Việc nâng cao chất lượng tín dụng không chỉ là sự nỗ lực của cả hệ thống ngân hàng mà còn là sự quan tâm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, của các cấp Chính quyền, các bộ, ban, ngành và là sự trợ giúp, tạp điều kiện thuận lợi của các thành phần kinh tế, các tầng lớp nhân dân. Có như vậy, chúng ta mới đẩy nhanh tiến độ hội nhập vào hệ thống tài chính trên khu vực và trên thế giới.
63 trang |
Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1352 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Sở Giao dịch Ngân hàng Công thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n 44% trong khi tỷ trọng của dư nợ cho vay trung và dài hạn thì đang tăng lên từ 20% năm 1999, 2000 lên 56% vào cuối năm 2001, tăng gần gấp 3 lần các năm 1999, 2000. Như vậy là Sở Giao Dịch NHCT VN đang tăng cường cho vay trung và dài hạn nhằm mục tiêu đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trên địa bàn. Đây là sự chuyển hướng rất đúng đắn, nó vừa tạo ra thị trường tiềm năng của vốn lưu động lại vừa mang lại thu nhập cao cho Ngân hàng. Việc mở rộng thị trường tín dụng trung và dài hạn góp phần hình thành và hoạt động mạnh của thị trường vốn tín dụng ngắn hạn sau này.
- Nếu phân theo thành phần kinh tế thì tỷ trọng cho vay đối với kinh tế quốc doanh luôn chiếm ưu thế. Năm 1999, dư nợ kinh tế quốc doanh là 586 tỷđồng chiếm tỷ trọng 86%; năm 2000 chiếm tỷ trọng là 80% và năm 2001 tăng lên 91 % trong khi dư nợ kinh tế ngoài quốc doanh rất thất thường và chiếm tỷ trọng thấp: năm 1999 là 14%, năm 2000 là 20% sang đến năm 2001 giảm xuống chỉ còn 9% trên tổng dư nợ. Sở dĩ dư nợ cho vau đối với kinh tế ngoài quốc doanh tăng, giảm thất thường như vậy là do hoạt động của kinh tế ngoài quốc doanh mang nặng tính thời vụ và theo hình thức “đánh quả”. Chỉ khi nào có cơ hội và điều kiện thuận lợi thì họ mới có nhu cầu vay vốn Ngân hàng. Một nguyên nhân khác nữa là so Sở Giao Dịch NHCT VN đã tổ chức tốt công tác thu nợ đến hạn và quá hạn đối với kinh tế ngoài quốc doanh.
Nếu phân theo lĩnh vực cho vay thì hai ngành có số dư nợ lớn nhất là ngành Giao thông - vận tải và thương nghiệp trong đó ngành Giao thông - vân tải chiếm tỷ trọng là 47%vào năm 1999, 35% năm 2000 và 56% năm 2001. Ngành thương nghiệp chiếm tỷ trọng cao nhất là 36% năm 2000, còn hai năm 1999 và 2001 đều chiếm tỷ trọng 31%. Hai ngành công nghiệp và xây dựng có chiều hướng giảm xuống chỉ chiếm tỷ trọng 12.2% và 0.8% vào cuối năm 2001.
- Nếu phân theo chất lượng tín dụng thì tỷ trọng nợ trung hạn rất cao chiếm tỷ trọng 93% năm 1999; 97% năm 2000 và 89% năm 2001. Nợ quá hạn đến cuối 2001 tăng lên 11% trong khi 2000 tỷ lệ nợ quá hạn chỉ có 3%. Tổng dư nợ quá hạn 2001 là 95 tỷ trong đó quốc doanh là 83 tỷ chiếm tỷ trọng 9,8% tăng thêm 7,4% so với 2000; nợ quá hạn ngoài quốc doanh là 12 tỷ chiếm tỷ trọng 1,3% thấp hơn 0,3% so với 2000. Như vậy, tình hình nợ quá hạn đối với kinh tế ngoài quốc doanh thì giảm đi trong khi dư nợ quá hạn đối với kinh tế quốc doanh tăng rất cao, điều đó là do một số khách hàng của Sở Giao dịch kinh doanh bị thua lỗ, bị lừa đảo trong kinh doanh, hàng hóa tồn kho không tiêu thụ được.
+ Công ty Vật liệu xây dựng và lâm sản: Nợ quá hạn 43,025 tỷ do một phần bị lừa đảo không có khả năng thanh toán, ngân hàng buộc phải chuyển nợ quá hạn toàn bộ số nợ vay.
+ Công ty Đầu tư và phát triển Hà Nội: Nợ quá hạn 23,597 tỷ do sử dụng vốn sai mục đích, hàng hóa thép đặc chủng khó tiêu thụ.
+ Công ty Vật tư ngành In: Nợ quá hạn 6,797 tỷ do kinh doanh thua lỗ...
Như vậy có hai điểm nổi bật trong kinh doanh tín dụng năm 2001 của Sở Giao dịch Ngân hàng Công thương Việt Nam là:
Dư nợ cho vay trung và dài hạn chiếm tỷ trọng lớn và cao hơn 12% so với dư nợ cho vay ngắn hạn.
Nợ quá hạn tăng nhanh với tốc độ là 280% và chủ yếu tập trung ở kinh tế quốc doanh.
3. Tình hình kinh doanh đối ngoại.
3.1. Kinh doanh ngoại tệ:
Tình hình kinh doanh ngoại tệ, thanh toán quốc tế trong năm gặp rất nhiều khó khăn do Ngân hàng Nhà nước hai lần điều chỉnh tỷ giá tăng từ 7-10%. Trong khi đó khách hàng giao dịch tại Ngân hàng chủ yếu là khách hàng nhập do vậy việc cân đối ngoại tệ gặp rất nhiều khó khăn khi nguồn mua ngoại tệ khan hiếm. Do chính sách khách hàng nên ngân hàng đã phải ứng bán ngoại tệ và phải chịu lỗ tỷ giá bán gần 4,8 tỷ đồng. Doanh số mua bán tệ giảm mạnh cụ thể:
Doanh số mua
85.000.000 USD
- 17%
Doanh số bán
84.000.000 USD
- 17%
Do không đáp ứng đủ nhu càu ngoại tệ cho nên SGD chủ yếu bán phục vụ việc trả nợ của khách hàng, các nhu càu khác như thanht oán nhờ thu Trung tâm đều từ chối. Đến cuối 2001, tình hình ngoại tệ bớt căng thẳng do hạn chế cho vay ngoại tệ, chỉ cho vay vốn đối với khách hàng cam kết tự đảm bảo tự cân đối được ngoại tệ trả nợ. Các qui định và chỉ đạo của Thủ tướng và NGân hàng Nhà nước Việt Nam cùng với các hướng dẫn của Ngân hàng Công thương Việt Nam đều được thực hiện nghiêm túc, quán triệt tới từng khách hàng và cán bộ nhân viên làm công tác ngoại hối, cụ thể là:
Sở Giao dịch đã thực hiện nghiêm chỉnh hai Quyết định 173/QĐ - TTg và 332/2001QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và các văn bản hướng dẫn của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chỉ mua 761.000 USD bằng 0,89% doanh số mua do không có khách hàng xuất khẩu lớn.
Sau khi thực hiện QĐ 37/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc khách hàng chỉ được mở một tài khoản tại ngân hàng, hầu hết các đơn vị có số dư tiền gửi ngoại tệ lớn đeìeu chuyển tài khoản về Ngân hàng Ngoại thương do vậy đã có 82 doanh nghiệp đóng tài khoản chỉ có một khách hàng mở tài khoản mới theo giấy phép của ngân hàng Nhà nước.
Sở Giao dịch luôn thực hiện mua và bán theo đúng tỷ giá qui định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Ngân hàng Công thương Việt Nam.
Chấn chỉnh lại hoạt động của các bàn thu đổi ngoại tệ, đại lý theo đúng tinh thần chỉ thị 01/2001 - CT -NHNN VN. Hiện nay Sở Giao dịch có 11 đại lý uỷ nhiệm và 6 bàn thu đổi với doanh số thu đổi trong năm đạt 3,6 triệu USD tăng 130% so với 2000.
Thực hiện nghiêm chỉnh và đầy đủ theo đúng các văn bản và công tác chi trả kiều hối, séc du lịch ...
3.2. Thanh toán quốc tế:
Do thu mua ngoại tệ gặp khó khăn, dư nợ ngoại tệ giảm nên công tác thanh toán quốc tế giảm so với 2000 cụ thể là:
2001
2000
L/C nhập
mở
670
15%
Thanh toán
813
14%
L/C xuất
90
20%
Sở Giao dịch luôn thực hiện đúng chế độ hiện hành về việc mở và ký giấy L/C trong TTQT. Hiện nay chỉ còn 1 LC trả chậm của Tổng công ty Điên lực trị giá gần 9 triệu USD đã ký quĩ hơn 8 triệu USD đảm bảo đúng chế độ mở LC trả chậm hiện hành.
4. Các hoạt động khác.
Ngoài các nghiệp vụ trên, Sở Giao dịch Ngân hàng Công thương Việt Nam còn thực hiện các dịch vụ như làm đại lý phát hành và thanh toán thẻ cho các hàng, các tổ chức tài chính quốc tế; tăng cường và mở rộng nghiệpvụ bảo lãnh đặc biệt là bảo lãnh trong nước được chú trọng, trong năm Sở Giao dịch đã bảo lãnh được trên 80 món với giá trị bảo lãnh là 6,3 tỷ VNĐ cho việc bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng ...
II. Chất lượng tín dụng tại Sở Giao dịch Ngân hàng Công thương Việt Nam.
1.Hoạt động tín dụng trung và dài hạn tại SGD NHCT Việt Nam.
1.1 Các nguồn vốn hình thành nên nguồn cho vay trung và dài hạn của SGD
+ Nguồn vốn huy động, đi vay trong và ngoài nước có thời hạn lớn hơn một năm qua việc phát hành kỳ phiếu hay huy động tiền gửi định kỳ dài hạn. Tuy nhiên, SGD nếu có thể sử dụng được 20% tổng huy động ngắn hạn cho mục tiêu cho vay trung và dài hạn.
+ Vốn nhận uỷ thác và vốn tài trợ cho vay theo chương trình bao gồm: Vốn nhận uỷ thác đầu tư theo các dự án của Chính phủ, các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp ...
-Nguồn vốn tín dụng EC: theo sự thỏa thuận của Chính phủ Việt Nam và cộng đồng châu Âu (EU) nhằm giúp đỡ để tạo điều kiện thuận lợi cho người hồi hương.
-Nguồn vốn Việt Đức: chủ yếu tài trợ phát triển cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
-Nguồn vốn Đài Loan: phục vụ cho mục tiêu hỗ trợ, tạo việc làm cho người lao động.
+ Nguồn vốn tự có của SGD.
1.2. Điều kiện để vay vốn:
Bên vay vốn phải có đủ các điều kiện sau:
+ Có tư cách pháp nhân hoặc cá nhân có dủ năng lực hành vi và năng lực pháp luật hoạt động sản xuất kinh doanh và dịch vụ theo đúng ngành nghề trong giấy phép kinh doanh hoặc giấy đăng ký kinh doanh theo qui định của Nhà nước.
+ Sản xuất kinh doanh phải có lãi trong hai năm liên tiếp.
+ Phải có vốn tự có tham gia vào dự án, mức cụ thể do Tổng giám đốc NHCN Việt Nam hoặc Giám đốc SGD qui định.
+ Phải có tài sản thế chấp, cầm cố, hoặc bảo lãnh của người thứ ba theo qui chế thế chấp, cầm cố, bảo lãnh của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
+ Tổ chức hạch toán, kế toán và quản lý tài chính theo đúng pháp lệnh kế toán - thống kê và điều lệ của tổ chức kinh tế.
1.3. Đối tượng cho vay trung và dài hạn:
Đó là các chi phí cấu thành trong tổng mức đầu tư của dự án đầu tư xây dựng mới, mở rộng, cải tạo, khôi phục, đổi mới kỹ thuật, ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ.. bao gồm: giá trị vật tư máy móc thiết bị, công nghệ chuyển giao, sáng chế và phát minh, chi phí nhân công, giá thuê và chuyển nhượng đất đai, giá thuê mua các tài sản khác trong khuôn khổ luật định, chi phí mua bảo hiểm tài sản thuộc dự án đầu tư, chi phí khác ...
1.4. Mức cho vay:
Tính toán nhu cầu xin vay:
Nhu cầu xin vay
=
Tổng dự toán vốn đầu tư
-
Vốn tự có tham gia
-
Vốn tự huy động tham gia vào dự án
Mức cho vay căn cứ trên nhu cầu xin vay và tối đa bằng 70% giá trị tài sản thế chấp cầm cố.
1.5. Thời hạn cho vay:
Được xác định dự vào chu kỳ sản xuất kinh doanh, khả năng hoàn vốn của dự án đầu tư khả năng thu nhập bên vay và tính chất nguồn vốn của bên cho vay được tính từ ngày phát tiền vay cho đến khi thu hồi hết nợ vay và được ghi trên hợp đồng tín dụng.
1.6. Qui trình thực hiện thẩm định dự án đầu tư:
+ Thu thập tài liệu, thông tin cần thiết cho việc đánh giá, phân tích.
+ Xử lý thông tin, đánh giá phân tích.
+ Nội dung thẩm định dự án đầu tư.
- Thẩm định tư cách pháp nhân vay vốn.
- Phân tích tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh tài chính của đơn vị vay vốn.
Đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh.
Phân tích tình hình tài chính.
Thực hiện sự cần thiết phải đầu tư.
Thẩm định về phương diện kỹ thuật.
Thẩm định tính khả thi của dự án về nội dung kinh tế và tài chính.
- Trình kết quả thẩm định dự án đầu tư cho giám đốc ký duyệt
2. Cân đối giữa nhu cầu và khả năng đáp ứng về vốn tín dụng trung và dài hạn của Sở giao dịch
Nguồn vốn tín dụng trung và dài hạn chủ yếu được sử dụng vào các mục đích đầu tư đổi mới trang thiết bị công nghệ, xây dựng cơ sở sản xuất, nhà xưởng ... các đối tượng của tín dụng trung và dài hạn có thời hạn khấu hao dài và lâu thu hồi vốn do vậy đã đảm bảo an toàn thì ngân hàng cũng phải có nguồn vốn trung và dài hạn đáp ứng được các yêu cầu đo. Vì thế giữa cho vay và huy động vốn luôn được kết hợp một cách hài hòa với nhau về các mặt qui mô, khối lượng, thời gian ... Nguồn vốn ngắn hạn thì chỉ nên cho vay ngắn hạn còn để cho vay trung và dài hạn thì phải có tương ứng nguồn vốn trung và dài hạn. Như thể sẽ tránh cho ngân hàng khỏi tình trạng dùng vốn ngắn hạn đầu tư cho vay trung và dài hạn, vừa bảo toàn được vốn vừa đảm bảo khả năng thanh toán, hiệu quả sử dụng vốn tránh được việc sử dụng lãng phí nguồn vốn ...
Hiện nay, có một vấn đề rất bất lợi cho Sở Giao dịch đó là nguồn vốn huy động trung và dài hạn không nhiều trong khi tiền gửi không kỳ hạn và kỳ hạn ngắn (dưới 1 năm) rất lớn. Ngân hàng Công thương Việt Nam có qui định là không huy động vốn trung và dài hạn bằng tiền gửi tiết kiệm. Ngân hàng cho vay trung và dài hạn chủ yếu bằng vốn huy động ngắn hạn chuyển sang và vốn tài tọ dự án theo uỷ thác của các tổ chức, Chính phủ trong và ngoài nước như nguồn vốn theo chương trình Việt Đức, Đài Loan, EC, nguồn vốn tài trợ theo chỉ định Chính phủ Việt Nam. Sở dĩ có qui định này là do những năm trước đây tỷ trọng cho vay trung và dài hạn thấp, mặt khác ngân hàng cũng muốn tránh rủi ro do biến động của thị trường đối với những khoản tiền gửi có thoừi hạn dài và lại tâm lý dân chúng cũng không muốn đồng tiền của họ bị cố định trong một thời gian dài. Tuy nhiên, Ngân hàng Công thương Việt Nam cũng nên bãi bỏ qui định này bởi lẽ tỷ lệ tín dụng trung và dài hạn tăng lên rất cao chiếm 56% tổng dư nợ cho vay, tốc độ tăng trưởng là 226%. Nếu cứ giữ nguyên qui định này thì đến một lúc nào đó nó sẽ ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản của ngân hàng và kìm hãm tốc độ tăng trưởng tín dụng trung và dài hạn. Việc chuyển vốn ngân hàng sang cho vay trung và dài hạn cũng chỉ có giới hạn (theo qui định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Ngân hàng Thương mại được phép chuyển 20% trên tổng huy động ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn), nguồn vốn theo chương trình cũng chỉ giải quyết phần nào được các nhu cầu về vốn trung và dài hanj và lại đòi hỏi các yêu cầu rất khắt khe đối với các khách hàng. Do vậy, trong thời gian tới, Sở Giao dịch sẽ tập trung nhiều vào các hình thức huy động vốn trung và dài hạn (chủ yếu là đối với tiền gửi tiết kiệm) để có thể đáp ứng các nhu cầu về vốn trung và dài hạn ngày càng cao của các tổ chức kinh tế mặt khác tạo sự chủ động hơn trong hoạt động kinh doanh của Sở Giao dịch.
3. Thực trạng sử dụng vốn ở Sở Giao dịch .
Sở Giao dịch Ngân hàng Công thương Việt Nam đã sử dụng các nguồn vốn đúng mục đích, cho vay đạt hiệu quả cao, đáp ứng được nhu cầu vốn đối với các thành phần kinh tế, thu hồi vốn nhanh, đảm bảo an toàn vốn, thực hiện tốt chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ... Sau đây là tình hình sử dụng vốn của Sở Giao dịch Ngân hàng Công thương Việt Nam.
Bảng 3: Bảng tình hình sử dụng vốn tại SGD NHCT VN
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
I. Tổng dân số cho vay
2354
100
2554
100
2420
100
1. Cho vay ngắn hạn
1867,2
80
2043,2
80
1968
40
2. Cho vay trung và dài hạn
466,8
20
510,8
20
1452
60
II. Tổng doanh số thu nợ
1334
100
2487
100
228,6
100
III. Dư nợ
678
100
735
100
869
100
1. Ngắn hạn
540
80
585
80
380
44
2. Trung và dài hạn
138
20
150
20
489
56
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của SGD NHCT 2001)
Bởi vì phải điều chuyển vốn khá nhiều vốn nhằm mục đích điều hòa nguồn vốn trong hệ thống Ngân hàng Công thương cho nên doanh số cho vay chỉ đạt trung bình trên 2000 tỷ/ năm. Năm 1999 tổng doanh số cho vay là 2354 tỷ đồng tập trung chủ yếu vào cho vay ngắn hạn (doanh số cho vay ngắn hạn chiếm 80% trên tổng doanh số cho vay), năm 2000 doanh số cho vay ngắn hạn là 2554 tỷ VNĐ và cũng chiếm tỷ trọng cao là 80%. Năm 2001 đánh giá sự thay đổi cơ cấu tín dụng trong đó doanh số cho vay trung và dài hạn là 1425 tỷ VNĐ chiếm tỷ trọng là 60% trên tổng doanh số cho vay. Trong các năm qua, Sở Giao dịch đã thẩm định để đầu tư tín dụng trung và dài hạn cho nhiều dự án như:
- Nhà in báo Nhân dân thiết bị in offset trị giá 95.000 USD.
- Công ty Nhựa Hà Nội vay lắp đặt thiết bị nâng cao năng suất lao động trị giá 35.000 USD.
- Công ty 319 vay theo dự định của Chính phủ mua thiết bị máy thi công trị giá 3 tỷ USD.
- Đồng tài trợ vốn Ngân hàng Ngoại thương cho vay công trình khách sạn Hà Nội trị giá 1,7 triệu USD và 375 triệu VNĐ, công trình đã đi vào sử dụng và đã trả nợ ngân hàng.
- Tổng công ty Bưu chính viễn thông vay 350 tỷ (theo kế hoạch 600 tỷ VNĐ)
Đa số các dự án đã đi vào hoạt động và phát huy hiệu quả như dự án do vay Bưu điện Hà Nội, dự án đầu tư hiện đại hóa ngành In của Nhà in Báo Nhân dân ... Bên cạnh đó, vẫn còn một số dự án cho vay năm 1999 cho đến nay vẫn chưa phát huy tác dụng như dự án do vay đầu tư dây chuyền sản xuất của Công ty Ngọc Thịnh, dự án cho vay Công ty đo lường và phát triển công nghệ Hà Nội ...
Nếu xét về tình hình thu nợ thì năm 1999 đạt 2334 tỷ đồng (76,7%) trên tổng dư nợ 1998 và doanh số cho vay năm 1999 năm 2000 là 2487 tỷ đồng đạt 76,9% trên tổng dư nợ 1999 và doanh số cho vay 2000 và năm 2001, doanh số thu nợ là 2286 tỷ đồng đạt 72,5% trên tổng dư nợ 2000 và doanh số cho vay năm 2001. Song song với công tác cho vay, Sở Giao dịch luôn quan tâm đến công tác thu nợ cho nên hiệu suất thu nợ luôn chiếm tỷ lệ cao trên 70% qua các năm. Năm 2001, tuy nợ quá hạn tăng cao song doanh số thu nợ cũng rất cao đạt 72,5% tổng số nợ cần phải thu.
Về tình hình dư nợ, năm 1999 đạt 678 tỷ đồng, năm 2000 tăng lên 735 tỷ đồng năm 2001 đạt 869 tỷ đồng. Mục tiêu đến cuối năm 2002, Sở Giao dịch sẽ nâng mức dư nợ lên 1000 tỷ đồng. Cơ cấu dư nợ cho vay thay đổi theo chiều hướng tăng dần tỷ trọng của tín dụng trung và dài hạn. Cho vay ngắn hạn năm 2001 giảm gần 200 tỷ VNĐ so với năm trước là do các nguyên nhân sau:
- Do Ngân hàng Công thương Việt Nam hai lần điều chỉnh tăng tỷ giá từ 7 - 10% trong khi thị trường chưa chấp nhận tăng giá hàng nhập khẩu nên nhiều doanh nghiệp đã bị hạn chế trong việc nhập khẩu.
- Một số doanh nghiệp đẩy mạnh việc bán hàng, giải phóng hàng tồn kho để tránh sự ảnh hưởng luật thuế giá trị gia tăng có hiệu lực từ 01/01/2002.
- Một số doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, bị lừa đảo nên ngân hàng hạn chế cho vay như: Công ty Thương mại và Đầu tư; Công ty Vật liệu xây dựng và Lâm sản; Công ty Xuất nhập khẩu ngành In; Công ty Điện máy, xe đạp xe máy.
Trong năm, Sở Giao dịch tập trung cho vay:
172 tỷ để mua nhiên, nguyên liệu và chi phí chạy tàu của Liên hiệp Đường sắt khu vực 1.
102 tỷ đồng để nhập khẩu 18000 tấn phân hóa học phục vụ sản xuất nông nghiệp.
174 tỷ đồng để thu mua 31.000 tấn đường phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nhân dân.
Cho vay trung và dài hạn tăng 339 tỷ so với năm 2000 và chiếm tỷ trọng 56% trong tổng dư nợ cho vay của Sở Giao dịch Ngân hàng Công thương Việt Nam. Trong năm, Sở Giao dịch đã thẩm định và cho vay nhiều dự án đầu tư như cho vay đối với Tổng công ty Bưu chính viễn thông và gần đây (01/2002) là dự án Đuôi hơi Phú Mỹ ... với tổng trị giá đầu tư cao.
Cơ cấu cho vay theo thành pahàn kinh tế với tỷ trọng cao trong nhiều năm thuộc kinh tế quốc doanh chiếm 86% năm 1999; 80% năm 2000 và 91% năm 2001. Trong khi cho vay đầu tư kinh tế quốc doanh tương đối ổn định và luôn chiếm tỷ trọng cao thì cho vay kinh tế ngoài quốc doanh lại rất thất thường, dư nợ đôi khi rất cao nhưng có lúc lại giảm xuống rất thấp. Năm 1999, dư nợ kinh tế ngoài quốc doanh là 92% chiếm tỷ trọng 14% song 2000 con số đó đã tăng gấp hai lần là 196 tỷ VNĐ chiếm tỷ trọng 20% và đến năm 2001, dư nợ đó giảm xuống 76 tỷ đồng chiếm tỷ trọng chỉ có 9% trên tổng dư nợ.
Đồng thời với dư nợ tín dụng trung và dài hạn tăng mạnh thì tỷ lệ nợ quá hạn cũng đạt ở mức rất cao ở năm 2001. Ta có bảng tình hình nợ quá hạn như sau:
Bảng 4: Tình hình NQH
Đơn vị tính: tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
I. Tổng dư nợ
678
100
735
100
869
100
II. Dư nợ quá hạn
48
100
25
100
95
100
1. Quốc doanh
43
90
18
72
83
87
2. Ngoài quốc doanh
5
10
7
28
12
13
III. Nợ quá hạn/ Tổng dư nợ
7%
3,4%
11%
IV. Vòng quay VTD (vòng)
3,2
3,2
2,8
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của SGD NHCT 2001)
Năm 2001, nợ quá hạn là 46 tỷ VNĐ trong tổng dư nợ cho vay chiếm tỷ trọng khá cao là 7% (vượt mức mà Ngân hàng Nhà nước đã qui định tối đa là 5%). Sang năm 2000, Sở Giao dịch tập trung vào giải quyết nợ quá hạn và thu nợ của năm 1999 cho nên kéo số dư nợ quá hạn xuống còn 25 tỷ chiếm tỷ trọng 3,4%. Nợ quá hạn phát sinh trong 10 tháng đầu năm 2000 là 64 tỷ thu được 88 tỷ.
Thu được của Công ty Thương mại và Đầu tư Hà Nội: 7 tỷ.
Công ty Tu tạo và phát triển nhà: 1,1 tỷ.
Xí nghiệp Vật tư ngành In: 3,3 tỷ.
Liên hiệp Biển pha sông: 600 triệu...
Ngoài ra Sở Giao dịch còn tập trung giải quyết các khoản nợ khó đòi từ các năm trước như:
Thu được của Công ty đá quí Việt Thái: 200 triệu đồng.
Công ty Điện công nghiệp: 30 triệu đồng.
Công ty Giầy da Hà Nội: 30 triệu đồng.
Xí nghiệp Xây lắp đường dây và trạm điện: 70 triệu đồng.
Công ty TNHH Hà Thành: 165 triệu đồng.
DN tư nhân Phạm Thế Thành: 111 triệu đồng.
Công ty TNHH Hồng Hà: 48.041 USD.
Công ty Nam Dương: 560 triệu đồng.
Giãn nợ cho Công ty Điện máy và xe đạp xe máy: 960.000 USD.
Phát mại tài sản thế chấp thu hồi vốn của: Công ty Sinh vật cảnh 79 triệu đồng; Công ty SAKYNO: 400 triệu đồng ....
Tuy trong 2 năm 2000, 2001 Sở Giao dịch tập trung vào giải quyết nợ quá hạn, nợ khó đòi nhưng năm 2001 số dư nợ quá hạn tăng vọt lên 95 tỷ đồng trong đó kinh tế quốc doanh chiếm tỷ trọng 87%, kinh tế ngoài quốc doanh chỉ có 13%. Sở dĩ như vậy là do trong năm 2001 xuất hiện một số các doanh nghiệp của Sở Giao dịch bị thua lỗ, bị lừa đảo hay chính họ sử dụng vốn sai mục đích buộc ngân hàng phải tuyên bố chuyển nợ quá hạn như:
Công ty Vật liệu xây dựng và lâm sản: Nợ khó đòi là hơn 43 tỷ đồng, do một phần bị lừa đảo không có khả năng thanh toán buộc ngân hàng phải chuyển nợ quá hạn.
Công ty Đầu tư và Phát triển Hà Nội: nợ quá hạn là 23,397 tỷ đồng do sử dụng vốn sai mục đích, hàng hóa đặc chủng chậm tiêu thụ ... cũng buộc ngân hàng phải chuyển nợ quá hạn.
Công ty vật tư ngành In do kinh doanh thua lỗ phải chuyển nợ quá hạn 6897 triệu đồng ...
Sau khi nghiên cứu, xem xét kiểm điểm ngân hàng nhận thấy nợ quá hạn phát sinh là do các nguyên nhân sau:
- Do kinh doanh thua lỗ
- Khâu thu tiền bán hàng chậm
- Do khách hàng có các khoản nợ khó đòi...
- Do hàng hóa chậm tiêu thụ
- Do thay đổi cơ chế chính sách
- Do các nguyên nhân chủ quan của ngân hàng
- Do công trình sử dụng vốn không phát huy hiệu quả
- Do sử dụng vốn sai mục đích
Và tập trung chủ yếu vào các doanh nghiệp nhà nước: dư nợ quá hạn của doanh nghiệp nhà nước luôn chiếm tỷ trọng rất cao trên 70% đến 90% sở dĩ là như vậy bởi lẽ dư nợ đối với kinh tế quốc doanh lớn tất yếu dẫn đến dư nợ quá hạn lớn. Mặt khác do kinh tế quốc doanh hoạt động kém hiệu quả, không năng động tìm tòi sáng tạo, bộ máy quản lý lại cồng kềnh, quan liêu, tham nhũng, trình độ quản lý, điều hành, tổ chức còn non yếu chưa phù hợp với cơ chế thị trường, chưa đảm đương tốt công việc mình ... nên dẫn đến sản xuất trì trệ, gặp nhiều rủi ro trong kinh doanh. Vì thế, vốn vay ngân hàng thuộc thành phần kinh tế quốc doanh thường là chậm trả và nhiều khi là khó đòi.
Ngoài ra, việc triển khai các chương trình EC, Việt Đức, Đài Loan tuy được thực hiện từ 1995 nhưng đến nay hầu hết các đối tượng thuộc các chương trình này đều kinh doanh kém hiệu quả do đó phát sinh nợ quá hạn rất cao. Tính đến nay có trên 60 dự án cho vay trung và dài hạn được SGD tài trợ bằng các nguồn vốn trên với tổng dư nợ là 2.538.648 USD trong đó nợ quá hạn là 496.278 USD. Nguyên nhân của tình trạng này là do máy thiết bị nhập về với giá cao mà chất lượng lại chưa tốt do vậy đã ảnh hưởng đến chất lượng và giá cả sản phẩm. Có khi dây chuyền nhập vì không có khả năng sản xuất do đó doanh nghiệp không có khả năng trả nợ ngân hàng do đó làm tăng nợ quá hạn.
Nói tóm lại là tình hình chất lượng tín dụng của Sở Giao dịch Ngân hàng Công thương Việt Nam trong năm 2001 suy giảm rất nhiều so với các năm trước biểu hiện là tỷ lệ nợ quá hạn/ tổng dư nợ khá cao là 11% mà đối với một ngân hàng hàng đầu trong hệ thống NHCT nước ta thì tỷ lệ đó là rất cao. Mục tiêu của năm 2002 là SGD cố gắng hạ tỷ lệ nợ quá hạn xuống mức một con số nhưng để thực hiện được mục tiêu này thì SGD cần phải giải quyết rất nhiều vấn đề khó khăn, tồn tại hiện nay.
III. Những tồn tại chủ yếu về chất lượng tín dụng trung và dài hạn. Các nguyên nhân của tình trạng đó.
Qua đánh giá và phân tích tình hình hoạt động kinh doanh của SGD NHCT Việt Nam em rút ra các nhận xét sau như sau:
Thứ nhất, là qui mô nguồn vốn huy động trung và dài hạn còn nhỏ, các nguồn vốn chủ yếu để SGD cho vay trung và dài hạn trong những năm qua chủ yếu là nguồn vốn ngắn hạn chuyển sang và các nguồn vốn tài trợ dự án theo uỷ thác của các tổ chức quốc tế và theo sự chỉ định của Chính phủ. Chúng ta thiếu cả vốn nội tệ và ngoại tệ để cho vay trung và dài hạn, đó là các nguyên nhân:
- Nguyên nhân chủ yếu nhất thuộc về ngân hàng. Chính sách và biện pháp huy động vốn còn mang nặng tính cổ truyền, các hình thức huy động vốn tuy có đa dạng hơn nhưng vẫn còn đơn điệu, chưa khuyến khích được dân chúng và các tổ chức kinh tế gửi tiền. Lãi suất tuy có được điều chỉnh theo hướng tăng dần và giãn dần khoảng cách giữa lãi suất huy động ngắn hạn và lãi suất huy động trung và dài hạn nhưng SGD vẫn chưa tìm được giải pháp thích hợp nhàm giải tỏa tâm lý lo lắng, bất ổn của các tầng lớp dân cư và tổ chức kinh tế khi gửi tiền trung và dài hạn. Do vậy trong các năm qua tỷ trọng tiền gửi không kỳ hạn và ngắn hạn rất lớn trong khi huy động vốn trung và dài hạn thì lại rất ít. Trong năm 2001, mặc dù dư nợ tín dụng trung và dài hạn tăng vọt lên và chiếm tỷ trọng cao (56%) nhưng nguồn vốn cho vay đó chủ yếu là do vốn ngắn hạn chuyển sang. Nếu để về lâu về dài thì đến một thời điểm nào đó nó sẽ ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản của SGD và gây thêm nhiều khó khăn trong hoạt động kinh doanh của SGD.
- Nguyên nhân thứ hai thuộc về tâm lý của người gửi tiền. Công chúng rất hoang mang, lo lắng khi gửi tiền vốn thời hạn dài tại ngân hàng trong khi ngân hàng vẫn chưa có các hình thức bảo hiểm đối với tiền gửi, các hình thức điều chỉnh lãi suất tiền gửi không được áp dụng... Sở dĩ, công chúng lo lắng bởi lẽ tình hình kinh tế trong và ngoài nước những năm trở lại đây rất bất ổn, cơ chế chính sách kinh tế luôn thay đổi, hệ thống pháp lý chưa hoàn thiện, mà đặc biệt là dân chúng rất quan tâm đến tỷ lệ trượt giá của đồng tiền. Tất cả những điều đó tác động vào tâm lý của công chúng, khiến họ không tin tưởng vào giá trị của VNĐ, xu hướng muốn giữ ngoại tệ USD vẫn còn phổ biến, nếu có gửi tiền thì cũng chỉ gửi ngắn hạn mà thôi. Do vậy, trong thời gian tới SGD nên quan tâm nhiều hơn nữa đến các biện pháp bảo toàn tiền gửi nhằm giải tỏa tâm lý bất an của người gửi tiền, khuyến khích họ gửi tiền dài hạn tại ngân hàng.
Thứ hai, là phương thức cho vay tập trung nhiều vào cho vay theo món, rất hạn chế cho vay theo hạn mức. Nhược điểm của cho vay theo món nợ không phát huy được tối đa hiệu quả sử dụng của đồng vốn tín dụng. Nếu cho vay thời hạn dài mà chủ yếu áp dụng phương thức cho vay theo món thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến khả năng sử dụng đồng vốn dẫn đến gảim hiệu quả sử dụng và chất lượng tín dụng không cao. Còn nếu áp dụng cho vay theo hạn mức thì sẽ giảm được rất nhiều thủ tục rườm rà, lại tăng nhanh hiệu suất sử dụng vốn, khiến đồng vốn tín dụng luân chuyển nhanh hơn và hiệu quả mà nó đem lại cũng rất cao. Do vậy, SGD nên có các biện pháp, qui định cởi mở hơn đối với việc cho vay theo hạn mức tín dụng nhằm tăng hiệu suất sử dụng vốn tín dụng của ngân hàng.
Thứ ba, là tình hình nợ quá hạn năm 2001 đã vượt rất xa giới hạn cho phép của NHNN Việt Nam. Mặc dù SGD đã rất chú trọng công tác thu hồi nợ nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến tỷ lệ nợ quá hạn cao đó là:
- Các khách hàng của ngân hàng bị thua lỗ trong kinh doanh, bị lừa đảo trong kinh doanh hay cố tình sử dụng vốn sai mục đích ... bắt buộc ngân hàng phải chuyển nợ quá hạn trước khi hết thời hạn cho vay.
- Môi trường kinh doanh luôn biến động, hệ thống pháp lý bộc lộ nhiều điểm thiếu sót, thiếu chặt chẽ vừa gây tình trạng ứ đọng hàng hóa, hàng hóa không có thị trường tiêu thụ ... vừa tạo khe hở để một số đối tượng lợi dụng, lừa đảo chiếm đoạt tài sản của Nhà nước.
Thứ tư, là trong thời gian qua SGD chưa quan tâm nhiều đến cho vay phát triển đối với kinh tế ngoài quốc doanh. Tỷ trọng cho vay đối với khu vực này còn hạn chế do đó vẫn chưa kích thích được năng lực hoạt động của chúng.
Trên đây là một số những tồn tại và nguyên nhân chủ yếu gây ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động tins dụng của SGD NHCT Việt Nam. Để có thể khắc phục được những tồn tại thiếu sót này thì SGD cần phải tiến hành đồng bộ nhiều biện pháp khả thi, kết hợp cùng với nhiều cơ quan chức năng, Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Công thương Việt Nam ... để có thể nhanh chóng giải quyết tình trạng trên.
Chương III
Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Sở giao dịch Ngân hàng công thương Việt nam
I - Định hướng hoạt động tín dụng trung và dài hạn của Sở giao dịch Ngân hàng công thương Việt nam.
Trong hoạt động kinh doanh tín dụng của mình, được sự chỉ đạo của ngân hàng nhà nước, SGD NHCT VN đang có biện pháp thực hiện chuyển dịch cơ cấu đầu tư theo hướng nâng cao tỷ trọng cho vay trung và dài hạn, nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư cải tiến, đổi mới trang thiết bị kỹ thuật tiên tiến hiện đại tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhanh chóng đuổi kịp trình độ phát triển khoa học trên thế giới. Việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng theo các hướng sau:
+ Trước hết: SGD sẽ lựa chọn cho vay những dự án vay vốn phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế của nước ta đến năm 2003 đối với các ngành kinh tế, vùng và phù hợp với kế hoạch phát triển tổng thể của từng doanh nghiệp.
+ Trong khi xét duyệt các dự án đầu tư, SGD sẽ giành vốn tín dụng trung và dài hạn cho những dự án đầu tư theo chiều sâu nhằm giúp cho các doanh nghiệp khai thác được tối đa năng lực sẵn có và cho các dự án đầu tư có quy mô vừa và nhỏ, nhất là những dự án nhằm giải quyết việc làm cho người lao động, lao động trẻ có trình độ...
+ Tập trung vốn cho các dự án thuộc vùng kinh tế, ngành kinh tế trọng điểm, mũi nhọn phục vụ cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, khuyến khích các dự án phát triển công nghệ chế biến, nông lâm, thuỷ sản... theo công nghệ tiến tiến, tạo ra hàng hoá hoá chất lượng cao đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu thay thế dần các mặt hàng nhập khẩu để giảm chi ngoại tệ từ những sản phẩm nhập khẩu.
+ Không cho vay các dự án không đủ các điều kiện kinh tế và pháp lý.
Để thực hiện những định hướng trên đây, ngân hàng nhà nước đã đề ra mục tiêu cụ thể là đến năm 2003 phấn đấu đạt 30%- 40% tín dụng trung và dài hạn trong tổng dư nợ cho vay và đầu tư. Muốn vậy, công tác huy động vốn cũng cần phải được chuyển đổi cơ cấu các nguồn vốn huy động theo hướng nâng dần tỷ trọng huy động tiền gửi trung và dài hạn thì mới đáp ứng được nhu cầu đầu tư.
Để có thể thực hiện được các định hướng trên thì Sở giao dịch chứng khoán cần phải thực hiện nhiều biện pháp khả thi. Sau đây em xin nên ra một số ý kiến đóng góp nhằm tìm ra các giải pháp hữu hiệu để Sở giao dịch Ngân hàng công thương Việt nam có thể thực hiện được các định hướng trên.
* Thứ nhất, về công tác nguồn vốn.
Nguồn vốn là cơ sở khởi điểm của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Với một nguồn vốn ổn định và dồi dào nhất định các doanh nghiệp sẽ chủ động hơn trong hoạt động sản xuất kinh doanh và đạt kết quả hoạt động cao hơn. Nhận thức được tầm quan trọng của nguồn vốn, mấy năm qua Sở giao dịch Ngân hàng công thương Việt nam rất chú trọng đến việc tạo sự ổn định cho nguồn vốn huy động bằng cách nâng dần tỷ trọng tín dụng trung và dài hạn của dân cư và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế... trong nền kinh tế. Tuy nhiên, do tác động của nhiều nguyên nhân cả khách quan lẫn chủ quan đã ảnh hưởng không nhỏ đến tốc độ tăng trưởng nguồn vốn trung và dài hạn. Các nguyên nhân chủ yếu đó là:
Lãi suất; tâm lý của người gửi tiền; Sở giao dịch chưa thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho người gửi tiền.
Như vậy, về vấn để tạo điều kiện thuận lợi cho người gửi tiền, sở giao dịch nên rút ngắn hơn thời gian giao dịch với khách hàng; đơn giản hoá các thủ tục rút tiền, gửi tiền; đẩy nhanh việc thực hiện dịch vụ gửi tiền một nơi, rút tiền nhều nơi.
Về vấn đề lãi suất, nói chung là chưa có sự hấp dẫn lắm bởi lẽ lãi suất huy động ngắn hạn và lãi suất huy động trung và dài hạn không nhiều. Dân chúng có xu hướng gửi ngắn hạn nhiều hơn là trung và dài hạn vì như thế an toàn hơn và đồng vốn quay vòng nhanh hơn. Vì vậy trong thời gian tới, sở giao dịch Ngân hàng công thương Việt nam nên đưa ra cơ chế lãi suất hấp dẫn hơn với việc nới rộng khoảng cách giữa lãi suất huy động ngắn hạn với lãi suất huy động trung và dài hạn. Sở giao dịch Ngân hàng công thương Việt nam cũng nên áp dụng cơ chế lãi suất điều chỉnh đối với việc huy động vốn trung và dài hạn, phù hợp với tình hình biến động chung. Theo cơ chế này, giữa ngân hàng và khách hàng có một sự thoả thuận về việc tăng giảm lãi suất theo yêu cầu tiền tệ trên thị trường hoặc căn cứ vào sự tăng giảm mức độ lạm phát để điều chỉnh lãi suất sao cho phù hợp. Như thế sẽ loại bỏ rủi ro cho cả ngân hàng và khách hàng.
Về vấn đề tâm lý thì đây là một vấn đề nan giải. Tâm lý của người Việt nam hiện nay là thường dùng USD để đo giá trị hàng hoá, tài sản có giá trị lớn hoặc đồ tiêu dùng cao cấp, hoặc dùng USD để thanh toán, chi trả hoặc biếu tặng lẫn nhau. Chính điều đó đã hình thành nên xu hướng coi trọng hoá đồng USD hơn là đồng VND. Do vậy, sở giao dịch cần phải đưa ra các hình thức huy động vốn trung và dài hạn được đảm bảo bằng USD (chủ yếu là huy động tiền gửi bằng trái phiếu ngân hàng có bảo đảm bằng USD) theo đó khi khách hàng mua trái phiếu, số vốn gốc và lãi sẽ được quy ra USD tại thời điểm mua trái phiếu. Đến khi đáo hạn trái phiếu, khách hàng có thể yêu cầu được thanh toán bằng USD hay VND.
Mặt khác, thái độ hoài nghi của khách hàng về nền kinh tế cũng góp phần vào việc làm giảm khả năng huy động tiền gửi trung và dài hạn của sở giao dịch Ngân hàng công thương Việt nam. Họ chưa tin tưởng vào sự phát triển khả quan của nền kinh tế, do đó sự trượt giá của đồng tiền luôn làm họ lo lắng khi gửi trung và dài hạn. Do vậy một giải pháp an toàn mà họ thường chọn là gửi tiền ngắn hạn hay đầu tư vào các tín phiếu, kì phiếu trái phiếu kho bạc ngắn hạn. Muốn giải quyết tình trạng này thì việc áp dụng cơ chế lãi suất hấp dẫn (càng dài hạn thì càng cao và càng cách xa lãi suất huy động ngắn hạn) hay cơ chế lãi suất điều chỉnh trở nên cần thiết. Điều đó sẽ góp phần tích cực vào việc tăng dần tỷ trọng tiền gửi trung và dài hạn tại sở giao dịch Ngân hàng công thương Việt nam.
* Thứ hai về công tác cho vay, thu nợ
Khâu đầu tiên và là cơ sở để ngân hàng phát tiền là khâu thẩm định tín dụng. Đối với việc cho vay các dự án sản xuất kinh doanh trung và dài hạn thì công tác thẩm định tín dụng càng trở nên khó khăn và phức tạp. Công việc đó đòi hỏi khả năng phân tích, đánh giá và dự báo một cách chính xác của cán bộ thẩm định tín dụng về dự án đầu tư hay phương án sản xuất kinh doanh. Một sự đánh giá sai về dự án đầu tư của cán bộ tín dụng sẽ làm ngân hàng phải gánh chụi rủi ro tín dụng hay làm mất đi cơ hội đầu tư vào các dự án có khả năng đem lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng. trong khâu thẩm định tín dụng, cán bộ thẩm định tín dụng không chỉ đóng vai tròlà người phân tích đánh giá mà còn là nhà tư vấn đầu tư dầy dạn kinh nghiệm để có thể đưa ra những lời khuyên hữu ích về dự án đầu tư cho các doanh nghiệp vay vốn. Điều đó vừa mang lại lợi ích cho chủ đầu tư vừa đảm bảo an toàn cao nhất cho đồng vốn tín dụng ngân hàng. Do vậy, trong quy trình cho vay thì việc làm tốt công tác thẩm định tín dụng mang tính chất quyết định tới chất lượng khoản tín dụng.
Trong những năm qua, sở giao dịch Ngân hàng công thương Việt nam đã thực hiện khá tốt khâu thẩm định tín dụng nên tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ luôn luôn được khôngs chế ở mức thấp. Tuy nhiên việc thẩm định tín dụng mới chỉ dừng lại ở việc thẩm định tính hiệu quả của dự án đầu tư hay phương án sản xuất kinh doanh thông qua việc đánh giá các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế. Một mảng khác rất quan trọng vẫn chưa được quan tâm đúng mức đó là thẩm định các chỉ tiêu định tính đối với BGD của doanh nghiệp vay vốn. Các chỉ tiêu đó thường là năng lực, trình độ chuyên môn, khả năng quản lý, tổ chức điều hành, khả năng hoạch định chiến lược sản xuất kinh doanh, phẩm chất đạo đức, tác phong uy tín.. của các thành viên trong BGD của doanh nghiệp. Để có thể đánh giá được các chỉ tiêu này, cán bộ tín dụng cần phải đi thực tế khảo sát tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, phỏng vấn trực tiếp các thành viên của BGD, phỏng vấn các công nhân lao động, các bạn hàng, các đối tác, tìm kiếm thêm các nguồn thông tin bổ sung khác qua báo chí, các cảnh báo về việc thực hiện nghĩa vụ với nhà nước.. về doanh nghiệp từ đó cán bộ tín dụng rút ra các nhận xét đúng đắn về BGD của doanh nghiệp. Việc đánh giá về năng lực của BGD doanh nghiệp trở nên rất quan trọng vì nó liên quan đến khả năng điều hành và sử dụng vốn vay có hiệu quả hay không.
Do đó trong thời gian tới, ngoài việc nâng cao hơn nữa trình độ thẩm định của cán bộ thẩm định tín dụng thông qua việc bồi dưỡng nghiệp vụ, học hỏi kinh nghiệm thẩm định trong và ngoài nước, sở giao dịch Ngân hàng công thương Việt nam còn cần phải dành sự quan tâm chú trọng nhiều hơn đến các chỉ tiêu định lượng và định tính. Sự hiệu quả của đồng vốn phụ thuộc rất nhiều vào tính chất của BGD doanh nghiệp.
Ngoài ra, sở giao dịch Ngân hàng công thương Việt nam cũng nên mở rộng phương thức cho vay theo hạn mức (trước mắt là cho vay theo hạn mức tính cho mỗi quí). Bởi vì lượng vốn huy động của sở giao dịch rất lớn trong khi hiệu suất sử dụng vốn chưa cao cho nên xảy ra tình trạng dư thừa vốn phải điều chuyển đi nơi khác. Để tránh tình trạng lãng phí nguồn vốn, sở giao dịch nên kí kết các hợp đồng tín dụng theo hạn mức với nhiều doanh nghiệp, kể cả quốc danh và ngoài quốc doanh trong đó chú trọng hơn nữa đến lĩnh vực kinh tế ngoài quốc doanh. Sau đó nâng dần thời hạn lên một năm, hai năm... và nhiều hơn nữa nhưng nhất thiết phải áp dụng một mức phụ phí nhất định trên khoản vốn thừa không sử dụng hết theo hợp đồng đã ký kết (tức là khách hàng phải trả thêm chi phí cho khoản vốn đó - tối thiểu là bằng lãi suất tiền gửi không kì hạn). Theo phương thức này khách hàng chỉ cần làm thủ tục xin vay một lần mà vẫn có thể vay nhiều lần trong phạm vi hạn mức và thời hạn cho phép mà không cần phải thực hiện lại từ đầu các thủ tục xin vay, khách hàng chỉ cần là bảng kê trình bày tình hình sử dụng vốn vào những mục đích cụ thể phù hợp với đối tượng cho vay của hợp đồng tín dụng. Như thế sẽ giảm bớt phiền hà khi khách hàng làm thủ tục vay vốn của ngân hàng.
Trong công tác thu nợ thì điều quan trọng nhất là phải hợp tác với người vay và phải có một phương pháp thu nợ khoa học, tránh rập khuôn cứng nhắc. Thông thường sự rập khuôn cứng nhắc gây thiệt hại cho cả hai bên và chỉ có thể giải quyết được bằng cách đưa ra toà án hay phát mại tài sản tín dụng. Khi xảy ra tình trạng này thì doanh nghiệp sẽ rơi vào thế "bi đát" và bế tắc còn ngân hàng cũng không đảm bảo được việc thu hồi đầy dủ khoản vốn cho vay. Do vậy việc hợp tác với khách hàng nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong hợp đồng sản xuất kinh doanh sẽ rất có lợi cho cả đôi bên. Nhất thiết phải thực hiện tuần tự từ biện pháp kinh tế sau đó nếu biện pháp kinh tế không đạt kết quả thì mới áp dụng biện pháp phát mại, xử lý TSTC hay tuyên bố phá sản doanh nghiệp, khởi kiện ra toà... Đối với các trường hợp sử dụng vốn vay sai mục đích (chủ yếu đối với kinh tế ngoài quốc doanh) gây hieẹu quả nghiêm trọng và có nhiều khả năng không thu hồi được vốn thì ngay cả khi khoản vay chưa đến hạn Ngân hàng vẫn có thể kiên quyết thực hiện các biện pháp thu hồi tồn cho vay qua việc phát mại TSTC, kê biên tài sản, khởi kiện ra toà..
Ngoài ra việc thu hồi nợ nhanh hay chậm phụ thuộc rất nhiều vào sự phù hợp giữa thời hạn cho vay và chu kì sản xuất kinh doanh. Sự phù hợp đó thể hiện ở chỗ khi nào thì doanh nghiệp phát sinh doanh thu và đó chính là nguồn trả nợ vay cho ngân hàng. Nếu xác định thời hạn cho vay không phù hợp với chu kì sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì điều đó sẽ làm cản trở rất lớn đến việc thu hồi nợ của ngân hàng. Như vậy vấn đề đặt ra là phải chuẩn hoá đội ngũ cán bộ, nhân viên tín dụng của ngân hàng. Sở giao dịch Ngân hàng công thương Việt nam cần phải có kế hoạch bồi dưỡng nghiệp vụ cho các cán bộ, nhân viên tín dụng nhằm tạo nên sự đồng bộ trong hoạt động kinh doanh tín dụng của ngân hàng đồng thời với các hình thức khen thưởng vật chất xứng đáng với kết quả mà cán bộ tín dụng đem lại cho ngân hàng, áp dụng việc sử lý nghiêm minh đối với các cán bộ tín dụng không có tinh thần trách nhiệm với công việc để phát sinh nhiều nợ quá hạn.
* Thứ ba, các giải pháp về đảm bảo tín dụng.
Theo nguyên tắc cho vay thì khoản cho vay phải có vật tư, hàng hoá tương đương làm đảm bảo. Mục đích của đảm bảo tín dụng là hạn chế tối đa rủi ro có thể xảy ra, đảm bảo khi cho vay có hiệu quả kinh tế, gắn trách nhiệm của người vay trong việc đảm bảo vốn vay, đảm bảo an toàn vốn cho ngân hàng, tạo điều kiện mở rộng quan hệ tín dụng giữa người được vay và người cho vay. Đảm bảo tín dụng bao gồm đảm bảo trực tiếp và đảm bảo gián tiếp, trong đó đảm bảo trực tiếp được thực hiện trên cơ sở khoản cho vay có vật tư, hàng hoá tương đương làm đảm bảo còn đảm bảo gián tiếp chính là các hình thức thế chấp, cầm cố, bảo lãnh chuyển nhượng nợ... Đối với đảm bảo trực tiếp thì vốn vay ngân hàng phải đươc sử dụng để mua vật tư, hàng hoá hay các phương tiện máy móc thiết bị nghĩa là phải sử dụng đúng mục địch đã ký kết trong hiệp đồng tín dụng. Giải pháp cho vấn đề này là phải thực hiện thật tốt khâu giám sát trước, trong và sau khi cho vay nhằm mục đích phát hiện sớm và kịp thời có biện pháp ngăn ngừa, uốn nắn các biểu hiện sử dụng vốn sai mục đích của khách hàng. Việc giám sát này được thực hiện dưới các hình thức như giám sát tình hình thu dư qua tài khoản của khách hàng gửi tại ngân hàng, kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất tại cơ sở của khách hàng, kiểm tra các hoá đơn, chứng từ, các nghiệp vụ phát sinh, điều tra các thông tin khác có liên quan đến hoạt động của khách hàng. Dĩ nhiên là cách điều tra giám sát phải khoa học, khéo léo để khách hàng không có cảm giác rằng họ đang bị điều tra, theo dõi. Điều đó ảnh hưởng rất lớn tới mối quang hệ giữa khách hàng và ngân hàng.
Đối với đảm bảo gián tiếp, thì khi vay vốn, ngân hàng luôn yêu cầu khách hàng phải thế chấp hoặc cầm cố tài sản hay phải có người bảo lãnh cho khoản vay (đối với các NHTM quốc doanh thì khi cho doanh nghiệp nhà nước vay không cần phải thế chấp ). Thế nhưng chỉ khi xử lý nợ quá hạn thì có vô số các khó khăn nảy sinh làm cản trở đến việc thu hồi nợ của ngân hàng, nào là do cơ chế chính sách gây khó khăn, nào là do TSTC, CC được định giá quá cao khi đem ra phát mại thì chỉ bán được ở giá thấp, nào là vấn đề sở hữu tài sản có hợp pháp không, các thủ tục rườm rà, chậm trễ trong việc thực hiện các quyết định xử lý, tình hình tài chính không lành mạnh của người vay vốn... Do vậy, sở giao dịch phải làm thật tốt khâu thẩm định tài sản thế chấp, xem xét tính hợp pháp của tài sản thế chấp, tài sản đã hay còn đang được cầm cố, thế chấp đã được chuyển nhượng sang tên hay chưa, định giá chính xác giá trị tài sản thế chấp cầm cố phù hợp với giá trị hiện hành chỉ cho vay tối đa 70% giá trị tài sản thế chấp, tối đa là 80% đối với tài sản cầm cố. Tuy nhiên tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể có thể cho vay từ 80% đến 100% giá trị tài sản cầm cố. Ngoài ra phải tiến hành giám định giá trị tài sản thế chấp nếu tài sản thế chấp bị giảm giá thì khách hàng phải có tài sản khác làm tài sản thế chấp bổ sung hoặc phải giảm nợ tương ứng với giá trị đó bằng cách trả bớt nợ cho ngân hàng, kiểm tra tình hình sử dụng, bảo quản tài sản thế chấp của khách hàng (đối với trường hợp khách hàng được phép khai thác tài sản thế chấp), nắm vững tình hình tài chính của khách hàng vay vốn và của người bảo lãnh vốn... Sở giao dịch cũng nên tổ chức một ban hay một tổ chuyên phụ trách về việc xử lý nợ quá hạn, nợ khó đòi. Tổ này có nhiệm vụ thu hồi nợ quá hạn, đôn đốc khách hàng trong việc trả nợ hay đưa ra các giải pháp có lợi cho cả khách hàng và ngân hàng trong quá trình xử lý nợ quá hạn.
* Thứ tư, là phải nâng cao chất lượng nguồn thông tin.
Một yếu tố rất quan trọng khi quyết định cho vay là sự tin tưởng vào các thông tin mà khách hàng thu thập được. Các tài liệu về tình hình tài chính, tư cách hay năng lực pháp lý của khách hàng thường là có độ tin cậy không cao. Do vậy, cán bộ tín dụng phải tiến hành thu thập các thông tin một cách toàn diện bằng cách đi thực tế khảo sát các bạn hàng của doanh nghiệp vay vốn, các đối tác, đôi khi cả đối thủ cạnh tranh. Các thông tin từ phía các cơ quan chức năng như Tổng cục Thuế, Phòng Công chứng nhà nước, uỷ ban nhân dân các cấp.. Việc thu thập thông tin đòi hỏi phải chính xác nhanh chóng, việc phân tích đánh giá phải dựa trên các thông tin thu thập được, từ đó đưa ra quyết định là cho vay hay không cho vay trong quá trình thẩm định.
Tiếp đó trong quá trình cho vay, cán bộ tín dụng phải thường xuyên theo sát tình hình hoạt động của doanh nghiệp, nắm bắt một cách nhanh chóng các thông tin liên quan đến doanh nghiệp vay vốn, tiến hành nhận định, đánh giá các thông tin trên để có thể dự báo được các khả năng có thể xảy ra và tìm cách giải quyết thích hợp.
Tóm lại, trên đây là một số ý kiến em nêu ra về vấn đề mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Sở giao dịch Ngân hàng Công thương Việt Nam. Tựu chung lại, Sở giao dịch Ngân hàng Công thương Việt Nam nên chú trọng và mở rộng cho vay trung và dài hạn đối với kinh tế ngoài quốc doanh, đồng thời thực hiện một cách tốt nhất các giải pháp nhằm ngăn ngừa rủi ro tín dụng và nâng cao chất lượng tín dụng.
II. Kiến nghị
1. Đối với nhà nước:
* Luôn tạo lập sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô. Đây là yếu tố tiên quyết tạo nên sự yên tâm bỏ vốn đầu tư của các thành phần kinh tế. có được ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô dân chúng mạnh dạn hơn trong viuệc đầu tư chiều sâu, mở rộng các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ. như thế sẽ có một bộ phận khá lớn nguồn vốn tín dụng trung và dài hạn của nhà nước tham gia vào quá trình đầu tư của các thành phần kinh tế.
* Đưa ra các chính sách đầu tư trong nước, tạo môi trường đầu tư hấp dẫn nhằm phát huy tối đa tiềm năng của các thành phần kinh tế cụ thể là phải tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của lĩnh vực kinh tế ngoài quốc doanh như là mở rộng thêm các nghành nghề được phép kinh doanh, cho thuê đẫtây dựng cơ sở, hỗ trợ về mặt đào tạo nhân lực,...
* Hoàn thiện hệ thống pháp luật, sửa đổi các văn bản, điều khoản không còn phù hợp, kịp thời ban hành các văn bản pháp luật nhằm tạo cơ sở pháp lý cho mọi hoạt động của các thành phần kinh tế.
* Tạo điều kiện và đẩy mạnh việc thực hiện đồ án "kích cầu nội địa" nhằm tạo nên sự vận động về hàng hoá tiến độ nhanh hơn trong nền kinh tế từ đó tác động, kích thích tăng trưởng và phát triển kinh tế.
2. Đối với ngân hàng nhà nước:
Đây là cơ quan đầu não của hệ thống ngân hàng với chức năng quản lý nền kinh tế thông qua việc điều hành thực thi các mục tiêu của chính sách tiền tệ. ngoài việc thực hiện các quy định trong luật NHNN, luật các TCTD được thông qua vào tháng 12 năm 2000, ngân hàng nhà nước cần phải ban hành kịp thời các quyết định chính sách, thể lệ đối với hoạt động ngân hàng nhằm tạo nên sự phù hợp với tình hình thực tế và là cơ sở để các ngân hàng nhà nước hoạt động kinh doanh đúng hướng, vì mục tiêu ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát, và phát triển kinh tế.
Ngân hàng nhà nước cũng nên khẩn trương xem xét đề xuất việc thành lập quỹ bảo hiểm tiền gửi, bảo hiểm tín dụng cho phép các ngân hàng thương mại được bảo lãnh quỹ dự phòng rủi ro tín dụng. Việc lập quỹ dự phòng rủi ro tín dụng thực hiện ngay từ khi thực hiện cho vay và được tính vào chi phí nghiệp vụ chứ không tính từ lợi nhuận của ngân hàng để bổ sung vào quỹ và mức cụ thể được tính theo từng cấp độ rủi ro.
3. Đối với ngân hàng Công thương Việt Nam
- Nên xem xét đề xuất về việc thành lập công ty con chuyên về kinh doanh bất động sản. Công ty này sẽ là trung tâm để giải quyết tồn đọng của việc phát mại tài sản thế chấp.
- Tổ chức khoá tập huấn, nâng cao kiến thức nghiệp vụ, bồi dưỡng chuyên môn cho các cán bộ trong toàn bộ hệ thống ngân hàng công thương Việt Nam.
- Kịp thời ban hành hướng dẫn chi tiết thực hiện các quyết định, thể lệ, chính sách của ngân hàng Nhà nước cho toàn bộ các chi nhánh, các cán bộ, nhân viên nhằm tạo nên sự thống nhất trong hoạt động.
4. Đối với khách hàng
- Khách hành nên cung cấp cho ngân hàng những số liệu sát thực với tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh đồng thời phải thực hiện nghiêm túc các điều khoản của hợp đồng tín dụng.
- Khi xảy ra các khó khăn, tranh chấp, khách hàng nên phối hợp với ngân hàng để đi đến các thoả thuận có lợi cho cả đôi bên.
- Cung cấp các thông tin và tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ tín dụng trong việc kiểm tra tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Kết luận
Trên đây là một số ý kiến phân tích, đánh giá tình hình chất lượng tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại nói chung và tại sở giao dịch nói riêng. Chất lượng tín dụng ngày càng được các ngân hàng thương mại quan tâm, chú trọng bởi vì nó không chỉ đem lại hiệu quả kinh tế cho bản thân ngân hàng thương mại mà nó còn tạo ra các giá trị xã hội góp phần vào việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế ở nước ta. Việc nâng cao chất lượng tín dụng không chỉ là sự nỗ lực của cả hệ thống ngân hàng mà còn là sự quan tâm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, của các cấp Chính quyền, các bộ, ban, ngành và là sự trợ giúp, tạp điều kiện thuận lợi của các thành phần kinh tế, các tầng lớp nhân dân. Có như vậy, chúng ta mới đẩy nhanh tiến độ hội nhập vào hệ thống tài chính trên khu vực và trên thế giới.
Mục lục
Trang
Lời nói đầu
1
Chương I: Tín dụng Ngân hàng và chất lượng tín dụng Ngân hàng trong cơ chế KTTT
3
I/ Tín dụng Ngân hàng
3
1. Những hoạt động cơ bản của NHTM trong cơ chế thị trường
3
2. Hoạt động tín dụng của NHTM
10
II/ Chất lượng tín dụng Ngân hàng trong cơ chế KTTT
15
1. Chất lượng tín dụng và ý nghĩa của sự nâng cao chất lượng tín dụng
15
2. Các tiêu thức đánh giá chất lượng tín dụng
16
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng
17
4. Các nguyên tắc nhằm nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng
20
Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Sở giao dịch Ngân hàng công thương Việt Nam
23
I/ Hoạt động kinh doanh của Sở giao dịch Ngân hàng công thương Việt Nam
23
1. Khái quát về SGD Ngân hàng công thương Việt Nam
23
2. Tình hình hoạt động kinh doanh của SGD Ngân hàng công thương Việt Nam
30
3. Tình hình kinh doanh đối ngoại
37
4. Các hoạt động khác
39
II/ Chất lượng tín dụng tại SGD Ngân hàng công thương Việt Nam
39
1. Hoạt động tín dụng trung và dài hạn tại SGD Ngân hàng
39
2. Cân đối giữa nhu cầu và khả năng đáp ứng về vốn tín dụng trung và dài hạn của SGD
41
3. Thực trạng sử dụng vốn ở SGD
43
III/ Những tồn tại chủ yếu về chất lượng tín dụng trung và dài hạn. Các nguyên nhân của tình trạng đó
48
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại SGD Ngân hàng công thương Việt Nam
51
I/ Định hướng hoạt động tín dụng trung và dài hạn của SGD
51
II/ Kiến nghị
59
1. Đối với Nhà nước
59
2. Đối với Ngân hàng Nhà nước
59
3. Đối với Ngân hàng công thương Việt Nam
60
4. Đối với khách hàng
60
Kết luận
61
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0265.doc