Tài liệu này gồm 29 trang
Nội dung
CHƯƠNG 1 : TỔNG QUAN VỀ THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT TRONG NỀN KINH TÊ THỊ TRƯỜNG
1.1 . Khái niệm và đặc điểm và ý nghia của hình thức thanh toán không dùng tiền mặt.
1.1.1. Khái niệm
1.1.2 Đặc điểm của thanh toán không dùng tiền mặt.
1.1.3 Nguyên tắc thanh toán không dùng tiền mặt ( thanh toán qua ngân hàng )
1.1.4 Ý nghĩa của hình thức thanh toán không dùng tiền mặt
1.2 Các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt :
1.2.1 Séc
1.2.2 Ủy nhiệm chi ( UNC )
1.2.3 Ủy nhiệm thu hoặc nhờ thu ( UNT )
1.2.4 Thư tín dụng(TTD):
1.2.5 Thẻ thanh toán
1.2.6 Dịch vụ ngân hàng điện tử
1.3 Các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt
1.3.1 Thanh toán bù trừ
1.3.2 Thanh toán diện tử liên ngân hàng
1.3.3 Thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại ngân hàng khác
KÊT LUẬN CHƯƠNG I
CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT TẠI VIỆT NAM
2.1. Đặc điểm kinh tê xã hội Việt Nam giai đọan hiện nay. Những thuận lợi, khó khăn đối với công tác phát triển , mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt .
2.1.1 Thuận lợi
2.1.2 Khó khăn
2.2. Tình hình chung về hệ thống ngân hàng Việt Nam
2.3. Tình hình mở rộng tài khoản cá nhân qua các năm
2.4. Tình hình sử dụng tiền mặt trong lưu thông
2.5. Tình hình thanh toán không dùng tiền mặt
2.5.1. Tình hình thanh toán qua thẻ
2.5.2. Tình hình thanh toán bằng Séc
2.5.3. Tình hình thanh toán bằng ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu
2.5.4. Dịch vụ ngân hàng điện tử
2.6 - Những hạn chế trong thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam và các nguyên nhân
2.6.1. Các mặt hạn chế:
2.6.2. Các nguyên nhân gây nên những hạn chế:
KÊT LUẬN CHƯƠNG 2
CHƯƠNG 3 : GIẢI PHÁP MỞ RỘNG THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT TRONG NỀN KINH TẾ Ở VIỆT NAM
3.1. Kinh nghiệm chuyển đổi sang nền kinh tế thanh toán không dùng tiền mặt tại các nước và rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam :
3.1.1. Kinh nghiệm tại các nước:
3.1.2. Rút ra bài học cho Việt Nam
3.2 Giải pháp nhằm mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế tại Việt Nam
3.2.1 Nhóm giải pháp đề xuất với NHNN và các cơ quan chức năng
3.2.2 Nhóm giải pháp đề xuât với các NHTM
3.2.3 Nhóm giải pháp đối với người sử dụng dịch vụ
29 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1851 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cầu của khách hàng, mọi sai sót do chủ quan
của ngân hàng làm thiệt hại đến khách hàng đều phải bồi thường theo quy định.
1.1.4 Ý nghĩa của hình thức thanh toán không dùng tiền mặt :
Thanh toán không dùng tiền mặt là hình thức sử dụng công cụ tiền tệ tiến bộ
nhất nó tạo ra tiền đề để áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật mang lại những lợi
ích kinh tế to lớn. Thanh toán không dùng tiền mặt ra đời và phát triển trên cơ sở của
nền kinh tế thị trường. Song chính nó lại trở thành nhân tố thúc đẩy nền kinh tế
hàng hoá phát triển, do đó nó vừa được coi là “đứa con” sinh ra của kinh tế thị
trường lại được xem như “bà đỡ” của nền kinh tế hàng hoá, nó góp phần đẩy nhanh
tốc độ quá trình tái sản xuất xã hội, nó là khâu đầu và cũng là khâu kết thúc của quá
trình sản xuất, nó liên quan đến toàn bộ quá trình lưu thông hàng hoá, tiền tệ của
các tổ chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội.
- Đối với khách hàng:
Khi giao dịch với ngân hàng để thanh toán họ phải mở tài khoản tiền gửi tại ngân
hàng. Tiền này có thể sử dụng bất cứ lúc nào và nó có tính thanh khoản gần như
100%. Quá trình thanh toán này nhanh hơn tiền mặt và giảm được rất nhiều chi phí
liên quan đến quá trình vận chuyển, kiểm đếm tiền mặt mà họ phải chịu. Giảm thiểu
các rủi ro như trộm cắp, hỏa hoạn.
4
Ngoài ra khi khách hàng mở tài khoản tại ngân hàng và duy trì số tiền gửi , họ
còn được hưởng những lợi ích khác như được trả lãi, được cung cấp dịch vụ ngân
hàng với nhiều ưu đãi…
- Đối với ngân hàng:
Thanh toán không dùng tiền mặt tạo điều kiện cho Ngân hàng tập chung tăng
cường ngồn vốn để đầu tư đúng chỗ có hiệu quả cho sự phát triển kinh tế. Qua hình
thức thanh toán không dùng tiền mặt sẽ tập trung được khoản thanh toán của khách
hàng mở tài khoản ở các Ngân hàng, muốn thanh toán được thì trên tài khoản phải có
số dư, điều này đã tạo ra một nguồn vốn nhàn rỗi và tập trung vào ngân hàn. Càng
nhiều khách hàng tham gia vào hoạt động thanh toán này thì số vốn càng lớn và bằng
kênh tín dụng riêng của mình ngân hàng có thể đầu tư khi nền kinh tế kêu gọi vốn phát
triển.
- Đối với nền kinh tế:
Thanh toán không dùng tiền mặt tạo điều kiện dễ dàng cho việc kiểm soát lạm
phát. Thông qua việc khống chế tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ tái chiết khấu... ngân hàng
Trung ương gián tiếp điều hoà khối lượng tiền tệ cung ứng góp phần bảo đảm cho nền
kinh tế ở một mức độ ổn định. Căn cứ vào việc thanh toán luân chuyển tiền tệ mà
hoạch định các chính sách cần thiết. Với ý nghĩa to lớn đó, ở những quốc gia có nền
kinh tế phát triển người dân sử dụng thanh toán không dùng tiền mặt như là một thói
quen văn hoá không thể thiếu được.
Thanh toán không dùng tiền mặt tạo điều kiện giúp Ngân hàng trung ương dự
đoán và kiểm soát đồng tiền đối với nền kinh tế để sử dụng và phát huy các đòn bẩy
kinh tế như lãi suất, tỷ trọng tín dụng trung dài hạn, tỷ giá hối đoái… mà không cần
phải dùng tới các mệnh lệnh hành chính để kiểm soát và định hướng nền kinh tế.
Thanh toán không dùng tiền mặt có ý nghĩa quan trọng đến việc tiết kiệm khối
lượng tiền mặt trong lưu thông, từ đó giảm bớt những phí tổn to lớn của xã hội có
liên quan đến việc phát hành và lưu thông tiền. Trước hết đó là tiết kiệm chi phí in
tiền, sau đó là những chi phí cho việc kiểm đếm, chuyên chở, bảo quản và huỷ bỏ tiền
cũ, rách mà vấn đề bức xúc nhất hiện nay đó là việc chuyên chở và bảo quản tiền mặt.
5
1.2 – Các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt :
1.2.1 Séc :
Séc là môt tờ lệnh trả tiền của chủ tài khoản được lập trên mẫu đã quy định sẵn,
yêu cầu ngân hàng phục vụ mình trích tiền từ tài khoản tiền gửi của mình để trả cho
người thụ hưởng có tên trên tờ séc hay người cầm tờ séc đó.
Séc là loại chứng từ thanh toán được áp dụng rộng rãi ở tất cả các nước trên thế
giới, quy định sử dụng séc đã được chuẩn hoá trên Công ước quốc tế. Séc được sử
dụng để thanh toán tiền hàng, dịch vụ, nộp thuế, trả nợ… hoặc được dùng để rút tiền
mặt tại các chi nhánh ngân hàng. Tất cả các khách hàng mở tài khoản tại ngân hàng
đều có quyền sử dụng séc để thanh toán. Thời hạn hiệu lực của séc, tùy theo quy
định trước, thường là 15 ngày kể từ ngày chủ tài khoản phát hành séc đến ngày người
thụ hưởng nộp séc vào ngân hàng (gồm cả ngày chủ nhật và ngày lễ).
1.2.2 Ủy nhiệm chi ( UNC ) :
Trong các phương tiện thanh toán không dùng tiền măt hiện nay tại Việt Nam, có
thể nói UNC là phương tiện thanh toán được sử dụng phổ biến nhất vì đơn giản về thủ
tục, có phạm vi thanh toán rộng. khi có nhu cầu thanh toán chủ tài khoản ( công ty
hoặc cá nhân) lập lệnh theo mẫu của ngân hàng- nơi quản lý tài khoản và gửi tới ngân
hàng. Ngay khi nhận được lệnh, ngân hàng có trách nhiệm kiểm tra tính hợp lệ của
UNC, số dư tài khoản và sẽ thực hiện trong thời gian không quá một ngày làm việc kể
từ thời điểm nhận được lệnh chi hay UNC do khách hàng gửi đến.
Bên cạnh những ưu điểm thì UNC vẫn còn co thể gây thiệt hại cho bên bán một khi
bên mua thiếu thiện chí thanh toán, bên mau có thể lập UNC đưa đến cho ngân hàng
nhưng sau đó lại yêu cầu hủy ngay, khi mà ngân hàng chưa kịp xử lý lệnh và cũng có
thể gây thiệt hại cho bên mua trong trường hợp đã thanh toán tiền nhưng chất lượng
hàng nhận không như mong đợi. trong các trường hợp này ngân hàng chỉ cung cấp
dịch vụ theo đúng nghĩa của nó.
6
1.2.3 Ủy nhiệm thu hoặc nhờ thu ( UNT ) :
Nhờ thu là phương thức thanh toán trong đó người xuất khẩu sau khi giao hàng và
cung ứng dịch vụ cho người nhập khẩu thì uỷ thác cho ngân hàng phục vụ mình thu
hộ số tiền ở người nhập khẩu trên cơ sở hối phiếu do mình lập ra.
Khi áp dụng phương thức thanh toán này các bên liên quan sẽ tuân theo qui tắc
thống nhất về nhờ thu chứng từ thương mại URC (Uniform Rule for Collection) do
phòng thương mại quốc tế ICC phát hành năm 1995.Theo URC 522 để tiến hành
phương thức thanh tóan nhờ thu bên bán phải lập chỉ thị nhờ thu ( Collection
Instruction) gửi cho ngân hàng uỷ thác. Các ngân hàng tham gia nghiệp vụ nhờ thu chỉ
được thực hiện theo đúng chỉ thị, với nội dung phù hợp qui định URC được dẫn chiếu.
Chỉ thị nhờ thu là văn bản pháp ly điều chỉnh quan hệ giữa Ngân hàng với bên nhờ thu
Các bên tham gia phương thức thanh toán:
- Người xuất khẩu (người uỷ nhiệm thu / Người hưởng lợi )
- Ngân hàng nhận uỷ nhiệm thu :là ngân hàng phục vụ người xuất khẩu
- Ngân hàng đại lý (ngân hàng thu tiền):là ngân hàng phục vụ bên mua
- Người nhập khẩu(người trả tiền / Bên mua)
1.2.4 Thư tín dụng(TTD):
TTD là hình thức thanh toán theo sự thoả thuận giữa hai bên bán và mua trong
điều kiện bên bán đòi hỏi bên mua phải có đủ tiền để chi trả phù hợp với giá trị
hàng hoá mà bên bán đã giao theo hợp đồng hay đơn đặt hàng đã ký.
TTD thường dùng để thanh toán giữa các khách hàng có tài khoản ở hai ngân hàng
khác nhau, có thể cùng hoặc khác hệ thống ( trường hợp khác hệ thống thì nơi ngân
hàng bên bán đóng trụ sở phải có ngân hàng cùng hệ thống với ngân hàng mở TTD và
tham gia thanh toán bù trừ với ngân hàng bên bán). Mỗi TTD chỉ được dùng để thanh
toán cho một người thụ hưởng. Thời hạn hiệu lực của một TTD là 3 tháng kể từ
ngày ngân hàng bên mua nhận mở TTD. Mức tiền tối thiểu cuả một TTD là 10 triệu
đồng.
7
1.2.5 Thẻ thanh toán
Thẻ thanh toán là một công cụ thanh toán do ngân hàng phát hành và bán cho
khách hàng của mình để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ, thanh toán công nợ hay
lĩnh tiền mặt tại các ngân hàng đại lý thanh toán hay các quầy trả tiền mặt tự động.
Thẻ thanh toán có nhiều loại nhưng có một số loại thẻ sau được sử dụng phổ biến:
- Thẻ ghi Nợ: Người sử dụng loại thẻ này không phải lưu ký tiền vào tài
khoản " Đảm bảo thanh toán thẻ". Căn cứ để thanh toán thẻ là số dư tài khoản tiền
gửi của chủ sở hữu thẻ tại ngân hàng và hạn mức thanh toán tối đa do ngân hàng
phát hành thẻ quy định. Hạn mức của thẻ được ghi vào bộ nhớ của thẻ nếu là thẻ điện
tử hoặc được ghi vào dải băng từ nếu là thẻ từ. Loại thẻ này áp dụng cho những
khách hàng có quan hệ tốt, thường xuyên và có tín nhiệm với ngân hàng.
- Thẻ ký quỹ thanh toán(thẻ loại B) : là loại thẻ mà để được sử dụng thẻ,
khách hàng phải lưu ký một số tiền nhất định vào tài khoản " Đảm bảo thanh toán
thẻ" thông qua việc tính tiền gửi hoặc nộp tiền mặt. Số tiền ký quỹ là hạn mức của thẻ
và được ghi vào bộ nhớ của thẻ. Thẻ này áp dụng rộng rãi cho mọi khách hàng.
- Thẻ tín dụng (thẻ loại C): áp dụng với những khách hàng có đủ điều kiện
được ngân hàng đồng ý cho vay tiền để mua thẻ. Mức tiền cho vay được coi như hạn
mức tín dụng và được ghi vào bộ nhớ của thẻ, khách hàng chỉ được thanh toán số tiền
trong phạm vi hạn mức tín dụng đã được ngân hàng chấp thuận.
1.2.6 Dịch vụ ngân hàng điện tử :
Về nguyên tắc, thực chất của dịch vụ Ngân hàng điện tử là việc thiết lập một kênh
trao đổi thông tin tài chính giữa khách hàng và Ngân hàng nhằm phụcvụ nhu cầu sử
dụng dịch vụ Ngân hàng của khách hàng một cách thực sự nhanhchóng, an toàn và
thuận tiện. Hiện nay dịch vụ Ngân hàng được các Ngân hàng thương mại Việt Nam
cung cấp qua các kênh chính sau đây: Ngân hàng trên mạng Internet (Internet-
banking), Ngân hàng tại nhà (Home-banking), Ngân hàng tự động qua điện thoại
(Phonebanking);Ngân hàng qua mạng thông tin di động (Mobile-banking)…
8
Ngân hàng trên mạng Internet (Internet-banking)
Internet-banking là dịch vụ cung cấp tự động các thông tin sản phẩm và dịch vụ
NH thông qua đường truyền Internet. Đây là một kênh phân phối rộng các sản phẩm
và dịch vụ NH tới khách hàng ở bất cứ nơi đâu và bất cứ thời gian nào. Với máy tính
kết nối Internet, khách hàng có thể truy cập vào website của NH để được cung cấp các
thông tin, hướng dẫn đầy đủ các sản phẩm, dịch vụ của Ngân hàng.
Các dịch vụ Internet-banking cung cấp:xem số dư tài khoản tại thời điểm hiện tại,
vấn tin lịch sử giao dịch; xem thông tin tỷ giá; lãi suất tiền gửi tiết kiệm; thanh toán
hóa đơn điện, nước, điện thoại; khách hàng có thể gửi tất cả các thắc mắc, góp ý về sản
phẩm, dịch vụ của Ngân hàng và được giải quyết nhanh chóng.
Ngân hàng tại nhà (Home-banking):
Ứng dụng và phát triển Home-banking là một bước phát triển chiến lược của các
NHTM Việt Nam trước sức ép rất lớn của tiến trình hội nhập toàn cầu về dịch vụ NH.
Đứng về phía khách hàng, Home-banking đã mang lại những lợi ích thiết thực như tiết
kiệm chi phí, thời gian. Và khẩu hiệu “Dịch vụ Ngân hàng 24 giờ mỗi ngày, bảy ngày
mỗi tuần” chính là ưu thế lớn nhất mà mô hình Ngân hàng “hành chính” truyền thống
không thể nào sánh được.
Ngân hàng qua điện thoại (Phone-banking):
Phone-banking được cung cấp qua một hệ thống máy chủ và phần mềm quản lý đặt
tại NH, liên kết với khách hàng thông qua tổng đài của dịch vụ. Thông qua các phím
chức năng được khái niệm trước, khách hàng sẽ được phục vụ một cách tự động hoặc
thông qua nhân viên tổng đài. Khi đăng ký sử dụng dịch vụ Phone-banking, khách
hàng sẽ được cung cấp một mã khách hàng, hoặc mã tài khoản, tùy theo dịch vụ đăng
ký, khách hàng có thể sử dụng nhiều dịch vụ khác nhau.
Ngân hàng qua mạng di động (Mobile-banking):
Cùng với sự phát triển của mạng thông tin di động, các NHTM Việt Nam cũng đã
nhanh chóng ứng dụng những công nghệ mới này vào các dịch vụ NH. Về nguyên tắc,
thông tin bảo mật được mã hóa và trao đổi giữa trung tâm xử lý của NH và thiết bị di
động của khách hàng (điện thoại di động, Pocket PC, Palm…).
9
1.3 Các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt
1.3.1 Thanh toán bù trừ
Thanh toán bù trừ là thanh toán vốn giữa các tổ chức tín dụng, kho bạc Nhà nước
khác hệ thống nhưng cùng địa bàn thông qua tài khoản tại ngân hàng Nhà nước d đơn
vị ngân hàng Nhà nước đứng ra tổ chức và chủ trì thanh toán bù trừ.
1.3.2 Thanh toán điện tử liên ngân hàng
Thanh toán điện tử liên ngân hàng là phương thức thanh toán điện tử sử dụng mạng
thanh toán CITAD do sở giao dịch NHNN Việt Nam làm chủ trì và các NHTM làm
thành viên. Thanh toán điện tử liên ngân hàng có hai hình thức là thanh toán điện tử
giá trị cao ( số tiền thanh toán từ 500 triệu trở lên ) và giá trị thấp ( số tiền thanh toán
dưới 500 triệu ).
1.3.3 Thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại ngân hàng khác
Hình thức này áp dụng đối với các ngân hàng cùng hoặc khác hệ thống nhưng cùng
địa bàn và có quan hệ giao dịch thanh toán thường xuyên với nhau. Một ngân hàng có
tài khoản tiền gửi ở nhiều ngân hàng khác sẽ tạo điều kiện chuyển tiền thuận lợi và
nhanh chóng.
KẾT LUẬN CHƯƠNG I
Tiền mặt đã xuất hiện từ lâu và là phương thức thanh toán không thể thiếu ở bất cứ
quốc gia nào. Tuy nhiên, khi xã hội ngày càng phát triển, có rất nhiều phương thức
thanh toán nhanh chóng, tiện dụng và hiện đại hơn nhiều ra đời và được gọi chung là
phương thức TTKDTM. Chương 1 đã đề cập đến các phương tiện được sử dụng khi
thực hiện TTKDTM làm cơ sở để phân tích tình trạng của việc sử dụng cũng như đưa
ra các giải pháp trong các chương sau
10
CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT TẠI
VIỆT NAM
2.1. Đặc điểm kinh tế xã hội Việt Nam giai đoạn hiện nay. Những thuận lợi, khó
khăn đối với công tác phát triển , mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt .
2.1.1 Thuận lợi
Sau 20 năm đổi mới kể từ Đại hội Đảng VI năm 1986, nền Việt Nam đã ra khỏi
khủng hoảng kinh tế, đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh, tăng cường cơ sở vật chất và
tạo tiền đề cho giai đoạn phát triển mới công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, sớm
đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đó là hai trong số những thành tựu mà
Việt Nam đạt được qua 20 năm đổi mới. Với nền kinh tế ngày càng phát triển với
nhiều thành phần kinh tế, cùng với sự đi lên của nền kinh tế, việc xây dựng một hệ
thống thanh toán tiện lợi và hiện đại sẽ càng thúc đẩy cho sự đi lên của nến kinh tế.
2.1.2 Khó khăn
Nền kinh tế Việt Nam đang chuyển từ nền kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ, bao cấp,
tập trung sang nền kinh tế thị trường; thanh toán trong dân cư với nhau phổ biến là
bằng tiền mặt, mọi sự tiếp cận với phương tiện thanh toán mới, công nghệ thanh toán
mới đang ở mức ban đầu cả về tổ chức và thực hiện. Mặt khác thu nhập của dân nói
chung còn ở mức thấp; nhu cầu thiết yếu dân vẫn mua ở chợ “tự do” là chủ yếu; thêm
vào đó thói quen sử dụng tiền mặt, đơn giản, thuận tiện bao đời nay không dễ một
sớm, một chiều thay đổi nhanh được; đồng thời muốn sử dụng phương tiện thanh toán
hiện đại lại cũng cần có sự hiểu biết nhất định. Cơ chế, chính sách, môi trường và tổ
chức quản lý thanh toán hiện đại trong điều kiện nền kinh tế ở Việt Nam, trước sự
bùng nổ và phát triển thương mại điện tử, công nghệ thông tin trên thế giới, thì còn
khá nhiều bất cập, nhiều điều phải bàn và làm.
11
2.2. Tình hình chung về hệ thống ngân hàng Việt Nam
Về tổ chức bộ máy: ngân hàng Việt Nam đã được thiết lập thành một mạng lưới
cung cấp dịch vụ ngân hàng phong phú, phục vụ mọi thành phần kinh tế. Tính đến
năm 2008, hệ thống tổ chức tín dụng ở Việt Nam bao gồm:
+ 5 NHTM nhà nước
+ 1 NH chính sách xã hội
+ 40 NHTM CP
+ 5 NH liên doanh
+ 39 chi nhánh NH nước ngoài
+ 5 NH 100% vốn nước ngoài
+ Hệ thống quy tín dụng nhân dân
+ 17 công ty tài chính
+ 13 công ty cho thuê tài chính
…
Nguồn: Báo cáo thường niên của NHNN Việt Nam năm 2008
Việc ký kết hiệp định thương mại song phương Việt Mỹ và gia nhập WTO giúp
cho thị trường tài chính ngân hàng của Việt Nam mở cửa hơn nhiều so với trước đây.
Số lượng các ngân hàng nước ngoài đến Việt Nam ngày càng nhiều tạo ra một môi
trường kinh doanh có tính cạnh tranh cao. Việc các ngân hàng, tập đoàn tài chính nước
ngoài mở rộng hoạt động tại thị trường Việt Nam thông qua con đường sở hữu vốn cổ
phần trong các NHTM Việt Nam đem lại nhiều lợi ích cho cả hai bên trong quá trình
cạnh tranh và hợp tác. Trong đó các NHTM Việt Nam không những nâng cao được
năng lực tài chính mà còn có điều kiện tiếp tục hiện đại hoá công nghệ đổi mới quản
trị điều hành, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,... theo tiêu chuẩn quốc tế và mở
rộng kinh doanh trên thị trường quốc tế.
2.3. Tình hình mở rộng tài khoản cá nhân qua các năm
Dịch vụ tài khoản cá nhân của hệ thống ngân hàng thương mại phát triển khá
nhanh. Trong năm 2008, dịch vụ thẻ ngân hàng và mở tài khoản cá nhân phát triển
nhanh chóng. Đến nay, toàn hệ thống ngân hàng có khoảng 15 triệu tài khoản cá nhân,
12
tăng 36% so với cuối năm 2007; số lượng thẻ trong lưu thông đạt khoảng 13,4 triệu
thẻ, tăng 46% so với cuối năm 2007 với 142 thương hiệu thẻ thuộc 39 tổ chức phát
hành thẻ.. Tốc độ tăng trung bình mỗi năm khoảng 150% về số tài khoản và 120% về
số dư.
Có được kết quả như trên là do nhiều yếu tố tác động như: môi trường pháp lý
trong lĩnh vực thanh toán ngân hàng có những thay đổi theo hướng phù hợp hơn, mạng
lưới điểm giao dịch phục vụ khách hàng của các ngân hàng được mở rộng, thanh toán
điện tử liên ngân hàng được triển khai có hiệu quả,… Các ngân hàng thương mại đã có
nhiều nỗ lực trong quá trình phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật; chú trọng phát triển đa
dạng và phong phú các sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại; bắt đầu quan tâm đến
công tác tiếp thị, tuyên truyền quảng cáo, khuyến mãi cho các sản phẩm dịch vụ của
mình khi đưa ra thị trường.
2.4. Tình hình sử dụng tiền mặt trong lưu thông .
Tỷ trọng tiền mặt so với tổng phương tiện thanh toán có xu hướng giảm dần.
Bảng 1: tỷ trọng tiền mặt so với tổng các phương tiện thanh toán
Năm 1997 2001 2004 2005 2006 2007 2008
% 32,2 23,7 20,3 19 17,21 16,36 14,6
Điều này phản ánh thói quen thanh toán của người dân đang thay đổi, thanh toán bằng
tiền mặt có xu hướng giảm mà thay vào đó là các hình thức thanh toán bằng các
phương tiện thanh toán phi tiền mặt như thẻ ATM, thẻ tín dụng , thẻ trả trước… , trong
khi khối lượng thanh toán không dùng tiền mặt tăng cao
13
Bảng 2: thể hiện diễn biến tổng phương tiện thanh toán năm 2008
Nguồn : Báo cáo thường niên của NHNN năm 2008
Bảng 3: thể hiện cơ cấu tổng phương tiện thanh toán
Nguồn : Báo cáo thường niên của NHNN năm 2008
2.5. Tình hình thanh toán không dùng tiền mặt
Năm 2008 từ 5 tỉnh thành phố triển khai hệ thống điện tử liên ngân hàng giai đoạn
1 đã được triển khai mở rộng ra 63 tỉnh, thành phố trong cả nước nhờ kết quả thực
hiện dự án hiện đại hóa hệ thống thanh toán giai đoạn 2. Hệ thống thanh toán điện tử
14
liên NH, từ 2/5/2002 đến 3/2008 đãthực hiện: 18.450.737 lệnh thanh toán tương ứng
17.075.000 tỷ đồng. Bình quân mỗi ngày thực hiện từ 35.000 đến 45.000 lệnh thanh
toán với 33.000 tỷ đồng. Thời gian thực hiện bình quân một lệnh là 10 giây.
2.5.1. Tình hình thanh toán qua thẻ
Dịch vụ phát hành thẻ ngân hàng và các dịch vụ tiện ích đi kèm với thẻ tiếp tục
phát triển. Lượng thẻ lưu thông đến cuối tháng 12/2008 đã đạt đến 15 triệu thẻ ( tăng
36% so với cuối năm 2007), với 160 thương hiệu thẻ thuộc 40 tổ chức phát hành thẻ,
đã lắp dặt được hơn 7.600 ATM và gần 25.000 thiết bị POS/EDC phục vụ cho các
hoạt động thanh toán. Dưới sự chỉ đạo của NHNN, 2 liên minh thẻ lớn nhất ( chiếm
hơn 80% thị trường thẻ Việt Nam ) là Banknetvn và Smartlink đã tiến hành kết nối hệ
thống ATM giữa các ngân hàng thành viên của 2 liên minh với nhau, tạo điều kiện
thuận lợi hơn cho khách hàng sử dụng thẻ.
Tại VN hiện nay, có rất nhiều thương hiệu thẻ tín dụng quốc tế như: Master Card,
Visa Card, American Express,... do các Cty Tài Chính nước ngoài làm chủ thươg hiệu.
Tẻ ghi nợ cũng có 2 loại là thẻ ghi nợ quốc tế và thẻ ghi nợ nội địa. Thẻ ghi nợ quốc tế
có các thương hiệu như: Visa Debit Card, Visa Electron Card, MasterCard Dynamic,
MasterCard Electronic, Master MTV Debit Card... Thẻ ghi nợ nội địa có VCB
Connect 24, Đông Á, Techcombank, Inconbank, BIDV, Agribank...
Bảng 4: Hệ thống ATM và POS
Năm 2007 2009
Máy ATM 4.020 8.800
POS 12.548 25.000
Cùng với việc đẩy mạnh triển khai hệ thống Core Banking đệ hiện đại hóa hệ thống
thanh toán nội bộ, và kế toán khách hàng, mở rộng mạng lưới, ngân cấp phần mềm,
bảo mật mạng,… các ngân hàng cũng không ngừng đa dạng hóa, phát triển và cải tiến
dịch vụ của mình, phát triển và ứng dụng các kênh giao dịch trực tuyến như thanh toán
15
ngân hàng qua Internet, Mobile/SMS… phục vụ nhiều đối tượng khách hàng, doanh
nghiệp trong giao thương hiện đại.
2.5.2. Tình hình thanh toán bằng Séc
Séc là một trong những phương tiện thanh toán đã có lâu đời ở các nước phát triển,
thanh toán bằng séc ở Bồ Đào Nha còn chiếm tới 81% trong tổng lượng giao dịch, ở
Ireland là 70%, ở Pháp là 56%, ở Anh là 51%; Còn ở nước ta, thanh toán bằng séc đã
ra đời từ những năm 1960 nhưng đến nay, phương tiện thanh toán này ngày càng giảm.
Hiện nay, tỷ lệ thanh toán bằng séc mới chiếm khoảng 2% trong tổng thanh toán phi
tiền mặt. Việc thanh toán séc cũng gặp không ít phiền phức nếu khách mua và khách
bán không có tài khoản ở cùng một ngân hàng, buộc các NHTM phải thông qua hệ
thống thanh toán bù trừ của NHNN nhưng hiện tại, NHNN chưa có Trung tâm thanh
toán bù trừ séc.
2.5.3. Tình hình thanh toán bằng ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu
Ở Việt Nam hiện nay ,các ngân hàng cũng đã mở ra rất nhiều dịch vụ nhằm tạo điều
kiện cho việc thanh toán quốc tế giữa các doanh nghiệp trong nước trở nên thuận lợi
hơn.Nhiều ngân hàng ngoài dịch vụ thanh toán theo L/C,chuyển tiền thì nhờ thu xuất
nhập khẩu, nhờ chi cũng rất phổ biến với rất nhiều lợi ích như
HSBC,VIB,LienVietBank…
2.5.4. Dịch vụ ngân hàng điện tử
Hiện nay có khá nhiều dịch vụ ngân hàng điện tử được các ngân hàng triên khai và
đưa vào hoạt động như: ACB cung cấp các loại dịch vụ ngân hàng điện tử như:
Internet Banking, Phone Banking, Mobile Banking, Home Banking, Call Center. Đối
với dịch vụ Internet Banking, Techcombank cung cấp các dịch vụ như Fast e-Bank
(dịch vụ cho các khách hàng doanh nghiệp) và Fast i-Bank (dịch vụ cho các khách
hàng cá nhân). Với dịch vụ Home Banking, Techcombank cung cấp cho khách hàng 3
dịch vụ chính như :Techcombank Mail Access , Techcombank Mobile Access ,
Techcombank Voice Access. Vietcombank có dịch vụ ngân hàng trực tuyến
VCB-iBanking ,VCB SMS-Banking (dịch vụ ngân hàng qua điện thoại di động) ,
VCB-Money (hay còn gọi là dịch vụ ngân hàng tại nhà) ……..
16
Loại hình khá nhiều nhưng hiệu quả sử dụng các dịch vụ này còn khá thấp, tính tiện
ích của nó chưa được phát huy hết, hơn nữa tín tin cậy an toán vẫn còn thiếu.
2.6 - Những hạn chế trong thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam và các
nguyên nhân
2.6.1. Các mặt hạn chế:
- Nhìn chung, thanh toán bằng tiền mặt còn rất phổ biến trong nền kinh tế. Tiền mặt
vẫn là phương tiện thanh toán chiếm tỷ trọng lớn trong khu vực doanh nghiệp và
chiếm đại đa số trong các giao dịch thanh toán của khu vực dân cư.
- Số người sử dụng dịch vụ ngân hàng chủ yếu là các doanh nghiệp lớn, lao động ở
khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, nhân viên công sở có thu nhập cao và ổn định.
- Các máy ATM phân bổ chủ yếu ở các thành phố lớn, các khu công nghiệp . Với dân
số nước ta hơn 80 triệu dân thì bình quân 45.000 dân có 1 ATM. Lượng ATM như vậy
quá thấp nếu so với các quốc gia láng giềng (Trung Quốc: 19.000 dân/ATM,
Singapore: 2.638 dân/ATM). Theo thống kê, khoảng 80% giao dịch qua ATM là để rút
tiền mặt.
- Chất lượng, tiện ích và tính đa dạng về dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt chưa
phong phú. Phương thức giao dịch chủ yếu tiếp xúc trực tiếp và mặt đối mặt. Để được
nhận một sản phẩm dịch vụ của ngân hàng, các chủ thể tham gia thường phải đến các
điểm giao dịch của ngân hàng. chất lượng dịch vụ trả lương qua tài khoản và chăm sóc
khách hàng chưa tốt (máy ATM hết tiền, gặp trục trặc kỹ thuật, việc giải quyết khiếu
nại, khiếu kiện chưa nhanh chóng, kịp thời, Hiện các điểm chấp nhận thẻ thanh toán
ngân hàng chỉ có ở siêu thị, nhà hàng, khách sạn lớn và rất khan hiếm ở chợ, khu dân
cư... chưa tạo sự thuận lợi cho khách hàng khi sử dụng thẻ thanh toán. Trong khi đó,
chính chợ và khu dân cư là nơi thu hút người dân đến với thanh toán không dùng tiền
mặt".
- Thương mại điện tử (TMĐT) còn nhiều rào cản: trong những năm gần đây, TMĐT
đã được ứng dụng rộng rãi trong các doanh nghiệp, tỷ lệ doanh nghiệp có website tăng
từ 31% năm 2005 lên 45% năm 2008, tỷ lệ doanh nghiệp đã xây dựng mạng nội bộ
năm 2008 đạt trên 88% so với 84% của năm trước. Hiện có tới 99% số doanh nghiệp
17
đã kết nối internet. Tuy nhiên, do thói quen mua sắm của người tiêu dùng và khâu
thanh toán khiến TMĐT Việt Nam chậm phát triển; người mua và người bán vẫn thực
hiện theo phương thức “tiền trao cháo múc”, vì người tiêu dùng lo ngại mua phải sản
phẩm không dùng được hoặc chất lượng không đạt như mong muốn. Hệ thống pháp lý
bảo vệ thông tin cá nhân vẫn còn thiếu những quy định, chế tài cụ thể về bảo vệ đối
tượng sử dụng TMĐT. Nhìn chung, việc phát triển TMĐT ở Việt Nam hiện còn mang
tính tự phát, đầu tư cho TMĐT ở mỗi doanh nghiệp phụ thuộc vào tầm nhìn, quan
điểm của lãnh đạo doanh nghiệp.
- Cạnh tranh bằng thương hiệu, chất lượng dịch vụ chưa phổ biến. Các tổ chức cung
ứng dịch vụ thanh toán, thay vì sáng tạo ra sản phẩm mới hoặc tạo ra giá trị gia tăng
trên sản phẩm cùng loại trên thị trường, lại chỉ tập trung vào yếu tố giá cả nhằm đánh
bại đối thủ cạnh tranh. Khi mà khách hàng không nhận thấy sự khác biệt giữa các sản
phẩm của những ngân hàng khác nhau, vì vậy mà họ dễ dàng từ bỏ một sản phẩm dịch
vụ mang thương hiệu này để đến với một sản phẩm có thương hiệu khác.
- Các dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt chỉ tập trung phát triển tại các đô thị lớn,
khu công nghiệp và khu chế xuất. Thiếu các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán hoạt
động mang tính chuyên nghiệp, phục vụ cho một số đối tượng, một số lĩnh vực hoặc
vùng sâu, vùng xa, nông thôn và các địa phương có nền kinh tế kém phát triển.
- Phí dịch vụ thanh toán còn khá cao và khó chấp nhận đối với những giao dịch thanh
toán mức trung bình, đặc biệt đối với các giao dịch liên ngân hàng và liên tỉnh. Ngoài
ra, một số phương tiện thanh toán khi sử dụng khách hàng còn phải trả thêm phụ phí
so với việc sử dụng tiền mặt.
- Hệ thống thanh toán cốt lõi là hệ thống thanh toán liên ngân hàng của Ngân hàng
Nhà nước, mặc dù được cải thiện rất nhiều sau khi hoàn tất giai đoạn I của Dự án hiện
đại hệ thống thanh toán, nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu gia tăng về hoạt động
thanh toán giữa các ngân hàng. Theo thiết kế ban đầu, hệ thống thanh toán liên ngân
hàng có khả năng xử lý 4.500 giao dịch/ngày. Nhưng từ khi đi vào hoạt động đến này,
hệ thống thường xuyên lâm vào tình trạng quá tải với số lượng giao dịch bình quân lên
tới 10.000 giao dịch/ngày;
18
- Đội ngũ nhân sự làm công tác chuyên môn trong lĩnh vực thanh toán vẫn còn thiếu
và yếu.
2.6.2. Các nguyên nhân gây nên những hạn chế:
- Thói quen và nhận thức: Tiền mặt trở thành một công cụ thanh toán không hạn chế
về đối tượng và phạm vi sử dụng. Tiền mặt có điểm ưu việt rất lớn là thanh toán tức
thời và vô danh, thủ tục đơn giản. Vì vậy, tiền mặt đã trở thành một công cụ rất được
ưa chuộng trong thanh toán và từ lâu đã trở thành thói quen khó thay đổi của người
tiêu dùng và nhiều doanh nghiệp. Thói quen sử dụng tiền mặt trong thanh toán hiện
nay là lực cản lớn trong việc phát triển thanh toán không dùng tiền mặt.
- Thiếu động cơ kinh tế đủ mạnh để khuyến khích thanh toán không dùng tiền mặt: đối
với nhiều đối tượng giao dịch, các công cụ và dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt
không chứng tỏ có lợi ích hơn hẳn về kinh tế so với tiền mặt. Ngược lại, thanh toán
không dùng tiền mặt còn phải trả phí cho ngân hàng, thậm chí còn bị tính giá cao hơn
(đối với một số đơn vị chấp nhận thẻ), không được chào đón tại các quầy thanh toán...
- Kinh tế không chính thức phát triển: đây là nền kinh tế xuất phát từ đặc điểm sản
xuất và tiêu thụ sản phẩm theo quy mô nhỏ, lẻ, với loại hình này thì khả năng tiếp nhận
phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt là rất khó khăn. Ngoài ra, một bộ phận rất
lớn của nền kinh tế không chính thức là kinh tế ngầm liên quan tới hoạt động buôn lậu,
trốn thuế, gian lận thương mại, tham nhũng..., luồng luân chuyển tiền tệ phục vụ các
hoạt động này có thể rất lớn. Đối với những người tham gia các giao dịch này, cho dù
phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt có thuận tiện thì đó vẫn không phải là
phương tiện thanh toán được lựa chọn, xuất phát từ nhu cầu che dấu nguồn gốc giao
dịch và danh tính của đối tượng tham gia.
- Hành lang pháp lý trong lĩnh vực thanh toán chưa hoàn thiện, mặc dù trong thời gian
vừa qua hành lang pháp lý trong lĩnh vực thanh toán đã cải thiện nhiều, song vẫn chưa
đầy đủ và đồng bộ.
- Vốn đầu tư vừa thiếu, vừa được sử dụng kém hiệu quả: từ giác độ các ngân hàng
thương mại, vấn đề lớn nhất trong phát triển hoạt động thanh toán là những hạn chế về
vốn đầu tư. Vốn đầu tư đòi hỏi phải rất lớn và thời gian thu hồi vốn dài hạn. Vì vậy,
19
chỉ có những ngân hàng lớn, có tiềm lực mạnh về tài chính, chủ yếu là các ngân hàng
thương mại Nhà nước hiện nay mới có khả năng tập trung đầu tư lớn về trang thiết bị
phục vụ cho hoạt động thanh toán. Các ngân hàng nhỏ chủ yếu chọn cách chia sẻ mạng
lưới với các ngân hàng lớn. Tuy nhiên, khả năng chia sẻ mạng lưới và hạ tầng kỹ thuật
khác giữa các ngân hàng còn hạn chế, do các ngân hàng chưa tìm được tiếng nói chung
để đi đến thoả thuận kết nối thống nhất nhằm chia sẻ hạ tầng kỹ thuật.
- Công tác đào tạo cơ bản cũng như chuyên sâu trong lĩnh vực thanh toán cho cán bộ
làm nghiệp vụ thanh toán chưa đáp ứng được yêu cầu.
- Thông tin tuyên truyền chưa được quan tâm, chú trọng. Những mục tiêu chiến lược,
định hướng và các chính sách lớn để phát triển hoạt động thanh toán chưa được công
bố đầy đủ cho công chúng. Vì vậy, không chỉ người dân mà thậm chí nhiều doanh
nghiệp còn rất ít hiểu biết hoặc hiểu biết mơ hồ về các dịch vụ thanh toán và phương
tiện thanh toán không dùng tiền mặt.
- Trình độ dân trí thấp sẽ sinh ra tâm lý “ngại“ khi sử dụng các phương tiện hiện đại
có độ phức tạp cao, do đó thanh toán không dùng tiền mặt không phát triển.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Chương 2 đã phân tích thực trạng hoạt động TTKDTM của nền kinh tế Việt Nam, qua
đó phác họa tổng quan công tác thanh toán qua ngân hàng với những thành tựu đạt
được cũng như hạn chế. Trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nhằm mở rộng các dịch
vụ thanh toán hiện đại ở chương 3
20
CHƯƠNG 3 : GIẢI PHÁP MỞ RỘNG THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN
MẶT TRONG NỀN KINH TẾ Ở VIỆT NAM
3.1. Kinh nghiệm chuyển đổi sang nến kinh tế thanh toán không dùng tiền mặt tại
các nước và rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam :
3.1.1. Kinh nghiệm tại các nước:
-Tại Hàn Quốc:
Thanh toán bằng tiền mặt chỉ chiếm 20% trong tỷ lệ thanh toán, TTKDTM là 80%.
Có được kết quả trên là do Hàn Quốc hoạch định được chiến lược tổng thể, dài hạn, đã
xây dựng và tổ chức quản lý, vận hành được hệ thống thanh toán và các phương tiện
thanh toán dựa trên nền tảng cơ sở pháp lý đồng bộ gồm Luật hối phiếu, Luật kinh
doanh thẻ tín dụng, Luật Séc cùng một số chuyên biệt điều chỉnh về việc thanh toán.
Hàn Quốc đã xây dựng Trung tâm thanh toán bù trừ đầu tiên tại Seoul, do cơ quan
thanh toán bù trừ và viễn thông tài chính Hàn Quốc (KFTC) trực tếp vận hành, đến
năm 1995 có 50 trung tâm trên toàn quốc. Tham gia vào hệ thống này là ngân hàng
trung ương và những ngân hàng lớn cùng với một số tổ chức phi tài chính. Tại các
trung tâm thanh toán bù trừ, các phương tiện séc, hối phiếu…được thanh toán bù trừ
cho nhau bằng các nghiệp vụ với sự hỗ trợ đắc lực của mạng máy tính. Việc ứng dụng
công nghệ thông tin vào hoạt động ngân hàng, nhất là trong lĩnh vực thanh toán được
ngân hàng trung ương rất quan tâm, thành lập vụ công nghệ thông tin, có các phòng
chuyên môn để quản lý, vận hành, bảo trì máy tính và hệ thống thông tin
-Tại Thái Lan:
Thẻ ngân hàng được phát triển mạnh và sử dung phổ biến trong những năm gần
đây (có khoảng trên 10 triệu thẻ). Việc sử dung thẻ được phát triển mạnh mẽ là do các
ngân hàng thương mại đã trang bị hệ thống gần 10000 máy ATM tại các trung tâm
kinh tế trên phạm vi cả nước được liên kết với nhau thông qua Trung tâm chuyển
mạch ATM quốc gia. Trung tâm chuyển mạch ATM quốc gia, còn thực hiện việc
quyết toán và đối chiếu các giao dịch ATM cho tất cả các ngân hàng thành viên của
mình, đồng thời cung cấp các dịch vụ khác như: chuyển tiền cá nhân trực tuyến, dịch
21
vụ thông tin tín dụng, in ấn, và chuyển giao sao kê thẻ… Ngân hàng trung ương Thái
Lan thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với hệ thống thanh toán và các phương
tiện thanh toán nói chung, hệ thống ATM nói riêng.
3.1.2. Rút ra bài học cho Việt Nam:
Qua nghiên cứu kinh nghiệm của các nước trong quá trình sử dụng và phát triển
các phương tiện thanh toán KDTM , ta thấy các nước đều có sự riêng biệt trong giải
pháp của mình, ví dụ Hàn Quốc sử dụng đa dạng các phương tiện, Thái Lan sử dung
thẻ thanh toán…Việt Nam nên học tập kinh nghiệm từ các nước đồng thời cần đưa ra
những biện pháp thích hợp vì mỗi quốc gia có điều kiện kinh tế, thị trường tài chính,
hệ thống ngân hàng, thói quen thanh toán của người dân … khác nhau để tránh việc
vận dụng các phương pháp không phù hợp một cách rập khuôn,máy móc.
3.2 Giải pháp nhằm mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế
tại Việt Nam:
Để hoạt động thanh toán phát triển bền vững, đáp ứng tốt các nhu cầu của nền kinh tế
và theo kịp sự phát triển của các hệ thống thanh toán khác trên thế giới, cần có các giải
pháp đồng bộ và toàn diện với sự tham gia của Chính Phủ, của hệ thống ngân hàng và
sự ủng hộ của công chúng.
3.2.1 Nhóm giải pháp đề xuất với NHNN và các cơ quan chức năng
- Xây dựng hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, tạo hành lang pháp lý hoàn
chỉnh cho thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam. Hiện nay, hệ thống các văn
bản quy phạm pháp luật về thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam còn chưa hoàn
chỉnh và có nhiều bất cập gây khó khăn cho việc thanh toán không dùng tiền mặt của
các ngân hàng . Hoàn thiện cơ sở pháp lý liên quan đến hoạt động của các hệ thống
thanh toán, ngay từ việc sửa đổi, bổ sung Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ
chức tín dụng để củng cố vị thế pháp lý của Ngân hàng Nhà nước trong việc kiểm soát
hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt; đồng thời hoàn thiện các văn bản dưới Luật
liên quan đến các phương tiện, hình thức thanh toán hiện đại để đảm bảo tính ổn định,
an toàn và hiệu quả của hệ thống thanh toán. Khung pháp lý rõ ràng, minh bạch và sự
giám sát hợp lý của Ngân hàng Nhà nước đối với hệ thống ngân hàng cũng là một yếu
22
tố quan trọng trong việc tăng cường lòng tin của người sử dụng và giới doanh nghiệp
vào hệ thống thanh toán quốc gia. Kinh nghiệm của nước ngoài cho thấy, trong lĩnh
vực thanh toán qua ngân hàng có nhiều luật khác nhau như Luật Thanh toán bằng tiền
mặt, Luật Séc, Luật Hối phiếu, Luật Phòng chống rửa tiền… đều được xây dựng đồng
bộ.
-Tăng cường sự phối hợp giữa NHNN và các Bộ, ngành trong việc chỉ đạo, điều hành,
quản lý hoạt động thanh toán của các tổ chức, cá nhân trên phạm vi toàn quốc.
- Cần tăng cường thu hút nguồn lực và sự hỗ trợ kỹ thuật từ các tổ chức quốc tế. Ưu
tiên nguồn kinh phí cho việc phát triển công nghệ, đào tạo cán bộ trong lĩnh vực thanh
toán; Tăng cường trao đổi, học tập kinh nghiệm về quản lý chi tiêu công của các nước
phát triển trên thế giới và trong khu vực.
- Hạn mức thanh toán bằng tiền mặt:các quy định về hạn mức thanh toán bằng tiền
mặt dù là các khoản chi thuộc NSNN, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp dân
doanh hoặc các khoản thanh toán khác nên thống nhất một mức chung, ví dụ ở mức
bằng thuế thu nhập cá nhân, không những tạo được sự công bằng giữa cá nhân, tổ chức
trong và ngoài nhà nước mà có thể thúc đẩy lĩnh vực dịch vụ ngân hàng bán lẻ góp
phần mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt.
- Giám sát, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về thanh toán bằng tiền mặt:Đối với
kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật về sử dụng tiền mặt đối với các tổ chức
hưởng lương NSNN đã có Kho bạc Nhà nước quản lý nhưng đối với các doanh nghiệp
nhà nước, doanh nghiệp dân doanh là một công việc hết sức khó khăn, phức tạp, bởi
các NHTM cũng là một doanh nghiệp không phải là cơ quan quản lý hành chính trong
lĩnh vực này, vì vậy, công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành luật pháp về thanh
toán của các tổ chức này nên giao cho cơ quan thanh tra các cấp từ huyện trở lên hoặc
cơ quan thanh tra thuế.
- Xây dựng và đảm bảo môi trường cạnh tranh bình đẳng trong hoạt động thanh toán
của các ngân hàng, tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán: Để tồn tại và phát triển, mỗi
ngân hàng, tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán đều phải cạnh tranh với nhau trong
hoạt động thanh toán của mình - đó là vấn đề tất yếu sẽ diễn ra cần nhận thức rõ. Như
23
vậy, cần xác định nền kinh tế nước ta trong tương lai sẽ có rất nhiều chủ thể tham gia
cung cấp dịch vụ thanh toán phục vụ các giao dịch thanh toán phục vụ các giao dịch tài
chính thương mại và dịch vụ. Tuy nhiên cạnh tranh của các chủ thể này sẽ không lành
mạnh và kém hiệu quả nếu môi trường cạnh tranh không bình đẳng. Vì vậy, đòi hỏi
Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) phải tiếp tục xây dựng và ban hành cơ sở
pháp lý, cơ chế thừa nhận và đảm bảo bình đẳng trong quá trình cạnh tranh cung cấp
dịch vụ thanh toán cho nền kinh tế.
-Tăng cường hiện đại hóa và đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong công tác thanh toán
trên nền tảng CNTT hiện đại, theo hướng tự động hóa và tăng tốc độ xử lý các giao
dịch, bảo đảm dễ dàng kết nối, giao diện với các hệ thống ứng dụng khác; thực hiện
kết nối Hệ thống Thanh toán điện tử liên ngân hàng và Hệ thống thanh toán điện tử
Kho bạc Nhà nước (Hệ thống TABMIS). Triển khai nhanh chóng, có hiệu quả Đề án
xây dựng Trung tâm chuyển mạch thẻ thống nhất.
- Trả lương cho cán bộ công nhân viên thông qua hệ thống tài khoản. việc làm này có
tác dụng hướng người dân bước đầu làm quen với việc sử dụng hệ thống tài khoản của
ngân hàng từ đó tạo ra thói quen sử dụng các hình thức thanh toán không dùng tiền
mặt.
- Có các chính sách khuyến khích các doanh nghiệp giao dịch thông qua hệ thống tài
khoản tại ngân hàng. Đưa ra giới hạn về quỹ tiền mặt mà các doanh nghiệp được phép
duy trì tùy theo quy mô của các doanh nghiệp và lĩnh vực mà doanh nghiệp hoạt động.
Phần tiền còn lại phải đưa vào các tài khoản ở trong các ngân hàng.
- Hợp tác nghiên cứu và tiếp thu công nghệ của nước ngoài để có thể liên kết các máy
ATM của hệ thống các ngân hàng . Đây là giải pháp đôi bên cùng có lợi, sẽ tiết kiệm
được chi phí trang bị, lắp đặt sửa chữa hệ thống và mở rộng được phạm vi hoạt động
của mỗi ngân hàng mà không cần tăng thêm số lượng máy của mình.Có những nơi các
máy ATM của hai hệ thống ngân hàng đặt rất gần nhau gây lãng phí nhưng cũng có
những nơi, người có nhu cầu sử dụng máy lại phải đi rất xa mới có thể tìm được đúng
máy của ngân hàng mình. Đồng thời, việc làm trên mang lại tính đồng bộ trong hệ
thống ngân hàng ở Việt Nam tạo thuận lợi cho công việc quản lý, thống kê và bảo mật.
24
- Tăng cường hợp tác với WB và các tổ chức tín dụng quốc tế khác để tiếp thu các
công nghệ mới và phương pháp mới trong quản lý ngân hàng. Ngành ngân hàng ở
nước ta đang trong quá trình hiện đại hóa. Tuy đã đạt được một số thành tựu quan
trọng song so với công nghệ ngân hàng của thế giới thì công nghệ ngân hàng ở nước ta
còn tương đối lạc hậu, khoảng cách so với công nghệ ngân hàng của nước ta so với các
nước phát triển lạc hậu tới vài chục năm. Do đó, việc tăng cường hợp tác với các tổ
chức quốc tế hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng để tiếp thu công nghệ mới là một
việc làm vô cùng cần thiết. Nếu làm tốt vấn đề này, nền công nghệ ngân hàng nước ta
có thể rút ngắn rất nhiều so với trình độ chung của thế giới, tạo tiền đề để nước ta có
một nền công nghệ ngân hàng phát triển ngang bằng với sự phát triển của công nghệ
ngân hàng của các nước tiên tiến nhất.
- Sửa đổi hệ thống chứng từ giao dịch để cho phù hợp với dịch vụ chuyển tiền nhanh
WU. Hiện nay, WB đã tài trợ hàng trăm triệu đô la giúp Việt Nam hiện đại hóa hệ
thống ngân hàng, trong đó tiêu biểu là giúp các ngân hàng ở Việt Nam triển khai cung
cấp dịch vụ chuyển tiền nhanh WU. Tuy nhiên, những công nghệ này đang gặp một số
vấn đề mà chủ yếu là do chưa tương thích với hệ thống chứng từ kế toán đang được sử
dụng ở Việt Nam. Do vậy trong tương lai, ngành ngân hàng nên nghiên cứu để sửa đổi
lại hệ thống chứng từ kế toán sao cho vừa đáp ứng được đòi hỏi của các công nghệ
mới vừa phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam mà trước tiên là hệ thống chứng
từ thanh toán để phù hợp với công nghệ của dịch vụ chuyển tiền nhanh WU.
- Hiện đại hóa công nghệ thanh toán của ngân hàng. Đầu tư để mua mới các thiết bị
hiện đại và các công nghệ thanh toán tiên tiến trên thế giới cho toàn bộ hệ thống ngân
hàng, trong đó ưu tiên cho các hệ thống ngân hàng lớn trước. Thuê các chuyên gia
ngân hàng có uy tín sang Việt Nam làm việc đồng thời tổ chức cho các cán bộ ngân
hàng đi học ở nước ngoài. Đây là một giải pháp có tính lâu dài và cần có các kế hoạch
cụ thể để thực hiện từng bước một.
- Mở thêm nhiều địa điểm đặt máy ATM. Giải pháp này tuy cần một lượng đầu tư ban
đầu lớn song tác dụng và hiệu quả của nó sẽ được phát huy trong thời gian dài, đặc
biệt sẽ rất mạnh khi uy tín của ngân hàng lên cao. Đồng thời nó cũng làm tăng thêm uy
25
tín của ngân hàng nói chung và trong thanh toán không dùng tiền mặt nói riêng khi
ngân hàng thỏa mãn được nhu cầu rút tiền của khách hàng. Mặt khác, việc làm này còn
tạo thói quen và ý thức cho người dân trong việc sử dụng các hình thức thanh toán
không dùng tiền mặt. Song song với việc mở thêm nhiều điểm đặt máy ATM là việc
làm sao để các máy ATM có thể phục vụ khách hàng 24/24 giờ trong ngày từ đó nâng
cao khả năng phục vụ khách hàng. - Cho phép các ngân hàng chi nhánh mở thêm các
phòng giao dịch. Mở thêm các phòng giao dịch tuy làm tăng chi phí nhưng nó có tác
dụng tạo ra hình ảnh của một ngân hàng có quy mô lớn từ đó tạo niềm tin cho khách
hàng trong việc sử dụng ngân hàng như là một người trung gian trong thanh toán.
Đồng thời, việc tăng số lượng các phòng giao dịch sẽ làm cho ngân hàng đến gần hơn
với những người có tiềm năng về nhu cầu thanh toán, giúp họ hiểu và nhận thấy lợi ích
của việc thanh toán không dùng tiền mặt, mặt khác, tạo ra sự nhanh chóng và linh hoạt
cho khách hàng khi sử dụng dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt của ngân hàng.
Song song với việc cho phép chi nhánh mở thêm các phòng giao dịch là việc mở rộng
các chức năng của các phòng giao dịch và nâng cao chất lượng phục vụ của các phòng
giao dịch này, ví dụ như cho phép các phòng giao dịch có thể tham gia thanh toán
chuyển khoản với các tài khoản của các tổ chức.
- Tổ chức thêm các lớp tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ nhân viên của chi nhánh để đáp
ứng yêu cầu của các công nghệ mới trong thanh toán không dùng tiền mặt nói riêng và
của ngành ngân hàng nói chung (Các mặt hoạt động của ngân hàng luôn có mối quan
hệ tương hỗ). Sự ứng dụng các thành tựu khoa học kĩ thuật trong lĩnh vực ngân hàng
cao hơn ở bất cứ lĩnh vực nào trong nền kinh tế và chỉ chịu đứng vị trí thứ hai sau lĩnh
vực quân sự nếu xét trên tất cả các lĩnh vực hoạt động của con người. Tuy nhiên, để
các ứng dụng này phát huy hết hiệu quả thì cần có sự kết hợp của yếu tố con người.
Các cán bộ nhân viên ngân hàng phải làm chủ được các thiết bị hiện đại và ngày càng
hiện đại để bắt chúng phục vụ tốt nhất cho công việc của mình. Các thiết bị máy móc
càng hiện đại thì những hậu quả từnhững sai sót trong việc sử dụng nó là rất lớn.
- Có chính sách tăng cường cho vay tiêu dùng. Tăng cường cho vay tiêu dùng là một
biện pháp tốt để mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt của các ngân hàng, Ngoài
26
cách truyền thống thường làm ngân hàng có thể kí kết các hợp đồng với các công ty
trong đó có các điều khoản thỏa thuận về việc các công ty này sẽ bán hàng hóa trả góp
cho khách hàng của mình, các khách hàng sẽ phải mở tài khoản cá nhân của mình tại
ngân hàng và định kỳ trả nợ qua việc nộp tiền vào tài khoản của mình tại ngân hàng,
còn ngân hàng sẽ tiến hành trích chuyển khoản từ tài khoản của người mua trả góp
sang tài khoản của các công ty bán hàng.
- Có chính sách khuyến khích mở tài khoản cá nhân và sử dụng thanh toán qua ngân
hàng đối với dân cư.
- Hiện nay các ngân hàng đã có dịch vụ thu tiền tại nhà vì thế có thể thực hiện giải
pháp này nhằm giảm bớt chi phí về thời gian và tiền bạc của khách hàng. Do đó,
khuyến khích người dân sử dụng hệ thống tài khoản của ngân hàng nói chung và hình
thức thanh toán không dùng tiền mặt nói riêng. Đồng thời tạo ra sự quản lý tập trung
và tạo ra mối liên hệ mật thiết giữa ngành ngân hàng với ngành thuế.
- Đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp đồng thời có các biện pháp để
thúc đẩy sự hoạt động của thị trường chứng khoán trong đó có các văn bản hướng dẫn
thi hành cụ thể. Các giao dịch trên thị trường chứng khoán thường có giá trị lớn và
giao dịch chủ yếu thông qua việc trích chuyển khoản giữa các tài khoản nên một thị
trường chứng khoán sôi động là điều kiện tốt để mở rộng thanh toán không dùng tiền
mặt.
-Tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân , thay đổi dần thói quen chi trả,
khuyến khích người dân thanh toán qua hệ thống ngân hàng…
3.2.2 Nhóm giải pháp đề xuất với các NHTM
- Giải pháp về lãi suất.Có mức lãi suất linh hoạt để kích thích người dân sử dụng các
hình thức thanh toán không dùng tiền mặt và sử dụng các tại khoản cá nhân.
- Giải pháp về sản phẩm.
+ Công bố, đa dạng hóa và phát triển các hình thức thanh toán không dùng tiền
mặt(thẻ thanh toán cá nhân, thẻ thương mại, thanh toán qua mobile, internet…). Đối
với mỗi hình thức thì có một mức phí phù hợp để khuyến khích người dân sử dụng.
+ Cung cấp thêm các dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt mở rộng
27
+ Nâng cao chất lượng phục vụ của các phòng giao dịch, cho phép các phòng giao
dịch thực hiện tất cả các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt.
- Giải pháp phát triển thị trường.
+ Kết hợp với các siêu thị, trung tâm thương mại. Các siêu thị hiện nay còn ít và hàng
hoá bán ra lại chủ yếu thu bằng tiền mặt, nhưng trong tương lai gần khi nền kinh tế
phát triển đến một mức độ nhất định thì các siêu thị sẽ xuất hiện ngày một nhiều và sẽ
chiếm ưu thế tại các đô thị lớn. Đây là thời cơ để các ngân hàng thương mại có điều
kiện mở rộng dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt đối với khách hàng. Khi phần
lớn hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt được chấp nhận rộng rãi thì việc đầu tư
trang thiết bị phục vụ cho công việc thanh toán sẽ trở nên rất có lợi, do đó các siêu thị,
trung tâm thương mại sẽ rất sẵn sàng hợp tác với các ngân hàng thương mại trong việc
thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt.
+ Tiếp cận các trường đại học, các khu công nghiệp trên địa bàn mà ngân hàng hoạt
động. Các trường đại học và các khu công nghiệp là những nơi tập trung nhiều người
từ nhiều vùng khác nhau đến học tập và làm việc. Nhu cầu về chuyển tiền giữa họ và
gia đình là rất lớn và thường xuyên. Nếu khai thác được nhu cầu của các đối tượng này
thì ngân hàng có thể có được một khoản thu nhập đáng kể thông qua việc thu phí
chuyển tiền.
+ Tăng cường làm đại lý thanh toán cho các ngân hàng khác.
+ Tăng cường tuyên truyền và quảng cáo
- Giải pháp về con người. Cho các cán bộ nhân viên phụ trách mảng thanh toán không
dùng tiền mặt đi tập huấn về các dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt mới ở ngân
hàng cấp trên như dịch vụ chuyển tiền nhanh WU
3.2.3 Nhóm giải pháp đối với người sử dụng dịch vụ:
Để nhằm thúc đẩy sự phát triển công tác thanh toán không dùng tiền mặt không chỉ
riêng các đơn vị cung ứng dịch vụ đề ra giải pháp cho riêng mình mà cần có sự tác
động đắc lực của các chủ thể tham gia trên thị trường, trong đó phải kể đến khả năng
nhận thức của khách hàng.
28
- Mỗi cá nhân phải tự nâng cao trình độ nhằm tăng thu nhập của chính mình, chủ
động cập nhật các thông tin mới về dịch vụ thanh toán hiện đại cũng như lựa chọn cho
mình một tổ chức cung ứng dịch vụ tốt nhất
- Bản thân người sử dụng cần nâng cao ý thức bảo vệ tài sản công và ý thức chấp
hành pháp luật, tuân thủ các quy định của các tổ chức ucng ứng dịch vụ đặt ra đối với
mỗi sản phẩm, dịch vụ nhằm giảm thiểu rủi ro xảy ra cho chính mình. Chẵng hạn như
khi sử dụng thẻ thanh toán, tuyệt đối không để lộ mã số PIN, không đưa người khác
mượn thẻ, khi mất thẻ phải bao ngay cho ngân hàng phát hành để khóa thẻ lập tức…
- Mọi thay đổi về thông tin cá nhân như số CMND, ngày cấp, nơi cấp, địa chỉ
liên lạc, số điện thoại, chữ ký…phải được thông báo ngay với ngân hàng quản lý tài
khoản để được cập nhật tạm thời
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Trên đây là 3 nhóm giải pháp căn bản.Từ nay tới 2020, mục tiêu của nhà nước
là cơ bản trở thành một nước công nghiệp hiện đại, vì thế không thể tồn tại nền kinh tế
tiền mặt như hiện nay.
29
KẾT LUẬN
Thanh toán không dùng tiền mặt có vai trò hết sức quan trọng, đặc biệt trong
nền kinh tế thị trường hiện đại. Sự ra đời của nó là bước phát triển tất yếu của quá
trình thanh toán. Trong thời gian qua việc xây dựng và phát triển hê thống thanh toán
không dùng tiền mặt ở Việt Nam đã được một số thành tựu, tuy nhiên bên cạnh đó vẫn
còn nhiều hạn chế cần được khắc phục. Với đề án xây hiện đại hóa thanh toán không
dùng tiền mặt đã được NHNN triển khai, hy vọng trong một tương lai không xa hệ
thống thanh toán của Việt Nam sẽ mang một bộ mặt mới, hiện đại hơn và góp phần
thúc đẩy phát triển kinh tế hơn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giai phap mo rong thanh toan ko dung tien mat.pdf