Đề tài Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng trung, dài hạn tại chi nhánh ngân hàng công thương Đống Đa

Như đã đề cập, tín dụng trung, dài hạn có ảnh hưởng tới nhiều vấn đề và lĩnh vực kinh tế xã hội khác nhau, đồng thời loại tín dụng này cũng chịu ảnh hưởng rất nhiều yếu tố. Tuy vậy với tốc độ phát triển kinh tế như hiện nay cùng với những kinh nghiệm và nổ lực của toàn bộ tập thể cán bộ chi nhánh ngân hàng công thương Đống Đa chúng ta tin rằng trong một tương lai không xa, chi nhánh đạt được mục tiêu nâng cao chất lượng đối với hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động tín dụng trung, dài hạn nói riêng.

doc86 trang | Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1158 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng trung, dài hạn tại chi nhánh ngân hàng công thương Đống Đa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh bản thân ngân hàng. Bên cạnh các doanh nghiệp làm ăn không có hiệu quả còn có rất nhiều doanh nghiệp làm ăn nghiêm chỉnh mong muốn được tạo điều kiện để có cơ hội kinh doanh. Việc các doanh nghiệp ngoài quốc doanh sử dụng vốn với hiệu quả chưa cao một phần là do ngân hàng . Ngân hàng chưa có chính sách tín dụng phù hợp. Trong chính sách tín dụng gồm chính sách hạn mức, chính sách lãi suất, cơ chế bảo đảm và chính sách kì hạn. .Về lãi suất cho vay của ngân hàng trong một năm trở lại đây đã áp dụng mức lãi suất linh hoạt đối với mỗi khách hàng. Về nguyên tắc, ngân hàng phải đảm bảo cho vay công bằng đối với mọi thành phần trong nền kinh tế nhưng trên thực tế mức lãi suất cho vay kinh tế ngoài quốc doanh thường lớn hơn lãi suất cho vay kinh tế quốc doanh. Như vậy đã chứng tỏ một sự phân biệt giữa hai khu vực kinh tế này. Trong khi đó, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đang thiếu vồn nghiêm trọng, việc sản xuất kinh doanh của họ còn gặp nhiều khó khăn nên đứng trước chi phí vốn cao hơn so với các doanh nghiệp quốc doanh thì khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh càng kém. Vì vậy nên chăng có những chính sách lãi suất ưu đãi để thành phần kinh tế này đến được với ngân hàng nhiều hơn. .Về kì hạn nợ, kì hạn nợ chưa xứng với thời gian quay vòng vốn của các doanh nghiệp. Việc xác định kì hạn nợ phù hợp với khoản thu của doanh nghiệp là rất quan trọng, đảm bảo cho nguồn vốn ngân hàng thu lại đúng lúc, giảm tỉ lệ nợ quá hạn. Nhưng việc xác định kì hạn nợ của ngân hàng công thương Đống Đa đôi khi chưa phù hợp dẫn đến trường hợp các doanh nghiệp không trả được nợ đúng hạn. Kì hạn trả nợ ngắn hơn thời gian quay vòng vốn, khi đến hạn doanh nghiệp vẫn chưa thu hồi được vốn kinh doanh, do đó món vay được chuyển sang nợ quá hạn. Hoặc kì hạn nợ lớn hơn thời gian quay vòng vốn của khách hàng nên một số khách hàng khi thu được tiền hàng nhưng không muốn trả ngân hàng mà dùng tiền đó để tái đầu tư chu kì sau. .Cơ chế bảo đảm tiền vay chưa đa dạng. Hiện nay có nhiều hình thức bảo đảm như cầm cố các giấy tờ có giá, thế chấp bất động sản, động sản, đảm bảo bằng những tài sản khác như hàng tồn kho, các khoản phải thu, tín chấp... Nhưng khi ngân hàng cho vay đối với kinh tế ngoài quốc doanh thì hình thức bảo đảm bằmg tài sản thế chấp là chủ yếu. Ngoài ra, việc công chứng tài sản thế chấp cũng gây không ít phiền toái. Công chứng các giấy tờ thế chấp tài sản để đảm bảo cho khoản nợ vay là điều rất cần thiết giữa người đi vay và người cho vay. Qua khảo sát thực tế cho thấy mỗi lần đi vay, người vay phải mang công chứng cho một hợp đồn tín dụng thường là 6 tháng đến 12 tháng. Lệ phí mỗi khoản là 0.2%. Thêm vào đó, việc công chứng còn mất nhiều thời gian của khách hàng đến vay. Các yếu tố trên gây cản trở không nhỏ đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Thiết nghĩ ngân hàng không nên quá cứng nhắc trong việc cho khu vực kinh tế này vay vốn. Thứ hai, về phía cán bộ ngân hàng. Trình độ của cán bộ tín dụng giải quyết cho vay trung, dài hạn còn những hạn chế nên chất lượng của các khoản cho vay trung, dài hạn chưa cao, điều đó thể hiện ở các khía cạnh sau : . Trình độ thu thập và xử lí thông tin còn mang tính một chiều. Thiếu thông tin tín dụng dẫn đến những quyết đinh sai lầm trong khâu thẩm định. Một số khách hàng có trình độ lừa đảo tinh vi mà cán bộ tín dụng không nhận biết được, đây chính là nguyên nhân làm cho nợ quá hạn gia tăng. . Trình độ phân tích của cán bộ thẩm định chưa toàn diện. Khả năng phân tích kĩ thuật và phân tích thị trường của cán bộ tín dụng còn hạn chế. Việc dánh giá khả năng cạnh tranh, khả năng tiêu thụ sản phẩm của dự án trên thị trường liên quan đến nhiều khía cạnh, đòi hỏi khả năng phân tích tổng hợp, dự đoán nhạy bén của cán bộ tín dụng, đây là một yêu cầu khó thực hiện đối với cán bộ tín dụng vì phần lớn không được đào tạo chuyên sâu toàn diện về lĩnh vực này nên có khi đưa sản phẩm ra thị trường rồi mới phát hiện được những bất ổn trong tiêu thụ sản phẩm làm ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của dự án . .Công tác phân tích tài chính của đơn vị chưa được coi trọng. Phân tích tính khả thi của dự án chủ yếu dựa vào kết quả phân tích đánh giá trên phương diện kinh tế tài chính nhưng nguồn số liệu, cơ số để phân tích chủ yếu được lấy từ báo cáo của đơn vị gửi tới với độ tin cậy không cao, chưa được cơ quan kiểm toán xác nhận. Chính vì lí do này mà cán bộ tín dụng ngại cho vay. . Việc kiểm tra, giám sát thực tế vốn vay của khách hàng qua các số liệu điều tra nhiều khi không đúng với tình hình thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng. Biên bản kiểm tra của cán bộ tín dụng đối với khách hàng đều cho biết khách hàng sử dụng vốn đúng mục đích, có đủ vật tư bảo đảm tiền vay, nhưng thực tế không phải như vậy, chỉ khi khách hàng không trả được nợ thì toàn bộ sự thật mới được bộc lộ. Cho nên giám sát vốn vay trong thời hạn cho khách hàng đã được thủ tục hoá dẫn dến thông tin sai lệch, không đánh giá được một cách đúng đắn tình hình tài chính của khách hàng. Đây là một tong những lí do làm phát sinh các khoản nợ và nhất là các khoản nợ khó đòi. Thứ 3, cômg tác xử lí nợ gặp nhiều khó khăn. Công cụ chủ yếu mà ngân hàng áp dụng là lãi suất phạt nợ quá hạn. Những năm trước đây biện pháp phạt lãi suất đạt kết quả tốt nhưng thời gian vừa qua nợ quá hạn có chiều hướng gia tăng, lãi quá hạn càng khó thu hồi điều này cho thấy biện pháp phạt nợ quá hạn không còn tác dụng răn đe đối với người vay cố chây ỳ trả nợ nhưng lại có ảnh hưởng đến tình hình tài chính và lợi nhuận khách hàng làm ăn chân chính bị nợ quá hạn do yếu tố khách quan. Cạnh tranh theo cơ chế thị trường để mua được, bán được cho nên nợ nần phải thu, phải trả dây dưa không dứt điểm. Doanh nghiệp càng lớn công nợ càng nhiều, làm cho nợ quá hạn ngân hàng kéo dài năm này qua năm khác, trong đó nguyên nhân lãi suất phạt nợ quá hạn quá cao vượt xa mức sinh lãi từ đồng vốn, dẫn đến tình trạng lấy vốn trả lãi, làm cho nợ quá hạn ngày càng tăng, chất lượng tín dụng giảm sút . Nguyên nhân khách quan. Nguyên nhân chủ yếu là do khách hàng còn lúng túng trong lựa chọn hướng đầu tư , dự án thiếu tính khả thi và không đủ điều kiện về mức vốn tự có tham gia. Các doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn rất cao nhưng họ không hội đủ điều kiện để vay vốn. Cụ thể là : + Không có các dự án khả thi : Để sản xuất kinh doanh hiệu quả ngân hàng phải lựa chọn dự án có tính khả thi cao để đầu tư . Một dự án có tính khả thi phải được xây dựng trên cơ sở khoa học, thông tin đầy đủ, phân tích đánh giá tình hình một cách chính xác. Vì vậy phải được nghiên cứu một cách tỉ mỉ khoa học, phải do người đủ chuyên môn kinh nghiệm, trách nhiêm xây dựng và thẩm định. Trong thực tế, hầu hết các doanh nghiệp không thể tự xây dựng dự án đầu tư trung, dài hạn dù là các dự án nhỏ. Có những doanh nghiệp có ý tưởng đầu tư, kế hoạch làm ăn lớn nhưng không lập được kế hoạch dưới dạng bảng biểu theo yêu cầu của ngân hàng. Cán bộ tín dụng nhiều khi giúp đỡ người vay tính toán lập phương án vay vốn và trả nợ, giúp doanh nghiệp lập kế hoạch lưu chuyển vốn trong năm để ngân hàng biết lượng tiền chu chuyển từ nguồn nào, chi vào mục đích gì, cân đối thu chi để ngân hàng có cơ sở ấn định thời gian, số tiền giải ngân, thời gian cho vay,số tiền thu nợ để tạo cho doanh nghiệp hoàn thành kế hoạch sản xuất kinh doanh và ngân hàng thu được vốn và lãi. + Không đủ vốn tự có tham gia dự án. Theo qui định của ngân hàng công thương Việt Nam là dự án đầu tư mới phải có 40% đầu tư mở rộng sản xuất, 15% vốn tự có tham gia trong tổng chi phí dự án. Điều kiện doanh nghiệp phải có vốn tự có tham gia dự án theo một tỉ lệ nhất định là biểu hiện năng lực tài chính của doanh nghiệp. Doanh nghiệp sẵn sàng bỏ vốn của mình vào kinh doanh chấp nhận rủi ro sẽ làm cho ngân hàng tin tưởng và có thể cho vay. + Không đủ tài sản thế chấp hợp pháp : Điều kiện doanh nghiệp phải có đủ tài sản thế chấp hợp pháp là biện pháp bảo đảm vay vốn, phòng ngừa rủi ro khi dự án sản xuất kinh doanh gặp khó khăn, rủi ro ngoài dự kiến. + Năng lực của cán bộ quản lí doanh nghiệp không đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường. Có doanh nghiệp sau khi được ngân hàng tư vấn giúp đỡ và đầu tư vốn trung, dài hạn vẫn hết sức lúng túng trong việc điều hành dự án dẫn đến hiệu quả của dự án giảm sút thậm chí không có kết quả. Ngoài ra còn một số nguyên nhân sau : + Nền sản xuất trong nước phải cạnh tranh gay gắt với hàng nhập ngoai đặc biệt là hàng nhập lậu trốn thuế. Chính sác kinh tế vĩ mô đang trong quá trình điều chỉnh đổi mới và hoàn thiên nên các doanh nghiệp không theo kịp vói sự thay đổi của cơ chế và chính sách vĩ mô dẫn đến kinh doanh thua lỗ, không đủ điều kiện vay vốn ngân hàng. + Do tác động của môi trường pháp lí cho hoạt động tín dụng cỉa ngân hàng chưa đầy đủ. Các cơ quan chịu trách nhiệm cấp chứng thư sở hữu tài sản và quản lí Nhà nước đối với thị trường bất động sản chưa thực hiện kịp thời cấp giấy tờ sở hữu cho các chủ sở hữu làm cho việc thế chấp và xử lí tài sản thế chấp vay vốn ngân hàng khó khăn phức tạp và nhiều khi bị ách tắc. Việc thực hiện pháp lệnh kế toán thống kê của các doanh nghiệp chưa nghiêm túc. Đa số các số liệu quyết toán và báo cáo tài chính của doanh nghiệp chưa thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc, số liệu phản ánh không chính xác thực trạng tình hình sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính của doanh nghiệp đặc biệt là khối kinh tế ngoài quốc doanh. Hiệu lực của các cơ quan hành pháp chưa đáp ứng được nhu cầu tranh chấp tố tụng về hợp đồng kinh tế, phát mại tài sản thế chấp, cầm cố bão lãnh, chưa bảo vệ quyền lợi chính đáng của người vay. + Do nền kinh tế trong nước chưa ổn định nhiều doanh nghiệp chưa tiếp cận được thị trường nên không có dự án đầu tư đổi mới công nghệ. Thực tế cho thấy nhiều doanh nghiệp đầu tư hàng triệu USD để nhập dây chuyền sản xuất hiện đại, công trình chưa kịp thu hồi vốn thì trên thị trường đã tràn đầy những sản phẩm ngoại nhập chất lượng cao dẫn đến thị trường bão hoà loại sản phẩm dó dẫn đến kinh doanh thua lỗ doanh nghiệp không trả được nợ. Một điều cuối cúng nữa là qui định có tính chất pháp qui của Nhà nước và của ngành liên quan đến tín dụng trung, dài hạn thiếu thống nhất và không đồng bộ gây khó khăn cho cả doanh nghiệp và ngân hàng trong việc mở rộng tín dụng trung, dài hạn . Chương III giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng trung, dài hạn tại chi nhánh ngân hàng công thương Đống Đa . Định hướng hoạt động tín dụng trung, dài hạn tại chi nhánh ngân hàng công thương Đống Đa . Để tạo môi trường giúp các doanh nghiệp tăng cường cơ sở vật chất kĩ thuật, đổi mới công nghệ, phát huy năng lực cạnh tranh theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá của đất nước, để thực hiện một trong những mục tiêu phương hướng mà ngân hàng công thương Việt Nam đề ra ( tăng cường khối lượng đầu tư tín dụng trung, dài hạn chiếm 25 – 30% tổng dư nợ ). Ngân hàng công thương Đống Đa rất cần thiết phải đẩy mạnh công tác cho vay trung, dài hạn. Chến lược này cũng dựa trên quan điểm “ đầu tư chiều sâu cho doanh nghiệp là đầu tư cho tương lai của ngân hàng”. Ngân hàng sẽ chú trọng mở rộng cho vay trung, dài hạn trên địa bàn mình nhất là giúp các doanh nghiệp quốc doanh đại phương phát triển để đảm bảo vai trò chủ đạo của doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế thị trường đồng thời phát triển cho vay đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh sản xuất kinh doanh có hiệu quả và mở rộng quan hệ tín dụng với khách hàng có vị trí và ưu thế chiến lược trong thị trường . Định hướng hoạt động tín dụng của ngân hàng thể hiện qua nội dung sau : + Trước hết ngân hàng công thương Đống Đa sẽ lựa chọn dự án vay vốn phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước của các ngành kinh tế, các vùng và kế hoạch phát triển tổng thể của từng doanh nghiệp có quan hệ với ngân hàng . + Khi xét duyệt các dự án đầu tư , ngân hàng công thương Đống Đa trước hết lấy tiêu chí hiệu quả và có năng lực thực thi của từng dự án cụ thể có trọng tâm, trọng điểm. + Trong lúc nguồn vốn tín dụng còn có hạn ngân hàng công thương Đống Đa sẽ ưu tiên dành cho các dự án đầu tư theo chiều sâu nhằm giúp các doanh nghiệp khai thác tối đa năng lực sẵn có, đồng thời đầu tư vào một số dự án có qui mô vừa và nhỏ, nhất là các dự án đầu tư tạo lập doanh nghiệp mới theo luật định để có thể giải quyết việc làm cho người lao động nhất là những lao động trẻ có trình độ tay nghề cao. Đặc biệt ngân hàng công thương Đống Đa sẽ tập trung một số vốn cho các dự án thuộc các vùng kinh tế, các ngành kinh tế trọng điểm, kinh tế mũi nhọn trong đó khuyến khích các dự án công nghiệp và chế biến lâm thổ sản mà có công nghệ tiên tiến hiện đại, ít ô nhiễm môi trường, tao sản phẩm tiêu dùng trong nước từng bước xuất khẩu. Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn tại chi nhánh ngân hàng công thương Đống Đa . Trong hoạt động tín dụng của ngân hàng nói chung và ngân hàng công thương Đống Đa nói riêng, chất lượng và an toàn tín dụng được coi là điều kiện hàng đầu quyết định sự tồn tại, phát triển và hội nhập của ngân hàng.Thấy được tầm quan trọng của chất lượng tín dụng đối với hoạt động của mình. Vậy ngân hàng cần có những giải pháp nào để nâng cao chất lượng tín dụng ? Nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư. Đây là một giải pháp rất quan trọng đối với việc nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn. Nếu việc thẩm định thực hiện tốt thì rủi ro trong việc cho vay giảm đi rất nhiều và ngược lại, chất lượng và hiệu quả tín dụng dựa trên cơ sở hiệu quả của sản xuất kinh doanh của người đi vay. Điều đó có nghĩa rằng, nâng cao chất lượng tín dụng là giảm thiểu rủi ro tổn thất trong kinh doanh. Về lí thuyết là như vậy nhưng không phải bao giờ cũng làm được điều này. Qui trình và yêu cầu của mỗi quá trình thẩm định đặt ra rất rõ ràng, chất lượng thẩm định chỉ còn phụ thuộc vào trình độ của cán bộ tín dụng và vấn đề thông tin. Do đó ngân hàng cần : Nâng cao chất lượng thu thập và xử lí thông tin của ngân hàng. Các thông tin cần phải được kiểm tra chính xác kĩ lưỡng trước khi phân tích . Muốn vậy, thông tin phải được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau để so sánh đối chiếu. Các thông tin mà ngân hàng cần thu thập : + Thông tin về khách hàng. Khách hàng vay vốn là ai, pháp nhân hay thể nhân, cơ quan chủ quản nào ra quyết định thành lập, giấy phép hành nghề, trụ sở làm việc, tài khoản ngân hàng giao dịch, kết quả làm ăn của ngân hàng tốt, xấu, chấp nhận nộp nghĩa vụ ngân sách Nhà nước, bạn hàng làm ăn của ngân hàng là ai, có chấp hành đúng pháp luật hay không ? Về khả năng tài chính bao gồm : vốn tự có, vốn đi vay, vốn chiếm dụng, hệ số vốn đảm bảo khả năng thanh toán. Tóm lại, phải nhận biết và đánh giá đúng bản chất của khách hàng cả quá khứ, hiện tại và tương lai. Trên cơ sở đó xác định mức độ khách hàng tốt hặc trung bình hặc xấu để có sự phân biệt về chế tài tín dụng thích hợp đối với đơn vị vay vốn. Đánh giá khách hàng thường mắc phải sai lầm lớn nhất là không năm bắt được các thông tin về khách hàng, không biết “mổ xẻ” đi vào thực chất hoạt động của họ để dánh giá được những mặt mạnh, mặt yếu và dự báo rủi ro. + Thông tin về hiệu quả kinh tế đích thực của khoản vay, của dự án vay. Tổ chức thẩm định kĩ qua một đầu mối là hội đồng tín dụng để tìm ra hiệu quả đích thực của khoản vay, dự án vay. Tránh trường hợp dự án lập ra chỉ là giấy vẽ với đầy đủ cấp có thẩm quyền kí duyệt hợp lệ, hợp pháp nhưng không phải khả thi mà chỉ nhằm mục đích lợi dụng mọi kẽ hở của cơ chế chíh sách, lừa đảo để vay vốn ngân hàng. Hiệu quả kinh tế của dự án vay với góc độ ngân hàng, nó là toàn bộ số tiền khấu hao và số tiền lợi nhuận của dự án sau khi trừ đi thuế trừ các quỹ trích lập theo chế độ quy định. + Thông tin về khả năng vay trả của khách hàng. Dự án vay vốn trả được nợ ngân hàng là dự án có hiệu quả kinh tế đích thực, còn dự án thể hiện hiệu quả kinh tế trên giấy mới chỉ là khả năng tính toán, giữa tính toán và hiện thực còn nhiều khoảng cách. Vì vậy, điều kiện vay trả của dự án phụ thuộc vào các yếu tố như : thời hạn vay trả, mức độ vay trả theo từng hạn nợ tương ứng với khả năng nguồn vốn dùng để trả nợ rtong tương lai của doanh nghiệp . Cần hết sức chú ý phải qui định rõ trong hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng và đơn vị vay vốn về thời hạn vay, thời hạn trả nợ và lịch trả nợ, trong đó thể hiện rõ mức trả nợ theo các phương án tốt, hoặc trung bình hoặc xấu. Nếu phương án trả nợ của dự án rơi vào phương án trả nợ xấu nhất thuộc về nguyên nhân khách quan nhưng doanh nghiệp có đủ các nguồn vốn khác và cam kết trả nợ vay ngân hàng ( hoặc có hợp đồng bảo lãnh trả nợ thay) thì ngân hàng có thể yên tâm quyết định cho vay. Việc định kì hạn nợ phải trên cơ sở căn cứ vào chu kì sản xuất, hoặc khả năng vay vốn, theo thông lệ quốc tế kì hạn nợ thường là 6 tháng. + Thông tin về năng lực quản trị điều hành của khách hàng. Nhân tố về năng lực, phẩm chất quản trị điều hành của chủ dự án quyết định hết thảy sự thành công của việc trả nợ ngân hàng. Chính chủ dự án là người trực tiếp quản lí và chịu trách nhiệm về tiến độ và chất lượng từ khi công trình khởi công đến khi kết thúc nghiệm thu đưa công trình vào khai thác sử dụng và trả nợ vốn vay ngân hàng. Nếu người lãnh đạo không đủ năng lực quản trị điều hành và thiếu cái tâm, vô trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng thì chắc chắn vốn vay ngân hàng cũng mất khả năng thu hồi và ngân hàng liên đưói chịu trách nhiệm. Do đó, ngân hàng nên xây dựng phòng thông tin với chức năng cập nhật thông tin mới nhất. Thông tin cần được cập nhật mỗi ngày về tất cả các lĩnh vực sau đó tiến hành lưu trữ để khi cần thiết có thể gọi ra. Thành lập phòng hoặc nhóm chuyên trách thẩm định dự án. Thành lập dự án là một công việc phức tạp đòi hỏi cán bộ tín dụng có trình độ cao. Vì vậy để đạt được hiệu quả cao, ngân hàng có thể quy định đối với một dự án có số vốn vay lớn hơn một mức nào đó thì phải do một đội ngũ chuyên trách thẩm định. Mục tiêu của thẩm định thì tất cả mọi cán bộ tín dụng đều ý thức được nhưng khi gặp dự án cụ thể thì cán bộ ngân hàng rất lúng túng. Hiện nay hầu như các chỉ tiêu NPV, IRR đều chưa tính được thậm chí chọn lãi suất chiết khấu cũng không đơn giản, cán bộ thẩm định mới tính được lợi nhuận của dự án, thời gian thu hồi vốn. Chính vì vậy kết quả thẩm định chưa cao. Do vậy cần có một nhóm cán bộ chuyên trách cùng hợp tác đánh giá. Một cán bộ tín dụng cần phải đảm nhiệm một lĩnh vực nhất định. Việc phân công mở rộng như thế sẽ giúp công việc thực hiện chuyên sâu, các cán bộ được tiếp xúc với nhiều dự án sẽ tích luỹ được nhiều kinh nghiệm bổ ích. Bên cạnh đó việc thành thạo trong công việc thực hiện các công đoạn thẩm định của các cán bộ chuyên trách sẽ được rút ngắn thời gian và nâng cao chất lượng thẩm định. Nâng cao năng lực chuyên môn hoá của cán bộ tín dụng. Để có một khoản tín dụng có chất lượng thì yếu tố con người là rất quan trọng. Bởi vì “ con người là vốn quí nhất”. Nếu có hàng ngàn, hàng vạn qui định về qui định về quản lí rất kì diệu, nhưng thiếu yếu tố con người – cán bộ tín dụng thẳng thắn, trung thực, liêm khiết, có tâm đức – thì việc quản lí khó được như ý muốn. Do đó cán bộ tín dụng phải là người am hiểu khách hàng, hiều biết sâu sắc thực lực tài chính, khả năng thanh toán của khách hàng kể cả hiện tại cũng như sau này xác định tiềm năng phát triển và dự báo được những biến động trong tương lai. Ngoài ra, sự tác động của các chính sách kinh tế của Chính Phủ hay ảnh hưởng của các biến động thị trường đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp là vô cùng phức tạp nên cán bộ tín dụng còn phải có vốn hiểu biết nhất định về thị trường và lĩnh vực chuyên môn mà khách hàng của mình đang tiến hành sản xuất kinh doanh. Tất cả những yêu cầu đó đối với một cán bộ tín dụng dường như là quá nhiều, một cán bộ tín dụng dù giỏi đến đâu cũng không thể có những hiểu biết sâu sắc về mọi lĩnh vực kinh tế. Hiện nay ngân hàng công thương Đống Đa và các ngân hàng thương mại quốc doanh khác việc phân công cán bộ tín dụng cũng chỉ dựa trên cơ sở số khách hàng, mức dư nợ và thành phần kinh tế . Khi đó một người sẽ vừa phải cho vay kinh doanh vừa cho vay xây dựng cơ bản. Điều này sẽ gây khó khăn cho cán bộ tín dụng trong quản lí. Chính vì vậy cần có sự chuyên môn hoá trong cán bộ tín dụng. Ngân hàng nên thực hiện chuyên môn hoá với từng cán bộ tín dụng bằng cách chia khách hàng theo từng nhóm có đặc điểm riêng rõ nhất là chia theo ngành. Trên cơ sở đó, căn cứ vào năng lực sở trường và kinh nghiệm của từng nhóm cán bộ tín dụng để phân công thực hiện cho vay đối với một loại khách hàng nhất định. Để tạo điều kiện cho cán bộ tín dụng có thể hiểu biết khách hàng một cách sâu sắc, việc thay đổi cán bộ tín dụng phụ trách cho vay vốn khách hàng trong quá trình sắp xếp phân công lại nhân viên cũng cần phải hạn chế. Việc chuyên môn hoá như vậy sẽ tạo điều kiện cho cán bộ tín dụng dễ dàng giám sát, sát cánh cùng khách hàng trong vấn đề quản lí vốn. Bên cạnh việc thực hiện chuyên môn hoá, ngân hàng phải không ngừng nâng cao kiến thức cho cán bộ tín dụng. Ngân hàng nên định kì mở các lớp huấn luyện bồi dưỡng cán bộ về thị trường, công nghệ để giúp cán bộ tín dụng vững vàng, tự tin hơn trong công việc của mình. Tuy nhiên các cán bộ sau khi được cử đi học phải chịu trách nhiệm thực hiện các công việc cụ thể tránh bệnh hình thức, ngân hàng bỏ tiền cho đi học nhưng không đóng được gì cho ngân hàng. Tăng cường kiểm tra các khoản tín dụng. Nhiệm vụ của ngân hàng không phải chỉ là thẩm định dự án nếu có khả thi thì tiến hành giải ngân thế là ngân hàng hết trách nhiệm. Để một khoản tín dụng có chất lượng cao ngân hàng phải thực hiện nguyên tắc “ giám sát trước, trong và sau khi cho vay”. Trước khi cho vay các doanh nghiệp đã vay vốn tại các ngân hàng khác thì ngoài việc cần phải nắm chắc tình hình dư nợ thực tế của đơn vị tại các ngân hàng, cần phải xem xét kĩ tình hình tài chính của doanh nghiệp. Sau khi cho vay, việc kiểm tra sử dụng vốn vay đối với doanh nghiệp được xử lí như thế nào ? Trong trường hợp đơn vị có nhu cầu sử dụng vốn để trả công lao động hay trả tiền mua vật tư bằng tiền mặt... như đã dự kiến trong phương án vay, nhưng khi đã vay được tiền tại ngân hàng A thì nợ tại ngân hàng B đến hạn do khoản thu nhập dự kiến để trả ngân hàng B chưa về kịp buộc đơn vị phải sử dụng số tiền đã vay ngân hàng A để trả cho ngân hàng B để chi dùnh theo thực tế ban đầu. Hiện tượng đảo nợ thường xuyên xảy ra đối với các doanh nghiệp hoạt động trong ngành xây dựng do họ thường xuyên bị chiếm dụng vốn từ các chủ đầu tư và để hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường buộc họ phải thực hiện biện pháp trên để tránh tình trạng thường xuyên xin khất nợ do vốn thanh toán khối lượng công trình luôn bị chậm. Vì là kiểm tra sau nên việc phát hiện đơn vị dùng sai mục đíh đã xảy ra khắc phục bằng cách thu hồi nợ trước hạn thì phải chờ đơn vị có nguồn. Như vậy, sự cần thiết phải giám sát trong quá trình vay là rất quan trọng, nếu phát hiện doanh nghiệp sử dụng vốn vay sai mục đích lập tức có biện pháp can thiệp đúng đắn có như thế khoản tín dụng mới đảm bảo an toàn và phát triển. Thực tế hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp khi thực hiện chức năng hoạt động sản xuất kinh doanh, nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp nếu có thể tách ra cụ thể là vốn vay của ngân hàng nào để thực hiên riêng dự án, và nguồn thu của món nào được dùng để trả nợ cho món vay đó là sẽ quá đơn giảm cho từng ngân hàng khi thực hiện chức năng quản lí việc thực hiện vốn vay . Nhưng hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị là một guồng máy vận hành liên tục và vốn của doanh nghiệp, vốn của ngân hàng đều vận hành theo quỹ đạo đó, khi có nguồn thu họ sẽ tính toán trả nợ những món vay nào đến hạn trước, do vậy bản thân đơn vị vay vốn cũng không có khả năng thực hiện ý đồ tách bạch từng món nợ của từng ngân hàng và chính ngân hàng cũng không thể buộc đơn vị là tiền thu được từ món vay ngân hàng mình phải trả nợ cho mình khi mà chưa đến thời hạn trả. Từ thực tế đó các ngân hàng cần có các biện pháp phù hợp thực hiện quản lí khoản vay của mình sao cho có hiệu quả cao nhất . 4. Tài sản thế chấp. Tài sản thế chấp là sự bảo đảm cho khoản vay, ngân hàng chỉ nên coi đó là cam kết sẽ trả nợ chứ kông phải là nguồn trả nợ. Ngân hàng cần có sự thẩm định kĩ càng đối với tài sản thế chấp cả về giá trị thị trường và tính pháp lí để tránh tình trạng các doanh nghiệp dùng một loại tài sản đi thế chấp và vay vốn ở nhiều ngân hàng khác nhau hoặc tài sản có giá trị thấp hơn so với giá trị trên giấy tờ. Tuy nhiên các thủ tục phải nhanh chóng tránh sự phiền hà. Hiện nay các doanh nghiệp đang phàn nàn rất nhiều về thủ tục công chứng quá phức tạp tốn thời gian (công chứng phải rà từng chữ trong văn bản cầm cố thế chấp, bảo lãnh ). Ngân hàng cần có sự kết hợp với phòng công chứng để giảm bới một số thủ tục, thời gian và chi phí giao dịch. Như ta đã biết trong chương II một trong ba nguyên tắc cơ bản của tín dụng là “ vốn vay phải được đảm bảo bằng giá trị vật tư hàng hoá tương đương” và cũng như đã trình bày trong chương II “ một khi cả ba nguyên tắc ấy hoặc một trong ba nguyên tắc bị coi nhẹ, hoặc quá nhấn mạnh nguyên tắc này, tuỳ tiện với nguyên tắc kia” thì sớm muộn cũng dẫn đến phá vỡ quan hệ tín dụng . Bước vào nền kinh tế thị trường, thời gian gần đây, về nguyên tắc tín dụng, dường như người ta quá nhấn mạnh đến nguyên tắc “ thế chấp, cầm cố” do nguyên tắc “ giá trị vật tư hàng hoá tương đương đảm bảo” qui định, quá lơ là hai nguyên tắc cấu thành cơ bản khác. Như vậy là không ổn. Và thực tế do thiên lệch trong quan niệm về cầm cố, thế chấp một mặt đã làm méo mó, xói mòn ba nguyên tắc tín dụng, mặt khác các tổ chức tín dụng đã trở thành các tiệm cầm đồ ngày càng nhiều đồ giả, mà với đồ thật dù đã chất thành “núi thế chấp”, tín dụng vẫn trắng tay không có cách nào và bao giờ thu lại được vốn. Phải chăng cùng chung điều kiện kinh tế thị trường trên lãnh thổ Việt Nam, một số chi nhánh ngân hàng nước ngoài đang cạnh tranh thành đạt như thế nào trong hoạt động huy động và cho vay, có thể thực tiễn đó đang cho lời giải vận dụng, chấp hành các nguyên tắc tín dụng như thế nào là cần thiết và có ý nghĩa nhất. 5. Thành lập quĩ rủi ro tín dụng. Ngân hàng cần lập quĩ dự phòng để bù đắp thiệt hại do hoạt động tín dụng gây nên. Quĩ này có vai trò tích cực trong việc hạn chế các thiệt hại xảy ra rủi ro giúo ngân hàng ổn định hoạt động bảo tồn và phát triển nguồn vốn trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Rủi ro trong kinh doanh của ngân hàng là rất lớn, chính vì vậy ngân hàng cần nghiêm chỉnh thực hiện dúng qui định của Chính Phủ về lập quĩ. Hiện nay theo nghị định số 166/1999/NĐ - CP về chế độ tài chính đối với các tổ chức tín dụng thì lợi nhuận của các ngân hàng sau khi nộp thuế doanh nghiệp, trích lập quĩ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, bù lỗ năm trước, nộp tiền thu sử dụng vốn ngân sách Nhà nước, trừ tiền phạt vi phạm pháp luất sẽ được trích 10% trong số còn lại để lập quĩ dự phòng tài chính( nhưng số dư của quỹ không quá 25% số vốn điều lệ của tổ chức tín dụng ). Quĩ dự phòng tài chính dùng để bù đắp phần còn lại của những tổn thất, thiệt hại về tài sản xảy ra trong quá trình kinh doanh sau khi đã được bù đắp bằng tiền bồi thường của các tổ chức, cá nhân gây ra tổn thất, của tổ chức bảo hiểm và sử dụng dự phòng trích lập trong chi phí. 6. Thực hiện tốt chiến lược khách hàng, tích cực tìm kiếm khia thác khách hàng. Chiến lược khách hàng tức là làm marketing ngân hàng, đây là hình thức quan trọng trong giai đoạn hiện nay đối với các ngân hàng. Qua đó có thể giữ được khách hàng truyền thống và thu hút khách hàng lớn làm ăn có hiệu quả. Nếu thu hút được nhiều khách hàng đến với ngân hàng thì ngân hàng có nhiều cơ hội đầu tư hơn, hoạt động tín dụng càng được mở rộng. Vì vậy các ngân hàng cần đẩy mạnh công tác khách hàng, tổ chức hội nghị khách hàng. Các ngân hàng hướng dẫn khách hàng giải quyết thủ tục vay vốn một cách nhanh gọn, nhưng bảo đảm tốt quy trình thẩm định. Tăng cường quan hệ với các Tổng công ty để tạo điều kiện cho quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với các thành viên của Tổng công ty. Chủ động bố trí nguồn vốn lớn bao gồm cả nội tệ và ngoại tệ để đầu tư cho ngành,các Tổng công ty, các dự án có vị trí chiến lược đối với nền kinh tế như :Bưu chính viễn thông, điệnlực, than, dầu khí... Nghiên cứu xây dựng mục tiêu, kế hoạch đầu tư trung, dài hạn theo chiến lược khách hàng. Tăng cường công tác tiếp thị, tìm kiếm các tổ chức kinh tế và cá nhân hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn đi đôi với tư vấn đầu tư để chủ độngcho quan hệ tín dụng và khai thác khách hàng đáp ứng đầy đủ nhu cầu vốn trung, dài hạn. Tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng bằng một chính sách lãi suất, phí dịch vụ thấp, có khả năng cạnh tranh được với các ngân hàng khác, luôn coi lợi ích của khách hàng chính klà lợi ích của bản thân ngân hàng. Thực hiện chính sách ưu đãi lãi suất phí dịch vụ cho những khách hàng thực hiện giao dịch trọn gói với ngân hàng bao gồm từ khâu vay vốn kinh doanh ngoại tệ đến khâu thanh toán xuất nhập khẩu và chuyển tiền. Ngân hàng phải chủ động đặt quan hệ với khách hàng làm ăn có hiệu quả chứ không phải bị động ngồi chờ khách hàng đến gõ cửa xin vay, nếu không sẽ bỏ phí những cơ hội đầu tư lớn đem lại lợi nhuận cao cho kinh doanh ngân hàng. Xử lí khoản nợ quá hạn. Để nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn thì vấn đề quan trọng là phải xử lí các khoản nợ, gia hạn để giúp các ngân hàng giải quyết nguồn vốn đang bị ứ đọng. Trước tiên, phải tiến hành rà soát lại các khoản nợ quá hạn, xác định nguyên nhân của nó và đưa ra các biện pháp xử lí kịp thời. Đối với các đơn vị kinh tế vẫn có khả năng phục hồi sản xuất thì cần tạo cho họ cơ hội làm ăn để trả nợ ngân hàng. Trong trường hợp này ngân hàng nên làm thủ tục gia hạn nợ hoặc điều chỉnh hợp đồng. Nếu nợ quá hạn là do hàng hoá của khách hàng bị ứ đọng, chậm tiêu thụ ngân hàng có thể giúp doanh nghiệp phát triển mạng lưới tiêu thụ, tăng cường chiến dịch quảng cáo, khuyếch trương sản phẩm ... Nếu khách hàng sử dụng vốn sai mục đích thì ngân hàng phải có biện pháp thu hồi lại vốn ngay. Đối với khách hàng có biểu hiện chây lì, lừa đảo thì kiên quyết chuyển hồ sơ xin vay khách hàng sang cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phối hợp giải quyết. Bên cạnh việc xử lí nợ quá hạn, ngân hàng cần quan tâm đến biện pháp hạn chế phát sing nợ quá hạn. Do vậy, cán bộ tín dụng luôn phải theo dõi các khoản vay và khi phát hiện khoản vay có vấn đề thì tuỳ vào từng trường hợp mà ngân hàng có biện pháp giúp đỡ khách hàng hoặc có thể khôi phục năng lực tài chính của khách hàng... Bên cạnh đó ngân hàng cũng cần phải tổ chức phân loại khách hàng một cách thường xuyên để có biện pháp mở rộng thị phần trong kinh doanh tiền tệ thông qua các sản phẩm của ngân hàng và nâng cao chất lượng dịch vụ, mở rộng quan hệ với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh vì đặc điểm sản xuất kinh doanh của thành phần này năng động, nhạy bén, thích ứng nhanh với cơ chế thị trường,dộ máy sản xuất kinh doanh gọn nhẹ, hiệu quả kinh tế luôn gắn liền với lợi ích của từng người nên họ liên tiếp tìm ra các biện pháp giảm chi phí lưu thông, tìm kiếm mặt hàng mới, mẫu mã phong phú, chủng loại đa dạng. Đây cũng là nhân tố hấp dẫn với qui luật cạnh tranh trên thị trường cũng như đối với ngân hàng khi xem xét khả năng vay vốn của doanh nghiệp. Vì vậy mở rộng tín dụng đối với thành phần kinh tế này không những bảo đảm vững chắc góp phần vào việc tăng trưởng nền kinh tế mà còn bảo đảm hệ số an toàn vốn cho ngân hàng. Lãi suất cho vay . Lãi suất cho vay là vấn đề không chỉ ngân hàng quan tâm mà các chủ thế kinh doanh luôn chú ý, là điểm hội tụ của nhiều mối quan hệ, liên quan đến lợi ích vật chất của các bên. Lãi suất cho vay phụ thuộc vào nhều yếu tố kinh tế khác nhau nên để đưa ra mức lãi suất mới cần phải thay đổi nhiều yếu tố khác. hiện nay ngân hàng công thương Đống Đa thực thi mức lãi suất dựa trên khung lãi suất do ngân hàng công thương Việt Nam qui định. Ngân hàng đã thực hiện mức lãi suất linh hoạt cho từng khách hang như ng vẫn còn sự phân biệt đối với kinh tế ngoaì quốc doanh. Điều này gây cản trở khách hàng ngoài quốc doanh đến với ngân hàng. Trước tình hình ứ đọng vốn nhiều như vậy, ngân hàng nên mở rộng cho vay kinh tế ngoài quốc doanh thông qua việc đưa ra một mức lãi suất “mềm” hơn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này có thể vay vốn của ngân hàng và sử dụng vốn để kinh doanh có lãi. Ngân hàng cần áp dụng lãi suất linh hoạt theo mức vay vốn. Để khuyến khích khách hàng vay vốn, ngân hàng nên đưa ra mức lãi suất linh hoạt theo lượng vốn vay của khách hàng, những khoản vay với khối lượng lớn nên áp dụng mức lãi suất thấp hơn. Thiết lập trung tâm thông tin và tư vấn đầu tư . Vấn đề của các ngân hàng thương mại hiện nay trong việc nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn là khâu thông tin và xử lí thông tin của doanh nghiệp. Tại các ngân hàng nước ngoài thông tin về các doanh nghiệp được dữ trữ đầy đủ tại các ngân hàng “mẹ”. Do đó các chi nhánh khi cần xử lí thông tin chỉ cần lấy từ các ngân hàng “mẹ”. Khoản cho vay ra sao, giá trị như thế nào, do từng cấp thẩm quyền quyết định và chịu trách nhiệm. Vì vậy, trong khi các ngân hàng thương mại Việt Nam lúng túng thì các ngân hàng nước ngoài cho vay trung, dài hạn với tỉ trọng cao mà không có rủi ro. Việc thành lập phòng thông tin và tư vấn đầu tư của ngân hàng sẽ phần nào gỡ rói cho ngân hàng. Đây sẽ là thông tin tổn hợp bao quát toàn bộ vấn đề thông tin để đồng thời thực hiện các nhiệm vụ đặt ra ở phần “ cải tiến quy trình cho vay” và “nâng cao chất lượng thẩm định”. Xa hơn nữa, phòng này sẽ có thể tư vấn giúp đỡ khách hàng trong việc tìm và xây dựng dự án đầu tư . Như vậy phòng thông tin tư vấn đầu tư có tác dụng nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn. III. Một số kiến nghị. Kiến nghị với ngân hàng công thương Việt Nam . Với vai trò là cơ quan chỉ đạo trực tiếp hoạt động của ngân hàng công thương Đống Đa, ngân hàng công thương Việt Nam cần có nhưng hướng dẫn cụ thể hoạt động của ngân hàng công thương Đống Đa, ngân hàng công thương Việt Nam cần thực hiện các công việc sau. + Chỉ đạo hướng dẫn cụ thể, kịp thời các chủ trương, chính sách của Chính Phủ và của ngành. Hiện nay để hoàn thiện môi trường pháp lí tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động ngân hàng, Chính Phủ thường xuyên đưa ra những nghị định để chỉ đạo hoạt động của ngân hàng. Nên sau khi các văn bản pháp luật này ra đời ngân hàng công thương Việt Nam nên có văn bản hướng dẫn cụ thể việc thực hiện đến từng chi nhánh, giải toả kịp thời những vướng mắc để nâng cao hiệu quả hoạt động. + Các văn bản hướng dẫn do ngân hàng công thương ban hành cần phải nghiên cứu một cách cẩn thận hơn trước khi công bố gây khó khăn hoặc vô tình tạo nên sự cạnh tranh không bình đẳng giữa các ngân hàng thương mại. Ví dụ như quyết định 35/QĐ - HĐBT ngày 25/5/1998 của chủ tịch hội đồng quản trị ngân hàng công thương Việt Nam qui định ưu đãi về lãi suất cho vay (giảm 15% so với lãi suất thường) và mức phí dịch vụ, điều kiện vay vốn, về kí quĩ và ưu đãi đầu tư khác đối với khách hàng là Tổng công ty Nhà nước thành lập theo quyết định 90 – 91 có dư nợ cao. Điều này khiến cho các đơn vị thành viên của công ty tập trung về nhờ Tổng công ty vay vốn để hưởng chế độ ưu đãi. Điều này làm khó khăn cho ngân hàng trong việc quản lí và sử dụng vốn vay. Và một chế độ ưu đãi nữa cũng gây khó khăn cho ngân hàng là việc phân biệt ưu đãi lãi suất với khách hàng của các ngân hàng có tổng dư nợ khác nhau : - Các ngân hàng có tổng dư nợ dưới 100 tỉ thì khách hàng có dư nợ từ 5 tỉ trở lên sẽ được hưởng lãi suất ưu đãi, giảm lãi suất cho vay. - Các ngân hàng có tổng dư nợ cho vay từ 100 – 200 tỉ khách hàng dư nợ từ 7 tỉ trở lên được hưởng lãi suất ưu đãi. - Còn các ngân hàng có tổng dư nợ lớn hơn 200 tỉ thì khách hàng có dư nợ trên 10 tỉ mới được hưởng lãi suất ưu đãi. Do khách hàng được tự do lựa họn ngân hàng nên các khách hàng có số dư nợ thấp sẽ bỏ các ngân hàng dang giao dịch để đến với ngân hàng có tổng dư nợ thấp để hưởng lãi suất ưu đãi. Điều này tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng . Phạm vi quyết định món vay của ngân hàng công thương Đống Đa cũng gây ra sự phân biệt đối với các thành phần kinh tế . . Đối với thành viên Tổng công ty, được cho vay nhiều nhất là 20 tỉ đồng cho một dự án . . Đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì mức quyết định là 5 tỉ đồng cho một dự án. Mức phán quyết này thể hiện một sự phân biệt đối xử rất rõ ràng giữa kinh tế quốc doanh và kinh tế ngoài quốc doanh. Với mức phán quyết 5 tỉ thì khách hàng ngoài quốc doanh có muốn vay nhiều sẽ rất phiền hà, mất thời gian. Qui định này gần như là một sự thu hẹp đối với cho vay ngoài quốc doanh. + Ngân hàng công thương Việt Nam cũng nên tạo một sự tự chủ hơn nữa cho các ngân hàng thương mại, có thể bỏ bới một số chỉ tiêu kế hoạch hoặc mở rộng phạm vi quyết định cho giám đốc ngân hàng thương mại. Chỉ tiêu vốn điều hoà nộp lên ngân hàng công thương Việt Nam mặc dù có mặt rất tốt là giúp ngân hàng công thương san sẽ hỗ trợ vốn cho các ngân hàng khác nhưng chính nó lại làm triệt tiêu động lực kinh doanh. Ngân hàng công thương Đống Đa mặc dù không cho vay được nhiều nhưng vẫn có lãi vì một lượng vốn lớn điều chuyển lên ngân hàng công thương Việt Nam vẫn được hưởng lãi. Như vậy, rõ ràng là ngân hàng công thương Đống Đa cũng không cần thiết phải tìm kiếm khách hàng để cho vay va cũng khong lo bị thua lỗ vì vốn thừa cứ đem nộp lên cấp trên. Chỉ tiêu vốn điều hoà trở thàh sự bao cấp của ngân hàng công thương Việt Nam cho các ngân hàng chi nhánh và tất nhiên đã là bao câpớ thường kém hiệu quả. Thiết nghĩ rằng chỉ tiêu này cũng nên được duy trì ở mức độ nào đó nhưng dần dần giảm bớt đi và khoong phải cứ vượt chỉ tiêu là được khuyến khích. Có như vậy mới khiến cho các ngân hàng công thương chi nhánh trong đó có ngân hàng công thương Đống Đa phải tự vận động tìm khách hàng làm ăn có hiệu quả để cho vay ngắn và trung, dài hạn. Ngân hàng công thương Việt Nam nên có một công ty chuyên trách trong việc mua bán khai thác tài sản, bắt nợ cho các chi nhánh, nhanh chóng giải quyết được nợ từ nhưng vụ cho vay có vấn đề nhằm khơi thông bảo toàn nguồn vốn. Kiến ghị với ngân hàng Nhà nước Việt Nam . Ngân hàng Nhà nước cần phải ban hành thông tư liên tịch để hướng dẫn thủ tục xử lí tài sản thế chấp, cầm cố vay vốn của các tổ chức tín dụng. Đề nghị Nhà nước cấp bù hoặc xoá nợ cho những ngân hàng có những khoản nợ quá hạn vì lí do khách quan, xá định và cấp đủ vốn cho ngân hàng thương mại quốc doanh. Sớm đưa ra những quyết định về thiết lập quĩ bù đắp rủi ro để các tổ chức tín dụng chủ động giải quyết các khoản nợ có vấn đề. Ngân hàng Nhà nước cần nâng cao hơn nữa chất lượng của trung tâm tín dụng để giúp các ngân hàng nắm bắt thông tin về các tổ chức kinh tế một cách chín xác, kịp thời. Ngân hàng Nhà nước nên qui định hạn mức tín dụng cho phù hợp với khả năng của từng ngân hàng thương mại. Ngân hàng Nhà nước cùng các ngân hàng thương mại quốc doanh cần tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động của thị trường liên ngân hàng, tăng khả năng đáp ứng yêu cầu thanh khoản và tín dụng cho ngân hàng. Thiết lập và sớm đưa ra hoạt động các công ty mua bán nợ góp phần xử lí các khoản nợ, lành mạnh hoá các khoản nợ của hệ thống ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước cần thực hiện tốt hơn nữa công tác thanh tra ngân hàng nhằmhạn chế thấp nhất những sai lầm có thẻe gặp phải ở các ngân hàng. 3. Kiến nghị với Chính Phủ và các cơ quan Nhà nước. Nhà nước cần hoàn thiện môi trường pháp lí va tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động. Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và các tổ chức kinh tế chịu tác động của niều yếu tố kinh tế, chính trị , xã hội, luât pháp... Do đó, một môi trường pháp lí đồng bộ và hoàn thiện sẽ giúp cho ngân hàng thực hiện các khoản vay của mình một cách hiệu quả hơn. Để đạt được điều này Quốc hội cũng như các cơ quan khác, bên cạnh luật ngân hàng Nhà nước và luật các tổ chức tín dụng thì cần sữa đổi và hoàn thiện một số luật khác có liên quan như luật doanh nghiệp, luật đầu tư trong nước, luật bảo hiểm, luật thế chấp... Việc này có tác dụng bảo đảm cho quan hệ tín dụng được dựa trên một nền tảng vững chắc đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng. Chính Phủ cần tăng cường các biện pháp quản lí Nhà nước đối với các doanh nghiệp, bảo đảm các doanh nghiệp hoạt động theo đúng chức năng, ngành nghề đã đăng kí kinh doanh, qui mô hoạt động phù hợp với vốn đều lệ, năng lực và trình độ quản lí. Thu hồi có thời hạn hoặc vĩnh viễn giấy phép đăng kí kinh doanh đối với các doanh nghiệp vi phạm pháp luật trong hoạt động kinh doanh của mình như buôn lâu, làm hàng giả, lừa đảo... Cần có biện pháp kinh tế, hành chính buộc các doanh nghiệp phải chấp hành đúng pháp lệnh thông kê kế toán, thực hiện kế hoach kiểm toán bắt buộc hàng năm đối với các doanh nghiệp nhằm xác lập sự lành mạnh của các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế vì điều này sẽ giúp nền kinh tế vận hành hoàn hảo hơn qua đó sẽ giúp các ngân hàng xác định chính xác năng lực tài chính của đơn vị vay vốn. Các cơ quan quản lí vĩ mô cần có sự phối hợp chặt chẽ với nhau trong việc cân đối giữa nhu cầu đầu tư và phát triển cơ sở hạ tầng. Tránh tình trạng đầu tư ồ ạt vào một lĩnh vực, một ngành nào đó gây lãng phí do thừa cung, nhưng cũng tránh việc đầu tư một cách dàn trải vì điều này sẽ dãn tới việc thực hiện dự án đầu tư không hiệu quả làm suy hại đến hiệu quả kinh tế nói chung va chất lượng hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại nói riêng. Nhà nước cũng cần có chính sách ưu tiên, khuyến khích các ngân hàng thương mại cho vay trung, dài hạn để phát triển kinh tế như giảm thuế đối với hoạt động này tạo hành lang pháp lí đồng bộ, tạo điều kiện để các ngân hàng thương mại Việt Nam có thể cạnh tranh được với các ngân hàng nước ngoài. Một trong những khó khăn lớn hiện nay của các ngân hàng thương mại Việt Nam là tình trạng thế chấp quay vòng mà lỗi là do sự quan liêu, thiếu trách nhiệm của các bên lien quan. Điều này đòi hỏi các cơ quan chức năng cần kiểm tra chấn chỉnh việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản, các tài sản chỉ được cấp một gấy chứng nhận bản gốc duy nhất để tránh tìnhtrạng trên. Mặt khác việc phát mại tài sản thế chấp hiện nay cũng còn rất nhiều khó khăn vướng mắc. Nhà nước cần sớm cho ra đời một uỷ ban đặc biệt của Chính Phủ, hoạt động với một cơ chế đặc biệt, có đủ thẩm quyền để xử lí các tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh một cách nhanh chóng giúp ngân hàng thuận lợi hơn trong việc thu hồi nợ, chuyển các tài sản này thành nguồn vốn luân chuyển được. Chính Phủ cần thành lập các công ty có chức năng kinh doanh bất động sản và mua bán nợ dưới các hình thức doanh nghiệp Nhà nước, công ty cổ phần hay liên doanh để mua lại các tài sản thế chấp, cầm cố bảo lãnh của các ngân hàng thương mại nhằm giải phóng nợ đọng, làm lành mạnh hoá tình trạng tài chính của ngân hàng. Nói cách khác Chính Phủ nên thành lập và sớm đi vào hoạt động thị trường mua bán nợ và tài sản đảm bảo của ngân hàng thương mại. Đẩy nhanh tốc độ phê duyệt dự án đầu tư, giảm thời gian ở từng khâu của dự án trong lĩnh vực xây dựng cơ bản. Điều này thực sự có ý nghĩa đối với ngân hàng. 4. Kiến nghị đối với các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng. Các doanh nghiệp tăng cường tích luỹ vốn tự có, không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ quản lí, áp dụng công nghệ tiên tiến phù hợp với môi trường trình độ sản xuất trong nước. Doanh nghiệp phải có phương thức hoạt động linh hoạt nhằm thích ứng nhanh với biến động của môi trường kinh tế, môi trường pháp lí. Kết luận Hoạt động tín dụng là một trong những hoạt động kinh doanh tiền tệ của ngân hàng. Muốn tồn tại và đứng vững trong cơ chế thị trường, ngân hàng cần phải đảm bảo được chất lượng của hoạt động tín dụng. “ Nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng trung, dài hạn” không chỉ là mong muốn riêng của ngân hàng công thương Đống Đa mà còn là của các ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và cũng là mong muốn của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Nhận thức được vấn dề này, dưới sự nhìn nhận của một sinh viên thực tập, bài viết này mong muốn đề cập đến hoạt động tín dụng đối với các dự án trung, dài hạn để từ đó đưa ra một số giải pháp và kiến nghị với mong muốn có thể nâng cao chất lượng tín dụng đối với các dự án trung, dài hạn tại chi nhánh ngân hàng công thương Đống Đa. Như đã đề cập, tín dụng trung, dài hạn có ảnh hưởng tới nhiều vấn đề và lĩnh vực kinh tế xã hội khác nhau, đồng thời loại tín dụng này cũng chịu ảnh hưởng rất nhiều yếu tố. Tuy vậy với tốc độ phát triển kinh tế như hiện nay cùng với những kinh nghiệm và nổ lực của toàn bộ tập thể cán bộ chi nhánh ngân hàng công thương Đống Đa chúng ta tin rằng trong một tương lai không xa, chi nhánh đạt được mục tiêu nâng cao chất lượng đối với hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động tín dụng trung, dài hạn nói riêng. Mục lục Lời nói đầu. 1 Chương I : Ngân hàng thương mại và hoạt động tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng thương mại. 3 I. Ngân hàng thương mại và hoạt động của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường. 3 Khái niệm ngân hàng thương mại . 3 Các hoạt động của ngân hàng thương mại. 4 2.1 Hoạt động huy động vốn. 4 Hoạt động sử dụng vốn. 6 Hoạt động ngân quĩ. 6 Hoạt động đầu tư . 6 Hoạt động tín dụng . 6 2.3 Hoạt động trung gian. 8 Dịch vụ thanh toán hộ. 8 Dịch vụ mua bán hộ chứng khoán. 8 Dịch vụ mua bán ngoại tệ. 9 3. Vai trò của ngân hàng thương mại. 9 Vai trò thực thi chính sách tiền tệ. 9 Góp phần vào hoạt động điều tiết vĩ mô thông qua chức năng tạo tiền của ngân hàng thương mại. 10 II. Tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế. 11 Khái niệm. 11 Đặc điểm của tín dụng trung, dài hạn. 12 Mục đích, đối tượng, điều kiện cho vay trung, dài hạn. 13 Nguyên tắc tín dụng trung, dài hạn. 14 Vai trò tín dụng trung, dài hạn trong nền kinh tế. 16 Tín dụng trung, dài hạn đảm bảo phát triển kinh tế theo chiều sâu, thúc đẩy sự chuyển dịch kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. 16 Tín dụng trung, dài hạn góp phần chuyển dịch cơ bản nền kinh tế. 17 Tín dụng trung, dài hạn tạo điều kiện cho tín dụng ngắn hạn phát triển. 18 Tín dụng trung, dài hạn cung ứng vốn cho các doanh nghiệp có tiềm năng để mở rộng và phát triển. 18 Các vấn đề cơ bản về tín dụng trung, dài hạn tại ngân hàng thương mại. 19 Lãi suất cho vay. 19 Hạn mức tín dụng. 19 Thế chấp khoản cho vay. 20 Chất lượng tín dụng trung, dài hạn và các chỉ tiêu đánh giá. 20 Khái niệm 20 Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại. 21 Nâng cao chất lượng tín dụng là đòi hỏi bức thiết của nền kinh tế thị trường. 21 Nâng cao chất lượng tín dụng quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. 22 Các chỉ tiêu định lượng đánh giá chất lượng tín dụng. 23 Đối với ngân hàng. 23 Đối với doanh nghiệp. 25 Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng trung, dài hạn. 25 4.1 Về phía ngân hàng. 25 Hoạt động thẩm định. 25 Thẩm định khách hàng. 26 Thẩm định dự án đầu tư. 28 Công tác kiểm tra, kiểm soát. 33 Chất lượng cán bộ tín dụng. 33 Về phía khách hàng. 33 Năng lực của khách hàng. 33 Sự trung thựccủa khách hàng. 33 4.3 Môi trường pháp lí, môi trường kinh tế, chính trị. 34 Chương II : Thực trạng hoạt động tín dụng trung, dài hạn tại chi nhánh ngân hàng công thương Đống Đa. 35 Khái quát về tín dụng trung, dài hạn ở các ngân hàng thương mại Việt Nam. 35 Giới thiệu chung về ngân hàng công thương Đống Đa. 36 Quá trình hình thành và phát triển. 36 Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng công thương Đống Đa. 38 Hoạt động huy động vốn. 38 Hoạt động sử dụng vốn. 42 Hoạt động trung gian. 47 Hoạt động thanh toán quốc tế và kinh doanh đối ngoại. 47 Hoạt động bảo lãnh. 47 Hoạt động thanh toán 48 Kết quả kinh doanh. 48 Thực trạng tín dụng trung, dài hạn tại ngân hàng công thương Đống Đa. 49 1. Thực tế hoạt động cho vay trung, dài hạn. 49 Thực trạng cho vay ngắn và trung, dài hạn. 49 Cho vay trung, dài hạn xét theo cơ cấu thành phần kinh tế. 50 Doanh số cho vay trung, dài hạn. 50 Doanh số thu nợ trung, dài hạn. 51 Dư nợ trung, dài hạn. 52 Cho vay trung, dài hạn xét theo cơ cấu ngành kinh tế. 53 Đánh giá chất lượng tín dụng trung, dài hạn tại chi nhánh ngân hàng công thương Đống Đa. 54 2. Những thành tựu đạt được trong hoạt động tín dụng trung, dài hạn. 56 Những hạn chế trong hoạt động tín dụng trung, dài hạn và nguyên nhân của nó. 58 Những hạn chế. 58 Các nguyên nhân. 59 Nguyên nhân chủ quan. 59 Nguyên nhân khách quan. 61 Chương III : Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng trung, dài hạn tại chi nhánh ngân hàng công thương Đống Đa. 64 Định hướng hoạt động tín dụng trung, dài hạn tại chi nhánh ngân hàng công thương Đống Đa. 64 Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn tại chi nhánh ngân hàng công thương Đống Đa. 65 1. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư. 65 Nâng cao chất lượng thu thập và xử lí thông tin của ngân hàng. 65 Thành lập nhóm hoặc phòng chuyên trách thẩm định dự án. 67 Nâng cao năng lực chuyên môn hoá của cán bộ tín dụng. 67 Tăng cường kiểm tra các khoản tín dụng. 69 Tài sản thế chấp. 70 Thành lập qũi rủi ro tín dụng. 71 Thực hiện tốt chiến lược khách hàng, tích cực tìm kiếm khai thác khách hàng. 71 Xử lí khoản nợ quá hạn. 72 Lãi suất cho vay 73 Thiết lập trung tâm thông tin và tư vấn đầu tư 73 Một số kiến nghị. 74 Kiến nghị với ngân hàng công thương Việt Nam. 74 Kiến nghị với ngân hàng Nhà nước Việt Nam. 76 Kiến nghị với Chính Phủ và các cơ quan hữu quan. 76 Kiến nghị đối với doanh nghiệp vay vốn ngân hàng. 78 Kết luận. Tài liệu tham khảo Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính – Fredric Miskin Tìm hiểu nghiệp vụ NHTM – PTS Hồ Diệu Ngân hàng thương mại – Lê Văn Tư Tài chính doanh nghiệp – PTS Vũ Duy Hào Tạp chí ngân hàng năm 1998, 1999, 2000, 2001 Thời báo kinh tế năm 1998, 1999, 2000, 2001 Tạp chí tài chính doanh nghiệp 1999, 2000, 2001 Tạp chí kinh tế phát triển 1997, 1999, 2000, 2001 Tạp chí nghiên cứu kinh tế năm 1999, 2000, 2001 Thể lệ tín dụng trung, dài hạn của NHCT Việt Nam Hướng dẫn thực hiện quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng của NHCT Việt Nam

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0188.doc
Tài liệu liên quan