Theo các nhà kinh tế tân cổ điển đứng đầu là Alfred Marshall (1842-1924), cơ cấu tăng trưởng thể hiện ở chỉ tiêu điểm phần trăm đóng góp của các ngành vào tăng trưởng và chỉ tiêu tỷ trọng đóng góp của mỗi bộ phận trong 100% mức tăng trưởng. Chẳng hạn trong 11,66 điểm phần trăm tăng trưởng kinh tế tỉnh Yên bái năm 2007, nông nghiệp đóng góp 5 điểm %, công nghiệp 3 điểm % và dịch vụ 3,66 điểm %. Cơ cấu tăng trưởng sẽ là nông nghiệp chiếm tỷ trọng 36,58%, công nghiệp chiếm tỷ trọng 29,48%, còn lại dịch vụ đóng góp 33,94%. Cơ cấu tăng trưởng có thể xét theo khu vực thể chế, thành phần kinh tế, vùng, miền và theo yếu tố sản xuất (vốn, lao động, năng suất nhân tố tổng hợp).
Tính hợp lý của quan niệm này coi chất lượng sự vật là sự biến đổi cơ cấu bên trong của sự vật, không gắn chất lượng sự vật với mục đích tồn tại, bối cảnh, môi trường, điều kiện mà sự vật tồn tại hoặc các sự vật có mối liên hệ tác động mật thiết với nhau.
98 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1212 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế tỉnh Yên Bái, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iếm 45,8% GDP thì năm 2005 đã là 60,7% GDP.
Về nguồn đầu tư từ ngân sách nhà nước: thu ngân sách hàng năm đều tăng với tốc độ cao, ví dụ năm 2005 tăng 7,15% so với dự toán và tăng 5,7% so với thực hiện năm 2004, năm 2008 tăng thu ngân sách bằng 6,9% so với dự toán và tăng 22,8% so với năm 2007. Một xu thế tích cực là thu trên địa bàn ngày càng nắm giữ vai trò quan trọng trong tổng thu ngân sách từ 14,42% năm 2005 lên 15,55% năm 2008. Đáng chú ý là cả khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và khu vực kinh tế dân doanh đều đóng góp nguồn thu thuế thu nhập doanh nghiệp cao hơn so với dự toán, trong khi đóng góp của khu vực doanh nghiệp nhà nước giảm.
Về nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp khu vực tư nhân: nhờ vào việc xoá bỏ thủ tục cấp phép thành lập doanh nghiệp, đơn giản hoá thủ tục hành chính trong khâu đăng ký kinh doanh, nên chỉ trong vòng 4 năm (2005-2008) đã có 294 doanh nghiệp mới thành lập (gồm 711 doanh nghiệp năm 2008 trong khi năm 2005 có 415 doanh nghiệp). Hoặc chỉ riêng năm 2008 cũng chứng kiến sự phát triển nhảy vọt của khu vực tư nhân với khoảng 155 doanh nghiệp được đăng ký mới. Trong 4 năm 2005-2008, mỗi năm khoảng 10.000 nghìn chỗ làm việc mới đã được tạo ra nhờ các doanh nghiệp, hộ kinh doanh cá thể mới thành lập và mở rộng quy mô kinh doanh.
Vốn đầu tư thông qua ngân hàng và các tổ chức tín dụng: thời gian qua, các ngân hàng thương mại của tỉnh Yên Bái đã có những bước phát triển quy mô, thực hiện tốt nhiệm vụ trung tâm thanh toán và dẫn vốn trong nền kinh tế, đáp ứng yêu cầu công cuộc đổi mới kinh tế, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong giai đoạn 2005-2008, vốn đầu tư thông qua kênh trung gian tài chính (hệ thống ngân hàng) vào nền kinh tế chiếm trung bình từ 13,7 - 22,4% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Về nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài: việc thu hút và sử dụng có hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài được thể hiện và từng bước phát triển trong các chính sách của Đảng của Nhà nước ta từ khi thực hiện đổi mới, mở cửa đến nay. Theo hướng này, tỉnh Yên Bái đã xác định nhiệm vụ không ngừng cải thiện môi trường đầu tư, hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh trong việc thu hút và sử dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Kết quả của những chính sách và biện pháp thu hút đầu tư nước ngoài FDI đóng góp quan trọng trong tăng trưởng kinh tế của tỉnh. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã trở thành một trong những nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, có tác dụng thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá; mở ra nhiều ngành nghề, sản phẩm mới; nâng cao năng lực quản lý và trình độ công nghệ, mở rộng thị trường xuất khẩu; tạo thêm nhiều việc làm mới, góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại. Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, hoạt động đầu tư trực tiếp của nước ngoài tăng lên rõ rệt, đơn cử ở tỉnh Yên Bái năm 2007 tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 98,672 tỷ đồng, trong khi con số này khá thấp là 3,589 tỷ vào năm 2006.
II.5.1.2. Hội nhập kinh tế và thúc đẩy xuất khẩu
Có được những thành tựu phát triển kinh tế như ngày nay, trước hết là nhờ các quan hệ kinh tế song phương và đa phương của Nhà nước không ngừng được mở rộng thông qua việc ký kết và tham gia vào các hiệp định và diễn đàn như: ký Hiệp định khung với Liên minh Châu Âu (1992); tham gia Khu vực Thương mại Tự do ASEAN (AFTA) (1996); tham gia Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) (1998); ký Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ (2000); và gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Vừa thúc đẩy việc thu hút đầu tư nước ngoài cho các tỉnh miền núi, các tỉnh khó khăn chưa có điều kiện để khai thác và mở rộng thị trường như Yên Bái.
Bên cạnh sự gia tăng vốn đầu tư (yếu tố đầu vào của sản xuất), thì những thành công về xuất khẩu (yếu tố đầu ra của sản xuất) cũng đóng vai trò quan trọng, quyết định tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế trong thời gian qua. Việc giao lưu văn hoá và kinh tế giữa Yên Bái với các tỉnh trong khu vực Đông Bắc, với các tỉnh thành trong cả nước đã giúp cho Yên Bái mở rộng được thị trường tiêu thụ sản phẩm. Do đó, thúc đẩy sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, thuỷ sản phát triển, đồng thời góp phần đẩy nhanh sự chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng nâng dần hàm lượng giá trị gia tăng trong sản phẩm. Nhờ đó, nhiều mặt hàng của tỉnh đã khẳng định dần về chất lượng như: chè Suối Giàng, tinh bột sắn, gỗ xẻ, quế
II.5.1.3. Kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ công bằng xã hội
Trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, con người được xác định vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Tỉnh Yên Bái thực hiện theo Chính sách của Đảng và Nhà nước là kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần của các tầng lớp dân cư. Tăng trưởng kinh tế được coi là cơ sở, là điều kiện và tiền đề để thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội, đồng thời thực hiện tốt các chính sách xã hội trên nguyên tắc công bằng và tiến bộ, là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ổn định xã hội và phát triển bền vững chung của đất nước.
a. Các chính sách tăng trưởng kinh tế nhằm thực hiện công bằng xã hội
Đối với các thành phần kinh tế: các chính sách đa dạng hoá sở hữu và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần có tác dụng to lớn trong việc giải phóng, huy động các nguồn lực vào phát triển kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho các bộ phận dân cư tham gia vào các hoạt động kinh tế, tạo cơ hội cho người dân có cơ hội phát triển sản xuất - kinh doanh, có thêm thu nhập, góp phần xoá đói giảm nghèo.
Các chính sách nhằm xoá đói giảm nghèo bền vững ở tỉnh Yên Bái trong thời gian qua như: đổi mới cơ chế triển khai các chính sách và dự án giảm nghèo (gồm nhóm chính sách nâng cao năng lực khả năng của người nghèo, chính sách tạo cơ hội cho người nghèo); tăng cường phân cấp trao quyền và sự tham gia của người dân; tăng cường năng lực cho cán bộ làm công tác xoá đói giảm nghèo. Những chính sách này đã góp phần quan trọng trong công tác xoá đói giảm nghèo của tỉnh trong những năm qua. Do đó, tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh chỉ trong vòng 4 năm từ 34,71% năm 2005 xuống 20,16% năm 2008.
Nhóm chính sách nhằm đẩy mạnh hoạt động dịch vụ công: chú trọng công tác quy hoạch, định canh định cư trong kế hoạch kinh tế xã hội trung hạn và dài hạn; tiếp tục phát triển sự nghiệp giáo dục, hoàn thiện và củng cố hệ thống trường lớp và đội ngũ giáo viên; đẩy mạnh năng lực của mạng lưới y tế từ tuyến cơ sở đến tuyến tỉnh, chú trọng đầu tư hệ thống trạm xá, bệnh viện, trang thiết bị cũng như đội ngũ bác sĩ, kỹ thuật viên nhằm thực hiện tốt công tác khám chữa bệnh cho người nghèo; nâng cao chất lượng hệ thống ngân hàng chính sách xã hội, tạo điều kiện tốt nhất để người nghèo, hộ nghèo tiếp cận với đồng vốn vay ưu đãi để đầu tư phát triển sản xuất, có phương án xử lý các rủi ro, nợ xấu
b. Các chính sách xã hội nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Những thành tựu tăng trưởng kinh tế trong thời gian qua đã cho phép Yên Bái có thêm những điều kiện cần thiết để thực hiện các chính sách xã hội. Đến lượt mình, các chính sách này có tác dụng thúc đẩy đáng kể tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Chính sách giải quyết việc làm: Từ năm 2005 đến nay, trung bình mỗi năm cả nước đã giải quyết cho khoảng 17.000 - 17.500 nghìn người có công ăn việc làm, và có tới 90% số việc làm mới được tạo ra hàng năm là bởi khu vực dân doanh. Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và tỷ lệ lao động thiếu việc làm ở nông thôn đã giảm đáng kể. Rõ ràng những kết quả này đã có đóng góp tích cực cho tăng trưởng kinh tế, đồng thời góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế.
Chính sách xoá đói giảm nghèo tạo điều kiện cho nhóm hộ nghèo, người nghèo vươn lên trong sản xuất, kinh doanh, đóng góp cho tăng trưởng kinh tế, đồng thời có cơ hội thụ hưởng thành tựu của quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế. Kết quả là đã thúc đẩy sự dịch chuyển các hộ nghèo lên nhóm hộ có mức sống khá hơn, thậm chí không ít hộ đã vượt lên nhóm hộ khá, giàu, tạo điều kiện và động lực giúp các hộ nghèo khác cùng vươn lên, ổn định cuộc sống. Chính sách xoá đói giảm nghèo cũng đã góp phần làm giảm đáng kể sự bất bình đẳng xã hội giữa thành thị và nông thôn.
Chính sách phát triển giáo dục - đào tạo, nhất là các trương trình hướng nghiệp cho những đối tượng học sinh THPT và mở các trường công nhân kỹ thuật, trường dạy nghề của tỉnh đã đào tạo đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật liên tục gia tăng đáng kể, đáp ứng tốt hơn và thiết thực hơn nhu cầu lao động của nền kinh tế. Chính sách giáo dục - đào tạo cũng hướng đến mục tiêu đảm bảo công bằng xã hội thông qua việc chăm lo phát triển giáo dục ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số miền núi, phát sách miễn phí, trao tặng học bổng cho học sinh hộ gia đình nghèo, mồ côi, tàn tật, gặp hoàn cảnh khó khăn
Chính sách y tế và chăm lo sức khoẻ nhân dân: hệ thống bệnh viện, cơ sở y tế đã được trang bị mới máy móc, thiết bị khám, chữa bệnh, tăng cường nguồn lực sản xuất thuốc chữa bệnh và mạng lưới y tế được tổ chức khắp các huyện, thị xã tạo điều kiện nâng cao tính bình đẳng trong chăm sóc sức khoẻ của các tầng lớp dân cư.
Ngoài những chính sách kể trên, còn một số chính sách xã hội quan trọng khác có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến tăng trưởng kinh tế như chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình, bảo hiểm xã hội, phòng chống các tệ nạn xã hội, các biện pháp trợ cấp... Kiểm soát được tốc độ gia tăng dân số là một yếu tố đặc biệt quan trọng để có tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội.
II.5.2. Những hạn chế, khó khăn thách thức còn tồn tại
Những thách thức chủ yếu về kinh tế, xã hội, môi trường chính là những mặt tồn tại và hạn chế trong phát triển kinh tế hiện nay. Những yếu kém này sẽ tác động rất lớn đến tăng trưởng và phát triển kinh tế của tỉnh Yên Bái.
II.5.2.1. Thách thức về kinh tế
Kinh tế tỉnh Yên Bái tăng trưởng cao nhưng chưa thật bền vững, tăng trưởng chủ yếu dựa vào nguồn vốn đầu tư, chất lượng tăng trưởng còn hạn chế. Do điểm xuất phát thấp nên tốc đô tăng cao nhưng giá trị tuyệt đối tăng thấp. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm. So với cả nước thì mức thu nhập bình quân đầu người còn thấp.
Ngành công nghiệp phát triển chưa vững chắc, chất lượng sản phẩm chưa đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Nhiều doanh nghiệp còn tập trung vào khai thác nguyên liệu và bán sản phẩm thô, hiệu quả kinh tế thấp. Kinh tế chưa phát triển mạnh nên các nguồn thu ngân sách hạn hẹp, chỉ đáp ứng dưới 20% tổng chi, còn lại phụ thuộc vào trợ cấp từ Trung ương. Trong đầu tư xây dựng cơ bản chưa khắc phục được tình trạng đầu tư dàn trải, một số công trình còn kéo dài thời gian thi công, chưa có sự đầu tư đột phá về cơ sở hạ tầng thiết yếu và quan trọng.
Sức cạnh tranh và khả năng hội nhập kinh tế quốc tế còn rất thấp. Sự cạnh tranh đối với hàng ngoại nhập là thách thức lớn đối với các doanh nghiệp của tỉnh trong điều kiện Việt Nam gia nhập WTO. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI còn chiếm tỷ lệ rất thấp, trong khi tỉnh không có các điều kiện thuận lợi để hấp dẫn các nhà đầu tư, xa trung tâm công nghiệp lớn, nằm sâu trong nội địa, không có cửa khẩu, không nằm trong trục động lực phát triển kinh tế. Trong khi đó giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt thấp, thị trường không ổn định. Ngành du lịch có nhiều tiềm năng nhưng chưa đủ sức hấp dẫn đối với du khách do công tác đầu tư, tổ chức quản lý và khai thác mới chỉ bước đầu được chú trọng.
II.5.2.2. Thách thức về xã hội
Những tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường khi Việt Nam gia nhập WTO mà Yên Bái phải đối mặt như: suy thoái đạo đức, lối sống, thuần phong mỹ tục, phân hoá giàu nghèo ngày càng sâu sắc, tệ nạn ô nhiễm môi trường, phá sản, thất nghiệp
Quy mô dân số tương đối lớn và vẫn tiếp tục tăng hàng năm, chất lượng dân số thấp là một thách thức lớn đối với sự phát triển bền vững của tỉnh. Cơ cấu dân số trẻ, số lao động trong độ tuổi hàng năm liên tục tăng lên là sức ép với vấn đề giải quyết việc làm. Tỷ lệ hộ nghèo còn cao, nhất là ở vùng cao và vùng đặc biệt khó khăn. Người dân chưa có ý thức tự vươn lên thoát nghèo và làm giàu, tư tưởng trông chờ và ỷ lại vào Nhà nước còn nặng nề và phổ biến.
Chất lượng giáo dục còn nhiều hạn chế. Công tác phổ cập giáo dục ở vùng cao còn gặp nhiều khó khăn. Trình độ dân trí không đồng đều, tỷ lệ lao động qua đào tạo còn thấp, chất lượng lao động còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là thách thức lớn trong điều kiện Việt Nam gia nhập WTO.
Hiệ nay còn thiếu các trung tâm khám chữa bệnh chất lượng cao trong khi nhu cầu khám chữa của người dân ngày một tăng cao. Công tác xã hội hoá các lĩnh vực văn hoá xã hội chưa phát triển mạnh. Việc thực hiện phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, huy động nhân dân đóng góp vốn đầu tư xây dựng các công trình ở vùng cao, vùng đặc biệt khó khăn thường đạt rất thấp so với kế hoạch đề ra (chủ yếu bằng ngày công lao động).
II.5.2.3. Thách thức về vấn đề môi trường
Môi trường hiện nay chưa bị ô nhiễm nhiều, song cũng đã ô nhiễm cục bộ ở một số nơi. Đây sẽ là một thách thức lớn với tỉnh Yên Bái nếu không có các biện pháp ngăn chặn kịp thời. Đặc biệt với phương hướng tập trung phát triển mạnh công nghiệp trong thời kỳ tới, nếu không chú trọng khâu xử lý chất thải như một số doanh nghiệp hiện nay thì sẽ gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
Hầu hết các tài nguyên đều chưa có quy hoạch nên việc khai thác và sử dụng chưa hợp lý, gây lãng phí, nhất là tài nguyên khoáng sản. Tình trạng sử dụng hoá chất, thuốc bảo vệ thực vật tràn lan trong canh tác nông nghiệp làm ô nhiễm tài nguyên đất, tài nguyên nước, làm giảm sút đa dạng gen ở mỗi giống cây trồng và đặc biệt là làm ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ cộng đồng.
Tình trạng sử dụng ruộng manh mún, bị chia nhỏ, không tập trung, mức độ thâm canh của các vùng không đồng đều, không phát huy được hết hiệu quả của tài nguyên đất. Nạn đốt phá rừng làm nương rẫy còn nhiều. Nạn buôn bán lâm sản và khai thác gỗ trái phép chưa được ngăn chặn triệt để. Tình trạng khai thác rừng chưa đúng quy trình kỹ thuật và chu kỳ sinh trưởng của cây đã làm giảm vốn rừng. Chất lượng rừng trồng chưa cao. Tình trạng trên dẫn đến hệ quả là thiên tai lũ quét, lũ ống xảy ra bất chợt (cơn bão số 5, lũ ống năm 2008) làm thiệt hại rất lớn về người và của.
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TỈNH YÊN BÁI TỚI NĂM 2020
III.1. MỤC TIÊU VÀ ĐỊNH HƯỚNG NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TỈNH YÊN BÁI TỚI NĂM 2020
III.1.1. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế tới năm 2020
Tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng nhanh và bền vững. Phấn đấu đến năm 2020 Yên Bái cơ bản trở thành một tỉnh công nghiệp và là một trong những trung tâm phát triển của Vùng miền núi phía Bắc.
Với các chỉ tiêu định hướng phát triển kinh tế - xã hội chủ yếu:
III.1.1.1. Về kinh tế
Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm thời kỳ 2006-2020 đạt 12%, trong đó nông, lâm, ngư nghiệp tăng 5,3% thời kỳ 2006-2010; tăng 5,1% thời kỳ 2011-2015; và 5% thời kỳ 2016-2020. Công nghiệp và xây dựng tăng 17% thời kỳ 2006-2010; tăng 16% thời kỳ 2011-2015; và 15,5% thời kỳ 2016-2020. Dịch vụ tăng 13,4% thời kỳ 2006-2010; tăng 13,3% thời kỳ 2011-2020. Cơ cấu kinh tế ngành nông lâm, ngư nghiệp - công nghiệp xây dựng - dịch vụ năm 2010 là 27% - 38% - 35%; năm 2015 là 20% - 44% - 36%; năm 2020 là 17% - 46% - 37%. GDP bình quân đầu người khoảng từ 9,2 triệu đồng năm 2010 tới 34 triệu đồng năm 2020.
Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2010 đạt 25 triệu USD, năm 2015 tăng lên 35 triệu USD và năm 2020 tăng lên 50 triệu USD.
III.1.1.2. Về xã hội
Tiếp tục thực hiện các mục tiêu về xã hội đã cam kết. Năm 2010, hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Năm 2010 có 176/180 và năm 2015 có 180/180 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Năm 2020 tỷ lệ trẻ em 5 tuổi ra lớp mẫu giáo đạt 98,5%, tỷ lệ huy động trẻ đến trường tiểu học đạt 98,5%, trung học cơ sở đạt 90%, và trung học phổ thông đạt 60%.Ttỷ lệ lao động đã qua đào tạo đạt 40% tổng lao động xã hội.
Quy mô dân số vào năm 2010 khoảng 770.000 người, năm 2015 khoảng 805.000 người, năm 2020 khoảng 839.000 người. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên lần lượt giảm từ 1,186% - 1,086% - 1%.
Tạo việc làm, giải quyết thêm việc làm cho trên 17.000 lao động bình quân mỗi năm; lao động qua đào tạo nghề hàng năm là 7.000 người. Tỷ lệ thất nghiệp thành thị giảm từ 3,5% năm 1010 xuống 2% năm 2020. Năm 2020, lao động nông nghiệp chiếm 45% lao động xã hội.
Tuổi thọ trung bình đạt 72 tuổi. Tỷ lệ tử vong trẻ em dưới 1 tuổi là 13‰; tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi 16% đến năm 2020. Giảm tỷ lệ tử vong bà mẹ liên quan thai sản xuống 0/100.000 trẻ đẻ sống. Tỷ lệ bác sỹ 8 người/10.000 dân; tỷ lệ giường bệnh viện 39,1 giường/10.000 dân.
Chấm dứt hoàn toàn tình trạng hộ đói, giảm tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn mới) xuống còn 10% vào năm 2020.
III.1.1.3. Về môi trường
Năm 2015 đưa tỷ lệ che phủ rừng lên trên mức 62%. Phấn đấu năm 2020 đạt 100% dân cư thành thị và 95% dân cư ở nông thôn sử dụng nước sạch.
Năm 2010, 100% các cơ sở sản xuất mới xây dựng phải áp dụng công nghệ sạch hoặc được trang bị các thiết bị giảm thiểu ô nhiễm, xử lý chất thải đạt tiêu chuẩn môi trường; trên 90% các cơ sở sản xuất, kinh doanh đạt tiêu chuẩn về môi trường, an toàn lao động và có cây xanh trong khu vực sản xuất; thu gom 90% chất thải rắn sinh hoạt, công nghiệp và dịch vụ; 100% chất thải y tế được thu gom và xử lý đạt tiêu chuẩn môi trường; 100% các cơ sở khám chữa bệnh thực hiện an toàn bức xạ trong y tế.
Năm 2010 có 100% các hộ gia đình ở thành thị, 60% hộ gia đình nông thôn (năm 2020) 100% doanh nghiệp có dụng cụ phân loại rác thải theo quy định ngay tại nguồn, 100% khu vực công cộng có thùng gom rác.
III.1.2. Định hướng nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế tỉnh Yên Bái tới năm 2020
Định hướng chung của việc nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế tỉnh Yên Bái đến năm 2020 là đạt được sự tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững để tránh nguy cơ tụt hậu; thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý; thu hút và sử dụng các nguồn lực một cách hiệu quả; nâng cao sức cạnh tranh dựa vào lợi thế so sánh động; tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với đáp ứng ngày càng đầy đủ hơn phúc lợi xã hội và bảo vệ môi trường; cụ thể như sau:
Thứ nhất: phát triển mạnh và tiến bộ rõ nét về cơ cấu sản xuất nông lâm nghiệp và kinh tế nông thôn. Xây dựng một nền nông nghiệp hàng hoá, đa dạng, chất lượng, hiệu quả và bền vững. Chuyển dịch mạnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo vùng, ngành hàng sản phẩm chủ lực và tăng cường thâm canh cao. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
Thứ hai: phát triển sản xuất công nghiệp với tốc độ tăng trưởng cao, liên tục và vững chắc. Tiếp tục lấy phát triển công nghiệp làm khâu đột phá và trở thành ngành mũi nhọn để thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững. Tập trung phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế về nguồn nguyên liệu và thị trường tiêu thụ. Chú trọng phát triển công nghiệp chế biến. Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư sản xuất công nghiệp quy mô vừa và nhỏ với công nghệ không gây ô nhiễm môi trường.
Thứ ba: phát triển mạnh các ngành dịch vụ để kích thích nền kinh tế phát triển toàn diện. Tích cực chuyển từ cơ chế hoạt động sự nghiệp công cộng sang cơ chế dịch vụ phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ưu tiên phát triển ngành du lịch, hoàn thành việc xây dựng cơ sở hạn tầng khu du lịch Hồ Thác Bà, liên kết với các tỉnh bạn trong khu vực để đẩy mạnh phát triển du lịch. Từng bước hình thành sự phát triển thị trường vốn, bất động sản, lao động, bảo hiểm.
Thứ tư: tăng trưởng kinh tế nhanh đi đôi với giải quyết các vấn đề phúc lợi xã hội, xóa đói giảm nghèo, nhằm phát triển con người, đảm bảo công bằng về cơ hội và nghĩa vụ, thúc đẩy sự phát triển xã hội.
Thứ năm: tăng trưởng kinh tế phải gắn với bảo vệ môi trường sinh thái, đảm bảo sự tăng trưởng bền vững. Đó là tăng trưởng thu nhập mà không làm cạn kiệt tài nguyên, hạn chế mức độ gia tăng ô nhiễm, khắc phục tình trạng suy thoái môi trường và hạn chế tác động xấu của thiên tai.
III.2. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TỈNH YÊN BÁI TỚI NĂM 2020
III.2.1. Huy động vốn cho tăng trưởng
Để thực hiện được mục tiêu tăng trưởng GDP bình quân 12 - 13%/năm trong giai đoạn 2006-2020, ước tính nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế hơn 10 năm tới lên đến 76.000 tỷ đồng; vốn ngân sách nhà nước chiếm 35%, vốn tín dụng chiếm 28%, vốn đầu tư trực tiếp nức ngoài chiếm 3%, vốn của tư nhân và dân chiếm 29,5%. Tốc độ tăng tổng số vốn đầu tư phát triển toàn xã hội (kể cả yếu tố trượt giá) dự kiến 30,82%/năm, đảm bảo được tốc độ tăng trưởng kinh tế đề ra.
Để đáp ứng nhu cầu vốn cho phát triển nền kinh tế, rất cần xây dựng và thực hiện các chiến lược huy động vốn hợp lý trong bối cảnh các luồng vốn đầu tư trong, và ngoài tỉnh có nhiều biến động. Sau đây là một số giải pháp nhằm huy động các nguồn vốn cho tăng trưởng kinh tế tỉnh Yên Bái đến năm 2020.
III.2.1.1. Đẩy mạnh tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp
Trong cơ chế thị trường, việc thu hút vốn đầu tư được thực hiện bằng nhiều kênh, trong đó kênh thị trường chứng khoán là có nhiều lợi thế so với các kênh khác. Đây là kênh thu hút được nguồn vốn trung và dài hạn, phù hợp với chu kỳ dài hạn của việc thu hồi vốn đầu tư, hơn hẳn so với kênh thu hút qua tiền gửi ngân hàng thường chủ yếu là kỳ hạn ngắn. Để thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển, cần hoạch định và thực thi một cách toàn diện với mục tiêu là vừa phát triển được thị trường chứng khoán với quy mô lớn hơn song phải quản lý, giám sát được các hoạt động thị trường.
Để có thể thu hút được nguồn vốn đầu tư cho tăng trưởng kinh tế, đảm bảo được tốc độ tăng trưởng kinh tế đã đề ra, trong khi hàng năm các doanh nghiệp trong tỉnh Yên Bái đóng góp khoảng 50% vào nguồn thu ngân sách và giải quyết việc làm cho gần 10.000 lao động. Với chủ trương đưa các doanh nghiệp hoạt động tại thị trường tài chính vào diện cổ phần hóa, các giải pháp liên quan đến cổ phần hóa doanh nghiệp được đưa ra như sau:
Thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Trung ương III, và Nghị quyết số 04/NQ-TU của ban thường vụ tỉnh uỷ về sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá trong tất cả các lĩnh vực, áp dụng với tất cả các doanh nghiệp nhà nước có quy mô khác nhau (trừ những doanh nghiệp liên quan đến an ninh - quốc phòng). Mở rộng diện các doanh nghiệp nhà nước cần cổ phần hóa, kể cả một số tổng công ty và doanh nghiệp lớn trong các ngành như điện lực, luyện kim, cơ khí, hóa chất, phân bón, xi măng, xây dựng, vận tải đường bộ, đường sông, hàng không, hàng hải, viễn thông, ngân hàng, bảo hiểm...
Xây dựng một nhóm các doanh nghiệp của tỉnh phát triển mạnh (đáp ứng các tiêu chí về quy mô kinh doanh: vốn kinh doanh từ 200 tỷ đồng trở lên, lao động từ 1000 người trở lên, doanh thu kinh doanh trên 100 triệu đồng/năm) làm động lực thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp khác. Hướng một số doanh nghiệp có đủ điều kiện đăng kí ra nhập thị trường chứng khoán. Hoạt động thu hút vốn đầu tư thông qua thị trường chứng khoán là giải pháp nhanh nhất giúp doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn về vốn; do đó, các doanh nghiệp phải coi việc mua bán cổ phiếu trên thị trường là một hoạt động bình thường của doanh nghiệp. Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Yên Bái phải gắn với các tổng công ty và tậo đoàn kinh tế lớn trong nước để tranh thủ sự giúp đỡ, là động lực thu hút đầu tư trong những năm tới.
Tiếp tục thực hiện và hoàn thành công tác sắp xếp đổi mới doanh nghiệp. Mục tiêu là thực hiện chuyển đổi sở hữu đối với toàn bộ các doanh nghiệp không cần thiết phải duy trì 100% vốn nhà nước, hướng hoạt động của doanh nghiệp theo sự điều tiết của thị trường như các vấn đề: huy động vốn, mua bán nợ, giải thể, phá sản. Nhà nước không can thiệp vào hoạt động của doanh nghiệp mà chỉ giúp đỡ bằng tạo điều kiện về cơ chế chính sách trong khuôn khổ pháp luật cho phép.
III.2.1.2. Huy động nguồn vốn trong dân cư thông qua giải pháp phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Huy động để xã hội hoá các nguồn lực phục vụ cho đầu tư phát triển. Tiếp tục tháo gỡ những vướng mắc về cơ chế, chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân và trú trọng trợ giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trên cơ sở Luật Doanh nghiệp và Luật Khuyến khích đầu tư trong nước, khuyến khích đầu tư vào các ngành, lĩnh vực nhằm tạo sự chuyển đổi cơ cấu sản xuất trong từng ngành, từng sản phẩm thuộc các ngành công nghiệp, nông lâm ngư nghiệp và dịch vụ. Nhìn chung, cần tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư thông qua một số giải pháp:
Thứ nhất: đảm bảo tính đồng bộ giữa quyền tự do, tự chủ kinh doanh và thể chế kinh tế thị trường. Các giải pháp mở rộng quy mô “thị trường hoá” nền kinh tế như xây dựng kết cấu hạ tầng, cung cấp thông tin, hỗ trợ phát triển và nâng cao năng lực của các tác nhân thị trường sẽ góp phần "hiện thực hoá" quyền tự do kinh doanh.
Thứ hai: tạo điều kiện thuận lợi, hỗ trợ khởi nghiệp doanh nghiệp, Tạo điều kiện thuận lợi về mặt bằng kinh doanh cùng các dịch vụ hạ tầng với thủ tục nhanh chóng và chi phí hợp lý thông qua xây dựng khu và cụm công nghiệp vừa và nhỏ là biện pháp tương đối hiệu quả trong “cạnh tranh” thu hút đầu tư.
Thứ ba: tạo lập môi trường thuận lợi đi cùng với các điều kiện trợ giúp doanh nghiệp, nhất là đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tạo lập môi trường thuận lợi là chưa đủ cho sự phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh của khu vực doanh nghiệp nói chung và của từng doanh nghiệp nói riêng, mà phải có trợ giúp tích cực nhiều mặt của tỉnh, nhất là đào tạo nâng cao năng lực quản lý cho chủ sở hữu và người quản lý doanh nghiệp...
Thứ tư: nâng cao tính chủ động, sáng tạo của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc huy động vốn phát triển sản xuất. Trước những khó khăn trong việc vay vốn ngân hàng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ (mà nguyên nhân chủ yếu là khả năng cho vay, năng lực đánh giá hiệu quả dự án của cán bộ ngân hàng còn yếu, nguồn lực của các ngân hạn chế...), một mặt cần có các giải pháp đối với ngành ngân hàng, mặt khác các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng cần năng động, sáng tạo trong việc tạo ra và tiếp cận các nguồn tài chính khác quan trọng hơn rất nhiều, thay vì phải cố sức đi vay ngân hàng như hiện nay.
III.2.1.3. Tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Ngoài nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thúc (ODA), một nguồn vốn quan trọng đóng góp vào tổng vốn đầu tư toàn xã hội đó là FDI. Trong số những nguồn vốn này, vai trò của FDI luôn được chú trọng. Trong giai đoạn 2006-2020, chúng ta cần có một số giải pháp nhằm đẩy mạnh thu hút FDI.
Thứ nhất: xây dựng chiến lược và quy hoạch thu hút FDI, trong đó xác định rõ những ngành, lĩnh vực, địa bàn cần khuyến khích thu hút FDI. Để nâng cao chất lượng quy hoạch thu hút FDI, cần chú trọng công tác dự báo, cập nhật thông tin thị trường trong nước, quốc tế bảo đảm sự thống nhất giữa quy hoạch và kế hoạch, bảo đảm sự thống nhất giữa quy hoạch giữa ngành và các địa phương trong việc thu hút của FDI. Xây dựng danh mục dự án kêu gọi đầu tư trực tiếp nước ngoài trong những năm tới.
Thứ hai: cải thiện môi trường đầu tư thông qua các giải pháp khác nhau đó là hoàn thiện hệ thống luật liên quan đến hoạt động đầu tư nước ngoài; đổi mới hoàn thiện chính sách về đầu tư nước ngoài; đẩy mạnh xúc tiến đầu tư; đổi mới, hoàn thiện quản lý nhà nước, cải tiến thủ tục hành chính đối với FDI.
III.2.2. Nâng cao hiệu quả vốn đầu tư
Để nền kinh tế tăng trưởng cao và có chất lượng, tỉnh Yên Bái không những cần phải tăng vốn đầu tư mà quan trọng hơn, phải sử dụng vốn có hiệu quả. Vốn đầu tư của địa phương và Trung Ương tăng thêm chắc chắn không thể được nhiều như yêu cầu. Do đó một mặt, cần hết sức phát huy khả năng đầu tư của nhân dân và kinh tế tư nhân, thu hút mạnh hơn đầu tư trực tiếp của nước ngoài, mặt khác cần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của nhà nước, ngăn chặn tình trạng đầu tư không hiệu quả, vốn đầu tư bị đục khoét... Đây là điều kiện cực kỳ quan trọng cho tăng trưởng kinh tế.
III.2.2.1. Đối với nguồn vốn đầu tư nhà nước
Để nâng cao hiệu quả đầu tư vốn, chống thất thoát nguồn vốn của Nhà nước, cần có những giải pháp sau:
Thứ nhất: tăng cường và đổi mới công tác quản lý về đầu tư. Trước hết về cơ chế chính sách cần tổ chức nghiên cứu, bổ sung các cơ chế, chính sách theo hướng loại bỏ dần tình trạng khép kín, tách chức năng quản lý Nhà nước với quản lý kinh doanh trong xây dựng ở từng tỉnh, thành phố, địa phương ở tất cả các khâu.
Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch và kiên quyết quản lý đầu tư theo quy hoạch được duyệt, đầu tư tập trung, theo mục tiêu, theo quy hoạch và hiệu quả. Tăng cường công tác quản lý đầu tư đối với các nguồn vốn của Nhà nước.
Xác định đầy đủ trách nhiệm và thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư, vai trò chủ đầu tư và chỉ đạo thực hiện nghiêm ngặt quy chế đầu tư và xây dựng, đặc biệt là quy chế đấu thầu, quy chế giám sát đầu tư.
Khắc phục tình trạng tiêu cực, lãng phí, thất thoát trong đầu tư bao gồm các khâu thông qua chủ trương đầu tư, chuẩn bị đầu tư, thẩm định và phê duyệt quyết định đầu tư, tổ chức đấu thầu, triển khai thực hiện dự án, theo dõi và đánh giá dự án. Củng cố và chấn chỉnh lại các cơ quan quản lý đầu tư, các ban quản lý dự án. Tăng cường công tác giám sát đầu tư, kiểm tra, kiểm soát ở tất cả các ngành, các cấp, phát hiện và xử lý những hành vi vi phạm các qui định về quản lý đầu tư, nhằm kịp thời ngăn chặn tiêu cực, thất thoát trong đầu tư.
Thứ hai: tăng cường và đổi mới công tác quản lý về xây dựng. Nâng cao năng lực và trách nhiệm của các tổ chức tư vấn trong khâu khảo sát, thiết kế kỹ thuật, thiết kế thi công, tăng cường giám sát thi công theo đúng qui trình, theo đúng thiết kế kỹ thuật, đúng vật tư thiết bị trong nội dung thiết kế được phê duyệt. Chấm dứt tình trạng đơn vị thi công và tổ chức giám sát thi công đều thuộc một cơ quan quản lý.
Rà soát, xây dựng bổ sung các định mức, đơn giá xây dựng; tăng cường quản lý xây dựng; đặc biệt là các công trình sử dụng vốn ngân sách. Qui định rõ trách nhiệm của cá nhân, đơn vị liên quan đến chất lượng sản phẩm công trình như chủ đầu tư, tổ chức tư vấn, thiết kế, đơn vị thi công.
Thứ ba: công khai hoá vốn đầu tư bằng vốn ngân sách. Các dự án đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách phải được công bố rộng rãi để nhân dân biết và tham gia giám sát việc thực hiện; tạo điều kiện cho các cơ quan dân cử làm tốt chức năng giám sát việc thực hiện đầu tư.
III.2.2.2. Đối với nguồn vốn của các doanh nghiệp nhà nước
Đầu tư vốn cho khu vực doanh nghiệp nhà nước nhất thiết phải xác định và tuân thủ triệt để nguyên tắc là doanh nghiệp nhà nước phải hoạt động có hiệu quả trong cơ chế thị trường. Triển khai luật tiết kiệm chống lãng phí. Hoàn chỉnh quy chế trách nhiệm của chủ đầu tư.
Xoá bao cấp, độc quyền, nâng cao tự chủ, chịu trách nhiệm của doanh nghiệp nhà nước, tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhà nước cạnh tranh bình đẳng. Cần khẳng định rằng chỉ khi buộc doanh nghiệp nhà nước cạnh tranh trên thị trường thì lúc đó mới hy vọng đầu tư của các doanh nghiệp này có hiệu quả.
III.2.2.3. Đối với nguồn vốn ngoài khu vực nhà nước
Để thực sự nâng cao hiệu quả đầu tư, một biện pháp rất hữu hiệu là khuyến khích phát triển khu vực kinh tế tư nhân và đầu tư nước ngoài. Thực tế cho thấy kinh tế nhiều thành phần, bình đẳng, các thành phần liên kết không phân biệt đối xử, không đặc quyền đặc lợi cho quốc doanh là nền tảng vững chắc nhất để phát triển kinh tế.
Bên cạnh đó, một khía cạnh rất quan trọng đối với các doanh nghiệp là việc đổi mới công nghệ để tăng hiệu quả đầu tư. Đây là mục tiêu rất quan trọng, ảnh hưởng đến khả năng tái tạo vốn cho chính doanh nghiệp.
III.2.3. Phát triển khoa học công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực
III.2.3.1. Phát triển khoa học công nghệ, thực hiện “công nghiệp hoá sạch”
Thứ nhất: thúc đẩy nhu cầu đổi mới công nghệ và đầu tư đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp. Hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia đầu tư đổi mới công nghệ trong sản xuất, thông qua các hình thức như: hỗ trợ vốn để thực hiện các dự án đổi mới công nghệ của doanh nghiệp, hỗ trợ chuyên gia tư vấn thực hiện các dịch vụ như dịch vụ công nghệ, dịch vụ bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, dịch vụ thông tin công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực về công nghệ hỗ trợ các hiệp hội doanh nghiệp vừa và nhỏ tổ chức các hoạt động tuyên truyền, thông tin về công nghệ, đổi mới công nghệ.
Rà soát và xây dựng các quy hoạch phát triển các ngành công nghiệp; quy hoạch phát triển các khu, cụm công nghiệp, các làng nghề; đặc biệt là quy hoạch các ngành sản xuất vật liệu xây dựng có tác động mạnh mẽ tới môi trường như: khai thác và chế biến đá, bột đá, sản xuất gạch, tấm lợp, xi măng, hoá chất nhằm phát triển công nghiệp một cách bền vững, đảm bảo sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên, kiểm soát ô nhiễm môi trường và quản lý chất thải.
Trong các quy hạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và hàng năm phải được lồng ghép yếu tố về môi trường. Thực hiện nghiêm ngặt quy định phải đánh giá tác động môi trường trước khi cấp phép đầu tư cho doanh nghiệp.
Thứ hai: hình thành thị trường các sản phẩm khoa học công nghệ và hỗ trợ thị trường này phát triển.
Nâng cao ý thức tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ thông qua tuyên truyền và nâng cao hiệu lực pháp luật: tổ chức tốt việc tuyên truyền, phổ biến thông tin bằng nhiều hình thức về hệ thống pháp luật liên quan tới sở hữu trí tuệ cho các đối tượng có liên quan; tạo thói quen trong xã hội về thực hiện theo pháp luật các giao dịch về công nghệ, chuyển giao công nghệ.
Nâng cao hiểu biết và năng lực của cán bộ trong việc phát hiện các vi phạm cũng như giải quyết các tranh chấp về sở hữu trí tuệ; vận hành có hiệu quả và hiệu lực thể chế xử lý các vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, thực hiện bảo vệ có hiệu quả trên thực tế quyền lợi của các cá nhân, tổ chức đối với tài sản trí tuệ được pháp luật công nhận.
III.2.3.2. Đào tạo nguồn nhân lực
Phát triển con người là yếu tố quan trọng bậc nhất để đảm bảo tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo đói. Là cơ sở đảm bảo cho sự phát triển bền vững trong những thập kỷ tới, phụ thuộc rất nhiều vào trình độ phát triển con người. Sự phân hoá giàu nghèo giữa các địa phương, tỉnh thành trong cả nước cũng có nguyên nhân một phần lớn bởi sự khác biệt về trình độ học vấn nói riêng và sự phát triển con người (bao gồm cả thể chất và tinh thần) nói chung. Bởi vậy, cần có những giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo như sau:
Giải pháp then chốt là đổi mới và nâng cao năng lực quản lý trong giáo dục và đào tạo. Cải cách giáo dục toàn diện nhằm làm cho hệ thống giáo dục gắn kết với yêu cầu phát triển kinh tế của đất nước. Đẩy mạnh đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp giáo dục theo hướng hiện đại và phù hợp với thực tiễn từng vùng khó khăn và đặc biệt khó khăn, cùng với đổi mới cơ chế quản lý giáo dục.
Khẩn trương triển khai đề án phát triển và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục; cơ cấu lại hệ thống đào tạo, hoàn thiện hệ thống đào tạo thực hành định hướng nghề nghiệp. Đổi mới cơ chế, chính sách, kiên quyết đấu tranh khắc phục các tiêu cực trong dạy và học; đồng thời có chính sách bảo đảm cho con các gia đình nghèo cũng có điều kiện được học tập.
Tăng cường đầu tư cho giáo dục nghề nghiệp bao gồm cả tái đào tạo nghề, nhằm giúp cho người trong độ tuổi lao động có thể dễ dàng thích ứng với những đòi hỏi thường xuyên biến đổi của thị trường lao động. Nhằm mục đích thu hẹp dần khoảng cách giữa đầu ra của đào tạo với nhu cầu hiện có của thị trường lao động, các biện pháp cần sớm được thực hiện là: xác định rõ ràng các lĩnh vực ngành nghề hiện đang thiếu nhân công, thiếu người lao động có trình độ chuyên môn, tay nghề để tăng cường đầu tư, hỗ trợ; tiêu chuẩn hoá các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng tay nghề, bồi dưỡng kỹ năng, với những chỉ tiêu chất lượng được quy định rõ ràng; phối hợp chặt chẽ hơn nữa giữa các bên tham gia thị trường lao động (các xí nghiệp có nhu cầu về lao động, các cơ quan đào tạo, bồi dưỡng tay nghề) trong quá trình hoạch định các chính sách về đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực.
III.2.4. Gắn tăng trưởng với công bằng xã hội và xoá đói giảm nghèo
III.2.4.1. Tăng trưởng đi đôi với tạo công ăn việc làm
Để có thể thực hiện được các mục tiêu đề ra trong nhiệm vụ kế hoạch 2006-2020 về lĩnh vực lao động - việc làm, cần phải tiếp tục nghiên cứu bổ sung chính sách, cơ chế; tháo gỡ các rào cản nhằm thúc đẩy, khuyến khích mạnh mẽ mọi thành phần kinh tế, mọi nguồn lực, huy động nguồn nội lực trong dân cho đầu tư phát triển sản xuất, dịch vụ, tạo mở việc làm; hoàn thiện các văn bản hướng dẫn thi thành bộ Luật Lao động sửa đổi; nghiên cứu đổi mới chính sách, cơ chế về lao động, bảo hộ lao động, dạy nghề, chuyển đổi nghề nghiệp ở các vùng đô thị hoá nhanh.
Để tận dụng sức lao động còn dư thừa, phải khuyến khích phát triển những ngành sử dụng nhiều lao động như dệt may, sản xuất xi măng, giấy, tạo điều kiện cho người dân không còn đất sản xuất có kế sinh nhai.
Phát triển đào tạo nghề, chú trọng đào tạo có trọng điểm các lĩnh vực công nghệ mới để đáp ứng nhu cầu học nghề, tìm việc làm đa dạng trên từng địa bàn; từng bước đẩy mạnh xuất khẩu lao động có chất lượng cao.
III.2.4.2. Tăng trưởng đi đôi với xoá đói giảm nghèo
Đáp ứng yêu cầu cao hơn về xoá đói giảm nghèo, một mặt, cần tiếp tục nâng cao nhận thức, quyết tâm vượt nghèo vươn lên làm giàu của hộ nghèo, xã nghèo; nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác giảm nghèo và đề cao trách nhiệm của các ngành, các cấp và tăng cường sự tham gia của đoàn thể và người dân. Mặt khác, cần huy động đa nguồn lực từ gồm doanh nghiệp, cộng đồng, cá nhân và vận động tài trợ quốc tế.
Phải có sự hỗ trợ của nhà nước, doanh nghiệp về giải quyết việc làm, về vốn và công nghệ mới có thể tạo ra bước phát triển ở khu vực nông thôn. Bởi vậy, cần sớm ban hành các cơ chế, chính sách để khuyến khích các địa phương và người nghèo, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, trên cơ sở đầu tư hỗ trợ của Nhà nước, tự lực phấn đấu vươn lên thoát khỏi đói, nghèo một cách bền vững; có chính sách ưu đãi cho các doanh nghiệp đầu tư vào các vùng nghèo, xã nghèo.
Hỗ trợ đầu tư cho những vùng nông thôn chậm phát triển để phát huy các tiềm năng tại chỗ và giảm bớt khó khăn bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước, vốn viện trợ không hoàn lại, vốn vay ưu đãi của nước ngoài,
III.2.4.3. Tăng trưởng đi đôi với nâng cao phúc lợi giáo dục, y tế
Nhiệm vụ trọng tâm là đẩy mạnh việc phòng chống dịch bệnh, đặc biệt là các dịch bệnh mới phát sinh. Tiếp tục phát triển và hoàn thiện hệ thống khám, chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe của nhân dân.
Tăng chi phí cho y tế, kinh phí xây dựng cơ bản tập trung các tuyến huyện xã, thực hiện đề án nâng cấp bệnh viện xã huyện đã được phê duyệt, tạo điều kiện cho người nghèo vùng sâu xa được tiếp cận các dịch vụ cao, giảm áp lực cho tuyến trên.
Nâng cao chất lượng phục vụ của các cơ sở khám, chữa bệnh và y đức của các y, bác sĩ và nhân viên y tế. Đẩy mạnh thực hiện xã hội hóa các hoạt động y tế. Giảm gia tăng dân số, nâng cao chất lượng dân số, giảm nhanh tỉ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em.
III.2.5. Gắn tăng trưởng với bảo vệ môi trường thiên nhiên
Nhiều năm qua, do quá quan tâm đến mục tiêu tăng trưởng mà ít chú ý đến việc bảo vệ môi trường sinh thái. Tình trạng ô nhiễm ở đô thị, hồ ao, sông suối đã đến mức báo động. Hậu quả của nó đối với quá trình phát triển là không tính hết được. Tỉnh Yên Bái cần tránh quan điểm tăng trưởng trước, khắc phục hậu quả sau mà một số quốc gia đã gặp phải trên thế giới trong thời gian qua.
Phải đặt vấn đề môi trường trong các chiến lược phát triển, lựa chọn giải pháp thiết thực làm cho kinh tế, xã hội và môi trường phát triển hài hoà, thực sự coi môi trường là một quốc sách cơ bản. Để đạt được mục tiêu đó yêu cầu trọng điểm là trong xây dựng, công nghiệp và đổi mới kỹ thuật (hàng năm đổi mới 15-20% thiết bị công nghệ), khởi điểm kỹ thuật phải cao, phải phù hợp với yêu cầu hiện đại hóa, phải lựa chọn công nghệ kỹ thuật tiêu hao nguyên vật liệu thấp, gây ô nhiễm ít, hiệu quả cao, thực hiện sản xuất sạch, kiên quyết loại bỏ các công nghệ tiêu hao nhiều nguyên vật liệu, bố cục hợp lý, cơ sở hạ tầng hoàn thiện, tăng cường sử dụng năng lượng sạch, xử lý nước thải, tích cực thay đổi tình trạng thải bừa bãi gây ô nhiễm môi trường như hiện nay. Trong đầu tư cho bảo vệ môi trường, phải không ngừng nâng cao tỷ lệ đầu tư cho môi trường trong GDP. Về mặt môi trường sinh thái, phải tiếp tục duy trì xu thế tốt đẹp trong mấy năm gần đây là trồng cây gây rừng, không ngừng tăng tỷ lệ che phủ của rừng.
Hướng tới việc khoán đất khoán rừng, cho thuê đất trống đồi núi trọc, đất hoang để kết hợp giữa xây dựng sinh thái với việc xóa đói giảm nghèo của của nông dân. Về nông nghiệp, phải có giải pháp kiên quyết ngăn chặn xu thế canh tác quảng canh hoặc thâm canh với cường độ lớn, sử dụng hợp lý phân hóa học, thuốc trừ sâu, không ngừng nâng cao chất lượng đất đai. Trong quản lý môi trường và tài nguyên phải không ngừng nâng cao pháp chế, chuyển từ phương thức quản lý hành chính là chủ yếu sang phương thức quản lý bằng kinh tế, luật pháp làm cho công tác quản lý môi trường có hiệu lực mạnh mẽ.
III.2.6. Hoàn thiện môi trường kinh doanh để nâng cao chỉ số cạnh tranh
III.2.6.1. Về cơ chế chính sách
Các cấp, các ngành phải thống nhất về nhận thức và quan điểm chỉ đạo phát triển các thành phần kinh tế. Coi trọng sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, thực hiện đầy đủ cơ chế chính sách ưu đãi đối với các doanh nghiệp. Nghiên cứu xây dựng môi trường đầu tư kinh doanh thông thoáng thực sự có tính hấp dẫn. Tạo điều kiện cho sự hình thành và đồng bộ các yếu tố thị trường làm sơ sở cho sự phát triển của các doanh nghiệp.
Nghiên cứu xây dựng và ban hành cơ chế chính sách khuyến khích thu hút đầu tư của tỉnh trên cơ sở chính sách ưu đãi đầu tư của Chính phủ đã ban hành và trong phạm vi quyền hạn của tỉnh không trái với qui định của pháp luật. Tiếp tục bố trí đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng các khu sản xuất công nghiệp, cụm công nghiệp theo qui hoạch để dần đưa các doanh nghiệp và cơ sở sản xuất ra khỏi khu tập trung đông dân, hạn chế tình trạng ô nhiễm môi trường.
Nâng cao vai trò và hiệu lực công tác quản lý nhà nước bằng việc định hướng cho sự nghiệp phát triển của các doanh nghiệp, giảm tố đa sự can thiệp hành chính vào hoạt động của thị trường và của doanh nghiệp; tỉnh tạo điều kiện về cơ chế chính sách trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng công tác qui hoạch và kế hoạch, đảm bảo các cân đối vĩ mô, nhằm định hướng và tạo sự hỗ trợ cho phát triển doanh nghiệp.
Trong lĩnh vực thu hút đầu tư nước ngoài: phải đổi mới hoạt động thu hút, vận động đầu tư cả về nội dung và hình thức, trên cơ sở duy trì và tăng cường các quan hệ sẵn có với các nước trong khu vực thông qua các tham tán và đại sứ quán các nước, các tổ chức phi chính phủ, mở các hội nghị vận động thu hút đầu tư cả trong và ngoài nước. Làm tốt công tác xúc tiến thương mại, quảng cáo giới thiệu sản phẩm.
III.2.6.2. Về đổi mới quản lý và tổ chức sản xuất kinh doanh
Tiếp tục hoàn thiện công tác sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp để nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Đối với các doanh nghiệp cần phải nhận thức sự đổi mới là yêu cầu sống còn đối với doanh nghiệp. Do đó, doanh nghiệp cần nhận thức sâu sắc vấn đề trên để có kế hoạch xây dựng bước tiến cho doanh nghiệp mình cụ thể như:
Phát triển doanh nghiệp cần gắn với nền tảng chính trị xã hội ổn định trong mỗi doanh nghiệp. Đảm bảo quyền lợi và chế độ cho người lao động, giải quyết tốt các vấn đề phúc lợi xã hội, xây dựng các tổ chức đoàn thể doanh nghiệp vững mạnh.
Về vấn đề tổ chức sản xuất yêu cầu mỗi doanh nghiệp cần xây dựng kế hoạch tổ chức sản xuất cho phù hợp, tiết kiệm chi phí không cần thiết để hạ giá thành nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm. Trong sản xuất cần chú trọng vấn đề chất lượng sản phẩm, đổi mới công nghệ thiết bị tiên tiến, cải tiến mẫu mã bao bì vì hiện nay đây cũng là khâu các doanh nghiệp đầu tư còn ít.
Hoạt động quản lý lãnh đạo và điều hành cần có sự đổi mới nhanh chóng. Xây dựng chính sách thưởng phạt nghiêm minh, tôn vinh những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh giỏi, song cũng sử lý kỷ luật nghiêm những trường hợp vi phạm làm thiệt hại cho nền kinh tế.
Áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, dần đưa các hoạt động sản xuất và quản lý doanh nghiệp theo tiêu chuẩn ISO.
III.2.6.3. Về cải cách thủ tục hành chính
Đẩy mạnh công tác đấu tranh chống tham nhũng, kiên quyết xử lý những cán bộ yếu kém về phẩm chất đạo đức. Thực hiện hiệu quả cải cách thủ tục hành chính nhất là ở những cơ quan, những lĩnh vực liên quan đến doanh nghiệp và người dân. Rà soát bãi bỏ những thủ tục hành chính không cần thiết nhằm đẩy nhanh tiến độ giải quyết việc làm thời gian chờ đợi. Triển khai thực hiện “Mở cửa liên thông” ở cơ quan cấp đăng kí kinh doanh.
Công tác đào tạo cán bộ, đội ngũ quản lý ở các cấp ngành cũng như doanh nghiệp phải đánh giá nghiêm túc còn yếu về công tác quản lý thị trường, nhất là trong giai đoạn hội nhập; hiểu biết luật pháp quốc tế và ngoại ngữ cần được nâng cao. Vì vậy phải có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng cán bộ hàng năm. Kinh phí đào tạo phải kết hợp bằng nhiều nguồn trong đó có sự tham gia đóng góp của người đi học và của doanh nghiệp, để hoạt động quản lý kinh doanh của doanh nghiệp đạt hiệu quả cao hơn, nâng cao năng lực cạnh tranh trên so với các tỉnh vùng Đông Bắc và của cả nước.
KẾT LUẬN
Nền kinh tế Việt Nam lựa chọn là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy tăng trưởng kinh tế mà Việt Nam xác định là tăng trưởng bền vững, tăng trưởng vì con người, vì một xã hội ngày càng công bằng hơn, dân chủ hơn, tăng trưởng gắn với bảo vệ môi trường. Chính vì thế mà mục tiêu phát triển kinh tế của tỉnh Yên Bái cũng không nằm ngoài mục tiêu chung của cả nước.
Tăng trưởng kinh tế của tỉnh Yên Bái trong 4 năm gần đây đã đạt được những thành tích đầy ấn tượng về tốc độ tăng trưởng kinh tế và xoá đói giảm nghèo. Về cơ bản, những thành tích tăng trưởng đã đến được với đại bộ phận người dân, thể hiện ở mức tăng thu nhập và tiêu dùng của tất cả các nhóm dân cư trong thời gian qua. Một trong những nguyên nhân tạo ra được thành tích đó là những cơ sở phát triển con người được tạo dựng từ những năm trước cũng như những nỗ lực cải cách nhiều mặt tạo ra những cơ hội việc làm và thu nhập đáng kể trong những năm qua.
Tuy nhiên, có những lo ngại không phải không có căn cứ về chất lượng và sự bền vững của những thành tích tăng trưởng của tỉnh Yên Bái. Tăng trưởng cao chỉ là một điều kiện cần nhưng còn xa mới là “đủ” để có một nền kinh tế mạnh. Mặc dù Yên Bái đã đạt được những thành tựu phát triển kinh tế rất đáng khích lệ trong giai đoạn 2005-2008 (11,38%), đặc biệt là sự vượt khó khăn vươn lên trong những năm vừa qua, nhưng nền kinh tế của tỉnh Yên Bái vẫn phát triển dưới mức tiềm năng và hiện đang phải đối mặt với nhiều yếu kém về chất lượng tăng trưởng, xét cả về trung hạn và dài hạn. Tuy các bằng chứng thực tế có nhiều điểm cần phải làm rõ thêm, những phân tích trong nghiên cứu này cho thấy:
Thứ nhất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra chậm chạp. Cơ cấu kinh tế tỉnh Yên Bái vẫn còn lạc hậu, với tỷ trọng nhóm ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản vẫn chiếm tới 30,5% GDP (giá hiện hành), gần 57% lực lượng lao động của tỉnh.
Thứ hai, hiệu quả kinh tế còn thấp, thậm chí có chiều đi xuống. Hiệu quả đầu tư ngày càng thấp so với cả nước và vùng Đông Bắc.
Thứ ba, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong toàn nền kinh tế còn rất thấp, thể hiện qua tỷ suất lợi nhuận của các doanh nghiệp, tuy có chiều hướng gia tăng, nhưng còn thấp kém.
Thứ tư, về mặt xã hội, cùng với quá trình tăng trưởng kinh tế, sự phân hoá giàu nghèo ngày càng rõ nét và có chiều hướng gia tăng trong thời gian tới. Chất lượng nguồn nhân lực cũng chưa theo kịp yêu cầu tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế.
Thứ năm, về mặt môi trường, tăng trưởng kinh tế đang kéo theo tốc độ suy thoái môi trường tự nhiên nhanh chóng, tài nguyên thiên nhiên ngày càng bị khai thác cạn kiệt, ô nhiễm môi trường gia tăng.
Có thể nói, để đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng và nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế, một tỉnh miền núi nghèo như Yên Bái đã, đang và sẽ phải vượt qua rất nhiều rào cản. Với những nhóm giải pháp được đưa ra, Tôi chỉ mong muốn góp phần vào việc tìm ra hướng đi đúng đắn, vượt qua những rào cản đang kìm hãm sự phát triển của kinh tế tỉnh Yên Bái trong những năm qua và có thể cả trong tương lai.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Báo cáo thực hiện kế hoạch các năm 2005-2008 và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2020.
Cục Thống kê (2008), Niên giám thống kê tỉnh Yên Bái năm 2007, Nxb. Thống kê, Hà Nội.
Chương trình nghị sự 21 về phát triển bền vững tỉnh Yên Bái, Uỷ ban nhân dân tỉnh Yên Bái, tháng 12 năm 2006.
Đảng cộng sản Việt Nam (2003), Với công cuộc đổi mới đất nước, Nxb. Quân
đội nhân dân, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Hoàng Đức Vượng “Báo cáo kết quả đề tài thực trạng và giải pháp giảm nghèo bền vững ở tỉnh Yên Bái”, tháng 11 năm 2008.
Lê Huy Đức (2004), “Nâng cao chất lượng tăng trưởng của ngành công nghiệp Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Tạp chí Công nghiệp, số 4/2004. []
Lâm Ngọc (2006), “Chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam?”, Kinh tế 2005-2006 Việt Nam và Thế giới, Thời báo Kinh tế.
Nghị quyết của ban thường vụ tỉnh uỷ về xây dựng, phát triển doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu cạnh tranh và hội nhập giai đoạn 2006-2010.
Nguyễn An Nguyên, 14/12/2008 Lựa chọn thành công, bài học từ Đông Á và Đông Nam Á cho tương lai của Việt Nam. Một khuôn khổ chính sách phát triển kinh tế - xã hội cho Việt Nam trong giai đoạn 2011-2020, [].
Sở Lao động - Thương binh và xã hội tỉnh Yên Bái, Báo cáo kết quả rà soát hộ nghèo trên địa bàn tỉnh Yên Bái, năm 2005-2008.
Tổng cục thống kê 2008, Niên giám thống kê 2007. Nhà xuất bản thống kê, Hà Nội, 2008.
Vũ Thị Ngọc Phùng (2005), Giáo trình Kinh tế phát triển, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.
Các webside:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 2135.doc