Hiện nay vấn đề tài sản thế chấp là một khó khăn lớn đối với các DNVVN trong việc tiếp cận nguồn vốn ngân hàng. Thông thường các ngân hàng thường quan tâm đến giá trị của tài sản thế chấp và tính pháp lý của tài sản đó có đầy đủ hay không, tuy nhiên việc sở hữu một tài sản thế chấp có giá trị với đầy đủ tính hợp pháp của nó cũng chưa phải là một đảm bảo chắc chắn cho khả năng vay vốn của doanh nghiệp. Nguyên nhân là vấn đề xử lý tài sản thế chấp tại nước ta hiện nay vẫn còn nhiều bất cập gây cho ngân hàng rất nhiều khó khăn trong việc thu hồi vốn khi các doanh nghiệp làm ăn không có hiệu quả, không có khả năng trả nợ ngân hàng. Do đó ngân hàng không nên đưa vấn đề tài sản thế chấp là điều kiện quan trọng nhất và có ý nghĩa quyết định đến khả năng vay vốn của doanh nghiệp mà điều cần quan tâm chính là hiệu quả hoạt động kinh doanh của đơn vị, tính khả thi và tương lai của dự án
88 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1490 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp mở rộng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng nông nghiệp Tây Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đơn vị hạch toán độc lập của NHNo&PTNT Việt Nam và được xếp vào khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh nhưng thực ra về uy tín thì công ty vẫn được coi như là một doanh nghiệp Nhà nước. Vì vậy về bản chất, thì dư nợ tín dụng riêng trong khu vực DNVVN thì ngân hàng cũng tập trung phần lớn nguồn tín dụng dành cho các doanh nghiệp quốc doanh. Như vậy các doanh nghiệp Nhà nước vẫn nhận được sự ưu đãi hơn đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
2. 2. 3. 5 Chất lượng tín dụng đối với DNVVN
Bảng 9: Nợ quá hạn của các DNVVN ( đơn vị : tỷ đồng )
Chỉ tiêu
Nợ QH DNVVN
Tổng nợ QH
Nợ QH DNVVN/Tổng dư nợ
Nợ QH/dư nợ DNVVN
30/9/2003
0
0
0
0
31/12/2003
0
0
0
0
30/3/2004
0. 0215
0. 0215
100%
0. 01%
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh hàng tháng của NH)
Nhận xét: Nợ quá hạn được xem như chỉ tiêu chính để đánh giá chất lượng tín dụng. Nhìn vào số liệu trên, có thể thấy chất lượng tín dụng đối với các DNVVN là rất cao, hoàn toàn không có nợ quá hạn trong 2 quý đầu hoạt động. Có được kết quả trên một phần do ngân hàng mới đi vào hoạt động, các món cho vay đối với các DNVVN chủ yếu là tín dụng ngắn hạn. Tuy nhiên cũng đã xuất hiện nợ quá hạn trong quý I năm 2004 và thuộc về các DNVVN, tuy số nợ quá hạn này chiếm tỷ lệ rất nhỏ 0.01% trong tổng dư nợ tín dụng và được xếp vào nợ quá hạn dưới 180 ngày khách hàng có khả năng trả. Một số trường hợp đến kỳ hạn trả nợ doanh nghiệp chưa thực hiện thanh toán được tiếp tục xin ngân hàng gia hạn nợ. Đây chính là dấu hiệu của các khoản nợ quá hạn có thể phát sinh trong tương lai.
2. 3 Đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của NHNo Tây Hà Nội
2. 3. 1 Những kết quả đạt được
Trên ba năm đi vào hoạt động, hoạt động tín dụng đối với các DNVVN của NHNo Tây Hà Nội đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ, nó cho thấy sự nỗ lực và những thành công bước đầu trong hoạt động này của Ngân hàng. Chúng ta có thể thấy được một số thành công chính trong hoạt động tín dụng đối với DNVVN của Ngân hàng như sau:
- Số lượng DNVVN tăng qua các thời kỳ.
- Dư nợ tín dụng đối với DNVVN tăng theo các thời kỳ.
- Tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng đối với DNVVN cao hơn so với DNL.
- Ngân hàng đã bắt đầu tài trợ các khoản tín dụng trung và dài hạn đối với các DNVVN.
- Tỷ lệ nợ quá hạn trong các khoản tín dụng dành cho DNVVN là không đáng kể.
2. 3. 2 Hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được, thì trong những năm qua hoạt động tín dụng đối với các DNVVN của ngân hàng cũng bộc lộ nhiều những hạn chế cần phải có giải pháp khắc phục để hoạt động này thực sự có hiệu quả. Sau đây là một số hạn chế, vướng mắc chính:
- Số lượng khách hàng DNVVN của ngân hàng vẫn còn nhỏ, chưa tương xứng với tiềm năng hiện có, hiện tại số lượng DNVVN trên địa bàn khá lớn nhưng ngân hàng chưa biết cách khai thác nên chưa thu hút được nhiều khách hàng.
- Mức dư nợ tín dụng dành cho DNVVN vẫn còn thấp. Đây là hiện tượng chung tại các ngân hàng thương mại Việt Nam nhưng riêng đối với NHNo Tây Hà Nội thì mức dư nợ này còn thấp hơn nhiều do một phần đây là một ngân hàng mới đi vào hoạt động.
- Riêng trong khu vực DNVVN thì phần lớn nguồn tín dụng cũng tập trung dành cho các doanh nghiệp quốc doanh. Khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh là một thị trường rất tiềm năng nhưng trong thời gian qua cũng giống như đa phần các NHTM quốc doanh khác, hoạt động cho vay của Ngân hàng cũng chủ yếu tập trung ở khu vực quốc doanh, nó cho thấy sự không hợp lý trong cơ cấu tín dụng của Ngân hàng.
- Tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng đối với các DNVVN tuy có cao hơn so với các DNL nhưng về số tuyệt đối thì vẫn còn thấp.
2. 3. 3 Nguyên nhân của những hạn chế trên.
2. 3. 3. 1 Về phía ngân hàng
- Trước hết, ngân hàng chưa có chính sách cụ thể về hoạt động tín dụng hướng tới đối tượng khách hàng DNVVN
Ngân hàng mới chỉ thực hiện vai trò là người cung cấp tín dụng mỗi khi có doanh nghiệp có nhu cầu vốn tìm đến ngân hàng xin cấp tín dụng.
+ Ngân hàng chưa có chính sách lãi suất cụ thể đối với DNVVN
Tâm lý chung của ngân hàng khi cho vay DNVVN là các khoản tín dụng đó có tỷ lệ rủi ro cao hơn đối với khách hàng là những DNL, do đó mức lãi suất mà ngân hàng áp dụng đối với các DNVVN thường cao hơn so với DNL. Đối với mọi loại hình doanh nghiệp, thuộc các ngành nghề sản suất khác nhau ngân hàng vẫn áp dụng một mức lãi suất cứng nhắc, chưa có sự linh hoạt trong việc điều chỉnh mức lãi suất cũng là nguyên nhân gây hạn chế trong việc mở rộng tín dụng đối với các DNVVN.
+ Quy trình tín dụng của ngân hàng chưa hợp lý
Các DNVVN chủ yếu có nhu cầu vốn ngắn hạn trong thời gian ngắn phục vụ trực tiếp cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong khi đó các quy trình cho vay của ngân hàng lại phải trải qua nhiều bước từ nhận hồ sơ, thẩm định, quyết định, giải ngân… Hiện nay, trong quy trình cho vay của NHNo&PTNT Việt Nam không phân biệt đối tượng khách hàng cho DNL, DNVVN nên đối với các khoản vay khác nhau đều phải trải qua những bước tương tự. Do vậy ngân hàng không tạo được sự linh hoạt trong khả năng cấp tín dụng cho các doanh nghiệp gây khó khăn cho cả ngân hàng và doanh nghiệp. Bản thân NHNo Tây Hà Nội mới chỉ dựa trên văn bản số 1963 ngày 18/08/2000 của NHNo&PTNT Việt Nam về phân loại khách hàng dựa trên một số chỉ tiêu như lợi nhuận sau thuế, khả năng thanh toán ngắn hạn, doanh thu…chủ yếu phục vụ cho việc ra quyết định áp dụng các biện pháp bảo đảm tiền vay nào đối với doanh nghiệp.
+ Ngân hàng vẫn còn chú trọng nhiều đến các dự án đầu tư lớn
Không chỉ NHNo Tây Hà Nội mà các NHTM khác nói chung đều có tâm lý và chú trọng hơn đối với các dự án đầu tư lớn. Các dự án này thường là của các DNL như các tổng công ty 90, 91…Tâm lý của các cán bộ tín dụng khi cho vay DNVVN, nhất là các DNVVN khu vực ngoài quốc doanh đó là chứa đựng nhiều rủi ro và mang lại lợi nhuận không cao.
Các món vay thường manh mún dẫn đến chi phí giao dịch đối với việc cho vay DNVVN, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ thường cao hơn nhiều so với việc cho vay các món lớn, cũng khiến ngân hàng ngần ngại khi cho vay đối tượng khách hàng này.
- Ngân hàng chưa cung cấp đa dạng các loại hình cho vay đối với DNVVN
Mặc dù hiện nay NHNo Tây Hà Nội đã đưa vào áp dụng nhiều hình thức cho vay như cho vay từng lần, cho vay từng món, cho vay theo hạn mức tín dụng, cho vay trả góp…trên lý thuyết thì mọi đối tượng khách hàng đều được áp dụng hình thức cho vay trên, nhưng trên thực tế thì các DNVVN thường chỉ được vay từng lần, vay theo món. Tuy hình thức này giúp ngân hàng quản lý chặt chẽ được các món vay nhưng lại gây khó khăn cho doanh nghiệp vì mỗi lần vay các DNVVN lại phải lặp lại tất cả các thủ tục cần thiết, tốn nhiều thời gian và chi phí. Việc ép các doanh nghiệp sản xuất không mang tín thương vụ phải vay từng lần gây nhiều phiền toái cho cả doanh nghiệp và cán bộ tín dụng, trong khi đó các hình thức cho vay khác có nhiều ưu điểm thì lại chưa được áp dụng làm hạn chế khả năng cho vay của ngân hàng cũng như đi vay của doanh nghiệp.
-Chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư và phương án vay vốn chưa cao:
Thẩm định tài chính dự án chủ yếu dựa trên thông tin hồ sơ dự án, thông tin do khách hàng cung cấp, chưa xây dựng được kênh thông tin độc lập làm cơ sở để đánh giá một cách toàn diện, khách quan.
Việc tính toán trong quá trình tính toán các chỉ tiêu còn gặp sai sót, trình bày báo cáo thẩm định chưa thực sự khoa học và hợp lý.
Việc phân tích và đánh giá các chỉ tiêu tài chính còn chung chung, sơ sài, khó hiểu, khiến người đọc có cảm giác như báo cáo chỉ mang tính hình thức, không sâu sắc.
Khi tiến hành cho vay DNVVN, ngân hàng chủ yếu dựa vào tài sản đảm bảo của các doanh nghiệp, đây có thể coi là một điều kiện bắt buộc để một DNVVN vay vốn từ ngân hàng. Thông thường doanh nghiệp cũng chỉ nhận được một khoản cho vay từ 50-70% giá trị tài sản thế chấp, mà tài sản thế chấp lại là một vấn đề khó khăn đối với các DNVVN. Thông thường tài sản thế chấp được các doanh nghiệp sử dụng để xin vay vốn ngân hàng thường là các bất động sản chủ yếu là đất đai, nhà xưởng…Tuy nhiên nhiều doanh nghiệp không thể hiện được tính chất pháp lý đầy đủ của các tài sản đó theo quy định, nên vẫn không được ngân hàng chấp nhận làm tài sản thế chấp.
- Chưa có chính sách Marketing cụ thể hướng tới đối tượng DNVVN.
Là ngân hàng mới đi vào hoạt động, NHNo Tây Hà Nội chưa có điều kiện chú trọng đến công tác Marketing để quảng bá ngân hàng và các sản phẩm dịch vụ của mình đến đông đảo công chúng khách hàng. Các hoạt động cơ bản của công tác Marketing như nghiên cứu thị trường các DNVVN, nghiên cứu chiến lược phân phối, chiến lược xúc tiến hỗn hợp …ngân hàng vẫn chưa thực hiện được. Các doanh nghiệp làm ăn lâu năm thì thường đã có quan hệ với các tổ chức tín dụng khác trước đó. Điều này khiến ngân hàng càng gặp khó khăn hơn trong việc tìm kiếm khách hàng.
Ngân hàng cũng thiếu những hướng dẫn cụ thể cho DNVVN các thủ tục cần thiết để xin cấp một khoản tín dụngNH chưa có những hướng dẫn cụ thể cho các DNVVN. Cùng với việc thiếu hướng dẫn cụ thể thời gian đi vay mượn thường kéo dài và từ đó làm tăng chi phí cũng cản trở các DNVVN trong việc vay mượn. Một số doanh nghiệp mất cả tháng mới có được nguồn tín dụng. Điều này đặt doanh nghiệp vào tình thế bất lợi trên thị trường buộc họ phải tìm kiếm từ những nguồn không chính thức để đáp ứng nhanh hơn hơn nhu cầu vốn đang thiếu.
- Chất lượng nhân sự của ngân hàng chưa cao:
Là một chi nhánh mới thanhg lập nên các nhân viên chủ yếu là mới, do đó trình độ nghiệp vụ của các nhân viên còn chưa thành thạo, thiếu kinh nghiệm thực tế, đặc biệt là những kinh nghiệm về rủi ro tín dụng. Trong khi đó, đối với hoạt động tín dụng không chỉ đòi hỏi về nghiệp vụ tín dụng đơn thuần mà cần phải có khả năng phân tích, tổng hợp thông tin trên nhiều lĩnh vực hoạt động từ đó mới đánh giá chính xác các thông tin khách hàng.
2. 3. 3. 2 Về phía các doanh nghiệp vừa và nhỏ
- Trình độ quản lý của nhiều chủ DNVVN còn hết sức hạn chế.
Phần lớn các chủ DNVVN đều chưa được đào tạo về công tác quản lý doanh nghiệp và chủ yếu điều hành theo kinh nghiệm bản thân. Rất nhiều chủ doanh nghiệp không thể viết được một đề án sản xuất kinh doanh đáp ứng được yêu cầu của ngân hàng để được chấp nhận vay vốn. Tuy nhiều doanh nghiệp có những ý tưởng kinh doanh độc đáo và có tính khả thi cao, xong có một khoảng cách khá xa giữa việc biến một ý tưởng đó thành một kế hoạch cụ thể có tính toán đầy đủ các yếu tố tài chính, kỹ thuật. Trình độ quản lý doanh nghiệp yếu và kế hoạch kinh doanh thiếu tính khả thi là những nguyên nhân cơ bản khiến ngân hàng từ chối các khoản cho vay DNVVN.
- Một nguyên nhân khá phổ biến khiến các ngân hàng từ chối các khoản cho vay đó là vấn đề lập dự án và phương án sử dụng vốn vay của doanh nghiệp.
Do chưa có kinh nghiệm, trình độ năng lực khả năng vốn hạn chế nên các dự án của doanh nghiệp thường không tính toán đầy đủ các yếu tố cần thiết như chi phí, sử dụng công nghệ gì cho hợp lý, phát triển nhằm vào thị trường nào, triển khai vào thời điểm nào để đạt hiệu quả cao nhất…Điều này làm mất nhiều thời gian bổ sung, phê duyệt dự án, kiểm tra thẩm định dự án của ngân hàng. Trên thực tế khả năng lập dự án của các DNVVN còn rất yếu, mang nặng tính hình thức nên kết quả không đủ khả thi để có thể vay vốn từ ngân hàng.
- DNVVN thiếu hiểu biết đầy đủ quy trình cho vay của ngân hàng cũng là một cản trở trong việc tiếp cận vốn ngân hàng.
Khi xin vay vốn nhiều doanh nghiệp không thể đưa ra được các báo cáo tài chính như bảng cân đối kế toán, bảng thu nhập, dòng tiền…thể hiện công việc làm ăn của doanh nghiệp mình. Điều này gây khó khăn cho các ngân hàng trong việc tìm hiểu tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh thực sự của doanh nghiệp. Cũng từ đó các ngân hàng không có những thông tin số liệu cần thiết. Kết quả là các hồ sơ vay vốn của các DNVVN bắt buộc phải kéo dài thời gian để doanh nghiệp có thu thập những thông tin cần thiết đáp ứng yêu cầu của ngân hàng.
- DNVVN chưa đáp ứng được các yêu cầu của ngân hàng về tài sản đảm bảo.
Các ngân hàng thường yêu cầu tài sản đảm bảo có giá trị cao và thường là những bất động sản như đất nhà cửa…để đảm bảo cho khoản tín dụng. Nhiều doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn nhưng không đủ tài sản thế chấp hoặc có tài sản thế chấp nhưng không có đủ giấy tờ cần thiết chứng minh quyền sở hữu hợp pháp tài sản đó. Trong nhiều trường hợp các DNVVN không thể đáp ứng đủ điều kiện về tài sản thế chấp cho khoản tín dụng từ ngân hàng. Nhiều doanh nghiệp mới thành lập, uy tín chưa đủ, cơ sở vật chất thiếu thốn, tình hình tài chính chưa ổn định nên chưa thể đáp ứng được những yêu cầu từ phía ngân hàng.
- Bên cạnh đó, hầu hết các DNVVN chưa thực hiện hoạt động kế toán thống kê thường xuyên một cách nghiêm túc và đúng pháp luật.
Hoạt động hạch toán kế toán của nhiều doanh nghiệp chủ yếu dựa vào kinh nghiệm cá nhân, nhiều khi mang tính chất gia đình. Chế độ kiểm toán bắt buộc đã được đưa vào và áp dụng ở nhiều doanh nghiệp nhưng đa số các số liệu quyết toán và các báo cáo tài chính của doanh nghiệp lại chưa thực hiện chế độ này. Thực tế kinh doanh của doanh nghiệp và những con số trên sổ sách có sự khác biệt lớn, không phản ánh chính xác tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Điều này cũng gây những khó khăn cho ngân hàng khi tiến hành thẩm định xét duyệt cho doanh nghiệp vay.
- Còn có nhiều DNVVN làm ăn phi pháp, buôn lậu, lừa đảo làm ăn kiểu chộp giựt, trong quá trình kinh doanh thường chiếm dụng vốn của đối tác kinh doanh. Các doanh nghiệp như : công ty TNHH Minh Phụng, EPCO, công ty TNHH Thuận Hưng, Doanh nghiệp tư nhân Nam Phương, Công ty TNHH Traco…làm ăn thua lỗ không có khả năng thanh toán nợ ngân hàng, những cán bộ chủ chốt của công ty này như giám đốc, phó giám đốc, kế toán trưởng… thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Điều này tạo ấn tượng không tốt đối với các ngân hàng về đối tượng khách hàng này.
2. 3. 3. 3 Về môi trường vĩ mô
Hoạt động của các NHTM đặc biệt nhạy cảm và chịu tác động mạnh mẽ từ các thay đổi của nền kinh tế trong và ngoài nước. Một vài năm gần đây nền kinh tế nước ta cũng như các nước khác trong khu vực đứng trước những khó khăn nhất định như tình trạng thiểu phát kéo dài, hàng hoá sản xuất ra không tiêu thụ được, sự biến động liên tục của tỷ giá trên thị trường ngoại hối… Điều này đã gây nên những tác động rất lớn đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung và DNVVN nói riêng. Điều này như một phản ứng dây chuyền tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng và đặc biệt là hoạt động tín dụng.
- Luật Ngân hàng và Luật các Tổ chức tín dụng đã tạo ra hành lang pháp lý cho sự hoạt động của các NHTM. Tuy nhiên, giữa 2 luật này và các luật khác liên quan như Luật hình sự, dân sự, Luật đất đai, Luật doanh nghiệp, Luật thuế lại có những điểm chưa đồng bộ không đáp ứng kịp những diễn biến phức tạp trong hoạt động ngân hàng. Luật đất đai liên quan đến tài sản thế chấp, cầm cố, Luật dân sự liên quan đến xử lý tài sản đảm bảo tiền vay, Pháp lệnh phá sản lại không bảo vệ quyền lợi của ngân hàng. Nhiều trường hợp quan hệ tín dụng bị hình sự hoá khi xảy ra rủi ro.
- Trong cơ chế cho vay do NHNo ban hành không có sự phân biệt đối với các thành phần kinh tế, nhưng trong thực tế, các quy định về bảo đảm tiền vay lại là những cản trở chủ yếu đối với khu vực kinh tế tư nhân khi tiếp cận nguồn vốn ngân hàng. Nghị định về đảm bảo tiền vay quy định khách hàng khi vay vốn ngân hàng phải có tài sản thế chấp có nguồn gốc xác định. Tài sản thế chấp của các DNVVN chủ yếu là đất đai nhà xưởng. Nhưng tài sản này lại chưa được các cơ quan có thẩm quyền cấp chứng nhận sở hữu cho chủ tài sản đó. Vì vậy ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn khi xem xét và xử lý tài sản thế chấp.
- Từ hơn 10 năm qua The Heritage Foudation, một viện nghiên cứu hàng đầu nước Mỹ được thành lập từ năm 1973 đã cùng Wall Street Jounal tiến hành nghiên cứu tình hình tự do kinh doanh trên thế giới, cụ thể 155 nước trong đó có Việt Nam đã đưa ra nhận xét: Các ngân hàng của Việt Nam chưa tham gia Hiệp ước Basel về vốn, không được kiểm toán bởi các công ty kiểm toán tên tuổi và vẫn còn hướng quá nhiều đến lĩnh vực Nhà nước. Chính phủ vẫn có ảnh hưởng lớn tới việc cho vay “ít nhất 2/3 các khoản tín dụng ngân hàng được rót cho các xí nghiệp quốc doanh”.
2. 4 Kết luận :
Qua các phân tích trên có thể thấy khu vực DNVVN là một khu vực khách hàng đầy tiềm năng của ngân hàng, tuy nhiên vẫn còn rất nhiều nguyên nhân hạn chế khả năng tiếp cận tín dụng ngân hàng của các DNVVN. Những nguyên nhân này có thể xuất phát từ các yếu tố của môi trường kinh tế, từ chính bản thân các doanh nghiệp và ngân hàng. Điều này đòi hỏi phải đưa ra các giải pháp và kiến nghị cần thiết giúp các DNVVN nâng cao khả năng tiếp cận nguồn tín dụng của ngân hàng và cũng đồng thời giúp ngân hàng khai thác có hiệu quả thị trường đầy tiềm năng này. Đây cũng chính là nội dung cơ bản của chương III : Giải pháp mở rộng tín dụng đối với DNVVN của NHNo Tây Hà nội.
Chương III
Giải pháp mở rộng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại NHNo Tây Hà Nội
3. 1 Định hướng hoạt động tín dụng của NHNo Tây Hà nội trong thời gian tới
3. 1. 1 Định hướng hoạt động kinh doanh của ngân hàng
Bước sang năm 2004, thời điểm Việt Nam gia nhập WTO và thực hiện AFTA đã tới gần, các biện pháp bảo hộ phi thuế quan dần dần bị xoá bỏ, gây sức ép rất lớn đối với các doanh nghiệp sản xuất trong nước đặc biệt là khu vực DNVVN. Bên cạnh đó trên thị trường tài chính cũng diễn ra cuộc cạnh tranh gay gắt giữa các NHTM, các tổ chức tài chính, các ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam khi các ngân hàng này được thực hiện đầy đủ các hoạt động nghiệp vụ của một ngân hàng. Đây chính là những khó khăn và thách thức đối với hoạt động của các NHTM nước ta trong thời gian tới.
Đứng trước tình hình mới, với những kết quả đạt được trong năm 2003, cùng với hướng phát triển chung của toàn bộ hệ thống NHNo. Ban lãnh đạo NHNo Tây Hà nội đã đề ra những hướng triển khai cho hoạt động của ngân hàng trong thời gian tới.
+ Nghiên cứu nắm chắc tình hình kinh tế xã hội của đất nước, xu hướng biến động của từng nghành nghề sản xuất kinh doanh, đưa ra những chính sách phù hợp với từng thời kỳ, tránh những ảnh hưởng xấu có tính chu kỳ của nền kinh tế.
+ Mục tiêu hoạt động chủ đạo trong thời gian tới của ngân hàng là hướng tới khách hàng, phát triển khối khách hàng mới.
+ Nâng cao khả năng huy động vốn đồng thời cơ cấu nguồn vốn hợp với nhu cầu sử dụng, phấn đấu đạt tỷ lệ tăng trưởng nguồn 30-40% so với năm trước. Bên cạnh các nguồn tiền gửi của các tổ chức tín dụng tập trung khai thác nguồn tiền gửi của các doanh nghiệp, tổ chức xã hội và nguồn tiền gửi tiết kiệm của dân cư.
+ Mở rộng hoạt động tín dụng đi đôi với đảm bảo chất lượng tín dụng. Mục tiêu trong năm là đạt tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng đạt 15- 25 % so với năm trước. Nâng cao chất lượng thẩm định và quản lý nợ.
+ Tỷ lệ nợ quá hạn dưới 1% trong tổng dư nợ.
+ Đảm bảo kinh doanh có lãi, đảm bảo quỹ tiền lương theo quy định.
+ Tỷ trọng thu dịch vụ trong tổng thu chiếm 15%.
+ Nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ ngân hàng.
3. 1. 2 Định hướng hoạt động tín dụng
+ áp dụng đa dạng các hình thức cho vay phù hợp với yêu cầu của từng loại hình doanh nghiệp, đơn giản và thuận tiện trong các thủ tục cho vay vốn nhưng vẫn đảm bảo đầy đủ các bước của quy trình cho vay, đảm bảo các nguyên tắc tín dụng.
+ Nâng cao hiệu lực công tác điều hành bằng các quy trình quy chế nghiệp vụ, bám sát chỉ tiêu định hướng của NHNo &PTNT Việt Nam để chỉ đạo thực hiện, tăng cường mở rộng tín dụng đi đôi với chất lượng tín dụng.
+ Mở rộng tín dụng đối với các DNVVN làm ăn có hiệu quả, các doanh nghiệp có uy tín trong quan hệ tín dụng với ngân hàng, đặc biệt là các doanh nghiệp “ vệ tinh” của các DNL, thu hút họ về giao dịch tại ngân hàng.
+ Bước đầu có nghiên cứu đối thủ cạnh tranh, tìm ra điểm mạnh, điểm yếu của họ, từ đó đưa ra chiến lược cạnh tranh phù hợp với hoạt động tín dụng của chi nhánh.
3. 2 Một số giải pháp mở rộng tín dụng đối với các DNVVN tại NHNo Tây Hà nội
3. 2. 1 Đối với NHNo Tây Hà Nội
3. 2. 1. 1 Tạo lập một chính sách tín dụng đối với DNVVN phù hợp với yêu cầu mở rộng tín dụng.
Như đã phân tích tại chương II một trong những nguyên nhân khiến tỷ trọng dư nợ đối với các DNVVN tại ngân hàng còn thấp là do ngân hàng chưa có chính sách cho vay hướng tới đối tượng khách hàng này. Một cơ chế chính sách tín dụng phù hợp sẽ tạo điều kiện dễ dàng hơn cho các DNVVN trong việc vay vốn ngân hàng cụ thể:
+ Về chính sách lãi suất : Đối với khách hàng là các DNVVN tâm lý chung của ngân hàng là các khoản tín dụng đó có tỷ lệ rủi ro cao hơn đối với khách hàng là những DNL, do đó mức lãi suất mà ngân hàng áp dụng đối với các DNVVN thường cao hơn so với DNL. Tuy nhiên ngân hàng cũng không nên chỉ quy định một mức lãi suất cứng nhắc cho mọi đối tượng khách hàng là các DNVVN, thay vào đó ngân hàng có thể đưa ra các mức lãi suất khác nhau áp dụng cho các ngành nghề kinh doanh khác nhau và căn cứ vào từng đối tượng DNVVN cụ thể.
+ Về phương thức cho vay : Trong quy chế cho vay do NHNN ban hành và trong các văn bản hướng dẫn thực hiện của NHNo&PTNTVN, đều có quy định: Trên cơ sở nhu cầu sử dụng từng khoản vốn vay của khách hàng, độ tín nhiệm của khách hàng sử dụng vốn vay ngân hàng, ngân hàng thoả thuận với khách hàng về lựa chọn phương án cho vay, quy chế này cho phép ngân hàng lựa chọn phương thức cho vay phù hợp với từng đặc điểm của khách hàng. Hiện nay tại NHNo Tây Hà Nội việc cho vay các DNVVN chủ yếu thực hiện theo phương thức vay từng lần, gây hạn chế đối với khả năng mở rộng tín dụng đối với các DNVVN của ngân hàng. Do đó ngân hàng nên mạnh dạn áp dụng nhiều phương thức cho vay hơn như cho vay theo hạn mức tín dụng đối với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh ổn định, vay vốn trả nợ thường xuyên và có tín nhiệm với NH.
+ Về thời hạn tín dụng: Việc xác định thời hạn tín dụng không chỉ căn cứ vào mục đích vay vốn mà đối với các DNVVN cần thiết phải căn cứ vào chu kỳ sản xuất, thời hạn thu hồi vốn của dự án đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng và nguồn vốn cho vay của NH
+ Thực hiên chính sách ưu đãi tín dụng đối với những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, có uy tín, các doanh nghiệp đang có nhiều triển vọng phát triển, được Nhà nước khuyến khích hỗ trợ phát triển. Trong quan hệ làm ăn với ngân hàng có những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả có uy tín thể hiện trong việc thường xuyên hoàn trả cả vốn và lãi ngân hàng đầy đủ đúng thời hạn quy định. Bên cạnh đó có những doanh nghiệp tuy chưa có quan hệ làm ăn lâu dài với ngân hàng nhưng đang hoạt động trong những lĩnh vực ngành nghề đang được Nhà nước, các tổ chức kinh tế khuyến khích và hỗ trợ phát triển như các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dệt, may mặc, thủ công mỹ nghệ xuất khẩu…Ngân hàng nên có những chính sách ưu đãi tín dụng cụ thể đối với những khách hàng này. Chính sách ưu đãi tín dụng có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như cho vay với lãi xuất thấp hơn so với các khách hàng khác, các điều kiện về tài sản thế chấp được nới lỏng hơn, giá trị khoản vốn cho vay được đánh giá sát với giá trị của tài sản thế chấp hơn…
+ Thành lập quỹ riêng để cho vay các DNVVN : Việc thành lập quỹ riêng để cho vay đối với các DNVVN sẽ tạo được nguồn vốn ổn định, chủ động đáp ứng được nhu cầu của DNVVN, đồng thời giúp cán bộ tín dụng yên tâm hơn trong việc cho vay các DNVVN. Thực tế hiện nay chỉ mới có ngân hàng Ngoại thương Việt Nam là đã thành lập quỹ này, quỹ được thành lập và do một phó tổng giám đốc phụ trách với một ban chỉ đạo riêng với quy mô 500 tỷ đồng chỉ phục vụ mục đích cho vay các DNVVN, NHNo Tây Hà Nội có thể học hỏi kinh nghiệm về việc thành lập quỹ và sử dụng quỹ này tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
3. 2. 1. 2 Cung cấp đa dạng các loại hình tín dụng đáp ứng nhu cầu vốn của các DNVVN.
Hiện nay hình thức cho vay chủ yếu của ngân hàng cho các doanh nghiệp là cho vay từng lần, phương thức cho vay này có ưu điểm là ngân hàng đảm bảo thu hồi vốn nhanh và dứt điểm từng khoản tín dụng. Tuy nhiên cũng có những nhược điểm như đối với cả doanh nghiệp mới hay doanh nghiệp đã có quan hệ tín dụng đối với ngân hàng trước đây đều phải thực hiện đầy đủ tất cả các quy trình vay vốn. Mỗi một lần vay vốn doanh nghiệp và ngân hàng lại phải tiến hành lập một bộ hồ sơ mới mất nhiều thời gian và tăng chi phí cho cả doanh nghiệp và ngân hàng. Do đó ngân hàng cần đa dạng nhiều hình thức cho vay một cách linh hoạt phù hợp với nhu cầu của từng doanh nghiệp khác nhau. Đối với những khách hàng có nhu cầu vay vốn thường xuyên phục vụ trực tiếp cho quá trình sản xuất kinh doanh ngân hàng nên cấp cho khách hàng một hạn mức tín dụng. Đối với các doanh nghiệp thương nghiệp hoặc doanh nghiệp sản xuất có chu kỳ tiêu thụ ngắn hạn, có quan hệ vay trả thường xuyên với ngân hàng nên áp dụng phương thức cho vay luân chuyển…
3. 2. 1. 3 Nâng cao chất lượng công tác phân tích, thẩm định khách hàng và dự án vay vốn, tránh việc phụ thuộc nhiều vào tài sản đảm bảo khi cho vay.
+ Nâng cao chất lượng công tác phân tích thẩm định khách hàng và dự án đầu tư: Có thể nói đây là bước quan trọng nhất trong quá trình cho vay đối với khách hàng, nó quyết định việc cho vay có hiệu quả hay không hiệu quả. Công tác này yêu cầu
- Nâng cao chất lượng phân tích thẩm định khách hàng: Hiện nay có một phương pháp đang phổ biến đó là sử dụng thang điểm tín dụng để đánh giá những DNVVN xin vay vốn ngân hàng. Theo phương pháp này ngân hàng sẽ xây dựng cho mình một bảng điểm tín dụng trong đó ngân hàng đặt ra các tiêu chí và cho điểm các DNVVN theo từng tiêu chí đó. Từ đó mỗi doanh nghiệp sẽ có một mức điểm tín dụng riêng. Sử dụng thang điểm cả ngân hàng và các DNVVN đều có lợi. Cụ thể
* Giảm chi phí và thời gian quyết định một khoản vay.
* Ngân hàng có thể cấp nhiều khoản vay hơn cho các DNVVN.
* Hạn chế được yếu tố chủ quan của con người trong việc thẩm định.
Phương pháp này cũng đã được áp dụng tại NHNo Tây Hà Nội với 5 chỉ tiêu là
1, Lợi nhuận sau thuế
- Doanh nghiệp có lãi 2 năm liền kề thời điểm vay vốn ( Kể cả doanh nghiệp lỗ được ngân sách cấp bù ) : 10 điểm
- Doanh nghiệp có lãi một năm hoặc hoà vốn : 5 điểm
- Doanh nghiệp lỗ : 0 điểm
2, Khả năng thanh toán ngắn hạn
Tổng tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn
Tỷ suất TTNH =
Tổng số nợ ngắn hạn
- Tỷ suất TTNH > 1 : 10 điểm
- Tỷ suất TTNH từ 0.5 đến 1 : 5 điểm
- Tỷ suất TTNH < 0.5 : 1 điểm
3, Quan hệ với NHNo&PTNT và các tổ chức tín dụng khác
- Không có nợ quá hạn : 10 điểm
- Có NQH từ 6 tháng trở xuống : 5 điểm
- Có trên 6 tháng hoặc dưới 6 tháng nhưng khó đòi : 0 điểm
4, Tỷ lệ vốn chủ sở hữu/Tổng nguồn vốn
- Trên 30% : 10 điểm
- Từ 10-30%: 5 điểm
- Dưới 10%: 0 điểm
5, Doanh thu
- Doanh thu lớn hơn hoặc bằng năm trước liền kế: 10 điểm
- Doanh thu nhỏ hơn năm trước liền kề: 0 điểm
Sau đó cộng các chỉ tiêu để xếp loại doanh nghiệp.
- Doanh nghiệp được từ 40-50 điểm : Loại A
- Doanh nghiệp được từ 25-39 điểm : Loại B
- Doanh nghiệp từ 24 điểm trở xuống : Loại C
Tuy nhiên để xác định một thang điểm hợp lý, đòi hỏi ngân hàng phải tổng hợp được một dữ liệu thông tin dồi dào và chuẩn xác, vì vậy đây là một biện pháp có hiệu quả nhưng chỉ có thể thực hiện trong thời gian dài hạn, trước mắt ngân hàng cần tập trung nâng cao trình độ của cán bộ tín dụng trong thẩm định.
+ Nâng cao chất lượng phân tích và thẩm định tài chính dự án đầu tư, phương án vay vốn:
Việc này đòi hỏi thực hiện trên hai phương diện:
- Thẩm định hiệu quả và tính khả thi của phương án vay vốn và trả nợ:
Tính khả thi của dự án của kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là điều kiện quan trọng để ngân hàng xem xét cho vay. Trước hết cán bộ thẩm định phải được trang bị những kiến thức cơ bản về lĩnh vực sản xuất kinh doanh của dự án đó, cũng như các quy định của Nhà nước liên quan đến lĩnh vực đầu tư và kỹ năng thẩm định dự án. Do đó họ cần phải được cập nhật thường xuyên những quy định của Nhà nước về các vấn đề như: Quy định và chế độ tài chính đối với từng loại hình doanh nghiệp, quy định về chế độ khấu hao tài sản cố định, chính sách hỗ trợ phát triển…để có thể phân tích và đưa ra những quyết định chính xác.
- Phân tích và dự báo ảnh hưởng của môi trường kinh doanh đến phương án vay vốn:
Khi lập một dự án hay một kế hoạch sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có thể đã tính toán các yếu tố tác động từ bên ngoài, tuy nhiên vẫn luôn tồn tại những tác nhân bất ngờ làm thực tế hoạt động sai khác so tính toán. Vì vậy trong quá trình thẩm định cán bộ tín dụng cần chú trọng đến công tác phân tích và dự báo ảnh hưởng của môi trường kinh doanh đến phương án vay vốn của khách hàng. Cụ thể như việc phân tích các chỉ số kinh tế vĩ mô cơ bản của đất nước, sự thay đổi của hệ thống pháp luật, chính sách vĩ mô trong thời gian cho vay…
+ Về đảm bảo tiền vay:
Hiện nay vấn đề tài sản thế chấp là một khó khăn lớn đối với các DNVVN trong việc tiếp cận nguồn vốn ngân hàng. Thông thường các ngân hàng thường quan tâm đến giá trị của tài sản thế chấp và tính pháp lý của tài sản đó có đầy đủ hay không, tuy nhiên việc sở hữu một tài sản thế chấp có giá trị với đầy đủ tính hợp pháp của nó cũng chưa phải là một đảm bảo chắc chắn cho khả năng vay vốn của doanh nghiệp. Nguyên nhân là vấn đề xử lý tài sản thế chấp tại nước ta hiện nay vẫn còn nhiều bất cập gây cho ngân hàng rất nhiều khó khăn trong việc thu hồi vốn khi các doanh nghiệp làm ăn không có hiệu quả, không có khả năng trả nợ ngân hàng. Do đó ngân hàng không nên đưa vấn đề tài sản thế chấp là điều kiện quan trọng nhất và có ý nghĩa quyết định đến khả năng vay vốn của doanh nghiệp mà điều cần quan tâm chính là hiệu quả hoạt động kinh doanh của đơn vị, tính khả thi và tương lai của dự án…
+ Hình thức cho vay không có tài sản đảm bảo hiện nay rất được quan tâm là hình thức cho vay tín chấp.
Đối với hình thức này ngân hàng có thể dựa trên uy tín và kết quả hoạt động thực tế của doanh nghiệp, có thể mạnh dạn áp dụng hình thức cho vay tín chấp đối với các doanh nghiệp tạo được uy tín đối với ngân hàng, các doanh nghiệp được sự bảo lãnh của các DNL, hay đang là doanh nghiệp vệ tinh của các DNL…Tuy nhiên trong các trường hợp trên các DNVVN phải có đủ số liệu thực tế để chứng minh tình hình tài chính của mình là lành mạnh, có tài sản cố định và tài sản lưu động đủ lớn, hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường đang ổn định và có hiệu quả
3. 2. 1. 4 Thực hiện chính sách Marketing trong việc tiếp cận các DNVVN
Như đã trình bày ở trên nhiều DNVVN còn thiếu thông tin về các chính sách tín dụng của ngân hàng, thông tin về các hình thức cho vay ngân hàng đang áp dụng, lãi suất, thời hạn…tất cả những yếu tố này tạo nên một lực cản lớn khi các DNVVN muốn tìm đến ngân hàng xin vay vốn. Để giải quyết vấn đề này đòi hỏi ngân hàng phải áp dụng các biện pháp Marketing cụ thể như
+ Chủ động tìm kiếm khách hàng:
Quan niệm trước đây cho rằng doanh nghiệp tự lựa chọn và tìm đến ngân hàng khi có nhu cầu về vốn, phần việc của ngân hàng là thực hiện quan hệ tín dụng với những khách hàng tìm đến với mình. Tuy nhiên trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh mạnh mẽ như hiện nay, quan niệm này không thể tồn tại được nữa bởi nếu không tự đi tìm khách hàng thị phần ngân hàng sẽ rất khó đứng vững và phát triển do bị các đối thủ cạnh tranh chiếm lĩnh. Vì vậy ngân hàng cần phải chủ động tìm kiếm khách hàng. Cụ thể
- Ngân hàng có thể lên danh sách, liệt kê tất cả các DNVVN đã mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng. Từ đó xác định rõ doanh nghiệp nào đã có quan hệ làm ăn tín dụng với ngân hàng, doanh nghiệp nào chưa có quan hệ tín dụng. Đối với những doanh nghiệp chưa có quan hệ tín dụng, ngân hàng nên cử cán bộ tín dụng tìm hiểu những vấn đề của doanh nghiệp như
Tình hình hoạt động của doanh nghiệp
Doanh nghiệp có đang quan hệ tín dụng đối với NHTM nào không
Vì sao doanh nghiệp không đặt vấn đề tín dụng đối với ngân hàng
- Thông qua đó cán bộ tín dụng có thể tham mưu cho ban lãnh đạo hướng đầu tư phù hợp với từng doanh nghiệp.
+ Quảng cáo trên các phương tiện báo, tạp chí, ti vi, Internet…
Đây là hình thức quảng cáo tương đối hiệu quả và có chi phí thấp, thông qua đó các sản phẩm dịch vụ chính sách của ngân hàng nhanh chóng đến được với khách hàng giúp họ nắm bắt được những thông tin cần thiết. Một trong những xu hướng hiện nay là việc các ngân hàng thành lập các trang Web riêng trên mạng Internet và thực tế là hiệu quả tuyên truyền của các ngân hàng này tăng lên rõ rệt. NHNo Tây Hà Nội cũng cần nhanh chóng lập một trang Web riêng của ngân hàng trên mạng nhằm phục vụ có hiệu quả hơn hoạt động tuyên truyền và quảng bá về hình ảnh của ngân hàng.
+ Trực tiếp tiếp cận khách hàng
Hoạt động này cần được thực hiện thường xuyên mọi lúc mọi nơi. Các cán bộ ngân hàng khi đi tham dự các hội thảo các chuyên đề cần tranh thủ làm quen với các doanh nghiệp giới thiệu cho họ về ngân hàng …Tổ chức các hội nghị khách hàng qua đó thu thập được những thông tin phản hồi từ phía khách hàng, lấy ý kiến của các doanh nghiệp về những khó khăn của họ trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng, từ đó đưa ra những điều chỉnh cần thiết, đáp ứng tốt hơn những yêu cầu từ phía khách hàng.
3. 2. 1. 5 Coi trọng công tác bồi dưỡng đào tạo cán bộ.
Trong xu hướng hiện đại hoá các NHTM hiện nay, bằng việc áp dụng công nghệ thông tin vào trong hệ thống ngân hàng, cũng như việc xuất hiện những máy móc hiện đại có thể thay thế một số hoạt động của con người như máy rút tiền tự động ATM…Con người vẫn luôn luôn là yếu tố quan trọng nhất, có ý nghĩa quyết định đến thành công hay thất bại trong mọi hoạt động của ngân hàng. Đặc biệt đối với hoạt động tín dụng thì vai trò của cán bộ tín dụng lại càng thể hiện rõ nét hơn. Do tính chất công việc của hoạt động tín dụng đòi hỏi cán bộ tín dụng phải trực tiếp tham gia vào toàn bộ quá trình từ thẩm định tín dụng, quyết định cho vay, thu hồi nợ, kiểm tra, kiểm soát …
Thực tế các dự án của các DNVVN thường rất đa dạng, thuộc nhiều lĩnh vực ngành nghề khác nhau. Một số doanh nghiệp chưa có thói quen cũng như khả năng lập một phương án sản xuất kinh doanh mà thực hiện tới đâu thì lo tới đó nên rất cần có sự giúp đỡ của cán bộ tín dụng. Điều này đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có một kiến thức tổng hợp về nhiều lĩnh vực khác nhau, có khả năng phân tích các thông tin tư vấn, đưa ra các đánh giá và các quyết định chính xác.
Trước những yêu cầu đó, ngân hàng cần phải luôn coi trọng công tác đào tạo kiến thức chuyên môn, nâng cao tính năng động sáng tạo và đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ tín dụng. Các lớp tập huấn cần được tổ chức thường xuyên và luôn cập nhật những thông tin mới nhất về chính sách, pháp luật các thông tin thị trường cần thiết cho cán bộ tín dụng, đáp ứng được yêu cầu phát triển của ngân hàng nói chung cũng như yêu cầu của việc mở rộng tín dụng đối với các DNVVN nói riêng.
3. 3 Một số kiến nghị
3. 3. 1 Đối với các DNVVN
3. 3. 1. 1 Nâng cao trình độ quản lý
Các chủ DNVVN cần trang bị cho mình những kiến thức, kinh nghiệm thực tế về thị trường về hoạt động sản xuất kinh doanh, về đối thủ cạnh tranh đặc biệt là phải nâng cao trình độ hiểu biết về các quy định của ngnàh ngân hàng cũng như các văn bản pháp luật khác có liên quan đến hoạt động tín dụng. Trình độ quản lý của chủ doanh nghiệp còn thể hiện ở khả năng và kĩ năng phân tích và tổng hợp các yếu tố tác động đến tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, khả năng lập các báo cáo tài chính, lập kế hoạch, chiến lược phát triển riêng cho doanh nghiệp…Do vậy các DNVVN đặc biệt là các chủ doanh nghiệp cần được trang bị đầy đủ những kiến thức về chuyên môn, trình độ quản lý thông qua các khoá đào tạo dưới nhiều hình thức như chính quy, đào tạo từ xa.
3. 3. 1. 2 Thực hiện các phương án kinh doanh có tính khả thi cao
Phương án kinh doanh có tính khả thi cao sẽ giúp doanh nghiệp dễ dàng vay vốn ngân hàng hơn, thông qua tính khả thi và hiệu quả của dự án minh chứng cho khả năng thu hồi được vốn đầu tư và có lãi để trả nợ ngân hàng. Thực tế khi các doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc đáp ứng các yêu cầu của ngân hàng về tài sản thế chấp thì việc chuẩn bị một phương án kinh doanh có tính khả thi cao sẽ làm tăng khả năng được vay vốn của doanh nghiệp. Một dự án có tính khả thi cao có thể là những dự án đang được Nhà nước, các tổ chức kinh tế, xã hội ủng hộ khuyến khích và tạo điều kiện phát triển. Thực hiện các phương án kinh doanh có tính khả thi và hiệu quả cao thực chất cũng là một điều kiện đảm bảo cho việc sử dụng nguồn vốn một cách có hiệu quả.
3. 3. 1. 3 Nắm vững chính sách cho vay của NH
Một trong những nguyên nhân hạn chế khả năng tiếp cận nguồn tín dụng của các DNVVN chính là việc họ chưa hiểu một cách đầy đủ về các quy trình, trình tự và các thủ tục cần thiết để có thể vay vốn ngân hàng. Trước khi một khoản tín dụng được ngân hàng quyết định cấp cho khách hàng nó phải trải qua một quy trình cụ thể, từ phân tích trước khi cấp tín dụng đến xây dựng và ký kết hợp đồng kinh tế, giải ngân và kiểm soát tín dụng…Khâu phân tích tín dụng là việc tìm hiểu và đánh giá khách hàng chiếm nhiều thời gian và cần có sự hợp tác chặt chẽ giữa ngân hàng và khách hàng. Việc hiểu biết về quy trình cho vay sẽ giúp doanh nghiệp chuẩn bị đầy đủ những thông tin cần thiết đáp ứng yêu cầu của ngân hàng. Từ đó rút ngắn thời gian xin vay vốn, tiết kiệm chi phí cho doanh nghiệp và đảm bảo lợi thế về thời gian cho doanh nghiệp trong việc chớp lấy những cơ hội kinh doanh.
3. 3. 1. 4 Hoàn thành thủ tục pháp lý cho tài sản thế chấp
Thông thường tài sản thế chấp được các doanh nghiệp sử dụng để xin vay vốn ngân hàng thường là các bất động sản chủ yếu là đất đai, nhà xưởng…tài sản lưu động thực tế hiếm khi được các ngân hàng dùng chấp nhận là tài sản thế chấp. Có một thực tế là có rất nhiều bất động sản thuộc sở hữu của doanh nghiệp nhưng các ngân hàng vẫn không thể chấp nhận là tài sản thế chấp do tính chất pháp lý của các tài sản đó chưa đầy đủ theo quy định. Một tài sản có đầy đủ tính chất pháp lý là yêu cầu của ngân hàng nhằm đảm bảo cho khả năng thu hồi được vốn cho ngân hàng khi các doanh nghiệp không thể trả được nợ. Do đó các doanh nghiệp cần chú trọng đến việc hoàn thành các thủ tục pháp lý cần thiết cho các bất động sản như chứng nhận quyền sử dụng đất, máy móc thiết bị nhà xưởng…đảm bảo tính pháp lý của các tài sản thế chấp.
3. 3. 1. 5 Hoàn thiện công tác kế toán
Các báo cáo tài chính là những tư liệu quan trọng để ngân hàng xem xét về năng lực tài chính của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cần chú trọng đến việc thành lập các báo cáo tài chính theo đúng quy định, chế độ tài chính kế toán của Nhà nước. Các báo cáo tài chính khi gửi đến ngân hàng cần đầy đủ các thông tin cần thiết, số liệu đúng với thực tế, tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng trong việc thẩm định hồ sơ xin vay vốn của doanh nghiệp. Bên cạnh đó các DNVVN cũng nên ứng dụng tin học vào công tác kế toán đặc biệt là việc sử dụng các phần mềm kế toán.
3. 3. 1. 6 Tạo mối quan hệ làm ăn với các doanh nghiệp lớn
Các DNVVN nên tạo dựng mối quan hệ với các doanh nghiệp lớn thông qua các hợp đồng làm ăn. Với khả năng của mình các DNVVN có thể làm doanh nghiệp vệ tinh cho các doanh nghiệp lớn, là người cung cấp nguyên vật liệu, sản phẩm trung gian đầu vào hay nhận làm đại lý trung gian tiêu thụ phân phối sản phẩm đầu ra cho các DNL. Nhờ vào những mối quan hệ làm ăn này mà uy tín của DNVVN cũng tăng lên, tạo được niềm tin đối với ngân hàng. Hơn nữa trong một số trường hợp các DNVVN có thể vay vốn ngân hàng dưới sự bảo lãnh của các DNL.
3. 3. 2 Đối với NHNo&PTNT Việt Nam
+ Đưa ra một định hướng chiến lược về thị trường về khách hàng là các DNVVN, bổ xung hoàn thiện quy trình cho vay, quy chế cho vay phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội, phù hợp với đối tượng vay vốn có tính đặc thù như DNVVN.
+ Nghiên cứu và ban hành một cơ chế lãi suất trong hệ thống NHNo linh hoạt, tăng tính chủ động của các ngân hàng chi nhánh trong việc đưa ra mức lãi suất cho vay, khuyến khích việc mở rộng hoạt động tín dụng trên địa bàn.
+ Thực hiện thường xuyên công tác đào tạo nghiệp vụ kiến thức chuyên môn cho các cán bộ trong hệ thống NHNo nói chung và NHNo Tây Hà Nội nói riêng. Thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn chuyên đề như : thẩm định tín dụng, kế toán, thanh toán quốc tế…
+ Có chế độ khen thưởng rõ ràng, cho các đơn vị trực thuộc, thúc đẩy các đơn vị đó hoạt động hiệu quả hơn, tạo môi trường cạnh trạnh lành mạnh giữa các chi nhánh trực thuộc hoạt động trên cùng một địa bàn. Nghiên cứu chế độ khen thưởng đối với các cán bộ tín dụng công tác có hiệu quả mở rộng hoạt động tín dụng gắn liền với chất lượng tín dụng.
+ Tổ chức các buổi hội thảo chuyên đề về hoạt động tín dụng đối với DNVVN.
+ Phối hợp chặt chẽ với NHNN để tổ chức có hiệu quả chương trình thông tin tín dụng, nâng cao chất lượng và mở rộng phạm vi thông tin, giúp NHNo Tây Hà Nội phòng ngừa tốt nhất những rủi ro có thể xảy ra.
+ Hỗ trợ các chi nhánh trong hệ thống kinh phí thực hiện hiện đại hoá cơ sở, tăng tính cạnh tranh và nâng cao hiệu quả hoạt động.
3. 3. 3 Đối với Nhà nước và các cơ quan có liên quan
+ Tạo lập môi trường thuận lợi cho sự phát triển của các DNVVN
Môi trường kinh doanh tại Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập. Tại đó mỗi loại hình doanh nghiệp khác nhau có thể là doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân, hộ kinh doanh…được điều chỉnh bởi những luật khác nhau. Điều này thể hiện một sân chơi không thật sự công bằng đối với các doanh nghiệp. Việc tạo lập một môi trường thuận lợi cho sự phát triển của các DNVVN cần phải có sự kết hợp của nhiều yếu tố như chính sách, khung pháp lý, thái độ xã hội, vai trò ủng hộ của các hiệp hội kinh doanh, các nhà tài trợ, các dự án phát triển…Để giải quyết những khó khăn trên và thực sự tạo ra một môi trường thuận lợi cho hoạt động của các DNVVN cần thiết phải có sự quan tâm hơn của Nhà nước, chính phủ và các cơ quan chức năng có liên quan.
+ Xây dựng chiến lược phát triển cụ thể đối với khu vực DNVVN.
Nghi Định 90/2001 NĐ- CP do Chính phủ ban hành ngày 23/11/2001 về hỗ trợ phát triển các DNVVN là tiền đề quan trọng cho sự phát triển của các DNVVN. Tuy nhiên để tạo thuận lợi hơn nữa cho khu vực này thì cần phải có những chiến lược lâu dài ổn định và cụ thể. Chiến lược cần tập trung đưa ra hướng phát triển, quy hoạch cho từng ngành nghề, từng khu vực địa lý để phát tối đa những điểm mạnh và hạn chế mức thấp nhất điểm yếu các DNVVN.
- Ngoài ra vấn đề đào tạo nguồn nhân lực luôn là một khó khăn đối với các DNVVN, vì vậy các DNVVN rất cần đến sự hỗ trợ của các cơ quan có chức năng liên quan. Nghị định 90/2001/NĐ- CP đã nêu rõ “ Chính phủ trợ giúp kinh phí để tư vấn và đào tạo nguồn nhân lực cho các DNVVN thông qua các chương trình trợ giúp đào tạo”. Để thực hiện được điều này cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhiều cơ quan ban nghành chức năng đảm bảo nguồn ngân sách của Nhà nước được sử dụng đúng mục đích và phát huy được hiệu quả.
+ Nâng cao hiệu qủa hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng
Quỹ bảo lãnh tín dụng được thành lập theo Nghị định 9/2001/NĐ- CP và đã bước đầu phát huy được vai trò của một quỹ bảo lãnh tín dụng dành riêng cho các DNVVN. Tuy nhiên hoạt động của quỹ vẫn còn một số điểm cần khắc phục như:
- Về phí bảo lãnh tín dụng:
Theo quy định hiện nay DNVVN phải trả phí bảo lãnh tín dụng là 0.8%/năm tính trên số tiền được bảo lãnh, ngoài ra các đối tượng xin cấp bảo lãnh tín dụng phải nộp phí thẩm định hồ sơ là 50.000 cho một đơn xin cấp bảo lãnh tín dụng. Hai khoản phí này cộng với khoản lãi phải trả ngân hàng dẫn tới chi phí vốn vay lớn, gây không ít khó khăn cho các DNVVN. Vì vậy cần có biện pháp giảm chi phí bảo lãnh tín dụng từ đó việc hỗ trợ các DNVVN mới thực sự có ý nghĩa.
- Về công tác thẩm định hồ sơ xin cấp bảo lãnh tín dụng:
Sau khi ngân hàng thẩm định dự án, nếu dự án khả thi nhưng doanh nghiệp không có đủ tài sản thế chấp để vay vốn ngân hàng sẽ đề nghị doanh nghiệp xin cấp bảo lãnh tín dụng. Sau đó quỹ bảo lãnh tín dụng lại tiến hành thẩm định doanh nghiệp trước khi cấp bảo lãnh. Quá trình này mất nhiều thời gian và chi phí cho các bên thậm chí đối với các DNVVN có thể bỏ lỡ mất cơ hội làm ăn. Do đó nên cần có sự phối hợp giữa ngân hàng và quỹ bảo lãnh tín dụng nhằm giảm bớt tối đa thời gian thẩm định và cho vay đối với các DNVVN
+ Hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động tín dụng của các NHTM đối với các DNVVN
Vài năm gần đây đã có những tiến bộ đáng kể trong các văn bản pháp lý đối với việc cho vay các doanh nghiệp nói chung và các DNVVN nói riêng. Một số luật, văn bản liên quan dến hoạt động tín dụng của các NHTM có thể kể đến như Luật NHNN Việt Nam, Luật các tổ chức tín dụng, Luật dân sự, Sắc lệnh về các hơp đồng kinh tế…Những văn bản điều luật này đã có những thành công nhất định như: Giảm bớt sự phân biệt giữa các thành phần kinh tế khác nhau trong việc tiếp cận nguồn tín dụng; tăng tính tự chủ của các tổ chức tín dụng trong hoạt động cho vay; các ngân hàng đã chú trọng nhiều hơn đến hiệu quả tài chính của dự án và giảm bớt điều kiện về tài sản thế chấp. Tuy nhiên các chính sách này vẫn còn nhiều bất cập và chưa thực sự tạo điều kiện để các doanh nghiệp được vay vốn ngân hàng.
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế tín dụng ngân hàng phù hợp với đặc điểm của các DNVVN trên nguyên tắc nguồn vốn của ngân hàng được đảm bảo và nhu cầu vốn của các DNVVN được đáp ứng. Cơ chế tín dụng có những điều chỉnh tạo điều kiện các doanh nghiệp có tài sản thế chấp hay nguồn vốn nhỏ có thể tiếp cận được nguồn vốn của ngân hàng kết hợp với việc quy định rõ ràng về trách nhiệm.
Xúc tiến thành lập các quỹ hỗ trợ phát triển từ các nguồn của Ngân sách trung ương và địa phương. Thành lập các tổ chức cho thuê tài chính, các quỹ đầu tư mạo hiểm…tạo thêm các nguồn cung cấp vốn cho các DNVVN dưới nhiều hình thức khác nhau.
+ Hoàn thiện hệ thống thông tin tín dụng
Các nguồn thông tin mà NHTM có thể tiếp cận để thu thập những thông tin cần thiết về khách hàng là còn rất hạn hẹp do vậy mà rủi ro tín dụng vẫn còn cao. Để có thể hỗ trợ NHTM trong việc thu thập tìm kiếm thông tin tín dụng, cần thiết phải nâng cao hiệu quả hoạt động của trung tâm thông tín dụng CIC từ khâu nhập dữ liệu, cung cấp số liệu, bảo đảm thông tin kịp thời và chính xác. Bên cạnh đó cần có sự kết hợp chặt chẽ và đảm bảo tăng cường mối quan hệ thông tin hai chiều giữa ngân hàng và trung tâm thông tin tín dụng CIC.
Kết Luận
Nhận thức được sự phát triển và tiềm năng của các DNVVN, trong tương lai các doanh nghiệp này sẽ là đối tượng khách hàng cạnh tranh gay gắt giữa các TCTD. Trong thời gian qua, các NHTM đều có chủ trương đẩy mạnh cho vay các DNVVN với mục đích mở rộng thị phần, tăng trưởng tín dụng, và cung cấp các dịch vụ, tăng thu nhập. NHNo Tây Hà Nội cũng không nằm ngoài xu hướng đó.
Nghiên cứu các giải pháp nhằm mở rộng hoạt động tín dụng là một vấn đề phức tạp, với phạm vi nghiên cứu rộng, và có liên quan nhiều nghành, nhiều cấp. Tuy vậy với khả năng và phương pháp tổng hợp nghiên cứu lý thuyết, bài luận văn của em đã hoàn thành được một số nhiệm vụ sau:
- Phân tích về mặt lý thuyết những vấn đề cơ bản vai trò tín dụng ngân hàng đối với DNVVN.
- Phân tích và chứng minh thực trạng hoạt động tín dụng của NHNo Tây Hà Nội đối với DNVVN.
- Đề ra những quan điểm, phương hướng, biện pháp và điều kiện chủ yếu có tính khả thi nhằm mở rộng hoạt động tín dụng của NHNo Tây Hà Nội đối với DNVVN.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn cô giáo Th.s Lê Thanh Tâm đã hướng dẫn em thực hiện luận văn, các anh chị phòng Kinh doanh NHNo Tây Hà Nội, và bạn bè lớp NH42B Trường ĐH Kinh tế quốc dân đã giúp đỡ em hoàn thành bài luận văn này.
Hà Nội: Tháng 6 - 2004
Sinh viên
Trịnh Minh Việt
Danh Mục tàI Liệu tham Khảo
Frederic S.Mishkin, Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính
Peter S.Rose , Quản trị ngân hàng thương mại, NXB. Tài chính
TS. Phan Thị Thu Hà- TS. Nguyễn Thị Thu Thảo, Ngân hàng thương mại quản trị và nghiệp vụ. NXB Thống kê, năm 2003
TS .Nguyễn Hữu Tài. Lý thuyết tài chính –tiền tệ. NXB Thống kê, năm 2002
TS. Lưu Thị Hương , Tài chính doanh nghiệp. NXB Thống kê, năm 2002
TS. Nguyễn Thị Minh Hiền, Marketing ngân hàng. NXB Thống kê, năm 2003
Nghị định số 90/2001/NĐ-CP về trợ giúp DNVVN.
Quyết định số 193/2001/QĐ-Ttg về việc ban hành quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNVVN.
Quyết định số 1963/NHNo về việc phân loại doanh nghiệp.
Quy chế cho vay đối với khách hàng của các tổ chức tín dụng.
Báo cáo kết quả kinh doanh hàng tháng của NHNo Tây Hà Nội 2003-2004.
Báo cáo cập nhật về tình hình phát triển và cải cách kinh tế của Việt Nam –Hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam 12/2003.
Tạp chí ngân hàng, tạp chí tài chính, tạp chí tài chính doanh nghiệp, thời báo kinh tế, tạp chí nghiên cứu kinh tế…năm 2000-2003.
Nhận xét của giáo viên hướng dẫn
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
Nhận xét của đơn vị thực tập
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28716.doc