Sau một thời gian nghiên cứu lý luận cũng như tìm hiểu thực tiễn tại chi nhánh NHNo & PTNT Hà Nội, dưới sự giúp đỡ của thầy giáo Vũ Duy Hào cùng các cán bộ, nhân viên của NHNo & PTNT Hà Nội, em đã mở mang thêm nhiều kiến thức về hoạt động ngân hàng, đặc biệt là hoạt động tín dụng đốia với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Dù còn nhiều hạn chế và thiếu sót, em đã hoàn thành chuyên đề thực tập qua việc trình bày những mặt được và những mặt còn hạn chế, đồng thời cũng mạnh dạn đưa ra các biện pháp và kiến nghị nhằm góp phần mở rộng tín dụng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại chi nhánh NHNo & PTNT Hà Nội
85 trang |
Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1344 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp mở rộng tín dụng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cấp trên NHNN - PTNT Hà nội đã ban hành các quyết định như quyết định 06/QĐ - HĐQT Ngân hàng Nông Nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam quy định 167 của NHNN về việc bảo đảm tiền vay trong đó quy định rõvề tài chính bảo lãnh, cầm cố, thế chấp và xử lý tài sản thế chấp. Những việc làm trên đã tạo ra một hành lang pháp lý thông thoáng hơn cho cả phía ngân hàng và các khách hàng. Nó quy định các ngân hàng thương mại nói riêng và chi nhánh NHNN - PTNT Hà nội nói riêng trong việc mở rộng tín dụng và nâng cao chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
2.3.2Những tồn tại và nguyên nhân tronghd tín dụng của chi nhánh đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Trong điều kiện nền kinh tế vừa trải qua hàng loạt các khó khăn năm 1997 bãolụt thiên tai cùng với ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ tại khu vực. Bước sang năm 1999 nền kinh tế Việt Nam có xu hướng chững laị. Cuộc khủng hoảng làm cho các nhà đầu tư từ bỏ ý định bỏ vốn, các doanh nghiệp không tiêu thụ được hàng hoá, sức mua của dân chúng giảm sút. Năm 1999 hiên tượng "thiếu phát" xuất hiện. Mặc dù chính phủ đã tiến hành hàng loạt các biện pháp để kích cầu, các ngân hàng hạ lãi suất trần cho vay, giảm lãi suất tái cấp vốn, quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc các ngân hàng thương mại thấp hơn … nhưng nền kinh tế vẫn phát triển chậm. GDP tăng khoảng 4,5%. Sang năm 2000 nền kinh tế bắt có dấu hiệu phục lợi và phát triển. Chính phủ tiếp tục thực hiện các biện pháp như giảm giờ làm việc, giảm thủ tục vay vốn, quy định mức vay tối đa không phải thế chấp là 10triệu… nên nền kinh tế đã ổn định và từng bước phát triển. Nhìn chung, tại chi nhánh NHNN - PTNT Hà nội hoạt động tíndụng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn gặp phải một số những hạn chế sau:
Một là: Doanh số cho vay, thu nợ và dư nợ đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn quá thấp. Như phần trước đã phân tích, doanh số cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh chỉ chiếm 3,3% trong tổng doanh số năm 1999 và 4,5% trong năm 2000. Dư nợ năm 1999 là 3,5% và năm 2000 là 5,8%. Con số này là quá thấp trong tình hình phát triển cũng như vai trò của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong địa bàn Hà nội trong thời gian gần đây.
Thứ 2: Trong cho vay đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chủ yếu là cho vay công ty trách nhiệm hữ hạn và công ty cổ phần còn công ty tư nhân gần như là không có quan hệ tín dụng với ngân hàng, đặc biệt là tín dụng trung và dài hạn.
Thứ 3: Doanh số cho vay trung và dài hạn đối với các doanh nghiệp quốc doanh chiếm tỉ lệ thấp và có xu hướng giảm xuống. Năm 1999 tỉ lệ này là 25,3%, đến năm 2000 tỉ lệ này chỉ còn 15,2%
Ngoài những khó khăn cung của nền kinh tế đã dẫn đến tình trạng trên, các hạn chế trên còn do một số nguyên nhân sau đây:
Thứ nhất: Có sự phân biệt rõ ràng giữa các doanh nghiệp Nhà nước và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Hướng đi chủ đạo của chi nhánh vẫn là hướng các quan hệ tín dụng vào thành phần doanh nghiệp Nhà nước, các công ty lớn như Công ty lương thực Miền Bắc, nhà máy điện cơ Thống Nhất, tổng Công ty cà phê, Công ty vang Thăng Long… Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chi nhánh cũng đề ra kế hoạch mở rộng tín dụng nhưng do có nhiều khó khăn vướng mắc, đặc biệt là về tài sản đảm bảo khoản vay nên thời gian qua chi nhánh chỉ tập trung vào một số doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Điều này dẫn đến tỷ trọng dư nợ và cho vay đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thấp
Thứ 2: Chi nhánh chưa có một chiến lược Marketing Ngân hàng đúng đắn và có hiệu quả.
+ Chi nhánh chưa có chính sách giá cả linh hoạt.
Chi nhánh rất thụ động trong việc đưa ra mức lãi suất cho vay. Chính sách lãi suất của chi nhánh chưa linh hoạt một cách triệt để theo đối tượng khách hàng, thời hạn và mức vay. Do đó chưa khuyến khích được các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
+ Chính sách sản phẩm chưa thật hấp dẫn, chưa thực sự lôi kéo khách hàng:
- Chưa có dịch vụ làm theo khi cấp tín dụng.
- Phương thức cho vay của chi nhánh còn hạn chế, chỉ thực hiện một số phương thức cho vay chủ yếu như cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức tín dụng, cho vay trả góp. Các phương thức cho vay khác chưa được sử dụng, cho vay.
- Hiện nay, mức cho vay theo quy định tại điều 9, quy định cho vay đối với khách hàng.
Căn cứ vào nhu cầu vay vốn của khách hàng, giá trị tài sản đảm bảo tiền vay…nhưng mức cho vay không quá 15% vốn tự có của ngân hàng N N - PTNT Việt Nam.
Đối với cho vay ngắn hạn khách hàng phải có vốn tự có tối thiểu 20% trong tổng nhu cầu vốn.
Đối với cho vay trung hạn, dài hạn khách hàng phải có vốn tự có tối thiểu 30% trong tổng nhu cầu vốn.
Điều này có mức vốn tự có rất nhỏ, do đó khi xin vay vị ngân hàng từ chối.
+ Chính sách khách hàng còn nhiều hạn chế và chưa hấp dẫn.
Chưa có chính sách khuyến khích lợi ích vật chất cho các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, vay trả sòng phẳng, đúng hạn. Chính sách khách hàng còn chủ yếu tập trung ở các doanh nghiệp Nhà nước
Thứ ba: Cũng như hầu hết các ngân hàng khác, chi nhánh coi tài sản thế chấp là điều kiện bắt buộc hàng đầu khi quyết định cho vay. Coi tài sản thế chấp là vật thay thế khi khoản vay đến hạn không trả được. Trong khi đó đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, đặc biệt là các doanh nghiệp mới thành lập thi đôi khi các tài sản thế chấp lại không có hoặc có nhưng các giấy tờ hợp pháp về quyền sở hữu mập mờ, khó xác định, hơn nữa đôi khi tài sản thế chấp cũgn còn có nhiều rủi ro. Do đó làm hạn chế quan hệ tín dụng giữa khách hàng và ngân hàng
Thứ tư: Theo nguyên tắc tín dụng và theo các văn bản hướng dẫn việc thẩm định, tái thẩm định của cán bộ tín dụng đối với khoản vay khi doanh nghiệp xin vay cần phải cung cấp đầy đủ các thông tin, các báo cáo tài chính, kế toán, tài sản thế chấp, báo cáo kiểm toán nội bộ, kiểm toán độc lập…Nhưng hiện nay chưa có quy định bắt buộc kiểm toán đối với các DNNQD, nên các báo cáo kế toán, tài chính của họ không theo đúng chế độ kế toán hiện hành. Khi xin vay đôi khi các báo cáo này lại sai về sự thật, mong lại rủi ro cho ngân hàng. Vì thế các cán bộ tín dụng thường không muốn cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vay, hoặc cho vay với quy trình thẩm định, tái thẩm định hết sức chặt chẽ và với số lượng nhỏ. Do đó chưa tạo niềm tin, gây được thiện cảm đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Thứ năm: Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt với các ngân hàng khác, mặc dù là một chi nhánh của NHNN và PTNT Việt Nam nhưng NHNN. PTNT Hà nội cũng phải chia sẻ bớt thị phần cho các ngân hàng khác trên cùng địa bàn thành phố.
Ngoài những nguyên nhân trên, còn có một số các nhân tố khác ảnh hưởng đến quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Đó là:
Thứ nhất; Các DNNQD cũng tự làm giảm uy tín của mình, làm cho các cán bộ tín dụng rất ngại quan hệ với họ. Cùng với sự chuyển đổi theo hướng cơ chế thị trường của nền kinh tế, một số các doanh nghiệp tư nhân, trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần đã làm ăn theo kiểu chộp giật, lừa đảo, mạo hiểm dẫn đến phá sản không có khả năng trả nợ ngân hàng. Một số doanh nghiệp ngoài quốc doanh khác thực sự có phát triển nhưng chưa chắc chắn. Mặt khác sổ sách kế toán của các doanh nghiệp này không cập nhất, thiếu đầy đủ và không chính xác. Chính vì vậy mà gây ra rất nhiều khó khăn cho công tác đánh giá của cán bộ tín dụng. Tất cả các điều đó làm cán bộ tín dụng ngại cho các doanh nghiệp này vay vốn.
Thứ 2: Chính phủ ban hành những vấn đề liên quan đến hoạt động tín dụng còn chậm trễ và thiếu đồng bộ. Đôi khi các văn bản có sự mâu thuẫn, lấn át nhau. Điều này làm khó khăn cho nười thực hiện theo các văn bản đó. Ngày 19/11/1999 chính phủ ban hành nghị định 165NĐ - CP về giao dịch đảm bảo, tiếp theo ngày 29/12/1999 chính phủ lại ban hành nghị định số 179/1999 NĐ- CP về bảo đảm những vấn đề chồng chéo nhau và với bộ luật dân sự. Điều đó gây khó khăn cho ngân hàng trong việc xét cấp tín dụng cho khách hàng.
Thứ 3: Thực hiện chưa có sự công bằng giữa các doanh nghiệp Nhà nước và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hầu như chưa nhận được sự ưu đãi nào của Nhà nước, trong khi đó các DNNN được hướng ưu đãi về lãi suất, thuế, đất đai, thế chấp… Điều này dẫn đến tình trạng một số doanh nghiệp ngoài quốc doanh không phát triển được do các chi phí quá cao, không cạnh tranh được với các DNNN.
Thứ tư: Chính phủ chưa có chính sách hỗ trợ các ngân hàng thương mại trong việc xử lý nợ quá hạn.
Tóm lại, những hạn chế trong quan hệ tín dụng giữa chi nhánh NHNN - PTNT Hà nội và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Có những nguyên nhân thuộc bản thẩn ngân hàng nhưng cũng có những nguyên nhân khách quan như do nên kinh tế do chính phủ hay do chính các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Tuy nhiên phân tích trên đây mới chỉ để hiểu rõ nguồn gốc sâu sa của việc hạn chế tín dụng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Vấn đề đặt ra là trên cơ sở các nguyên nhân đó cần phải đưa ra các biện pháp hữu hiệu để khắc phục. Đó mới là điều quan trọng và cần thiết.
Chương III
GIẢI PHÁP MỞ RỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH TẠI CHI NHÁNH NHNN – PTNT HÀ NỘI.
3.1. Định hướng phát triển của chi nhánhNHNN – PTNT Hà Nội và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn.
3.1.1. Định hướng phát triển của ngân hàng.
Qua thực tiễn hoạt động kinh doanh trong những năm gần đây, đặc biệt là năm 2000, chi nhánh NHNN – PTNT Hà Nội đã rút ra được những thành công, hạn chế và bài học kinh nghiệm cho sự phát triển bền vững của ngân hàng, được thể hiện báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 2000 như sau:
- Thường xuyên chắc chắn diễn biến của tình hình khách hàng, coi thuận lợi và khó khăn của các bạn hàng chính là thuận lợi và khó khăn của Ngân hàng, phải cùng nhau bàn bạc để tìm các biện pháp tích cực để cùng hỗ trợ nhau phát triển thường xuyên, am hiểu tình hình thị trường giá cả và đặc biệt là thị trường tiền tệ tín dụng, đồng thời chủ động áp dụng các biện pháp phù hợp không trông chờ ỷ lại vào cấp trên.
- Phải tạo mối quan hệ gắn bó bình đẳng với khách hàng, không hoàn toàn phụ thuộc vào lãi suất cao hay thấp mà còn vấn đề khác như thủ tục đơn giản, tinh thần phục vụ và các điều kiện khác cho hoạt động kinh doanh.
- Phải thường xuyên cải tiến lề lối, đổi mới phong cách giao dịch, trang bị phương tiện thông tin nhanh nhạy để nắm bắt và xử lý kịp thời nhưng tình huống đặt ra trong kinh doanh, không để lỡ thời cơ.
Từ bài học kinh nghiệm trên, NHNN – PTNT Hà Nội đã đề ra định hường hoạt động kinh doanh năm 2001 như sau:
Bước sang năm 2001, hoạt động của hệ thống các Ngân hàng trong nước sẽ có những thuận lợi cơ bản là nền kinh tế tăng trưởng, các cơ chế chính sách thông thoáng hơn, song khó khăn thách thức cũng không nhỏ.
Để góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết 15/ NQ – TƯ của Bộ chính trị về phương hướng nhiệm vụ phát triển thủ đô thời kỳd 2001 – 2010 và định hướng kinh doanh của NHNN – PTNT Việt Nam, NHNN – PTNT Hà Nội phải phát triển mạnh hơn nữa để vừa kinh doanh có hiệu quả vừa phục vụ tốt việc phát triển kinh tế xã hội của Thủ đô Hà Nội. Mục tiêu phấn đấu trong năm 2001 của NHNN – PTNT Hà Nội là:
* Nguồn vốn tăng trưởng 10 – 15% so với năm 2000, trong đó nguồn vốn trung và dài hạn chiếm 80% để có điều kiện đầu tư cho các dự án trung và dài hạn lớn.
* Dư nợ tăng trưởng 18 – 20% so với năm 2000, trong đó trú trọng mở rộng đầu tư cho các dự án chế biến và xuất khẩu nông sản, các dự án sản xuất hàng thay thế nhập khẩu.
* Nợ quá hạn dưới 2%.
* Lợi nhuận tăng 10 – 15% so với năm 2000.
Để thực hiện các mục tiêu trên, NHNN – PTNT Hà Nội sẽ triển khai thực hiện những biện pháp sau đây:
- Tiếp tục mở rộng mạng lưới kinh doanh ở những địa bàn thuận lợi.
- Mở rộng các hình thức huy động vốn bao gồm cả nội, ngoại tệ, tích cực khai thác các nguồn ngoại tệ để cung ứng cho khách hàng thanh toán hàng nhập khẩu.
- Mở rộng đầu tư tín dụng cho các thành phần kinh tế, mở rộng các hình thức cấp tín dụng cho nền kinh tế và cho xã hội trên địa bàn thủ đô.
- Từng bước mở rộng cho vay tiêu dùng đối với CBCNV ở những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và ổn định, tổ chức giải ngân và thu nợ tại chỗ nhằm tạo thuận lợi cho CBCNV có điều kiện mua sắm tài sản, tiện nghi trong gia đình.
- Mở rộng và tổ chức tốt các dịch vụ như thanh toán chuyển tiền điện từ nhanh, thu chi tiền mặt và trả lương tại đơn vị. Ra đời các thanh toán nối mạng vi tính đến các doanh nghiệp, tạo thuận lợi và giảm thời gian đi lại của các doanh nghiệp.
- Tăng cường và đổi mới công nghệ. Tiếp tục trang bị công nghệ hiện đại chuẩn bị cho hội nhập trong khu vực.
- Không ngừng nâng cao trình độ cho nhân viên, trình độ quản lý, cải tiến, nâng cao công nghệ và trình độ quản lý để đáp ứng yêu cầu đòi hỏi trong hội nhập quốc tế và khu vực.
- Tăng cường kiểm tra kiểm soát nội bộ, xử lý kịp thời và kiên quyết những sai phạm của cán bộ, viên chức làm tổn hại đến lợi ích kinh doanh của khách hàng cũng như của Ngân hàng, tăng cường khoán đi đôi với quản để nhanh chóng đưa hoạt động kinh doanh và phục vụ của NHNN – PTNT Hà Nội ngày càng có hiệu quả hơn so với năm 2000.
3.1.2. Định hướng phát triển của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn.
Từ sau khi Quốc hội thông qua Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân (12.1990) và nay là Luật doanh nghiệp mới, ta nhận thấy một kết quả nổi bật là số lượng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng lên nhanh chóng. Nói chung sự phát triển của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã có một tác động tương đối tích cực đối với sự phát triển của nền kinh tế. Nó thu hút được một lực lượng lớn lao động, giải quyết một phần vấn đề thất nghiệp, sản xuất một số khối lượng sản phẩm dịch vụ đáp ứng cho nhu cầu xã hội làm giảm bớt áp lực cầu cuả thị trường đồng thời góp phần vào ngân sách Nhà nước. Thu hút được một lượng vốn nhàn rỗi khá lớn trong nhân dân và từ các nguồn đầu tư nước ngoài phát triển nền kinh tế.
Trong những năm qua, có thể nói rằng số lượng các doanh nghiệp tăng lên nhanh chóng. Tuy nhiên có sự khác biệt về các loại hình. Những năm đầu khi thông qua Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân, số lượng các doanh nghiệp tư nhân đã tăng lên một cách nhanh chóng nhưng quy mô nhỏ, vốn bình quân trong năm 1996 chỉ khoảng 157 triệu đồng và lao động bình quân là 7 người. Trong những năm gần đây số lượng các công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn tăng lên hơn hẳn so với các doanh nghiệp tư nhân; đặc biệt là các công ty trách nhiệm hữu hạn. Xu hướng trong một vài năm tới, loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn sẽ tiếp tục tăng lên và đặc biệt là ở các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh. Tiếp theo là loại hình công ty cổ phần và công ty tư nhân. Đặc biệt, tỷ lệ đầu tư của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vào ngành dịch vụ chiếm một tỷ trọng cao nhất: trên 70% số vốn và trên 60% số doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Xu hướng này sẽ tiếp tục diễn ra trong thời gian tới.
Tóm lại, những đặc điểm và xu hướng của các loại hinh doanh nghiệp ngoài quốc doanh sẽ là những dấu hiệu quan trọng để các ngân hàng nói chung và NHNN – PTNT nói cung có biện pháp thích hợp nhằm nâng cao quan hệ tín dụng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
3.2. Giải pháp mở rộng tín dụng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại chi nhánh NHNN – PTNT Hà Nội.
Trên cơ sở những nguyên nhân vướng mắc làm hạn chế mối quan hệ tín dụng giữa chi nhánh NHNN – PTNT Hà Nội và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, một số giải pháp NHNN – PTNT Hà Nội cần thực hiện để mở rộng tín dụng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là:
3.2.1. Hoàn thiện cơ cấu tổ chức, quản lý điều hành và bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ chi nhánh.
Để có thể mở rộng và phát triển một cách hiệu quả hoạt động tín dụng thì trước hết chi nhánh phải có một cơ cấu tổ chức và quản lý chặt chẽ và đồng bộ, hợp lý và luôn bám sát tình hình thực tế, xây dựng được một tập thể cán bộ đoàn kết, trong đó ban lãnh đạo và cán bộ phụ trách là những người năng nổ, sáng tạo, dám làm, dám chịu trách nhiệm, cùng với đội ngũ cán bộ nghiệp vụ có trình độ cao, nhiệt tình, tháo vát.
Một số vấn đề cần giải quyết:
+ Hoàn thiện cơ cấu tổ chức quản lý điều hành hạot động của chi nhánh.
Hiện nay, chi nhánh đã có các phòng ban với chức năng rõ ràng (như đã trình bày ở chương 2). Tuy nhiên chi nhánh nên lập thêm một phòng ban là Phòng Marketing chuyên nghiệp trong lĩnh vực Marketing ngân hàng, trực tiếp dưới sự chỉ đạo của Phó giám đốc phụ trách kinh doanh.
+ Phải bồi dưỡng, đào tạo trình độ chi nhánh. Con người luôn luôn là yếu tố quyết định cho sự thành công của mọi công việc. Dưới con mắt của khách hàng, cán bộ ngân hàng cùng với các trang thiết bị phục vụ cho hoạt động kinh doanh là ảnh hưởng đầu tiên của ngân hàng. Nó phản ánh khả năng, năng lực cũng như uy tín của ngân hàng đó. Tác phong làm việc, năng lực, nghiệp vụ, trình độ hiểu biết và thái độ phục vụ giao tiếp của các cán bộ lãnh đạo cũng như cán bộ nghiệp vụ luôn là những yếu tố quan trọng cho việc lựa chọn ngân hàng của khách hàng. Nó có tính chất quyết định sự gắn bó của khách hàng. Mặc dừ trình độ của cán bộ ngân hàng đã cao, chi nhánh vẫn cần kết hợp đào tạo ngắn hạn, dài hạn cả trong và ngoài nước nhằm xây dựng được một đội ngũ cán bộ thực sự có trình độ, am hiểu nghiệp vụ, đáp ứng được đòi hỏi của công việc ngày càng khó khăn và phức tạp. Cụ thể:
- Thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ về chế độ kế toán mới, các phương pháp và kỹ thuật thẩm định dự án, phân tích các hoạt động kinh tế, các kiến thức pháp lý như luật dân sự, các vấn đề liên quan đến sở hữu.
- Tuyển chọn những cán bộ thực sự có năng lực cả về chuyên môn nghiệp vụ lẫn trình độ văn hoá. Đặc biệt là cán bộ trẻ có năng lực nhạy bén với công việc, với sự thay đổi và yêu cầu của hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường.
- Bố trí, xắp xếp lại đội ngũ cán bộ một cách hợp lý. Từng bước tiêu chuẩn hoá cán bộ trên cơ sở năng lực, trình độ nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức, đáp ứng được nhu cầu của công tác kinh doanh trong cơ chế thị trường.
+ Đối với cán bộ hoạch định chính sách tín dụng phải là người có trình độ lý luận nghiệp vụ ngân hàng vững vàng, phải có kiến thức kinh tế tổng hợp, có phương pháp nghiên cứu khoa học, am hiểu thị trường và giàu kinh nghiệm thực tế, có khả năng tổng hợp vấn đề. Ngoài ra phải cso kiến thức pháp luật vững chắc và sâu rộng. Có được những điều đó người cán bộ mới có thể hoạch định được chính sách và hướng giải quyết đúng đắn, hiệu quả, đảm bảo đúng pháp luật. Muốn vậy chi nhánh thường xuyên phải có các cuộc hội thảo khoa học, có kế hoạch đào tạo nâng cao nghiệp vụ thường xuyên, phải thiết lập được mối quan hệ với các tổ chức, trung tâm nghiên cứu lĩnh vực ngân hàng để có thể tiếp xúc được với những kiến thức mới, đồng thời nắm bắt được những thay đổi trong diễn biến hoạt động của lĩnh vực ngân hàng.
+ Đối với cán bộ quản lý điều hàng hoạt động tín dụng, ngoài những tiêu chuẩn về kiến thức nghiệp vụ cơ bản, cần nhấn mạnh các đặc điểm sau:
Phải nắm chắc về pháp luật, đặc biệt là luật kinh tế và luật dân sự.
Phải nắm chắc các quy định, thể chế, vận dụng một cách linh hoạt. Phải có khả năng tổng hợp, phân tích các điều đúng, chưa đúng, chưa phù hợp của chế độ, thể lệ để kiến nghị với cấp trên.
Phải có kiến thức khoa học tâm lý, trình độ ngoại ngữ và tin học.
+ Đối với đội ngũ cán bộ trực tiếp tham gia giao tiếp với khách hàng, thẩm định dự án, đề xuất với lãnh đạo ra quyết định, đồng thời theo dõi quá trình sử dụng vốn và thu nợ. Quyết định đúng sai của người lãnh đạo phụ thuộc phần lớn vào đội ngũ này. Do đó ngoài tiêu chuẩn chung là trình độ kiến thức về nghiệp vụ cần đòi hỏi họ là những người trung thực, khách quan, thắng thắn, kiên định rõ ràng, có ý thức bảo vệ tài sản của Ngân hàng. Ngoài trình độ chuyên môn, cán bộ trực tiếp tham gia giao tiếp với khách hàng phải sâu sát thực tế, hiểu biết nhất định về kinh tế thị trường, nắm vững pháp luật và các vấn đề có liên quan. Muốn vậy ngân hàng phải thường xuyên tổ chức kiểm tra kiến thức về nghiệp vụ, pháp luật, tâm lý... và cần có khuyến khích về mặt vật chất.
3.2.2. Xây dựng một chiến lược Marketing ngân hàng đúng đắn.
Cùng với việc lập thêm phòng Marketing, cần phải xây dựng một chiến lượcMarketing đúng đắn nhằm thu hút khách hàng. Để tăng quy mô tín dụng, tăng khả năng xâm nhập thị trường của ngân hàng vào một thị trường mới thì ngân hàng phải thu hút được nhiều khách hàng có quan hệ tín dụng với mình. Để làm được điều đó chi nhánh NHNN – PTNT phải xây dựng được một chiến lược Marketing đúng đắn và hấp dẫn. Cụ thể cần thực hiện các biện pháp sau:
Thứ nhất: Nghiên cứu thị trường.
Nghiên cứu nhu cầu của thị trường, cụ thể là của khách hàng về nhu cầu vay vốn và các dịch vụ khác của ngân hàng là yếu tố đầu tiên quyết định các bước tiến theo của việc xây dựng chiến lược Marketing ngân hàng. Khi khách hàng lựa chọn ngân hàng để quan hệ tín dụng khi họ quan tâm đến thái độ phục vụ, mức lãi suất, phí dịch vụ, các dịch vụ đi kèm mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng... Để có được đầy đủ các thông tin về nhu cầu của thị trường, các ngân hàng phải thường xuyên nghiên cứu thu thập các thông tin về nhu cầu của khách hàng và nghiên cứu về các đối thủ cạnh tranh. Việc nghiên cứu nhu cầu của khách hàng nhằm trả lời câu hỏi họ cần gì ửo ngân hàng, cần lúc nào? bao nhiêu? Nghiên cứu các đối thủ cạnh tranh tức là nghiên cứu các ngân hàng cùng tham gia vào thị trường xem xét khả năng, điểm mạnh, điểm yếu của các ngân hàng khác và các tổ chức hoạt động tín dụng. Thực hiện tốt việc này, ngân hàng mới nắm rõ được nhu cầu của khách hàng, nhìn lại chính mình để thấy rõ điểm mạnh để phát huy, điểm yếu để khắc phục và đưa ra chiến lược phát triển lâu dài trong hoạt động kinh doanh.
Thứ hai. Xây dựng một chiến lược sản phẩm hấp dẫn.
Một sản phẩm hấp dẫn mà khách hàng có thể tìm thấy nhiều lợi ích từ đó thì chắc chắn khách hàng sẽ lựa chọn sản phẩm đó. Một chiến lược sản phẩm đúng đắn sẽ thu hút được khách hàng, mở rộng được quan hệ tín dụng. Ngược lại nếu một sản phẩm không có tính hấp dẫn thì sẽ không thu hút được khách hàng. Do đó chi nhánh cần phải hiểu rằng, trong hoạt động của ngân hàng, rất khó có thể đưa ra được một sản phẩm mới, mà phần lớn chỉ là cải tiến, tạo ra sự khác biệt, hấp dẫn. Nhưng cũng cần phải hiểu rằng, trong hoạt động của ngân hàng, rất khó có thể đưa ra được một sản phẩm mới, mà phần lớn chỉ là cải tiến, tạo ra sự khác biệt, hấp dẫn trong sản phẩm truyền thống của ngân hàng. Sự cải tiến này lại nằm trong quy định của Ngân hàng cấp trên, tuy nhiên trong tình hình hiện nay khi mà hoạt động cạnh tranh giữa các ngân hàng diễn ra ngày càng gay gắt thì càng buộc các ngân hàng phải có các sản phẩm và cung ứng các dịch vụ mà thị trường đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng, đa dạng và phong phú về chủng loại. Ngân hàng ngày càng phải đổi mới, cải tiến chất lượng sản phẩm, dịch vụ mà mình cunhg cấp, tăng khả năng đáp ứng các nhu cầu của khách hàng nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Chi nhánh NHNN – PTNT Hà Nội ngày càng khẳng định vị trí của mình trong lĩnh vực hoạt động tiền tệ, ngân hàng khu vực Hà Nội và các vùng phụ cận, do đó cần phải chú ý vào các điểm sau trong chiến lược sản phẩm của mình:
Một là: Đa dạng hoá các hình thức tín dụng đối với khu vực ngoài quốc doanh.
Trong tương lai gần khu vực kinh tế ngoài quốc doanh sẽ là khu vực kinh tế đa dạng về quy mô, ngành nghề sản xuất kinh doanh. Vì vậy nhu cầu về khối lượng vốn vay, thời hạn vay, phương thức trả vốn và lãi vay là không giống nhau. Chính vì vậy để đạt được mục tiêu thoả mãn đồng thời lợi ích của khách hàng và của ngân hàng, ngân hàng phải đưa ra các hình thức tín dụng phù hợp với yêu cầu của khách hàng. Ngoài cách cho vay theo truyền thống qua việc đảm bảo bằng tài sản thế chấp, cần phải phát triển mạnh mẽ các hình thức cho vay khác như:
- Cho vay bảo lãnh: Hoạt động này chưa phát triển tại chi nhánh trong những năm qua. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, một số các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cónhu cầu vay vốn nhưng không có đủ các điều kiện để được vay vốn tại chi nhánh thì chi nhánh có thể tư vấn cho khách hàng nhờ một tổ chức nào đó đứng ra bảo lãnh cho món vay. Khi áp dụng hình thức này chi nhánh phải yêu cầu bên bảo lãnh xuất trình đầy đủ các giấy tờ cần thiết, việc bảo lãnh phải được ký kết bằng văn bản và phải được cơ quan có thẩm quyền xác nhận.
- Cho vay đảm bảo bằng các khoản thu. Các doanh nghiệp bán hàng nhưng chưa thu được tiền do người mua chịu làm cho các doanh nghiệp này bị thiếu vốn lưu động. Ngân hàng có thể giúp các doanh nghiệp thiếu vốn lưu động bằng cách cho vay một khoản tín dụng ngắn hạn dựa theo tỷ lệ phần trăm so với khoản thu. Các doanh nghiệp phải trình đầy đủ các giấy tờ chứng minh quyền sở hữu các khoản thu của mình.
- Hình thức hùn vốn đầu tư liên doanh liên kết với khách hàng. Đây là một hình thức rất mới để giúp ngân hàng mở rộng tín dụng, không nhất thiết phải cho vay mà tìm trong số khách hàng của mình các doanh nghiệp làm ăn có hiêụ quả, có hiệu quả, có triển vọng thì ngân hàng ký thoả thuận liên doanh liên kết để cùng sản xuất kinh doanh. Bằng hình thức này ngân hàng không những mở được tín dụng của mình mà còn có điều kiện để xâm nhập thị trường, từ đó tìm ra những mặt mạnh, mặt yếu của doanh nghiệp. Vừa trực tiếp giám sát, quản lý vốn vay vừa có thu nhập cao do là người trực tiếp đầu tư. Với sự giúp đỡ của các nhân viên ngân hàng, chắc chắn doanh nghiệp sẽ làm ăn có hiệu quả.
Hai là: Tổ chức dịch vụ: “Cung cấp tín dụng tại nhà”. Đây là dịch vụ mà chưa có một ngân hàng nào cung ứng. Nhưng thiết nghĩ các doanh nghiệp buôn bán, sản xuất sản phẩm thuần tuý đã thực hiện cung cấp sản phẩm tại nhà, hay cung cấp theo yêu cầu của khách hàng với dịch vụ vận chuyển. Điều này tạo ra một bước ngoặc mới trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Ngân hàng cũng là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt và tín dụng ngân hàng là sản phẩm mang tính đặc biệt và tín dụng ngân hàng là sản phẩm mang tính đặc biệt, thì tất nhiên ngân hàng cũng có thể làm dịch vụ cung cấp tín dụng tại nhà. Thực hiện cấp tín dụng tại nhà sẽ giúp được ngân hàng xem xét được tận nơi cơ sở vật chất, trong thiết bị của doanh nghiệp, có điều kiện đánh giá về tình hình làm ăn của khách hàng. Mặc dù chi phí cho khoản vay này sẽ cao hơn bình thường song nó đảm bảo chắc chắn, ít rủi ro do nắm được cơ bản tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng, hơn nữa chắc chắn loại hình này nếu được áp dụng sẽ đem lại thu nhập lớn cho ngân hàng.
Ba là: Tiến hành phân loại khách hàng để cho vay.
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh đến giao dịch với chi nhánh NHNN – PTNT Hà Nội chủ yếu là các công ty TNHH. Sau đó là các công ty cổ phần và công ty tư nhân. Đây là các đối tượng rất nhạy cảm với những chính sách của ngân hàng. Vì vậy để duy trì tốt mối quan hệ với khách hàng cũ đồng thời thu hút thêm khách hàng mới tới giao dịch thì chi nhánh cần phải có các chính sách ưu đãi riêng đối với từng loại khách hàng, đảm bảo sư khác biệt và hấp dẫn hơn so với các ngân hàng khác trên cùng địa bàn. Muôn làm được điều đó chi nhánh NHNN – PTNT Hà Nội cần phải phân loại theo những tiêu thức nhất định nhằm chọn ra những khách hàng tốt nhất để có những chính sách riêng đối với họ. Có thể loại các đơn vị đó theo các mức sau:
- Đơn vị xếp loại A: Là những đơn vị sản xuất kinh doanh ổn định có lãi trong 2 năm gần đây nhất, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước và không có nợ quá hạn đối với Ngân hàng. Nếu các doanh nghiệp thuộc loại này có phương án khả thi thì có thể cho vay ưu tiên về thủ tục, lãi suất hoặc có thể cho vay bằng tín chấp.
- Đơn vị xếp loại B: Là những doanh nghiệp có tình hình sản xuất kinh doanh không ổn định uy tín trên thị trường chưa cao. Đối với các doanh nghiệp này nên cho vay trên cơ sở cầm cố thế chấp hoặc bảo lãnh của bên thứ 3.
- Đơn vị xếp loại C: Là những đơn vị kinh doanh thua lỗ, không có biện pháp khắc phục, quan hệ dây dưa với các ngân hàng, thường xuyên có nợ quá hạn tại ngân hàng. Đối với các doanh nghiệp này không nên tiếp tục cho vay đồng thời tìm mọi biện pháp để thu hồi nợ quá hạn.
Tất nhiên đây chỉ là một cách phân loại tạm thời, không phải là một khuôn mẫu cứng nhắc. Chi nhánh có thể tiến hành phân loại theo các tiêu thức khác nhau cho phù hợp.ư
Bốn là: Cần có các dịch vụ kèm theo sản phẩm chính của chi nhánh, thông thường đó là dịch vụ tư vấn. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh rất cần sự tư vấn của chi nhánh vì khả năng quản lý, trình độ lập dự án và kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp này còn rất hạn chế và kém bén nhạy trên thị trường, không có khả năng dự đoán về những biến động. Dịch vụ tư vấn ở ngân hàng đã có nhưng mức độ chưa đạt được như mong muốn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Để thu hút các doanh nghiệp ngoài quốc doanh về quan hệ với chi nhánh cần phải tổ chức một dịch vụ tư vấn khách hàng thật tốt về tất cả mọi lĩnh vực: tư vấn về thị trường đầu vào, thị trường đầu ra, quản lý quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh và các lĩnh vực khác. Muốn cho có một dịch vụ tư vấn thì chi nhánh NHNN – PTNT Hà Nội cần phải có một đội ngũ cán bộ thật sự hiểu biết sâu rộng trên nhiều lĩnh vực để có thể tư vấn cho khách hàng. Điều đó sẽ giúp khách hàng làm ăn có hiệu quả hơn cũng như tránh được rủi ro có thể xảy đến cho ngân hàng và ngày càng gây uy tín cho khách hàng, thu hút được khách hàng.
Thứ 3: Xây dựng một chính sách giá cả linh hoạt.
Lãi suất được coi là giá cả của sản phẩm tín dụng của ngân hàng. Đối với ngân hàng giá mua chính là chi phí của các yếu tố đầu vào mà chủ yếu là lãi suất huy động. Giá bán chính là lãi suất cho vay. Chênh lệch về giá thành là lợi nhuận của ngân hàng. Đối với khách hàng họ sẽ chọn mức lãi suất nào mang lại nhiều lợi ích cho họ nhất. Lợi ích của khách hàng và của ngân hàng về cơ bản là trái ngược nhau. Vấn đề quan trọng là phải biết kết hợp hài hoà sao cho hai bên cùng có lợi. Tuy nhiên việc xác định mức lãi suất cho vay ra cũng như lãi suất huy động vào lại phụ thuộc vào lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước. Do vậy chi nhánh cần có chính sách lãi suất đảm bảo đồng thời lợi ích của ngân hàng, của khách hàng và theo luật pháp quy định. Điều này rất khó đạt được và lại càng khó đảm bảo khi chi nhánh đang chú ý đến việc thu hút khách hàng. Để tăng cường thu hút khách hàng mở rộng quy mô tín dụng thì chi nhánh phải tính đến một mức lãi suất cho vay thấp hơn, linh hoạt hơn và phải hy sinh một phần lợi nhuận của mình.
Chính sách lãi suất phải linh hoạt theo mức vay vốn và thời hạn vay. Chẳng hạn nếu mức vay của khách hàng lớn thì mức lãi suất cho vay có thể nhỏ hơn. Về cơ bản, lãi suất cho vay ngắn hạn phải thấp hơn lãi suất chung và dài hạn. Ví dụ nếu khách hàng vai từ 1 đến 3 tháng với khối lượng vay lớn thì có thể lãi suất giảm xuống thấp hơn một chút so với lãi suất cho vay ngắn hạn. Chính sách cho vay lãi suất này sẽ thu hút được nhiều khách hàng hơn và thực tế lợi nhuận của ngân hàng sẽ lớn hơn so với một chính sách giá cả cứng nhắc.
Thứ tư: Xây dựng chiến lược khách hàng.
Muốn mở rộng hoạt động tín dụng thì chi nhánh cần phải có một chiến lược khách hàng lâu dài. Chiến lược ấy phải gắn bó với lợi ích của khách hàng. Việc xây dựng chiến lược khách hàng cần phải thực hiện các vấn đề sau:
- Ngân hàng phải được uy tín với khách hàng trong việc đảm bảo an toàn tín dụng, hẫp dẫn về lợi ích vật chất, áp dụng chính sách không phân biệt về lãi suất giữa doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Tiếp tục duy trì chế độ ưu đãi đối với các doanh nghiệp có nhu cầu tín dụng lớn và thực hiện qua hệ sòng phẳng với ngân hàng.
- Hỗ trợ, tư vấn cho khách hàng, khơi dậy khả năng và nhu cầu của khách hàng tiềm năng.
- Thực hiện đa dạng hoá các khách hàng theo hướng: duy trì và củng cố quan hệ tín dụng với các khách hàng đang có quan hệ tín dụng với ngân hàng, đặc biệt là các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả để giúp cho hoạt động tín dụng ổn định với các doanh nghiệp này. Mở rộng thêm các mối quan hệ với các khách hàng mới để tăng thêm thị phần.
- Thực hiện chính sách lôi cuốn và hẫp dẫn khách hàng đồng thời vẫn bảo đảm được nghĩa vụ đối với khách hàng.
Thứ năm: Xây dựng chính sách giao tiếp khuyếch chương.
Ngân hàng cần phải tăng cường công tác tuyên truyền, quảng cáo các chính sách, chế độ, thể lệ cho vay tới khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Hiện nay thực tế chi nhánh chưa chú trọng tới việc này nên nhiều đơn vị kinh tế nghĩ rằng việc vay của ngân hàng rất khó vai về thủ tục thời gian hơn nữa họ cũng không hiểu về các hình thức mà chi nhánh đang áp dụng cho vay về thời gian, lãi suất từ đó chi nhánh bị mất khả năng được lựa chọn làm cho đơn vị tài trợ cho khách hàng. Trong cơ chế thị trường sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng diễn ra ngày càng gay gắt nên để thúc đẩy hoạt động có hiệu quả hơn, chi nhánh cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng cáo để các doanh nghiệp nắm bắt được chủ trương chính sách đổi mới đối với các thành phần kinh tế. Cho khách hàng biết được những áp dụng cơ chế tín dụng mới, thể lệ cho vay mới theo cơ chế thị trường để khách hàng thấy được thiện chí của chi nhánh, thấy được những lợi ích trong quan hệ với chi nhánh.
Hiện nay, chi nhánh NHNN – PTNT Hà Nội hoạt động theo phương thức bị động tức là nếu có khách hàng đến xin vay thì cán bộ tín dụng xem xét, thẩm định và quyết định có cho vay hay không. Do đó ít có cơ hội gặp được khách hàng tốt. Nên trong phòng Marketing của chi nhánh được mở, và cử một số cán bộ Marketing làm nhiệm vụ Marketing cho hoạt động của chi nhánh, giúp chi nhánh chủ động tìm kiến khách hàng từ đó tăng tính hiệu quả cho hoạt động tín dụng. Phòng Marketing trong chi nhánh không chỉ làm nhiệm vụ tuyên truyền quảng cáo mà quan trọng hơn là tìm hiểu về khách hàng, phân loại khách hàng, lựa chọn một số đối tượng khách hàng làm đối tượng chính để tiếp cận. Cũng từ việc tìm kiếm, nghiên cứu về khách hàng, hiểu rõ các nhu cầu của khách hàng, phòng Marketing đưa ra các giải pháp, chiến lược như chiến lược sản phẩm, chiến lược lãi suất, nhằm tạo ra một sự khác biệt trong ngân hàng so với đối thủ cạnh tranh. Từ đó thoả mãn tốt nhất nhu cầu, cơ hội lựa chọn tốt cho khách hàng, cuốn hút khách hàng.
3.2.3. Nâng cao chất lượng thẩm định trước khi đưa ra quyết định cho vay.
Thực hiện đúng quy trình thẩm định dự án, nâng cao chất lượng thẩm định trước khi quyết định cho vay là một việc làm cần thiết nhằm nâng cao qui mô tín dụng đồng thời nâng cao chất lượng tín dụng. Để làm được điều đó, việc thẩm định dự án phải thu thập thông tin từ nhiều nguồn thông tin khác nhau để đối chiếu, đảm bảo tính chính xác của nguồn thông tin thu nhận được, xử lý các thông tin đó để có các căn cứ ra quyết định có cho vay hay không.
Trong quá trình thẩm định 5 điều kiện quan trọng mà cán bộ ngân hàng đòi hỏi phải có từ khách hàng xin vay là:
* Tư cách pháp lý.
* Tình hình hoạt động kinh doanh, kết quả hoạt động kinh doanh trong 2 năm gần nhất.
* Khả năng quản lý, điều hành của chủ các doanh nghiệp.
* Khả năng về tài chính, tài sản thế chấp.
* Hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh.
Trong các điều kiện mà khi thẩm định, đánh giá, cần phải đưa ra xem xét kỹ các vấn đề.
- Về tư cách pháp lý: đó là việc căn cứ vào các văn bản, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép thành lập.
- Qua các báo cáo tài chính thường kỳ của doanh nghiệp kết hợp với sự thanh tra, giám sát của cán bộ chuyên môn để đánh giá tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, khả năng quản lý tài chính của chủ doanh nghiệp.
- Về vấn đề tài sản thế chấp: hiện nay các ngân hàng coi tài sản thế chấp như là một "bảo bối" khi quyết định cho vay. Bởi vì họ luôn có tư tưởng rằng cho vay bằng tài sản thế chấp là an toàn nhất. Bởi khả năng phát mại tài sản để thu hồi phần nợ không đòi được từ khách hàng. Nhưng chính việc quá tin tưởng vào tài sản thế chấp đã gây ra những hạn chế lớn trong hoạt động cho vay của ngân hàng cả về quy mô lẫn chất lượng tín dụng.Bởi vì có rất nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh có phương án sản xuất kinh doanh khả thi nhưng do không có tài sản thế chấp hoặc có nhưng các giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu không rõ ràng. Mặt khác chính bản thân tài sản thế chấp cũng có chứa đựng nhiều rủi ro khi có biến động về giá. Hơn nữa các chi phí khi tiến hành phát mại tài sản làm cho số tiền thu được từ việc phát mại tài sản bị giảm đi rất nhiều. Do đó chi nhánh cần phải nhìn lại vấn đề tài sản thế chấp. Coi đó là điều kiện bất đắc dĩ trong đòi hỏi từ khách hàng chứ không phải là một nguyên tắc đúng đắn. Đây là một vấn đề quan trọng cần quan tâm để có quan điểm đúng đắn về tài sản thế chấp.
- Về việc thẩm định hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh.
Đây là khâu chủ chốt và quan trọng bậc nhất đối với ngân hàng nhằm đạt hiệu quả mong muốn cũng như phòng tránh rủi ro. Trong khi vấn đề tài sản thế chấp đang còn nhiều vướng mắc, thì việc căn cứ vào tính hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh để ra quyết định cuối cùng là điều hết sức cần thiết. Vì vậy đòi hỏi cán bộ tín dụng phải thực sự có năng lực, kinh nghiệm đánh giá xem xét tính khả thi của dự án trên toàn bộ các phương diện, kỹ thuật, tài chính, kinh tế xã hội để đưa ra những quyết định đúng đắn. Ngoài ra thông qua quá trình thẩm định, cán bộ ngân hàng có thể tư vấn thêm cho khách hàng các vấn đề có liên quan đến tính khả thi của dự án, phòng tránh rủi ro cho cả khách hàng và ngân hàng. Bên cạnh việc nâng cao chất lượng của công tác thẩm định, ngân hàng cũng phải chú trong tới công tác kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ bảo đảm nghiêm túc các điều kiện, yêu cầu của quy trình tín dụng. Tiến hành kiểm soát ở các 3 giai đoạn: trước, trong và sau khi quyết định cho vay đối với khách hàng. Đặc biệt trong giai đoạn thu nợ không nên cứng nhắc dập khuôn mà phải thực sự hợp tác với người vay.
3.2.4. Thu thập đầy đủ các thông tin về khách hàng.
Do mới phát triển trong khoảng 10 năm trở lại đây nên thị trường các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là thị trường mới phức tạp, nhỏ lẻ và khó nắm bắt. Trong khi đó, yêu cầu của các ngân hàng là phải nắm bắt đầy đủ các thông tin về khách hàng vay do đó việc tìm hiểu đầy đủ các thông tin về khách hàng là điều hết sức quan trọng. Nó góp phần giảm bớt các rủi ro trong hoạt động cho vay của ngân hàng. Trên thực tế có thể tìm thấy thông tin về các doanh nghiệp ngoài quốc doanh qua các luồng sau:
- Thông tin qua các phương tiện thông tin đại chúng như đài, báo, tivi...
- Thông tin qua các cơ quan quản lý nhà nước như cơ quan thuế, hải quan từ trung tâm thông tin tín dụng.
- Thông tin từ các đối tác làm ăn với các doanh nghiệp.
- Thông tin từ các trung tâm tư vấn cho các doanh nghiệp, từ các ngân hàng đã có quan hệ tín dụng với doanh nghiệp.
- Thông tin từ bản thân doanh nghiệp.
Để nắm bắt được các thông tin này một cách chính xác, chi nhánh cần phải tiến hành một số giải pháp sau:
- Tạo mối quan hệ mật thiết gắn bó với các trung tâm tư vấn cho doanh nghiệp.
- Thường xuyên thông tin với trung tâm thông tin tín dụng để biết được tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Tiến hành các cuộc thảo luận, các hội nghị khách hàng để nắm bắt được nhiều thông tin.
- Thu thập từ nhiều nguồn khác như: sách, báo, tivi...
Ngoài các giải pháp chính trên, NHNN & PTNT Hà Nội cần có các giải pháp khác để mở rộng tín dụng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh như:
Một là: Hiện đại hoá cơ sở vật chất trang thiết bị nhằm phục vụ tốt hơn nữa nhiệm vụ kinh doanh như: đầu tư thêm máy tính và các phần mềm ứng dụng cũng như các máy móc chuyên dụng để tăng chất lượng phục vụ của dịch vụ chuyển tiền, tiền gửi, rút tiền tự động... hay đầu tư mua sắm, xây dựng các phương tiện như két bạc, nhà kho nhằm bảo quan tài sản cầm cố cho khách hàng một cách tốt nhất.
Hai là, thiết lập các mối quan hệ với các ngân hàng khác trên cùng khu vực để có cơ hội tiếp cận, học hỏi và cho vay hợp vốn...
Ba là, tăng cường công tác kiểm tra kiểm soát nhằm đảm bảo hơn nữa chất lượng tín dụng
3.3. Kiến nghị.
Tất cả các biện pháp trên chưa phải là tất cả những gì mà một ngân hàng cần thiết phải làm để thực hiện mở rộng hiệu quả tín dụng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Nhưng thiết nghĩ những điều trên là cần thiết để góp phần vào việc mở rộng tín dụng đối với doanh nghiệp quốc doanh tại chi nhánh NHNN & PTNT Hà Nội. Tuy nhiên khó khăn, hạn chế trong hoạt động tín dụng tại chi nhánh NHNN & PTNT Hà Nội không chỉ bắt nguồn từ bản thân ngân hàng, mà còn từ nhiều nguyên nhân khách quan khác như từ phía Chính phủ, từ Ngân hàng Nhà nước và từ chính các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Do đó nếu chỉ thực hiện các giải pháp trên thì mới chỉ khắc phục được những hạn chế khách quan. Để mở rộng tín dụng ngoài quốc doanh một cách toàn diện thì cần sự trợ giúp của Nhà nước, ngân hàng nhà nước... Do đó em xin trình bày một số kiến nghị như sau:
3.3.1. Kiến nghị với Nhà nước.
Thứ nhất, Nhà nước cần thừa nhận sự tồn tại và phát triển lâu dài của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, thừa nhận sự bình đẳng trước pháp luật của các doanh nghiệp này. Mặc dù nhà nước đã có những chính sách khuyến khích phát triển của các thành phần kinh tế nhưng trên thực tế vẫn có sự phân biệt đối xử không bình đẳng giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp thuộc các thành phần sở hữu khác trong các chính sách thuế, tài chính, XNK...
Thứ hai, Nhà nước cần ban hành các luật lệ, chính sách nhằm tạo ra hành lang pháp lý ổn định cho sự hoạt động của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, tạo sự tin tưởng cho các nhà đầu tư.
Thứ ba, cần phải nhanh chóng cải tiến các thủ tục hành chính có liên quan đến việc thành lập và điều hành hoạt động của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Các chính sách của nhà nước cũng như sự áp dụng của các địa phương đối với doanh nghiệp này chưa thống nhất.
Thứ tư, có biện pháp hỗ trợ việc đào tạo cán bộ, trình độ quản lý cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh để các doanh nghiệp này có khả năng hoạt động có hiệu quả trong điều kiện cạnh tranh gay gắt hiện nay.
Thứ năm, nhanh chóng thực hiện việc chứng nhận quyền sở hữu cho tài sản của các hộ tư nhân. Hiện nay luật về sở hữu tài sản chưa rõ ràng, chưa đồng bộ. Nhiều khu đất mặc dù sở hữu hợp pháp nhưng các hộ tư nhân không có giấy chước bạ... Theo thống kê, hiện nay trên địa bàn Hà Nội chỉ có khoảng 32 - 35% hộ tư nhân có giấy tờ hợp pháp về sở hữu nhà đất. Mặt khác giấy tờ này lại là một tài sản thế chấp quan trọng trong quan hệ tín dụng với ngân hàng. Do đó cần phải hoàn thiện công tác xác nhận quyền sở hữu tài sản để người sở hữu có đầy đủ giấy tờ hợp pháp hợp lệ.
Nhanh chóng ban hành chế độ kiểm toán, kế toán đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Hiện nay do yêu cầu của việc vay vốn là các doanh nghiệp phải tuân thủ chế độ kế toán thống kê của Nhà nước. Tuy nhiên qua thực tế kiểm tra phần lớn chế độ sổ sách, kế toán của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn sai phạm, thiếu sót chưa theo mẫu qui định. Thực trạng này rất phổ biến tại khu vực kinh tế ngoài quốc doanh bởi nó giúp cho các doanh nghiệp này vượt qua các trách nhiệm về thuế là các đóng góp khác đối với nhà nước. Do vậy để ngân hàng có những thông tin chính xác, kịp thời về các đơn vị vay vốn, đề nghị nhà nước có chính sách buộc các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phải thực hiện đầy đủ và tự giác chế độ kế toán, kiểm toán, tránh tình trạng khó khăn cho các cán bộ ngân hàng trong việc thẩm định dự án.
Nhà nước cần có chính sách khen thưởng đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Đây là thành phần kinh tế đóng góp không ít cho các phát triển kinh tế và xã hội. Tuy nhiên, cần quy định cụ thể về năng lực của các cá nhân đứng lên thành lập doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH và công ty cổ phần. Thực tế sự yếu kém về trình độ lãnh đạo, quản lý của các cá nhân này đã làm cho một số các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, ảnh hưởng tới khoản đầu tư của ngân hàng. Luật công ty đã quy định về trình độ của người quản lý đối với một số ngành nghề kinh doanh nhất định... nhưng vần phải cụ thể hơn nữa. Không nên cho phép thành lập doanh nghiệp một cách tràn lan dẫn đến không kiểm soát nổi. Kiên quyết giải quyết, xoá bỏ các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, kém hiệu quả, vi phạm pháp luật.
3.3.2. Kiến nghị với ngân hàng Nhà nước.
Các quy định về kinh tế, tài chính, tín dụng, sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau còn hạn chế. Điều đó được thể hiện trong chính sách tín dụng của hệ thống ngân hàng. Các quy định còn quá cứng nhắc và còn có sự phân biệt như tài sản thế chấp, mức lãi cho vay. Chẳng hạn, theo quy định về quyền phán quyết tín dụng thì các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có mức cho vay tối đa thấp hơn so với các doanh nghiệp Nhà nước từ 5 đến 10 lần. Mức lãi đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng cao hơn so với doanh nghiệp Nhà nước. Do đó để khuyến khích các doanh nghiệp ngoài quốc doanh quan hệ tín dụng với ngân hàng, mở rộng và phát triển, pháp huy vai trò to lớn của nó đối với nền kinh tế thì ngân hàng Nhà nước cần xem xét và đưa ra các quy định về cho vay, hạn mức và lãi suất một cách linh hoạt hơn.
Hiện nay luật ngân hàng Nhà nước và luật các tổ chức tín dụng đã thực sự đi vào nền kinh tế. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện các luật này tại các ngân hàng và các tổ chức không phải là ngân hàng còn đang gặp nhiều khó khăn. Ngân hàng Nhà nước cần có các văn bản hướng dẫn, phối hợp cùng với các ngân hàng thương mại tiến hành cụ thể hoá, áp dụng nó vào thực tiễn để pháp huy tính đúng đắn của hai Bộ luật này. Đồng thời quá trình thực hiện nó sẽ giúp cho các ngân hàng thương mại và ngân hàng Nhà nước nhận thấy những ưu điềm để phát huy, hạn chế để khắc phục và sửa chữa. Thêm vào đó thị trường tài chính chưa phát triển một cách toàn diện, hoàn chỉnh Nhà nước chỉ mới có pháp lệnh về thị trường chứng khoán, các công ty cho thuê tài chính. Vì vậy cần phải xem xét, xây dựng các bộ luật như luật chứng khoán và thị trường chứng khoán... trình Chính phủ xem xét và thông qua nhằm tạo điều kiện phát triển thị trường tài chính một cách hoàn chỉnh. Hiện nay các ngân hàng chủ yếu là thiếu vốn chung và dài hạn mặc dù đã có quy định cho phép chuyển một phần vốn ngắn hạn sang cho vay chung và dài hạn. Tuy nhiên nhu cầu vốn trung và dài hạn vẫn còn rất lớn để đầu tư vào các cơ sở hạ tầng... Việc hoàn thiện các văn bản sẽ góp phần vào việc tăng trưởng nguồn vốn chung và dài hạn cho các ngân hàng. Điều đó góp phần đáp ứng nhu cầu vốn chung và dài hạn của nền kinh tế nói chung và của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói riêng.
Tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm soát các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác nhằm chấn chỉnh những sai sót, tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng, phòng ngừa các tổn thất... Trong đó phải có chế độ thưởng phạt rõ ràng đối với các ngân hàng thương mại chấp hành tốt và các ngân hàng thương mại vi phạm quy định.
Cần có các biện pháp và chủ chương thiết thực hỗ trợ các ngân hàng thương mại khai thông tồn đọng nợ quá hạn tại các ngân hàng thương mại. Điều chỉnh, bổ sung các nghị định liên quan đến việc xử lý nợ quá hạn. Có giải pháp rất điểm nhanh gọn bảo vệ quyền lợi của các ngân hàng đối với các khoản nợ khê đọng, đặc biệt là nợ phát sinh trước luật công ty và luật phá sản.
3.3.3. Kiến nghị đối với NHNo & PTNT Việt Nam.
NHNo & PTNT Việt Nam là cơ quan chủ quản của NHNo &PTNT Hà Nội. Do đó cần phải có các biện pháp để phối hợp cùng với ngân hàng Nhà nước, chi nhánh NHN0 & PTNT Hà Nội trong việc khắc phục những hạn chế, phát huy mặt mạnh để cùng NHNo & PTNT Hà Nội phát triển kinh tế. Để làm được điều đó cần thực hiện các vấn đề sau:
- Tổ chức giải quyết các nghiệp vụ liên quan đến hoạt động của chi nhánh như việc phê duyệt mức cho vay vượt quyền phán quyết, khi tái thẩm định các dự án đầu tư...
- Hỗ trợ chi nhánh NHN0 &PTNT Hà Nội trong việc lắp đặt trang thiết bị hiện đại phục vụ cho quá trình hoạt động như hệ thống máy tính, máy rút tiền tự động, nối mạng trong toàn bộ ngân hàng... Đặc biệt là trợ giúp về kinh phí và kỹ thuật trong việc đào tạo, bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ ngân hàng cho các cán bộ nhân viên NHN0 & PTNT Hà Nội.
- Thường xuyên kết hợp với NHN0 & PTNT Hà Nội tổ chức các buổi thảo luận, hội nghị, nghiên cứu khoa học để vừa nắm được các thông tin về tình hình hoạt động của ngân hàng, vừa cung cấp thêm các kinh nghiệm kiến thức quý báu trong quá trình hoạt động.
- Phối hợp chặt chẽ với ngân hàng Nhà nước tổ chức có hiệu quả chương trình thông tin rủi ro, thông tin tín dụng nhằm ngày càng nâng cao chất lượng tín dụng, giúp chi nhánh phòng ngừa rủi ro.
- Tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm soát nội bộ trong toàn hệ thống nhằm chấn chỉnh các sai sót phòng ngừa rủi ro...
KẾT LUẬN
Sau một thời gian nghiên cứu lý luận cũng như tìm hiểu thực tiễn tại chi nhánh NHNo & PTNT Hà Nội, dưới sự giúp đỡ của thầy giáo Vũ Duy Hào cùng các cán bộ, nhân viên của NHNo & PTNT Hà Nội, em đã mở mang thêm nhiều kiến thức về hoạt động ngân hàng, đặc biệt là hoạt động tín dụng đốia với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Dù còn nhiều hạn chế và thiếu sót, em đã hoàn thành chuyên đề thực tập qua việc trình bày những mặt được và những mặt còn hạn chế, đồng thời cũng mạnh dạn đưa ra các biện pháp và kiến nghị nhằm góp phần mở rộng tín dụng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại chi nhánh NHNo & PTNT Hà Nội. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô các cán bộ NHNo & PTNT Hà Nội và các bạn. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Vũ Duy Hào cùng toàn thể cán bộ nhân viên NHNo & PTNT Hà Nội đã nhiệt tình giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này.
Hà Nội 15 tháng 4 năm 2001
Sinh viên Vũ Việt Hùng
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách Tài chính doanh nghiệp (Trường Đại học Kinh tế Quốc dân)
2. Sách Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính.
Tác giả Frederic S. Mishkin.
3. Sách Ngân hàng thương mại.
Tác giả Edward W. Reed và Ed.ward K. Gill.
4. Sách Ngân hàng thương mại.
Tác giả Lê Văn Tư.
5. Luật các tổ chức tín dụng và Luật ngân hàng Nhà nước.
6. Quy chế cho vay đối với khách hàng của các tổ chức tín dụng.
7. Quy định cho vay đối với khách hàng của NHNN & PTNT Hà Nội.
8. Quy định về phân cấp quyền phán quyết mức cho vay tối đa đối với một khách hàng NHNN & PTNT Hà Nội.
9. Các báo cáo hoạt động kinh doanh của NHNN & PTNT Hà Nội.
10. Tạp chí Kinh tế và Phát triển, Thị trường tài chính... các năm 1999 & 2000.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0180.doc