* Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán: Nhiều ngân hàng đang phấn đấu cung cấp đủ các dịch vụ tài chính cho phép khách hàng thoả mãn mọi nhu cầu. Đây là một trong những lý do chính khiến các ngân hàng bán các dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác mà không phải nhờ đến người kinh doanh chứng khoán.
* Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm: Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã bán bảo hiểm cho khách hàng, điều đó bảo đảm việc hoàn trả trong trường hợp khách hàng bị chết, bị tàn phế hay gặp rủi ro trong hoạt động, mất khả năng thanh toán.
* Cung cấp các dịch vụ đại lý: Nhiều ngân hàng trong quá trình hoạt động không thể thiết lập chi nhánh hoặc văn phòng ở khắp mọi nơi. Nhiều ngân hàng cung cấp dịch vụ ngân hàng đại lý cho các ngân hàng khác như thanh toán hộ, phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi, làm ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ
59 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1107 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao chất lượng kinh doanh thẻ tại Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
56,03% so với năm 2006.
Huy động VNĐ năm 2008 đạt 13.741 tỷ đồng chiếm 72,79% tổng nguồn vốn huy động.
Huy động ngoại tệ năm 2008 đạt 2.854 tỷ đồng chiếm 27.21% tổng nguồn huy động.
Huy động từ các tổ chức kinh tế năm 2008 đạt 2.632 tỷ đồng đạt 23.76% tổng nguồn vốn huy động.
Huy động từ dân cư năm 2008 đạt 10.109 tỷ đồng đạt 56.84% tổng nguồn vốn huy động.
Bảng 2.1. Tình hình huy động vốn
Đơn vị: Tỷ đồng
Năm
Tổng huy động vốn
Vốn huy động bằng VNĐ
Vốn huy động bằng USD
2006
8.774
6.920
1.854
2007
11.210
9.194
2.016
2008
15.595
12.741
2.854
(Nguồn: Báo cáo kết quả họat động kinh doanh của Sở giao dịch ngân hàng Đầu tư Phát triển Việt Nam (2006 - 2008)
Nhìn chung tổng huy động vốn của Sở giao dịch năm sau bao giờ cũng cao hơn năm trước, tốc độ tăng trưởng nguồn những năm 2007 - 2008 so với các năm từ 2006 trở về trước cũng rất cao, tính trung bình tốc độ tăng trưởng đạt 47,2%. Nhưng từ năm 2006 trở về đây thì tổng huy động vốn và tốc độ tăng trưởng của Sở giao dịch giảm dần qua các năm (năm 2007 so với năm 2006 tăng 24,86%, năm 2008 so với năm 2007 tăng 17,42%. Lý giải cho tình trạng này là do sự tăng trưởng hết sức mạnh mẽ của khối Ngân hàng thương mại cổ phần với nhiều hình thức cạnh tranh dần thu hút nguồn huy động vốn vốn về phía các khối ngân hàng này. Cơ cấu vốn VND/ngoại tệ trong tổng nguồn vốn huy động đã chuyên biến dần qua các năm và ngày càng được cân bằng. Tỉ lệ VND/ ngoại tệ qua các năm cần được cân bằng năm 2006 là 51,98%/48,02%; năm 2007 là 53,84/46,15%; năm 2008 là 52,79%/47,21%. Huy động vốn bằng VNĐ bao giờ cũng cao hơn so với huy động vốn ngoại tệ, điều này phản ánh xu hướng chú trọng hơn hết thu hút nguồn vốn nội tệ của sở giao dịch.
* Hoạt động tín dụng
Bảng 2.2. Tình hình hoạt động của tín dụng.
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
Tổng dư nợ cho vay
8.961
10.688
12.926
Cho vay dài hạn
2.215
3.264
4.239
Cho vay trung hạn
1.148
2.127
2.165
Cho vay ngắn hạn
3.328
5.297
6.522
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam năm 2006 - 2008).
Với phương châm "Hiệu quả và an toàn" và cùng với sự nỗ lực của cán bộ nhân viên, tính đến 31/12/2008, tổng dư nợ là 12.926 tỷ đồng, trong đó:
Cho vay trung hạn và dài hạn chiếm 47,42% tổng dư nợ.
Cho vay ngắn hạn chiếm 52,58% tổng dư nợ.
Dư nợ quá hạn chiếm 0,8% tổng dư nợ.
Ngoài các loại hình cho vay hỗ trợ khách hàng, cho vay xuất nhập khẩu, chi nhánh còn tiếp tục đầu tư mở rộng thêm các loại hình cho vay tiêu dùng ưu đãi, hấp dẫn khác như: cho vay mua ô tô, sửa chữa nhà cửa, xây dựng văn phòng, biệt thự, cho vay du học.
Đạt được kết quả trên, trước hết phải kể tới là do nhu cầu vốn của các doanh nghệp tăng để mở rộng kinh doanh và chuẩn bị quá trình phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế. Mặt khác, với sự đổi mới cơ chế thông thoáng hơn của ngành chi nhánh như: cơ chế tín dụng, chính sách lãi xuất thoả thuận đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng. Với nhiều biện pháp vận dụng khác nhau trong kinh doanh như: linh hoạt lãi xuất tiền vay với các mức ưu đã hấp dẫn, linh hoạt vận dụng chính sách khách hàng, tiếp cận khách hàng, củng cố đội ngũ khách hàng truyền thống, phát triển khách hàng mới, đặc biệt là các khách hàng tiềm năng và các khách hàng thuộc loại hình doanh nghiệp nhỏ và vừa... Sở giao dịch đã mở rộng được hoạt động tín dụng, đáp ứng các nhu cầu vốn cho hoạt động kinh doanh và đầu tư chiều sâu, đổi mới trang thiết bị, công nghệ hiện đại cho các doanh nghiệp.
* Hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu.
Kể từ khi thành lập chỉ có 5 đơn vị hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu, đến nay đã có trên 170 công ty có quan hệ thanh toán xuất nhập khẩu. Bằng sự nỗ lực không ngừng cũng như sự tâm huyết của cán bộ nhân viên Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, doanh số thanh toán xuất nhập khẩu đã tăng trưởng không ngừng. Tổng kim ngạch thanh toán xuất nhập khẩu năm 2008 tăng 24% so với năm 2007 đạt 85,92 triệu USD và tăng gần 300% so với năm 2002 (năm 2002 đạt 31,6 triệu USD). Trong đó:
Thanh toán nhập khẩu đạt 49,22 triệu USD (1530 giao dịch) bằng 99% so với năm 2007.
Thanh toán xuất khẩu đạt 36,7 triệu úĐ (2332 giao dịch) tăng 87% so với năm 2007.
Bảng 2.3. Doanh tố thanh toán XNK
Đơn vị: Triệu USD
Nghiệp vụ thanh toán
Nhập khẩu
Xuất khẩu
L/C
21.07
15,04
Nhờ thu
16,74
11,58
Chuyển tiền
11.41
10,08
Cộng
49.22
36,70
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam)
Doanh số thanh toán thư tín dụng chứng từ chiếm một tỷ trọng khá lớn trong tổng doanh số thanh toán xuất nhập khẩu của Sở giao dịch Quan sát biểu đồ dưới đây để thấy được tỷ trọng đó.
* Ngân quỹ
Năm 2008,khối lượng giao dịch thu chi tiền mặt qua các chi nhánh
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam tăng nhiều, gồm cả ngoại tệ cũng
như VNĐ. Doanh số thu chi VNĐ năm 2008 là 57.307 tỷ VNĐ, doanh số thu chi USD năm 2008 là 763 triệu USD.
Công tác ngân quỹ luôn đảm bảo an toàn. Các nghiệp vụ ngày càng đa dạng hơn, khối lượng công việc nhiều hơn, nhưng trong giao dịch tiền mặt vẫn đảm bảo chi đủ, đúng, thực hiện trả lại tiền thừa cho khách hàng.
2.2. Thực trạng kinh doanh thẻ tại Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
2.2.1. Một số quy định về thẻ của Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Thẻ tín dụng do Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam phát hành là thẻ tín dụng quốc tế lưu hành trên phạm vi toàn câu. Thẻ tín dụng được phát hành trên cơ sở bằng đồng Việt Nam, sử dụng để thanh toán hàng hoá, dịch vụ tiêu dùng và để rút tiền mặt tại máy ATM hoặc các ngân hàng đại lý. Trong trường hợp sử dụng thẻ thanh toán ở nước ngoài, tổ chức thẻ sẽ chuyển đổi sang USD theo tỷ giá thị trường do tổ chức thẻ quốc tế công bố và báo nợ cho Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (là ngân hàng phát hành). Ngân hàng sẽ quy đổi số tiền đố ra theo VNĐ theo tỷ giá trung bình giữa giá mua và giá bán do Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam công bố vào này ghi nợ tài khoản thẻ. Trường hợp cơ sở chấp nhận thẻ tính giá hàng hoá dịch vụ bằng ngoại tệ thì Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam cũng quy đổi ngoại tệ đó ra VNĐ theo tỷ giá trung bình giữa giá mua và giá bán do Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam công bố vào ngày ghi nợ tài khoản thẻ.
2.2.1.1. Đối tượng sử dụng thẻ.
+ Cá nhân người Việt Nam và người nước ngoài làm việc tại Việt Nam được các tổ chức, nơi cá nhân đó công tác, đứng ra yêu cầu ngân hàng do cá nhân sử dụng thẻ với trách nhiệm thanh toán của chính tổ chức đó. Các tổ chức đứng ra yêu cầu ngân hàng cho sử dụng thẻ có thể có tài khoản hoặc không có tài khoản tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, tuỳ thuộc và uy tín của tổ chức đó và do giám đốc chi nhánh quyết định.
+ Người Việt Nam có thu nhập ổn định và có địa chỉ nơi ở, công tác rõ ràng, chấp nhận mở tài khoản tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam và được cơ quan hàng tháng chuyển thẳng lương vào tài khoản.
+ Người Việt Nam có tài khoản cá nhân, tiền gửi tiết kiệm tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, dùng làm ký quỹ hoặc có tài sản thế chấp cho Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam theo chế độ tín dụng thẻ.
+ Cá nhân người nước ngoài đang sống và làm việc tại Việt Nam thuộc các văn phòng tổ chức quốc tế, cơ quan ngoại giao, thương mại, các công ty có vốn nước ngoài chấp nhận mở tài khoản cá nhân tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
2.2.1.2. Phạm vi sử dụng thẻ.
+ Thanh toán hàng hoá và dịch vụ tại các cơ sở chấp nhận thẻ trong và ngoài nước.
+ ứng tiền mặt tại các quầy, phòng giao dịch của Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam cũng như tại các ngân hàng đại lý thanh toán của Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
+ Hưởng một số dịch vu do Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam cung cấp như ứng tiền mặt từ máy ATM của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam cũng như của các ngân hàng khác ở trong và ngoài nước; xem số dư tài khoảng và các thông tin khác liên quan đến tài sản của chủ thẻ; giao dịch điện thoại, thanh toán hoặc chuyển khoản.
2.2.1.3. Hạn mức tín dụng chung
Là giá trị tối đa (tính bằng VNĐ) mà chủ thẻ được phép sử dụng trong một chu kỳ tín dụng.
- Đối với thẻ vàng: từ 30 triệu đồng đến 60 triệu đồng.
- Đối với thẻ chuẩn: từ 10 triệu đồng đến 30 triệu đồng
2.2.1.4. Hạn mức ứng tiền mặt
Là giá trị tiền mặt tối đa mà chủ thẻ được phép rút tại các điểm chi tiền mặt hoặc các máy rút tiền tự động trong một chu kỳ tín dụng và được quy định tối đa là 1/2 hạn mức tín dụng được cấp.
- Đối với các khách hàng đặc biệt: Sở giao dịch ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam không khống chế số lần, số tiền chi tiêu trong ngày của chủ thẻ, khi cấp phép, ngân hàng chỉ kiểm tra hạn mức tín dụng còn lại của chủ thẻ.
- Đối với khách hàng loại I.
Bảng 2.4. Hạn mức ứng tiền mặt với khách hàng loại I.
Đơn vị: Triệu đồng/ giao dịch
Loại thẻ
Giao dịch tiền mặt
Giao dịch hàng hoá, dịch vụ
Số lần
Tổng số tiền
Số lần
Tổng số tiền
Thẻ vàng
10
3.000.000
10
50.000.000
Thẻ chuẩn
10
3.000.000
10
30.000.000
(Nguồn: Quy định về hạn mức đối với thẻ tín dụng của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam).
- Đối với khách hàng loại khác:
Bảng 2.5. Hạn mức ứng tiền mặt với khách hàng loại khác
Đơn vị: Triệu đồng/ giao dịch
Loại thẻ
Giao dịch tiền mặt
Giao dịch hàng hoá, dịch vụ
Số lần
Tổng số tiền
Số lần
Tổng số tiền
Thẻ vàng
5
3.000.000
10
30.000.000
Thẻ chuẩn
5
3.000.000
10
10.000.000
(Nguồn: Quy định về hạn mức đối với thẻ tín dụng của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam).
2.2.1.5. Các loại phí phát hành và sử dụng thẻ
+ Phí thường niên: 77.000 VNĐ đối với thẻ chuẩn, 110.000 VNĐ đối với thẻ VIP.
+ Phí thay thế thẻ hoặc đổi dạng thẻ: 50.000 VNĐ/thẻ
+ Phí chậm thanh toán: 3% số tiền chậm thanh toán, số tiền tối thiểu là 50.000 VNĐ.
+ Phí tra soát: 50.000 VNĐ/lần
+ Phí thông báo mất cắp, thất lạc, lộ số PIN: 50.000VNĐ/lần
+ Phí tăng hạn mức tín dụng tạm thời: 30.000 VNĐ/giao dịch
+ Phí rút tiền mặt: 4% số tiền giao dịch, tối thiểu 50.000VNĐ.
2.2.2. Tình hình kinh doanh thẻ tại Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
2.2.2.1. Tình hình phát hành thẻ.
Trong những năm đầu tiên, lượng thẻ phát hành ra trên thị trường rất khiêm tốn. Mọi tầng lớp dân cư, ngay cả tầng lớp tri thức tại thành phố vẫn coi thẻ ngân hàng là một khái niệm rất xa lạ. Thẻ chỉ được những người thường xuyên đi công tác tại nước ngoài chú ý tới. Bên cạnh đó, vào thời điểm này sau một loạt các vụ đổ vỡ tín dụng có quy mô lớn tình hình cấp phát tín dụng của các ngân hàng rất khó khăn. Nhưng từ năm 2006 trở lại đây, số thẻ phát hành của Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã có dấu hiệu tăng trưởng nhưng tốc độ tăng trưởng chưa cao, tăng về số tương đối, khiêm tốn về số tuyệt đối.
Trong giai đoạn từ năm 2006 đến năm 2008 tổng số lượng thẻ phát hành liên tục tăng nhưng mức tăng không nhiều. Năm 2008 phát hành thẻ đạt mức tăng trưởng cao nhất là 32.158 thẻ (tăng 41% so với năm 2006 nhưng chỉ tăng 17,61% so với năm 2007), đưa tổng số lượng thẻ phát hành đang sử dụng của Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam lên đến 62.541 thẻ. Chủ yếu là thẻ ATM Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Hệ thống mạng lưới ATM của Sở giao dịch mỗi năm tăng lên nhanh chóng. Hiện nay, số máy ATM của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã được trang bị là 800 máy, tăng gấp 10 lần so với số lượng máy ban đầu. Số lượng thẻ ATM cũng theo đó tăng lên. Năm 2008 số thẻ ATM được phát hành đạt 32.158 thẻ đưa tổng số thẻ ATM mà Sở giao dịch phát hành lên khoảng 62.541 thẻ, với doanh số rút tiền máy ATM đạt 1.320 tỷ, tăng 45% so với năm 2007. Sở giao dịch phát hành chỉ đạt 23.183 thẻ trong năm 2007, lý do là loại thẻ này mới chỉ được phát hành (19/12/2006) và mọi khách hàng chưa quen sử dụng và không có nhiều thông tin nên số lượng phát hành thẻ còn hạn chế. Nhưng trong tương lai thì số lượng thẻ phát hành sẽ tăng vì diện tích cao của thẻ như rút tiền lại hơn 800 máy của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam thanh toán hàng hoá, dịch vụ tại hơn 60.00 cơ sở chấp nhận thẻ và nhiều tiện ích khác mà chủ thẻ sẽ được hưởng trong khi sử dụng loại thẻ này.
Xét về doanh số sử dụng thẻ, thẻ do Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam chủ yếu được dùng cho nhu cầu thanh toán và rút tiền mặt của các chủ thẻ nước ngoài. Việc sử dụng thẻ trong nước còn khá hạn chế do số lượng cơ sở chấp nhận thẻ trong thanh toán tiền hàng hoá dịch vụ chưa nhiều. Điều này cho thấy rằng, công tác phát hành còn phụ thuộc vào bên ngoài, cụ thể là phụ thuộc vào lượng khách nước ngoài đến Việt Nam và người Việt Nam ra nước ngoài. Thực tế này bất lợi cho ngân hàng khi có sự biến động nào đó trong quan hệ quốc tế hoặc tình hình kinh tế ở nước ngoài.
Mặc dù tỷ lệ doanh số sử dụng thẻ để rút tiền mặt còn khá cao xong tỷ lệ này đang có xu hướng giảm xuống. Đây là một dấu hiệu đáng mừng vì nó thể hiện sự tác động của số lượng cơ sở cung ứng hàng hoá dịch vụ chấp nhận thanh toán thẻ trong nước tăng lên và thẻ đã trở nên thông dụng hơn đối với người dân trong việc chi tiêu để mua sắm hàng hoá, dịch vụ.
2.2.2.2. Tình hình thanh toán thẻ
Trước với sự gia tăng những thách thức trong hoạt động cạnh tranh đối với thị trường dịch vụ ngân hàng trong điều kiện hội nhập quốc tế, các ngân hàng đều chú trọng tập trung đầu tư phát triển dịch vụ thẻ và tung ra thị trường nhiều sản phẩm thẻ phong phú, đa dạng. Sự đa dạng về thành phần sở hữu và các sản phẩm dịch vụ thẻ của các ngân hàng đã làm cho hoạt động thẻ năm 2008 trở nên rất sôi động, cạnh tranh diễn ra gay gắt trên cả hai lĩnh vực phát hành và thanh toán thẻ.
Trong bối cảnh đó, việc duy trì thị phần và giữ vững mức tăng trưởng cao của hoạt động thanh toán thẻ của Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam là một thành tựu không nhỏ của Ban lãnh đạo cũng như của toàn thể cán bộ công nhân viên Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Năm 2008, doanh số thanh toán thẻ quốc tế ước đạt 98,8 triệu USD (tương đương, 1.580 tỷ VNĐ), cao gấp 2,1 lần so với năm 2007 và tăng 36% so với năm 2006.
Về hệ thống ATM và các đơn vị chấp nhận thẻ. Hiện tại, Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam có khoảng 120.000 chủ tài khoản, trong số đó có gần 103.000 là chủ thẻ ATM. Tham vọng đi đầu trong lĩnh vực thẻ của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam càng lớn cùng với các kế hoạch đầu tư phát triển hạ tầng cơ sở, công nghệ và dịch vụ. Tới nay, hệ thống chấp nhận thẻ của Sở giao dịch đã lên tới con số gần 4.000 điểm cùng với trên 800 máy ATM lắp đặt tại khắp các tỉnh thành, các trung tâm thương mại công nghiệp. Tổng giá trị giao dịch thực hiện qua hệ thống ATM tính riêng trong năm 2008 là 1.525 tỷ VNĐ, tăng 110% so với năm 2007.Trong đó 1.120 tỷ là giao dịch rút tiền mặt, 275 tỷ là chuyển khoản, 130 tỷ là thanh toán hàng hoá, dịch vụ qua hệ thống ATM. Số giao dịch rút tiền mặt vẫn chiếm tuyệt đại đa số, nhưng mức tăng trưởng cao của doanh số thanh toán hàng hoá dịch vụ (120%) thể hiện triển vọng của hệ thống ATM như một kênh thanh toán hữu hiệu cho các tầng lớp dân cư, làm cầu nối giữa người tiêu dùng và nhà cung ứng dịch vụ.
2.2.3. Đánh giá về chất lượng của Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
2.2.3.1. Những kết quả đạt được
Những năm gần đây, Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam nhờ đi tắt, đón đầu và có chiến lược dịch vụ đúng hướng nên thực sự đạt hiệu quả rõ nét trong phát triển số lượng, chất lượng sản phẩm dịch vụ, tăng thu nhập, mở rộng thị phần. Giờ đây, ý thức được lợi thế so sánh của kinh doanh dịch vụ. Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam không còn lựa chọn nào khác là gấp rút hoàn thiện chiến lược sản phẩm dịch vụ theo chuẩn mực quốc tế, tương thích với kinh tế thị trường Việt Nam cũng như thực tiễn môi ngân hàng để tồn tại và phát triển.
Năm 2008 nhiều ngân hàng Việt Nam tham gia phát hành thẻ ghi nợ cũng như hình thành một số liên minh thẻ liên kết mạng lưới điểm bán hàng POS, mạng lưới máy giao dịch tự động ATM. Hoạt động kinh doanh thẻ ngày càng khởi sắc và cạnh tranh. Trong bối cảnh đó, Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã có những cố gắng đáng kể và đạt được kết quả kinh doanh đáng khích lệ.
* Hoạt động chủ thể: Để tăng trưởng chủ thể, Sở giao dịch đã mở rộng nguồn khách hàng cá nhân cũng như khách hàng công ty thông qua việc kết hợp với các đối tác tên tuổi. Kết hợp với công ty FPT dưới hình thức bán thẻ cho khách hàng đăng ký sử dụng mạng ADLS, Sở giao dịch cũng mở rộng kênh đăng ký thẻ thông qua hệ thống bưu cục của Bưu điện Thành phố Hà Nội. Để thu hút khách hàng, Sở giao dịch còn gia tăng diện tích và ưu đãi cho khách hàng đăng ký làm thẻ và đẩy mạnh tuyên truyền, phổi biến kiến thức về thẻ trong giới sinh viên.
Đến cuối năm 2008 số lượng thẻ phát triển mới là gần 103.000 thẻ, doanh số chủ thẻ đạt 1.525 tỷ VNĐ.
* Hoạt động đơn vị chấp nhận thẻ: Số lượng đơn vị chấp nhận thanh toán thẻ đã phát triển trong năm 2008 là 2.435 đơn vị, nâng tổng số đơn vị chấp nhận thẻ của Sở giao dịch lên đến 4.000. Doanh số giao tại các đơn vị này là 1.525 tỷ VNĐ. Các đơn vị phát triển và có doanh số cao phần lớn phát triển tại các tỉnh thành lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Nha Trang... Nguồn khách hàng chủ yếu là ngành du lịch.
*Phòng ngừa gian lận thẻ: Trung tâm nhận thức rõ tầm quan trọng của việc phòng ngừa gian lận thẻ và chống rủi ro trong giao dịch thẻ. Thường xuyên theo dõi thông tin về giao dịch lân cận, trộm dữ liệu trên thẻ của các tổ chức thẻ quốc tế báo cho chủ thẻ liên quan. Sở giao dịch cũng theo dõi các giao dịch tại các đơn vị chấp nhận thẻ của mình để khi có các giao dịch đáng ngờ sẽ có các biện pháp xử lý kịp thời.
* Nợ quá hạn: Một điểm nổi bật trong công tác phát hành của Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam là công tác phòng chống rủi ro. Rủi ro về thu nợ phát hành hầu như không có, chỉ chiếm khoảng 0,05%. Ngoài ra không có rủi ro nào khác. Thành công này xuất phát từ việc Sở giao dịch đã để ra được một hệ thống biện pháp xử lý rủi ro khi xảy ra. Sở giao dịch cũng đã tuân thủ chặt chẽ các quy định về việc phát hành thẻ do Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đề ra, nhất là trong khâu thẩm định hồ sơ khách hàng. Bên cạnh đó, khi đăng ký phát hành thẻ, khách hàng phải ký quỹ một số tiền nhất định. Do đó không xảy ra rủi ro tín dụng mà chỉ có một vài trường hợp nợ quá hạn.
*Đào tạo nguồn nhân lực: Trong năm 2008, một số nhân viên nghiệp vụ chủ chốt được cử đi đào tạo các khoá học huấn luyện nghiệp vụ thẻ trong và ngoài nước do hai tổ chức Visa và MasterCard tổ chức. Ngoài ra, Sở giao dịch cũng mở các lớp huấn luyện nghiệp vụ đại lý, nghiệp vụ thẻ, tổ chức các lớp học về sản phẩm mới.
*Phát triển sản phẩm thẻ mới.
Trong năm 2008, Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã phát hành hai loại thẻ mới đó là Visa và MasterCard, thẻ ATM là các loại thẻ có thêm tính năng thấu chi, đáp ứng nhu cầu sử dụng của khách hàng.
Nhìn chung, Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch, hoạt động hiệu quả cao. Năm 2008, riêng hoạt động kinh doanh thẻ của ngân hàng đã đem về lợi nhuận là 27 tỷ VNĐ. Có được những kết quả nói trên là nhờ vào sự nỗ lực không mệt mỏi của toàn thể cán bộ công nhân viên của chi nhánh, bên cạnh đó, cần phải kể đến những thuận lợi mà Sở giao dịch đã có được như:
Một là, Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam là một ngân hàng lớn, có nhiều kinh nghiệm trong công tác thanh toán, đặc biệt là thanh toán quốc tế. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam luôn được biết tới như một ngân hàng đi đầu trong lĩnh vực này. Qua thực tế kinh doanh trong lĩnh vực này, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm cũng như tạo được nhiều mối quan hệ làm ăn với các ngân hàng và tổ chức lớn trong nước cũng như quốc tế. Thanh toán thẻ quốc tế thực chất là một phương thức thanh toán qua ngân hàng. Bởi thế, kinh nghiệm trong thanh toán quốc tế và mối quan hệ rộng là một ưu thế to lớn của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam khi bước vào kinh doanh trong lĩnh vực thanh toán thẻ.
Để có thể thực hiện tốt nghiệp vụ thanh toán trong nước và quốc tế, bản thân ngân hàng đã tự trang bị cho mình một hệ thống trang thiết bị phục vụ hoạt động thanh toán khá hiện đại, những trang thiết bị như: hệ thống máy tính nối mạng, các máy Fax, telex,... phần nào được tận dụng để phục vụ cho hoạt động thanh toán thẻ. Điều này giúp cho ngân hàng bớt được chi phí khi tham gia vào lĩnh vực thanh toán thẻ tín dụng quốc tế.
Hai là, Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đi tiên phong trong lĩnh vực kinh doanh thẻ tại Việt Nam. Hiện nay Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam chiếm lĩnh 40% thị phần thanh toán thẻ và là ngân hàng chấp nhận thanh toán 3 loại thẻ tín dụng phổ biến hiện nay. MasterCard, Visa, Amex. Đây là một điểm mạnh thuận lợi trong thanh toán thu hút khách hàng ở thị trường Việt Nam. Tại Việt Nam, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam được khách hàng biết đến như một ngân hàng có nhiều kinh nghiệm nhất trong lĩnh vực kinh doanh thẻ. Chính điều này đã tạo điều kiện cho Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam có thời gian để củng cố và hoàn thiện mọi mặt kinh doanh thẻ, tích luỹ được nhiều kinh nghiệm cần thiết, gây dựng uy tín trên thị trường, tạo được thế đứng vững chắc để đối đầu với sự cạnh tranh từ phía các ngân hàng khác, đặc biệt là các ngân hàng nước ngoài.
Ba là, việc đầu tư những thành tựu tiên tiến nhất của công nghệ thông tin, Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam luôn chú trọng đến việc ứng dụng các công nghệ hiện đại vào phát triển các sản phẩm dịch vụ nhằm phục vụ khách hàng tốt nhất. Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã không ngừng cho ra đời các sản phẩm mới giàu chất công nghệ trong đó có các sản phẩm về thẻ. Các sản phẩm thẻ này đã và đang đáp ứng được các yêu cầu về thành toán của cuộc sống hiện đại do việc thuận tiện, dễ dàng sử dụng mọi lúc, mọi nơi ở Việt Nam và trên toàn thế giới.
Bốn là, công tác marketing và chiến lược khách hàng cũng luôn được Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam chú ý. Khách hàng thường xuyên được cung cấp những thông tin, hướng dẫn cụ thể, chi tiết cho những vấn đề có liên quan đến phát hành và thanh toán thẻ. Ngân hàng cũng có những chính sách ưu đãi đối với những khách hàng lớn, đáng tin cậy như, chính sách về lãi suất, về hạn mực tín dụng và về tài sản thế chấp... Đội ngũ cán bộ ngân hàng có trình độ chuyên môn vững vàng lại thường xuyên được bồi dưỡng, thái độ niềm nở, nhiệt tình với khách hàng là đặc điểm nổi bật có thể thấy ở Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Đây cũng là một trong những hình thức marketing mang lại hiệu quả cao nhất.
Năm là, liên kết phát triển thị trường thẻ. Hiện nay, thị trường thẻ đang hết sức sôi động, trong đó đặc biệt phải kể tới là thị trường thẻ ghi nợ nội địa với việc triển khai hệ thống ghi nợ Connect 24. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã thành lập ra liên minh thẻ gồm nhiều ngân hàng để từ đó thẻ của chi nhánh có thể rút tiền tại máy ATM của các ngân hàng khác trong cùng một liên minh. Hiện tại, thẻ Connect 24 của Sở giao dịch đã được rút tiền mặt tại các máy ATM của 11 ngân hàng trong liên minh thẻ. Điều này đã tạo ra tiện ích rất tốt cho việc rút tiền tự động bởi đó là cách mở rộng mạng lưới ATM của Sở giao dịch.
2.2.3.1. Hạn chế và nguyên nhân.
Bên cạnh những mặt tích cực, kết quả đạt được thì hoạt động phát hành và thanh toán thẻ còn có một số hạn chế còn tồn tại như sau:
Thứ nhất, hạn chế về số lượng tài khoản cá nhân tại Sở giao dịch còn ít. ở Việt Nam, mọi khoản thu nhập cá nhân gồm cả lương tháng và thưởng đều được trả bằng tiền mặt. Trong khi đó, phát hành thẻ tín dụng căn cứ rất nihều vào việc sử dụng tài khoản cá nhân cũng như thu thập cá nhân phản ánh trên tài khoản. Hiện tại, ngân hàng không thể xác định được thu thập thực tế của khách hàng xin phát hành thẻ mà chủ yếu căn cứ vào khai báo của khách hàng cũng như đảm bảo của khách hàng. Đây cũng là một khó khăn cho các ngân hàng Việt Nam nói chung và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam nói riêng trong việc phát hành thẻ cho khách hàng và việc thu nợ từ khách hàng.
Thứ hai, hạn chế về kỹ thuật công nghệ. Việc phát triển mạng lưới thanh toán thẻ trong nước đòi hỏi những trang thiết bị kỹ thuật cao và công nghệ hiện đại cùng với đội ngũ cán bộ có đủ khả năng quản lý và vận hành hệ thống theo tiêu chuẩn quốc tế. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã cố gắng tự trang bị cho mình phần mềm đáp ứng các yêu cầu theo tiêu chuẩn cơ bản chung của công nghệ quản lý giao dịch thẻ. Phần cứng được sử dụng đa dạng song mang tính chất đặc thù. Tại Việt Nam hiện chưa có đơn vị bảo dưỡng. Điều này đòi hỏi phải có thiết bị dự phòng dẫn tới làm tăng chi phí đầu tư. Những hỏng hóc kỹ thuật, nhất là với các máy in thẻ, khó khắc phục và phức tạp hơn nhiều so với các máy vi tính hiện đang dùng, thậm chí có khi bắt buộc phải mời nhà cung cấp máy giúp đỡ khắc phục, làm ảnh hưởng nhiều đến tiến độ phát hành thẻ.
Thứ ba, hạn chế về đào tạo đội ngũ cán bộ. ở Việt Nam, hiện chưa có một hoạt động đào tạo chuyên về thẻ nào là dù là của Ngân hàng, Nhà nước. Do đó, để hoạt động tốt trong lĩnh vực này thuộc Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam phải tự cho nhân viên tham gia các khoá học do các tổ chức thẻ quốc tế tổ chức mà chi phí mỗi khoá học này không phải là nhỏ. Do vậy, việc cập nhật thông tin kiến thức thường xuyên cũng có phần hạn chế.
Thứ tư, hạn chế trong việc phát triển mạng lưới các cơ sở chấp nhận thẻ. Sự tồn tại của các điểm tiếp nhận thẻ là cơ sở để tạo nên tiện ích của thẻ tín dụng. Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong phát triển mạng lưới điểm tiếp nhận thẻ của mình. Hiện tại Sở giao dịch đã có khoảng 4000 cơ sở chấp nhận thanh toán thẻ. Mặc dù vậy, xét về quy mô và triển vọng của thị trường thẻ Việt Nam, con số trên vẫn quá nhỏ bé và chỉ tập trung chủ yếu ở nhóm các đơn vị cung ứng hàng hoá, dịch vụ có giao thiệp thường xuyên với người nước ngoài như: hàng không, khách sạn, nhà hàng lớn. Với một số lượng và cơ cấu như vậy sẽ không thể là cơ sở hạ tầng đủ mạnh cho sự thâm nhập của thẻ tín dụng vào các giao dịch tiêu dùng đại chúng ở Việt Nam.
Thứ năm, hạn chế về công tác phát hành thẻ. Một hạn chế lớn đang đặt ra cho việc phát hành thẻ tín dụng là do cơ chế phát hành thẻ mà Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đang áp dụng. Trong giai đoạn hiện nay, Sở giao dịch đã chọn giải pháp phát hành có tính an toàn cần thiết là thế chấp với mức thế chấp lên tới 125% hạn mức tín dụng. Cách thức này đã phát huy hiệu quả, chi nhánh không phải chịu bất cứ một rủi ro nào có liên quan đến việc chủ thẻ mất khả năng thanh toán hay không chịu trả nợ. Thế nhưng, thế chấp quá cao sẽ không thể giúp phát hành thẻ một cách đại chúng. Khách hàng sử dụng thẻ tín dụng không phải chỉ thuần tuý để làm phương tiện thanh toán mà còn để nâng cao khả năng tài chính ngắn hạn. Nếu chủ thẻ đã có tiền để ký quỹ hay thế chấp thì sử dụng thẻ không có ý nghĩa với tác dụng thứ hai.
Ngoài ra, cũng vì sự an toàn mà chi nhánh chỉ miễn giảm ký qũy đối với thẻ cá nhân là lãnh đạo các công ty lớn có quan hệ tài chính tốt với ngân hàng mà chưa chú trọng đem dịch vụ này đến cán bộ, công nhân viên - những người có thu nhập tuy chưa cao nhưng ổn định và chính họ là một thị trường lớn chưa được khai thác. Họ đôi khi rất cần đến những ưu đãi của một tấm thẻ tín dụng dù chỉ với hạn mức thấp.
Đạt được những hệ quả không mong muốn như trên cần, phải chỉ rõ những nguyên nhân dẫn đến những hạn chế đó.
*Nguyên nhân từ phía khách hàng
Một điều dễ nhận thấy là nền kinh tế Việt Nam phát triển ở mức thấp. Thu nhập bình quân của người dân còn thấp, dù không còn nằm trong những nước nghèo nhất thế giới. Dân trí nhìn chung chưa cao, do đó số người mở và sử dụng tài khoản cá nhân, tài khoản vãng lai ở Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam để thanhoán và chi trả chưa nhiều. Thanh toán không dùng tiền mặt chưa thực sự trở thành thói quen trong đại bộ phận dân chúng. Hầu hết họ đều thực hiện thanh toán cho các giao dịch của mình bằng tiền mặt.
Một nguyên nhân dễ nhận thấy nữa là nhiều khách hàng không trung thực với việc sử dụng thẻ là phương tiện thanh toán trong các giao dịch của mình. Số lượng khách hàng dùng thẻ thanh toán giả ngày một tăng và tăng mạnh khi thực hiện thanh toán. Nhiều khi sự gian lận này còn là cả một hệ thống thông đồng từ khách hàng thanh toán hàng hoá dịch vụ đên nơi đơn vị chấp nhận thẻ thanh toán. Cũng có rất nhiều trường hợp, các bên liên quan trong nghiệp vụ thanh toán không dùng tiền mạt không có thiện chí thực hiện trách nhiệm của mình đối với một nghiệp vụ thanh toán. Chính điều này ảnh hưởng rất lớn đến chất lương của các giao dịch thanh toán không dùng tiền mặt tại Sở giao dịch.
*Nguyên nhân từ phía ngân hàng.
Có thể nói không chỉ riêng Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam mà nhìn chung các ngân hàng thương mại Việt Nam còn nặng về các sản phẩm dịch vụ truyền thống, các sản phẩm dịch vụ của chi nhánh còn rất đơn điệu và chậm phát triển, trong khi đó, ngân hàng các nước trong khu vực có đến hàng nghìn sản phẩm, ở ngân hàng Nhật có đến 6000 sản phẩm. Cần phải mở rộng và hiện đại hoá các sản phẩm dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là sản phẩm ngân hàng chủ chốt cũng còn đang đơn điệu, ít ỏi nên khả năng hỗ trợ các dịch vụ trực tuyến chưa cao.
Công nghệ ngân hàng nhìn chung còn rất lạc hậu, chưa đáp ứng được yêu cầu về thanh toán ngày càng cao của khách hàng. Khi Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam có trang bị máy EDC cho các cơ sở chấp nhận thẻ thì các ngân hàng khác như: ACB, HKB, ANZ cũng đã tiến hành lắp máy EDC cho các cơ sở chấp nhận thẻ mới và cũ của Sở giao dịch để cạnh tranh. Vì số lượng máy EDC của Sở giao dịch không đủ trang bị đồng loạt cho tất cả các cơ sở chấp nhận thẻ nên buộc Sở giao dịch chỉ ưu tiên trang bị cho những cơ sở chấp nhận thẻ có doanh số lớn. Do vậy các ngân hàng khác có điều kiện thâm nhập vào các cơ sở chấp nhận thẻ của Sở giao dịch chưa được trang bị máy.
Một nguyên nhân nữa đó là đội ngũ nhân viên quá đông nhưng số người đáp ứng được yêu cầu của mô hình kinh doanh mới không nhiều.
Ngoài những nguyên nhân từ phía khách hàng cũng như từ phía Ngân hàng, chúng ta còn phải quan tâm đến những nguyên nhân chính từ phía Nhà nước.
Môi trường kinh tế vẫn chưa thật ổn định, có nghĩa là Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam còn phải đối mặt với nhiều rủi ro khó lường. Chính sách về quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước đang còn trong quá trình điều chỉnh. Năng lực sản xuất của ngân hàng đã yếu do công nghệ và trình độ còn lạc hậu lại phải cạnh tranh gay gắt với đối thủ từ bên ngoài, điều này đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới các phương thức thanh toán tại ngân hàng. Thêm vào đó môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh thẻ của Sở giao dịch cũng như của các ngân hàng thương mại khác chưa đồng bộ và cũng đang trong quá trình hoàn thiện. Đáng chú ý là lụât các tổ chức tín dụng, luật Ngân hàng vẫn còn nhiều bất cập, cần phải bổ sung và sửa đổi. Hơn nữa, còn nhiều phương thức thanh toán chưa có văn bản hướng dẫn thi hành cụ thể, làm cho các phương thức này không được sử dụng rộng rãi, gây nên sự tụt hậu so với các thị trường ngân hàng khác trên thế giới.
Tóm lại hoạt động kinh doanh thẻ tại Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam tuy còn rất mới mẻ song đã vấp phải không ít những khó khăn mà không thể khắc phục được trong thời gian ngắn. Vì vậy, đối với Sở giao dịch, vấn đề đặt ra hiện nay là phải tìm ra những giải pháp mang tính thực tế cao vừa phát triển dịch vụ kinh doanh thẻ tại Sở giao dịch, vừa từng bước khắc phục những khó khăn đã nêu trên.
Chương 3
Một số giải pháp nâng cao chất lượng
kinh doanh thẻ tại sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư phát triển Việt Nam
3.1. Định hướng phát triển kinh doanh thẻ tại sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư phát triển Việt Nam.
3.1.1. Định hướng phát triển của thị trường thẻ Việt Nam trong những năm tới.
Hoạt động của hệ thống Ngân hàng Việt Nam trong thời gian tới đang đứng trước thuận lợi và thách thức mới. Khi gia nhập WTO sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam thu hút đầu tư nhiều hơn, các doanh nghiệp Việt Nam cũng có nhiều cơ hội xuất khẩu hàng hóa ra nước ngoài. Các ngành dịch vụ như du lịch, thương mại sẽ tăng doanh thu, hoạt động thẻ vốn gắn liền với sự phát triển của các ngành dịch vụ cũng có nhiều cơ hội để nâng cao doanh số giao dịch thẻ và tiếp cận các công cụ mới về thẻ. Bên cạnh đó, khi gia nhập WTO sẽ có thêm nhiều ngân hàng nước ngoài mở chi nhánh tại Việt Nam tạo cơ hội cho các Ngân hàng Việt Nam tiếp cận các công nghệ mới về dịch vụ và tài chính ngân hàng.
* Phát huy tích cực vai trò liên kết, hợp tác giữa các ngân hàng để cùng phát triển.
- Liên kết các Ngân hàng thành viên đẩy nhanh tiến độ kết nối hệ thống thanh toán thẻ.
- Đầu mối thúc đẩy liên kết phát triển các sản phẩm, dịch vụ mới.
- Phát triển mạng lưới đơn vị chấp nhận thẻ.
- Quản lý và phòng ngừa rủi ro.
- Tiếp tục thống nhất thu phí phát hành và thu phí chiết khấu đơn vị chấp nhận thẻ.
* Hỗ trợ về mặt đào tạo, bồi dưỡng cho các ngân hàng.
Tiếp tục tăng cường tổ chức các khóa đào tạo, về nội dung: Quản lý rủi ro, phòng ngừa giả mạo, kỹ năng xử lý tra soát, khiếu nại. Giới thiệu các sản phẩm và dịch vụ mới thẻ mới của các nước Kết hợp với các cuộc hội thảo chuyên đề mời các chuyên gia thẻ của nước ngoài và trong nước có kinh nghiệm. Ngoài ra cũng chú trọng đến các kiến nghị của các ngân hàng, tổ chức các đoàn thực tập dài ngày tại các ngân hàng nước ngoài cho các cán bộ của các ngân hàng thành viên.
* Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền để quảng bá hoạt động thẻ.
Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền để quảng bá hoạt động thẻ đến với mọi tầng lớp dân cư trong xã hội để từng bước xã hội hóa dịch vụ thẻ, đồng thời nâng cao sự hiểu biết của công chúng về quản lý, bảo mật thẻ, sử dụng thẻ an toàn.
* Nâng cao tiện ích và sự an toàn, bảo mật khi sử dụng thẻ.
Thực hiện đồng bộ đề án sử dụng thẻ chíp điện tử thay thế thẻ từ để giảm thiểu đến mức thấp nhất các hành vi gian lận về thẻ cũng như hạn chế tối đa hiện tượng làm giả thẻ. Đồng thời nâng cao hơn nữa các tiện ích của thẻ ATM như thanh toán tại đơn vị chấp nhận thẻ, thanh toán tại máy ATM, bán thẻ cào trả trước, thanh toán hóa đơn điện thoại trả sau
Có thể nói rằng, thị trường thẻ Việt Nam hứa hẹn sẽ là một thị trường có tiềm năng to lớn và còn đang rộng mở. Với sự quan tâm của Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan quản lý Nhà nước có liên quan cùng với sự nỗ lực, năng động của các ngân hàng, chắc chắn hoạt động thẻ sẽ có những bước phát triển mạnh mẽ hơn trong những năm sắp tới, góp phần tăng tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế, phục vụ ngày càng có hiệu quả và tiện ích hơn cho đời sống xã hội, đồng thời sẽ góp phần quan trọng cho các ngân hàng Việt Nam hội nhập quốc tế thành công.
3.1.2. Định hướng phát triển hoạt động kinh doanh thẻ tại sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư phát triển Việt Nam.
* Về thị trường:
Thị trường Việt Nam là một thị trường vô cùng rộng lớn với dân số lên đến 86 triệu dân. Trong khi đó thói quen sử dụng tiền mặt vẫn còn rất nhiều khoảng 90% giao dịch trong nền kinh tế là sử dụng tiền mặt. Do vậy đối với hoạt động kinh doanh thẻ thì đây là một thị trường có tiềm năng vô cùng to lớn. Cùng với sự kiện Việt Nam gia nhập WTO vào tháng 11 năm 2006đã đem lại nhiều cơ hội và thách thức cho nền kinh tế nói chung và hoạt động kinh doanh thẻ của sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư phát triển Việt Nam nói riêng. Đứng trước cơ hội đó sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư phát triển Việt Nam tiếp tục định hướng phát triển thị trường thẻ nhằm vào đối tượng khách hàng bình dân như công nhân ở các khu công nghiệp, cán bộ công chức nhà nước tức là phát triển hệ thống trả tiền lương qua thẻ. Điều này vừa tiện lợi cho doanh nghiệp trong việc trả lương, tiết kiệm chi phí, dễ quản lý tiền vừa đem lại cho ngân hàng một nguồn vốn huy động lớn với lãi suất thấp. Ngoài ra sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư phát triển Việt Nam còn tiếp tục cho ra mắt các sản phẩm thẻ quốc tế, cả thẻ tín dụng và thẻ ghi nợ để phục vụ đối tượng khách hàng cao cấp hơn có nhu cầu tiêu dùng cả trong nước và quốc tế. Những hoạt động này không những đem lại sự thúc đẩy trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng mà còn giúp giảm thói quen sử dụng tiền mặt trong nền kinh tế, tạo những điều kiện ban đầu để nền kinh tế Việt Nam tiến lại gần hơn với nền kinh tế thế giới.
* Về sản phẩm, dịch vụ:
Duy trì nhịp điệu tăng trưởng hoạt động phát hành và thanh toán thẻ.Thu hút thêm khách hàng phát hành thẻ tín dụng Visa, Master, American Express, khuyến khích việc chi tiêu của chủ thẻ, mở rộng mạng lưới các đơn vị chấp nhận thẻ trong hệ thống đáp ứng tốt hơn nhu cầu sử dụng thẻ của khách hàng.
Phát triển hệ thống ATM và các dịch vụ gia tăng qua hệ thống ATM. Tiếp tục triển khai lắp đặt máy ATM tại tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước. Nghiên cứu, tìm đối tác để lắp đặt ATM tại các tỉnh, thành phố chưa có Chi nhánh của Ngân hàng. Mở rộng đối tác thanh toán cung cấp dịch vụ thanh toán qua ATM, triển khai các dịch vụ mới trên hệ thống ATM: dịch vụ thanh toán hóa đơn (điện, nước, cước phí viễn thông, bảo hiểm), quảng cáo, mua hàng qua ATM.
Phát triển sản phẩm thẻ mới: Đa dạng hóa sản phẩm, nghiên cứu, phát triển các phương pháp thẻ mới đáp ứng nhu cầu sử dụng thẻ, nâng cao năng lực cạnh tranh, khẳng định vị thế tiên phong trong lĩnh vực thẻ của Ngân hàng Đầu tư phát triển trên thị trường. Nhanh chóng phát hành thẻ ghi nợ quốc tế và các sản phẩm thẻ liên kết giữa ngân hàng và các doanh nghiệp, đối tác lớn như xăng dầu, bưu điện, hàng không, các trung tâm thương mại.
3.2. Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng kinh doanh thẻ tại sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư phát triển Việt Nam.
Hoạt động phát hành và thanh toán thẻ đã và đang mở ra rất nhiều triển vọng phát triển nhưng cũng gây ra không ít khó khăn, thách thức đòi hỏi mỗi ngân hàng phải có chiến lược, sách lược và bước đi phù hợp. Bên cạnh đó, các cơ quan hữu quan có liên quan cũng cần tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động phát hành và thanh toán thẻ ngân hàng phát triển để hoạt động này ngày càng trở nên quen thuộc đối với người dân Việt Nam. Trên cơ sở hoạt động thực tiễn và những thuận lợi, khó khăn mà sở giao dịch gặp phải trong lĩnh vực thẻ như đã trình bày, em xin đưa ra một số giải pháp kiến nghị nhằm mở rộng và hoàn thiện dịch vụ thẻ tại sở giao dịch như sau:
3.2.1. Giải pháp về kỹ thuật công nghệ.
Có thể nói rằng, đầu tư cho kỹ thuật công nghệ có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động phát hành và thanh toán thẻ, đó là chiến lược mang tính lâu dài và mang lại hiệu quả nhất. Đầu tư công nghệ là để giải quyết vấn đề kết nối và gia tăng dịch vụ trên mỗi chiếc thẻ tức là làm cho chiếc thẻ tiện dụng hơn, mang lại nhiều tiện ích cho người sử dụng và đây là một chiến lược quan trọng nhằm giữ chân khách hàng trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện nay. Hơn nữa, giữa các ngân hàng Việt Nam cũng như các ngân hàng nước ngoài cung cấp dịch vụ thẻ, ngân hàng nào bị tụt hậu về công nghệ thì ngân hàng đó sẽ thất bại và bị loại khỏi thị trường. Cần nhận thức rằng, chất lượng dịch vụ phụ thuộc vào yếu tố rất quan trọng này. Có cán bộ giỏi chuyên môn, nhưng hệ thống máy móc thiết bị không hiện đại, trình độ công nghệ không tiên tiến, không thể làm nên hệ thống các dịch vụ ngân hàng có chất lượng cao, uy tín để cung cấp cho khách hàng. Chính vì vậy, đầu tư cho công nghệ kỹ thuật sẽ là đầu tư mang tính chiến lược lâu dài, nó không chỉ đảm bảo sự an toàn trong kinh doanh mà còn đảm bảo sự tồn tại và phát triển trong tương lai của ngân hàng.
Những ứng dụng công nghệ mà sở giao dịch cần thực hiện:
- Nối mạng hệ thống và triển khai chương trình dịch vụ ngân hàng bán lẻ, đẩy nhanh việc thiết lập mạng nội bộ trực tuyến, cho phép ứng dụng và triển khai các sản phẩm bán lẻ trên nền tảng công nghệ.
- ứng dụng hệ thống thanh toán điện tử trực tuyến, cho phép khách hàng "gửi tiền một nơi, rút nhiều nơi", tạo nền tảng công nghệ cho đơn vị ngân hàng điện tử.
- Phát triển hệ thống máy móc trang thiết bị viễn thông, trung tâm chuyển mạch, đảm bảo sự hoạt động liên tục, ổn định và an toàn của cả hệ thống. Đảm bảo sự kết nối tối đa của hệ thống quản lý thẻ với các tổ chức thẻ và mạng lưới máy thanh toán thẻ.
- Nâng cao chất lượng đường truyền thông, đảm bảo việc cập nhật tình hình thanh toán thẻ tại các chi nhánh, cơ sở chấp nhận thẻ.
Xác định rõ đầu tư công nghệ là giải pháp hữu hiệu cho doanh nghiệp hội nhập và phát triển, sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư phát triển Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục đầu tư có hiệu quả cho công nghệ kỹ thuật. Với những thành quả đạt được nhờ ứng dụng công nghệ, Ngân hàng tự tin và đã sẵn sàng cho hội nhập và phát triển.
3.2.2. Hoạt động Marketing.
Trong xu thế nền kinh tế dịch vụ ngày nay, hoạt động marketing, xúc tiến thiết lập kênh phân phối, cổ động truyền thông, quảng cáo và chăm sóc khách hàng có tác động rất quan trọng đến hoạt động phát triển thị trường thẻ. Chính những nỗ lực đó đã góp phần nâng cao rõ rệt thị phần, chất lượng dịch vụ, năng lực cạnh tranh, đưa thương hiệu thẻ của Ngân hàng trở thành một trong những thương hiệu thẻ hàng đầu của Việt Nam.
Sự tiện lợi của thẻ đối với người sử dụng là rất lớn nhưng trên thực tế, dịch vụ này chưa được nhiều người biết đến và sự trở ngại của thói quen dùng tiền mặt trong dân cư đã và đang ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế đất nước nên hoạt động marketing là đương nhiên đối với quảng đại quần chúng. Đối với ngân hàng hiện nay, chiến lược marketing cần được nâng cao hơn nữa để đưa sản phẩm của mình đến tận tay khách hàng, nếu như chỉ thụ động ngồi chờ khách hàng đến với mình thì chắc chắn sẽ không có thị phần trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay.
Chính sách Marketing của ngân hàng phải bao gồm được 4 chính sách lớn; Chính sách thông tin, nghiên cứu, tìm hiểu, điều tra; chính sách giá cả; chính sách phân phối; chính sách giao tiếp - khuếch trương. Ngân hàng phải kết hợp linh hoạt 4 chính sách này thu hút khách hàng, mở rộng mạng lưới tiêu thụ cũng như đánh bại đối thủ cạnh tranh.
Ngân hàng cần có một đội chuyên trách phân tích, tổng hợp các thông tin về khách hàng. Hoạt động chăm sóc khách hàng phải được thực hiện một cách thường xuyên và chu đáo hơn. Ngân hàng nên có hình thức ưu đãi như ưu đãi về phí dịch vụ thanh toán, ưu đãi về lãi suất đồng thời phát triển tốt mối quan hệ với khách hàng cũ và không ngừng tìm kiếm và tạo mối quan hệ với khách hàng mới. Ngân hàng cần sẵn sàng cạnh tranh với các đối thủ khác bằng chính chất lượng sản phẩm, tinh thần, thái độ phục vụ, đặc biệt là dịch vụ hoàn hảo, chất lượng cao để thu hút khách hàng.
3.2.3. Giải pháp về đào tạo con người.
Trước hết là cần hết sức quan tâm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực vì có chiến lược lâu dài phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao. Bởi vì, theo nguyên lý con người là yếu tố quyết định. Để nâng cao chất lượng dịch vụ trước yêu cầu hội nhập thì phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, nhân viên trong ngân hàng, trong toàn bộ các chi nhánh. Có chính sách thu hút người giỏi, người có tài, người có năng lực về hoạt động dịch vụ ngân hàng từ các ngân hàng khác, các ngành khác và các thị trường đại học trong và ngoài nước về. Chính sách thu hút chủ yếu là chính sách đãi ngộ, bố trí và sử dụng, việc tạo điều kiện phát huy tốt chuyên môn và không khí làm việc trong Ngân hàng. Mạnh dạn áp dụng mô hình thuê chuyên gia nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng làm việc tại ngân hàng.
Con người luôn là yếu tố quyết định đến sự thành công trong sự nghiệp phát triển của đất nước cũng như của hoạt động kinh doanh ngân hàng. Tuy nhiên, quan trọng hơn tất cả là thường xuyên tổ chức các khóa tập huấn, đào tạo để hướng dẫn về nghiệp vụ chuyên môn cho các cán bộ ngân hàng. Đây là một hoạt động thực sự bổ ích cho việc tiếp thu kiến thức nghiệp vụ mới đồng thời trao đổi kinh nghiệm, khó khăn thực tế khi thực hiện nghiệp vụ và rút ra những bài học kinh nghiệm.
Ngoài việc đào tạo cho đội ngũ cán bộ, ngân hàng cũng cần phải quan tâm, chú trọng tới công tác đào tạo người sử dụng các dịch vụ ngân hàng hiện đại này. Chính khách hàng mới là những người cần phải biết rõ về các loại hình dịch vụ này, vì có hiểu rõ thì mới thấy được lợi ích mà dịch vụ này mang lại. Do vậy, ngân hàng cần phải đưa ra các biện pháp để hướng dẫn sử dụng cho khách hàng như phát hành sách, tờ rơi giới thiệu về các dịch vụ ngân hàng điện tử, cách sử dụng dịch vụ đó như thế nào, khi có rủi ro hay thắc mắc thì giải quyết như thế nào, hay giới thiệu các dịch vụ đó trên các phương tiện thông tin đại chúng.
3.3. Kiến nghị đối với các cơ quan quản lý.
3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ.
Trên thực tế, môi trường pháp lý làm nền tảng cho việc hiện đại hóa và phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại đóng vai trò quyết định. Do vậy, Chính phủ cần sớm ban hành các văn bản pháp lý để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cũng như công tác phát triển thị trường thẻ.
- Chính phủ cần chỉ đạo các Bộ, Ngành cung ứng dịch vụ như Bưu chính viễn thông, Điện lực... tích cực phối hợp với ngành ngân hàng để đẩy mạnh việc chấp nhận thẻ như một hình thức thanh toán không dùng tiền mặt, góp phần giảm chi phí xã hội, đem lại lợi ích cho người tiêu dùng.
- Ban hành những văn bản pháp lý cho việc thực hiện nghiệp vụ kinh doanh thẻ ngân hàng.
- Đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng.
- Đầu tư cho phát triển hệ thống giáo dục.
- Tạo môi trường kinh tế xã hội ổn định.
- Có chính sách ưu đãi thuế nhập khẩu thiết bị nguyên vật liệu cho hoạt động thẻ mà trong nước chưa sản xuất được.
3.3.2. Kiến nghị với ngân hàng Nhà nước.
- Tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý đầy đủ hơn cho mọi hoạt động của dịch vụ thẻ, trong đó cần sớm ban hành các quy định điều chỉnh các hành vi liên quan đến hoạt động phát hành và thanh toán thẻ, đặc biệt là việc tranh chấp, rủi ro, để làm cơ sở xử lý khi xảy ra.
- Đưa ra định hướng và lộ trình phát triển hội nhập chung với nghiệp vụ thẻ để các ngân hàng xây dựng định hướng phát triển của mình, tránh chồng chéo, gây lãng phí, dẫn đến không tận dụng được các lợi thế chung.
- Xây dựng hệ thống thông tin tín dụng cá nhân, để các ngân hàng có được những thông tin về chủ thể nhằm quản trị được rủi ro trong nghiệp vụ phát hành thẻ tín dụng.
- Có chính sách thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt như: thắt chặt quản lý tiền mặt, thu phí sử dụng tiền mặt để người dân chuyển sang các hình thức thanh toán khác, đồng thời cũng cần có chính sách ưu đãi cho các dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt.
Có thể nói rằng thị trường thẻ của Việt Nam có tiềm năng to lớn và còn đang rộng mở. Với sự quan tâm của các cơ quan quản lý và của ngân hàng nhà nước cùng với sự nỗ lực, năng động của các ngân hàng, chắc chắn hoạt động thẻ sẽ có những bước phát triển mạnh mẽ hơn trong những năm sắp tới, góp phần tăng tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế, phục vụ ngày càng có hiệu quả và tiện ích hơn cho đời sống xã hội, đồng thời sẽ góp phần quan trọng cho các ngân hàng Việt Nam hội nhập quốc tế thành công.
Kết luận
Thẻ thanh toán là một phương thức thanh toán hiện đại, đa tiện ích, rất được ưa chuộng trên thế giới, biệt là thẻ tín dụng. Đây là một phương tiện hữu hiệu để thực hiện chính sách tiền tệ của nhà nước nhằm mục đích hạn chế lượng tiền mặt trong lưu thông, thu hút tiền gửi của các tầng lớp dân cư vào ngân hàng, tăng nhanh tốc độ chu chuyển vốn trong nền kinh tế, tạo điều kiện cho các tầng lớp dân cư được hưởng dịch vụ ngân hàng. Thẻ tín dụng còn hỗ trợ cho việc thực hiện chính sách ngoại hối, chính sách thuế của nhà nước. Bên cạnh đó, thanh toán bằng thẻ qua ngân hàng góp phần hạn chế các hoạt động kinh tế ngầm, giảm thiểu các tác động tiêu cực do các hoạt động kinh tế ngầm gây ra, tăng cường tính chủ đạo của nhà nước trong việc điều tiết nền kinh tế và điều hành các chính sách tài chính quốc gia.
Như vậy, thông qua việc triển khai nghiệp vụ phát hành và thanh toán thẻ, các ngân hàng thương mại không những thực hiện đúng chủ trương hiện đại hóa công nghệ ngân hàng của Chính phủ mà còn tạo điều kiện thuận lợi để tham gia vào quá trình toàn cầu hóa, góp phần xây dựng môi trường tiêu dùng văn minh và hòa nhập vào cộng đồng tài chính ngân hàng quốc tế. Do đó, phát hành và thanh toán thẻ là những nghiệp vụ kinh doanh không thể thiếu của một ngân hàng hiện đại, góp phần làm tăng thu nhập và làm phong phú thêm hoạt động ngân hàng.
Công tác phát hành và thanh toán thẻ là một trong những lợi thé của Ngân hàng Đầu tư phát triển Việt Nam. Cho đến nay, Ngân hàng Đầu tư phát triển Việt Nam đã thực hiện công tác phát hành và thanh toán thẻ tín dụng quốc tế. Tuy vậy, đối với sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư phát triển Việt Nam hoạt động kinh doanh thẻ chỉ mới được triển khai trong vòng hai năm. Chính vì vậy, với kinh nghiệm còn chưa nhiều, trong thời gian qua, Ngân hàng đã gặp phải không ít những khó khăn, thách thức. Song trong tương lai không xa, với tiềm năng to lớn của thị trường thẻ Việt Nam cộng với chiến lược kinh doanh đúng đắn và sự nỗ lực từ phía ngân hàng, tôi tin rằng sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư phát triển Việt Nam sẽ đạt được những kết quả khả quan hơn, đưa dịch vụ thẻ trở thành một trong những dịch vụ hàng đầu của mình, đồng thời củng cố và phát triển hơn nữa vị thế của mình trên thị trường Việt Nam.
Thông qua những phân tích đánh giá về thực trạng hoạt động phát hành và thanh toán thẻ tại sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư phát triển Việt Nam, chuyên đề đưa ra một số giải pháp kiến nghị nhằm góp phần nhỏ bé hoàn thiện hoạt động kinh doanh thẻ tại Ngân hàng. Tuy nhiên, do tính mới mẻ của vấn đề và do sự hạn chế về năng lực của bản thân, những nhận xét, đánh giá là những ý kiến chủ quan của bản thân tôi nên không thể tránh khỏi những sai sót. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô, các anh chị và các bạn để hoàn chỉnh hơn nữa chuyên đề của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Mục lục
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7597.doc