. Hoạt động marketing thiếu tính chuyên nghiệp dẫn tới những tổn thất không nhỏ cho cả ngân hàng và khách hàng. Biện pháp có tác động mạnh tới hoạt động mở rộng cho vay với đối tượng DNNQD là đẩy mạnh hoạt động marketing ngân hàng, tạo ra sự hấp dẫn cho các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng mình.
Để tiến hành tìm hiểu nhu cầu, mong muốn,các kỳ vọng của khách hàng vào các sản phẩm tín dụng cũng như các sản phẩm khác của ngân hàng cần tiến hành việc phân tổ, lập các đội nghiên cứu thị trường. Dựa trên các tiêu thức được chọn lọc, nghiên cứu mang tính khoa học cao các cán bộ marketing sẽ giúp cán bộ tín dụng nắm được những thông tin chính xác về khách hàng của mình từ đó tạo ra mối quan hệ, sự hiểu biết giữa ngân hàng vầ khách hàng. Lĩnh vực hoạt động kinh doanh của các DNNQD rất phong phú và đa dạng, nhu cầu về vốn luôn luôn biến động trong khi các điều kiện cơ sở pháp lý cho các DNNQD còn chưa thực sự tốt nên đối với ngân hàng thì thị trường cho vay các DNNQD rất đa dạng nhưng cũng rất phức tạp do vậy việc thành lập một bộ phận chuyên nghiên cứu về khách hàng sẽ giúp ngân hàng hiểu hơn về các DNNQD, nắm bắt được nhu cầu, thực trạng kinh doanh trên thị trường, việc sử dụng vốn vay của doanh nghiệp Có như vậy hoạt động cho vay của ngân hàng mới có hiệu quả và chất lượng cao hơn, cạnh tranh được với các ngân hàng khác trên địa bàn. Đầu tháng 10 năm 2008, NH ĐT&PT Hà Tây thành lập phòng Quan hệ khách hàng theo mô hình dự án T22 của NHĐ&PT Việt Nam xây dựng, mô hình trên làm tăng tính cạnh tranh cho ngân hàng trong xu hướng hội nhập trong những năm tới.
3.2.2.2. Xây dựng chiến lược sản phẩm hấp dẫn
Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh là không thể tránh khỏi. Muốn khách hàng nhớ tới mình cần phải cho khách hàng thấy sự mới mẻ, đa dạng của các sản phẩm ngân hàng cung cấp. Sản phẩm của ngân hàng không thể đa dạng như nhiều ngành nghề khác do những ràng buộc tương đối khắt khe của NHNN, của chính phủ. Sản phẩm tín dụng càng khó đa dạng hơn, đưa ra một sản phẩm tín dụng hoàn toàn mới là khó khăn bởi vậy cách làm hiệu quả được nhiều ngân hàng thực hiện là cải tiến sản phẩm đã có. Để thực hiện được mục tiêu cung cấp sản phẩm tốt nhất ngân hàng cần tiến hành các biện pháp:
* Đa dạng hóa hình thức cấp tín dụng
Ngân hàng có thể mở rộng cho vay thông qua mở rộng hình thức tài trợ. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay, với đặc điểm của các DNNQD phần lớn là quy mô vốn nhỏ, thiếu công nghệ và rất cần vốn để mở rộng lĩnh vực ngành nghề kinh doanh; nhập công nghệ tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩmngân hàng cầc đặc biệt lưu tâm trong cho vay với đối tượng này. Hình thức có hiệu quả mà ngân hàng có thể tiến hành khi cho vay DNNQD là mở rộng cho thuê tài chính và hình thức đồng tài trợ.
- Cho thuê tài chính là loại hình tín dụng đặc biệt phù hợp với doanh nghiệp nhỏ và vừa, được sử dụng rất phổ biến kể cả ở các nước phát triển. Trong khi đó có tới 95% doanh nghiệp quy mô nhỏ và vừa lại thiếu hiểu biết về loại hình này mặc dù cho thuê tài chính hình thành tại Việt Nam từ năm 1997. Với tiềm lực tài chính của Chi nhánh, với đặc điểm có lợi thế trong cho vay đầu tư các tổng công ty thì việc mở rộng cho thuê tài chính hứa hẹn mang nhiều lợi nhuận cho ngân hàng khi cho vay DNNQD. Với những ưu tiên của nhà nước với hoạt động cho thuê tài chính và sự cho phép triển khai hình thức cho thuê mới là cho thuê vận hành thì Chi nhánh có nhiều lợi thế khi triển khai hình thức này. Cho thuê vận hành là hình thức cho thuê hoạt động tức là cho thuê tài sản có thời hạn nhất định (thời gian cho thuê chỉ chiếm một phần nhỏ trong khoảng thời gian hữu dụng của tài sản) và sẽ trả lại bên cho thuê khi kết thúc thời hạn cho thuê. Điều kiện của NHNN là tổ chức cho thuê phải có thời gian hoạt động tối thiểu 2 năm, hoạt động kinh doanh có lãi, tỷ lệ nợ quá hạn thời điểm cuối quý trước không quá 5%, không vi phạm các quy định an toàn khi hoạt độngVới những đòi hỏi trên, NHĐT&PT Hà Tây có rất nhiều lợi thế khi cho vay DNNQD dưới hình thức cho thuê tài chính.
- Đồng tài trợ là hình thức cấp tín dụng khi các công trình, dự án có tổng dự toán vượt quá thẩm quyền của sở. Khi đó sẽ thực hiện cho vay hợp vốn, SGD đứng ra giữ vai trò “ ngân hàng đầu mối” thực hiện kêu gọi góp vốn từ các ngân hàng khác, các tổ chức tín dụng khác cùng cho vay dự án; cùng tiến hành cho vay hợp vốn, phân bổ hạn mức cho vay từng ngân hàng. Ngân hàng đầu mối sẽ tiến hành giải ngân, thu lãi và thu nợ và phân bổ số vốn gốc và lãi thu được cho các ngân hàng theo tỷ lệ vốn góp.
* Đa dạng thời hạn cấp tín dụng
Thực hiện mở rộng hình thức cấp tín dụng bằng cách đa dạng về thời hạn cho vay: ngắn hạn, trung hạn, dài hạn theo các kỳ hạn đa dạng hơn đi kèm các dịch vụ tiện ích hoặc khuyến mại. Ví dụ như theo quy định cho vay trung hạn là khoản cho vay có thời hạn 1 năm đến 5 năm ngân hàng có thể chia thành nhiều khoảng thời gian khác nhau để các doanh nghiệp chủ động trong lựa chọn và giảm chi phí vay do có thể không sử dụng hết thời hạn tín dụng
3.2.2. Xây dựng cơ chế chính sách cho vay đơn giản, khoa học, sát với tình hình thực tế kinh tế ngoài quốc doanh
Một trong những nguyên nhân làm hạn chế việc mở rộng tín dụng NQD đó là những vướng mắc, bất cập trong cơ chế cho vay. Vì vậy để có thể mở rộng tín dụng NQD các ngân hàng nên đổi mới và hoàn thiện cơ chế chính sách cho vay theo hướng đơn giản, khoa học, phù hợp với tình hình thực tế khu vực NQD
Đối với thủ tục cho vay: Để vay được vốn ngân hàng, khách hàng phải đáp ứng rất nhiều điều kiện và các thủ tục về giấy tờ. Từ khi lập hồ sơ đến khi ký kết hợp đồng tín dụng khách hàng phải cung cấp các báo cáo tài chính, đến các giấy tờ chứng minh tài sản đảm bảo, phương án sản xuất kinh doanh...Mỗi bộ hồ sơ vay vốn phải có nhiều chữ ký, con dấu của nhiều cấp, cơ quan làm mất khá nhiều thời gian của khách hàng và bản thân ngân hàng. Mặc dù những giấy tờ đó là hết sức cần thiết nhưng dẫu sao vẫn gây cho khách hàng tâm lý ngại khi đến vay vốn tại ngân hàng, họ có xu hướng đi tìm kiếm các nguồn tài trợ trong dân cư mặc dầu chịu lãi cao hơn song thủ tục đơn giản gọn nhẹ. Trong thời đại bùng nổ thông tin, sự cạnh tranh diễn ra gay gắt, cơ hội chợt đến chợt đi. Nhìn thấy cơ hội đã khó, huy động các nguồn lực để nắm bắt cơ hội còn khó hơn. Mọi sự chậm trễ, trần chừ, do dự có thể đánh mất lợi nhuận lớn, cho nên sự chậm trễ trong vay vốn ngân hàng có thể làm mất cơ hội làm ăn của họ.
Những bức xúc, mâu thuẫn này đang đòi hỏi ngân hàng phải nhanh chóng giải quyết. Một mặt, cán bộ tín dụng phải tiến hành công việc một cách nhanh chóng, xác định khẩn trương các loại giấy tờ mà khách hàng cung cấp, mặt khác cần phải khéo léo giải thích để khách hàng hiểu được tầm quan trọng của các chứng từ, thủ tục mà ngân hàng đặt ra. Để làm được điều đó cần phải có sự kết hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các bộ phận phòng ban có liên quan, đảm bảo công việc luôn đuợc trôi chảy, những bộ phận đó là: Phòng tín dụng - kế toán - kho quỹ và ban giám đốc. Đồng thời những người chịu trách nhiệm, những lãnh đạo thường trực phải luôn có mặt, hạn chế sự đi vắng để ký kết, xác nhận, ra các quyết định tạo nên sự nhanh chóng khi có một khoản vay nào đó vượt thẩm quyền của cấp đang được quyết định. Đối với những giấy tờ mang tính chuẩn, lập theo khung mẫu ngân hàng nên tổ chức, xây dựng trước để khách hàng chỉ việc điền vào và ký nhận rút ngắn thời gian.
Đối với lãi suất áp dụng phải phù hợp với điều kiện thực tế của khách hàng: Ngân hàng cần sử dụng nhiều mức lãi suất cho vay tuỳ thuộc vào từng loại khách hàng. Lãi suất là một vấn đề quan trọng đối với khoản vay, vì nó liên quan trực tiếp đến lợi ích của ngân hàng và khách hàng. Vì thế ngân hàng nên đa dạng hoá lãi suất cho phù hợp với các đối tượng khách hàng khác nhau, lấy lãi suất làm công cụ mở rộng tín dụng cụ thể là:
Phân loại khách hàng vay vốn thành các nhóm khác nhau theo những tiêu chí nhất định để áp đặt các mức lãi suất phù hợp. Đối với những khách hàng có quan hệ thường xuyên, vay trả sòng phẳng, sản xuất kinh doanh có hiệu quả, dư nợ lớn, không phát sinh nợ quá hạn thì nên áp dụng mức lãi suất cho vay ưu đãi hơn so với các đối tượng khác trên cơ sở đảm bảo những chi phí cần thiết cho ngân hàng và thu lợi nhuận hợp lý. Việc này là có thể thực hiện được khi mà cơ chế lãi suất thoả thuận vừa được NHNN áp dụng vào qúy IV năm 2002.
Đa dạng hoá các loại hình lãi suất, các loại kỳ hạn là để phù hợp với chu kỳ kinh doanh của khách hàng. Dựa vào từng loại lãi suất, kỳ hạn khách hàng có nhièu cơ hội lựa chọn khoản vay thích hợp để hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả cao, đảm bảo trả nợ ngân hàng.
Đa dạng hoá hình thức cho vay: Tuỳ theo khả năng về nguồn vốn và đặc điểm của nền kinh tế cũng như tính chất của khách hàng mà ngân hàng đưa ra những hình thức cho vay phù hợp. Thực tế cho thấy đối với KT-NQD ngân hàng mới chủ yếu cho vay phục vụ sản xuất với kỳ hạn ngắn (bổ sung sự thiếu hụt về vốn lưu động) và không theo dự án. Cho nên phương hướng đa dạng hoá hình thức cho vay nên tài trợ cho vay trung và dài hạn theo dự án khi KT-NQD có nhu cầu, triển khai áp dụng hình thức tín dụng tiêu dùng đáp ứng nhu cầu trong dân cư, tiếp tục mở rộng cho vay đảm bảo bằng tài sản hình thành từ vốn vay, bước đầu cho vay bằng hình thức tín chấp với những khách hàng làm ăn lâu dài và có quan hệ tín nhiệm đối với ngân hàng.
3.2.3. Giải pháp về mặt nhân sự.
Nhân tố con người là nhân tố quan trọng nhất quyết định đến hiệu quả của mọi công việc. Cán bộ tín dụng có vai trò vô cùng quan trọng, tham gia vào cả quy trình cho vay và quản lý khoản vay sau khi giải ngân. SGD thường cho vay các doanh nghiệp thuộc khu vực quốc doanh nên gặp những khó khăn trong mở rộng cho vay DNNQD, nhất là trước sức ép cạnh tranh của các NHTM cổ phần. Vì vậy, cần nâng cao vai trò, năng lực và phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ tín dụng phụ trách tín dụng nói chung và cán bộ tín dụng khu vực ngoài quốc doanh nói chung.
Để thực hiện được nhiệm vụ trên cần thực hiện một số công việc sau:
* Tiếp nhận, tuyển chọn và đào tạo cán bộ có tri thức, hiểu biết về lĩnh vực tài chính ngân hàng. Đây là giải pháp ít tốn kém nhất và mang lại hiệu quả cao nhất. Người cán bộ tín dụng đòi hỏi phải là người hiểu biết về pháp luật, có kiến thức chuyên môn vững đồng thời phải là người tháo vát, có khả năng tìm kiếm khách hàng, nhanh nhậy để nắm bắt những thay đổi trong quy định của NHNN, chính phủ về tín dụng. Bởi vậy, khi tuyển chọn đội ngũ cán bộ tín dụng cần có sự phân loại để có chính sách phù hợp.
- Đào tạo và nâng cao đối với cán bộ nghiệp vụ đã có kinh nghiệm và trình độ ở một mức độ nhất đinh. Với đối tượng này phải có chương trình đào tạo chuyên sâu, mang tính gợi mở ý tưởng cho những hình thức mới, tạo điều kiện cho các cán bộ tín dụng trao đổi kinh nghiệm trong quá trình làm việc thực tế.
- Tuyển mộ và đào tạo cơ bản với cán bộ tín dụng mới. Những cán bộ tín dụng là những người mới tốt nghiệp, sinh viên năm cuối là những người có lòng nhiệt tình và ham học hỏi nhưng lại thiếu kinh nghiệm thực tế. Bởi vậy ngân hàng cần có chính sách tuyển mộ phù hợp để có thể nắm bắt được năng lực thực sự của họ đồng thời mang tính khám phá và tìm hiểu được tính cách và phẩm chất của họ. Sau khi tuyển chọn được đội ngũ cán bộ tín dụng mới cần tiến hành đào tạo về nghiệp vụ thực tế, chủ yếu là gắn liền thực tế hoạt động của ngân hàng với lý thuyết chung. Đồng thời, trong thời gian đầu có thể cử những cán bộ có kinh nghiệm và chuyên môn vững hướng dẫn cán bộ mới.
*Đào tạo sâu hơn các nghiệp vụ có liên quan nhằm bổ sung, hỗ trợ cho các nghiệp vụ tín dụng chính, giúp cán bộ tín dụng nâng cao năng lực, nắm bắt được công nghệ thông tin và thông tin thị trường kịp thời nhanh chóng. Phân tích tài chính doanh nghiệp là một hoạt động rất phức tạp đòi hỏi người thực hiên phải có hiểu biết sâu về kế toán doanh nghiệp đồng thời phải có những đánh giá, phân tích sắc bén dựa trên các số liệu của doanh nghiệp đã được phân tích bằng công cụ toán học, các hàm toán học. Muốn thực hiện được công việc trên đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có kỹ năng thành thạo về sử dụng các phần mềm kế toán, các hàm toán học và có hiểu biết về thị trường để đưa ra những kết quả phân tích có độ chính xác lớn.
*Giao kế hoạch cụ thể cho từng cán bộ tín dụng, đồng thời có chính sách khen thưởng, kỷ kuật công bằng với các cán bộ phụ trách cho từng mon vay cụ thể. Phải có sự đánh giá công bằng, chính xác khi rủi ro xảy ra, người vay không trả được nợ. Phải xem xét kỹ lưỡng rủi ro, sai sót phát sinh từ khâu nào để quy trách nhiệm cho chính người làm sai. Giao trách nhiệm cho cán bộ tín dụng khi cho vay cần đi kèm với những chế độ ưu đãi, khuyến khích kịp thời như những chính sách về tiền lương, tiền thưởng, công tác phí, chi phí phát sinh ngoài dự kiến NHĐT&PT Hà Tây có thể thực hiện việc giao chỉ tiêu cụ thể về quy mô khoản vốn cho vay được trong một năm của một cán bộ tín dụng, nếu thực hiện cho vay vượt mức quy định thì sẽ có các chế độ thưởng tương xứng; đồng thời phải đảm bảo về tính an toàn của khoản vốn đã giải ngân, tránh tình trạng cho vay tràn lan nhưng chất lượng không đảm bảo.
* Bố trí các công việc một cách hợp lý, phù hợp trình độ, năng lực của từng cán bộ để phát huy những điểm mạnh của họ, khắc phục khuyết điểm.
* Hàng năm cần đánh giá lại chất lượng đội ngũ cán bộ tín dụng. Khuyến khích và nêu gương những cán bộ tín dụng giỏi, những tập thể tín dụng có thành tích tốt.
3.2.4.Xây dựng hệ thống thông tin tín dụng tốt.
Thông tin tín dụng có vai trò quan trọng trong quản lý chất lượng tín dụng. Nhờ có thông tin, người quản lý có thể đưa ra những quyết định cho vay đúng đắn, định lượng được rủi ro một cách khá chính xác, có dự báo về diễn biến thị trường. Thông tin tín dụng có thể thu được từ những nguồn sẵn có của ngân hàng, của khách hàng, hoặc từ các tổ chức tín dụng khác trong và ngoài nước, từ các nguồn khác. NHĐT&PT Hà Tây có thể thực hiện trao đổi thông tin với các bộ phận, đơn vị khác trực thuộc BIDV, trao đổi với các tổ chức tín dụng khác trên địa bàn, với các tổ chức kinh tế.
SGD I nên phát triển mạng lưới nội bộ, tổ chức thông tin nội bộ đồng thời phải đẩy mạnh việc cung cấp thông tin tín dụng cho các đối tượng thông qua các bản tin, phương tiện truyền thông. Tham gia đầy đủ vào hệ thống thông tin tín dụng chung của NHNN, nghiêm túc thực hiện các quy định, quy chế thông tín tín dụng do NHNN và BIDV ban hành. Cần từng bước cung cấp các thông tin một cách rõ ràng và công khai hơn để tạo cảm giác về tính an toàn và minh bạch của thông tin cung cấp.
3.2.5. Giải pháp về nguồn vốn.
Ngân hàng thực hiện huy động vốn để tiến hành các hoạt động kinh doanh của mình mà chủ yếu là cho vay, nói cách khác ngân hàng đi vay để cho vay. Bởi vậy muốn mở rộng cho vay nhất là cho vay DNNQD cần một cơ cấu huy động rất đa dạng và linh hoạt nhằm đáp ứng nhu cầu vay vốn cũng như đảm bảo khả năng thanh khoản của ngân hàng. NHĐT&PT Hà Tây có quy mô vốn huy động ngày một lớn tuy nhiên nguồn chủ yếu lại tập trung ở các tổ chức kinh tế lớn nên tạo ra sức ỳ lớn. Nếu một khách hàng lớn không thực hiện gửi tiền ở SGD thì rất nhiều khó khăn khi tìm nguồn mới. Bởi vậy cần đa dạng các nguồn tiền gửi nhất là huy dộng từ dân cư, các tổ chức kinh tế, các nguồn gửi tiền mới. Có thể thực hiện bằng việc tăng cường các điểm giao dịch, mở rộng ngân hàng, có chính sách khuyến mãi, dịch vụ đi kèm hấp dẫn.
- Tiến hành huy động bằng cách mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ liên quan đến các loại tài khoản như: tài khoản séc, tài khoản tiền gửi hưu tríCần đẩy mạnh việc thực hiện các dịch vụ thanh toán với tốc độ nhanh, hiện đại, chi phí thấp.
- Mở rộng nhiều hình thức huy động với nhiều mức lãi suất, nhiều thời hạn, phương thức gửi và thanh toán khác nhau.
- Phát triển và đa dạng hóa các công cụ huy động vốn trung và dài hạn như kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi trên 1 năm, trái phiếu.
3.3. Một số kiến nghị
3.3.1. Kiến nghị với chính phủ.
Các DNNQD gặp nhiều khó khăn do các quy định phức tạp chồng chéo của chính phủ, nhà nước. Bởi vậy, chính phủ cần nghiên cứu và trình quốc hội thông qua, ban hành một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh về việc tổ chức cũng như quản lý DNNQD.
Chính phủ cần phải làm rõ hơn về khái niệm thế nào là DNNQD vì có thể hiểu khái niệm về DNNQD theo nhiều phương diện. DNNQD bao gồm hay không bao gồm các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hay không. Cần thấy rõ vai trò của các DNNQD trong việc phát triển kinh tế cũng như các các hoạt động khác của xã hội. Từ đó tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế.
Có biện pháp hỗ trợ việc đào tạo cán bộ, trình độ quản lý cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh để các doanh nghiệp này có khả năng hoạt ddộng hiệu quả trong điệu kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay.
Nhanh chóng thực hiện việc chứng nhận quyền sở hữu các tài sản của các hộ tư nhân.
Nhanh chóng ban hành chế độ kiểm toán, kế toán đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Hiện nay do yêu cầu của việc vay vốn các doanh nghiệp phải tuân thủ chế độ kế toán thống kê của nhà nước, nhưng qua thực tế kiểm tra phần lớn sổ sách kế toán của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn có sai phạm, thiếu sót chưa theo mẫu quy định.
Nhà nước cần có chính sách khen thưởng đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh do những đóng góp không nhỏ cho việc phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên cần quy định cụ thể về năng lực của các cá nhana đứng lên thành lập doanh nghiệp tư nhân, công tyTNHH và công ty cổ phần. Không nên cho phép thành lập doanh nghiệp một cách tràn lan dẫn đến không kiểm soát nổi. Kiên quyết xoá bỏ các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, kém hiệu quả, vi phạm pháp luật.
Thúc đẩy sự hình thành và hoạt động của các tổ chức bảo lãnh và định giá. Có được sự đánh giá của các tổ chức định giá là một cơ sở quan trọng và đáng tin cậy cho ngân hàng khi cấp tín dụng đồng thời giảm chi phí cho ngân hàng khi thẩm định tài chính. Sự bảo lãnh của các tổ chức có uy tín, có sự bảo lãnh của quỹ bảo lãnh tín dụng sẽ giúp các DNNQD có được rất nhiều thuận lợi khi vay vốn.
3.3.2. Kiến nghị với ngân hàng nhà nước
Thực hiện hoàn thiện các chính sách tiền tệ, điều chỉnh chính sách tiền tệ linh hoạt và chủ động. Tránh tình trạng các quy định chồng chéo và mâu thuẫn. Các chính sánh cần mang tính cập nhật với diễn biến tình hình trong nước và quốc tế.
Tiếp cận kịp thời và nhanh chóng với các quy định mới của quốc tế để có sự nghiên cứu, ban hành các quy định chung cho các ngân hàng lấy làm cơ sở để thực hiện.
Thu hút, kêu các dự án, chương trình của quốc tế hỗ trợ ngành tài chính, ngân hàng trong nước về đào tạo nhân lực, trình độ quản lý, nghiệp vụ. Tổ chức các buổi hội nghị, các cuộc tiễp xúc trao đổi kinh nghiệm với các ngân hàng nước ngoài, tổ chức tài chính quốc tế lớn.
Thực hiện cải tổ có hiệu quả, cơ cấu lại ngành ngân hàng.
Nâng cấp, hiện đại hóa trang thiết bị cho các ngân hàng, nâng cấp hệ thống thông tin chung cho toàn ngành. Đồng thời, phải đảm bảo tính an toàn, bảo mật cho các dữ liệu của ngành, của các ngân hàng trong nước.
Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát đối với các ngân hàng để hạn chế sai sót, rủi ro trong hoạt động của các ngân hàng. Thực hiện nâng cao chất lượng tín dụng, kiểm soát chặt chẽ quy trình, thủ tục cấp tín dụng, phát hiện sớm và kịp thời những sai phạm mà ngân hàng có thể mắc.
3.3.3. Kiến nghị với ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam.
Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam là cơ quan lãnh đạo cao nhất của NHĐT&PT Hà Tây vì vậy để hoạt động cho vay của NHĐT&PT Hà Tây đối với các DNNQD thì ngân hàng cần thực hiện một số giải pháp sau:
Thay đổi cách nhìn nhận của ngân hàng đối với hoạt động cho vay các DNNQD; từ đó có những thay đổi, điều chỉnh hướng dẫn cụ thể hoạt động cho vay của các DNNQD. Những quy định về chính sách, quy trình tín dụng cho DNNQD cần cụ thể và khoa học hơn, hoàn thiện chính sách tín dụng cũng như chính sách khách hàng nhằm đẩy mạnh hoạt động cho vay DNNQD.
Hỗ trợ Chi nhánh trong đào tạo, nâng cao nghiệp vụ cho các cán bộ, công nhân viên đặc biệt là các cán bộ tín dụng. Tổ chức hội nghị, hội thảo khoa học trong nội bộ ngân hàng và với các NHTM khác trên địa bàn nhằm trao đổi kinh nghiệm, nắm bắt thông tin.
Phát triển các dịch vụ, hình thức cho vay mới, phù hợp với các DNNQD; sớm thành lập bộ phận chuyên môn hoá về hoạt động marketing.
Nghiên cứu và hoàn thiện hệ thống xếp loại doanh nghiệp nhằm làm đơn giản thủ tục cho vay, giảm bớt các thủ tục cho vay.
Hoàn thiện công tác thu thập và xử lý thông tin tín dụng, sử dụng có hiệu quả thông tin tín dụng.
KẾT LUẬN
Hội nhập trong lĩnh vực tài chính ngân hàng đã và đang đặt ra nhiều cơ hội và thách thức cho các NHTM Việt Nam. Chúng ta chỉ có thể phát triển được khi làm chủ ngay trên sân nhà trước khi bị các tập đoàn đoàn tài chính nước ngoài cạnh tranh và mất khách hàng. Muốn thực hiện được các mục tiêu đã đặt ra, NHĐT&PT Hà Tây cũng như Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam cần thực hiện đa dạng khách hàng và đa dạng dịch vụ cung cấp. Việc mở rộng tín dụng cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh sẽ giúp ngân hàng linh hoạt hơn, giảm khả năng rủi ro khi vốn tín dụng chỉ tập trung vào một số ít đối tượng, tăng cường các quan hệ tín dụng mới. Thực hiện tốt điều này sẽ giúp cho NHĐT&PT Hà Tây có được lượng khách hàng đủ lớn, củng cố được vị trí của BIDV trong tình hình cạnh tranh ngày một gay gắt của các NHTM cổ phần và các NHTM nước ngoài trong tương lai không xa.
Từ bối cảnh trên, qua chuyên đề tốt nghiệp em xin mạnh dạn nêu ra thực trạng và đề ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm Việc mở rộng tín dụng cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Ngân Hàng Đầu Tư và Phát Triển Hà Tây. Đồng thời bài viết cũng trình bày về sự cần thiết và đưa ra một số phương án về việc thực hiện các chính sách Marketing trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng .Do khả năng nhận thức, tìm hiểu thực tế với thời gian và kiến thức có hạn nên chuyên đề không thể tránh khỏi những sai sót, hạn chế. Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp, giúp đỡ chỉ bảo của các thầy cô và các anh chị tại Ngân Hàng Đầu Tư và Phát Triển Hà Tây để chuyên đề được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cám ơn thầy Quế, Ban lãnh đạo cùng các cô chú và anh chị làm việc tại Ngân Hàng Đầu Tư và Phát Triển Hà Tây đã tận tình hướng dẫn chỉ bảo giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp.
TÀI LIỆU THAM KH ẢO
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần VI,VII,VIII
TS. Nguyễn Hữu Tài (Chủ biên), Giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ, NXB Thống Kê, 2002.
TS. Phạm Thị Thu Hà, Ngân hàng thương mại quản trị và nghiệp vụ, NXB Thống Kê, 2002.
TS. Lưu Thị Hương (Chủ biên), Giáo trình tài chính doanh nghiệp, NXB Giáo Dục, 2002.
TS. Hồ Diệu (Chủ biên), Giáo trình tín dụng ngân hàng, NXB Thống Kê, 2001.
6. Frederic S.Mishkin , Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính,2002.
7. Peter S. Rose 2004, Quản trị ngân hàng thương mại,2004.
8. Sổ tay tín dụng Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam.
9. Tạp chí ngân hàng.
10. Thời báo ngân hàng.
11. Trang Wed Diễn đàn doanh nghiệp, vneconomy, cafef
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
NHNN
: Ngân hàng nhà nước
NHTM
: Ngân hàng thương mại
DNQD
: Doanh nghiệp quốc doanh
DNNQD
: Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
DNTN
: Doanh nghiệp tư nhân
TD
: Tín dụng
TT
: Thông tin
NHĐT&PTVN
: Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
BIDV
: Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
NHĐT&PT
: Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
TNHH
: Tránh nhiệm hữu hạn
KT-NQD
: Kinh tế ngoài quốc doanh
DANH MỤC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ
Bảng 2.1: Các chỉ tiêu kinh doanh của NHĐT&PT Hà Tây
Bảng 2.2: Kết quả hoạt động dịch vụ NHĐT&PT Hà Tây
Bảng 2.3: Dư nợ của NHĐT&PT Hà Tây phân theo loại hình doanh nghiệp
Bảng 2.4: Dư nợ của DNNQD phân the thời gian
Bảng 2.5: Doanh số cho vay tại NHĐT&PT Hà Tây qua các năm
Bảng 2.6: Doanh số thu nợ của NHĐT&PT Hà Tây qua các năm
Bảng 2.7: Cơ cấu nợ quá hạn của NHĐT&PT Hà Tây qua các năm
Bảng 2.8: Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ của NHĐT&PT Hà Tây
Biểu đồ 2.1: Dư nợ qua các năm của NHĐT&PT Hà Tây
Biểu đồ 2.2: Cơ cấu dư nợ theo loại hình doanh nghiệp tạiNHĐT&PT Hà Tây
Biểu đồ 2.3: Dư nợ cho vay phân theo thời gian tại NHĐT&PT Hà Tây
Biểu đồ 2.4: Doanh số cho vay của NHĐT&PT Hà Tây qua các năm
Biểu đồ 2.5: Doanh số thu nợ của NHĐT&PT Hà Tây qua các năm
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7579.doc