DANH MỤC THAM KHẢO
1. Ngân hàng thương mại - Edward W. Reed & Edward K. Gill - 1993.
2. Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính - Frederik S. Mishkin - 1995.
3. Commercial bank management - Peter S. Rose - Second Edition.
4. Quyết định dự toán vốn đầu tư (Phân tích kinh tế các dự án đầu tư) -Harold Bierman, JR & Seymour Smidt - NXB Thống kê.
5. Thẩm định dự án đầu tư - Vũ Công Tuấn - NXB TP Hồ Chí Minh.
6. lập dự án đầu tư – PGS.TS. nguyễn bạch nguyệt – ĐH KTQD
7. Tạp chí Ngân hàng năm, 2004, 2005.2006.2007.
8. Mẫu báo cáo thẩm định – công ty cho thuê tài chính.
CHƯƠNG II. Thực trạng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại
công ty cho thuê tài chính ngân hàng đầu tư & phát triển Việt Nam 1
I. Giới thiệu chung về công ty cho thuê tài chính
ngân hàng đầu tư & phát triển Việt Nam . 1
1.1. lịch sử ra đời của công ty cho thuê tài chính
Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam . 1
1.2. Cơ cấu tổ chức 3
1.2.1. Nguyên tắc tổ chức và điều hành . .3
1.2.2. Mô hình tổ chức . 3
1.2.3. Chức năng của các phòng . 4
1.3. Hoạt độn¬g cho vay theo dự án đầu tư trong những năm gần đây . 17
II.Thực trạng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại
công ty cho thuê tài chính ngân hàng đầu tư & phát triển Việt Nam 21
1. Quy trình thẩm định . . .21
1.1. Các bước thực hiện . .21
1.2. đối với các dự án tái thẩm định 23
1.3. Báo cáo thẩm định dự án cho thuê tài chính 25
1.4. Thẩm định tài chính của dự án đầu tư tại
công ty cho thuê tài chính ngân hàng ĐT&PT VN 32
1.5. Phương pháp thẩm định, tính toán tài chính, khả năng
trả nợ và các chỉ tiêu tài chính của dự án cho thuê tài chính 36
2. Minh hoạ bằng dự án đầu tư đã được thẩm định tại
công ty cho thuê tài chính ngân hàng đầu tư & phát triển Việt Nam 55
III. Đánh giá công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại
công ty cho thuê tài chính ngân hàng đầu tư & phát triển Việt Nam .66
1. Kết quả đạt được 66
2. Hạn chế . .71
3. Nguyên nhân . .72
3.1. Nguyên nhân từ phía công ty .73
3.2. Nguyên nhân từ phía khách hàng . .75
3.3.Nguyên nhân từ phía môi trường thông tin, kinh tế, pháp luật .75
CHƯƠNG III: Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính
dự án đầu tư tại công ty cho thuê tài chính ngân hàng
đầu tư & phát triển Việt Nam 78
I. Định hướng hoạt động cho vay theo dự án đầu tư của
công ty cho thuê tài chính ngân hàng đầu tư & phát triển Việt Nam 78
II. Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư tại
công ty cho thuê tài chính ngân hàng đầu tư & phát triển Việt Nam .80
1. Hợp lý hoá tổ chức điều hành .80
2. Tiếp tục hoàn thiện nội dung quy trình thẩm định .81
3. Nâng cao hiệu quả của hệ thống thông tin . 84
4. Ứng dụng Marketing ngân hàng . 85
5. Giải pháp về nhân sự .86
6. Kiến nghị nhằm tạo điều kiện thực hiện các giải pháp đề ra . .88
6.1. Kiến nghị với Nhà nước và các cơ quan chức năng . 88
6.2.Kiến nghị đối với ngân hàng nhà nước và các ngân hàng thương mại. .90
6.3.Kiến nghị đối với chủ đầu tư .91
KẾT LUẬN . .92
DANH MỤC THAM KHẢO .93
94 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1747 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư tại công ty cho thuê tài chính ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh đó, việc phân tích dự án ở trạng thái tĩnh (tính hiệu quả của dự án) kết hợp với trạng thái động (phân tích độ nhạy) cho cái nhìn tổng thể hơn về hiệu quả dự án trong tương lai. Có thể nói hệ thống phương pháp, chỉ tiêu mà công ty sử dụng để thẩm định đã tiến dần hơn tới sự hoàn thiện đối với các công ty cho thuê tài chính của nước ngoài và ngày càng thu hẹp được khoảng cách giữa Việt Nam với các nước phát triển trên thế giới. Điều đó, là nhân tố quan trọng để quyết định sự phát triển của công ty trong thời kỳ mới thời kỳ của hội nhập.
Thẩm định tài chính gắn liền với thẩm định kỹ thuật, thẩm định thị trường và khả năng tiêu thụ, so sánh với các dự án tương tự ... thành một trình tự và một thể thống nhất. Quy trình thẩm định cụ thể lại được chia theo từng loại dự án (dự án sản xuất sản phẩm, dự án cung cấp dịch vụ, dự án lớn, dự án nhỏ). Điều này khiến cho việc xem xét đánh giá các số liệu tài chính thuộc đầu ra và đầu vào chính xác và thực tế hơn. Trên cơ sở đó, Công ty xây dựng kế hoạch giải ngân, trả nợ của dự án một cách hợp lý hơn, tạo điều kiện cho công tác thu hồi, xử lí nợ sau này, nâng cao chất lượng của khoản vay.
Về trang thiết bị thông tin
Công ty cho thuê tài chính của ngân hàng đầu tư & phát triển Việt Nam là công ty đi đầu trong công tác hiện đại hoá trang thiết bị, cơ sở vật chất kĩ thuật. Hoạt động thẩm định cũng không nằm ngoài sự quan tâm ấy. Cán bộ thẩm định được trang bị máy vi tính nối mạng cùng hệ thống của công ty và đều nối mạng Internet. Điều này cho chúng ta thấy sự năng động trong cung cách làm việc của các nhân viên trong cùng công ty nói chung và của phòng thẩm định nói riêng, các nhân viên có thể trao đổi công việc của công ty cho nhau qua mạng hệ thống và bàn giao các số liệu từ phòng này sang phòng kia. Tất cả các máy vi tính trong công ty đều được cài đặt các chương trình phần mềm chuyên dụng giúp rút ngắn thời gian trong việc tính toán các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế.
Ngoài các dữ liệu mà chủ đầu tư cung cấp, cán bộ thẩm định chủ động thực tế tình hình của chủ đầu tư và tìm kiếm các nguồn thông tin khác nhằm bổ sung, đối chiếu, so sánh... Thông tin được khai thác từ sách báo, từ các cơ quan chuyên ngành, từ các dự án đã qua thẩm định được lưu trữ lại, và đặc biệt trong thời đại hiện nay không thể bỏ qua Internet. Tận dụng các tính năng hiện đại của trang thiết bị, cán bộ thẩm định có thể tiết kiệm thời gian thẩm định, giúp lãnh đạo quyết định nhanh chóng, nâng cao tính cạnh tranh mà vẫn đảm bảo tính chính xác. Qua đó, cho ta thấy được cung cách làm việc rất chuyên nghiệp của công ty cho thuê tài chính ngân hàng đầu tư & phát triển Việt Nam.
Về đội ngũ cán bộ
Góp phần vào kết quả đạt được ở trên không thể không nói tới đội ngũ cán bộ thẩm định. Đây là nhân tố then chốt làm nên thành công trong công tác thẩm định và cũng là một trong những mặt mạnh của công ty cho thuê tài chính ngân hàng đầu tư & phát triển Việt Nam. Tất cả các thành viên trong phòng thẩm định đều được đào tạo chính quy ở các trường lớp chuyên ngành nên am hiểu về chuyên môn cũng như các lĩnh vực liên quan, ví dụ như: Luật, thuế, các thông lệ quốc tế trong hoạt động tài chính, ngân hàng, vận tải, bảo hiểm. Trong đội ngũ có sự kết hợp giữa những cán bộ có thâm niên, trình độ cao, nhiều kinh nghiệm thực tế và cán bộ trẻ, năng động, nhanh nhạy tiếp thu các phương pháp mới, tiên tiến. Do vậy, hoạt động thẩm định tại công ty cho thuê tài chính ngân hàng đầu tư & phát triển Việt Nam đã và đang hoàn thiện mình, để có thể được độc lập hóa, trở thành một công ty cho thuê tài chính hàng đầu của Việt Nam.
Trên đây là những đánh giá chung của công ty cho thuê tài chính ngân hàng đầu tư & phát triển Việt Nam trên góc độ của bản thân, về những mặt đã đạt được trong công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư của công ty cho thuê tài chính. Tuy nhiên vẫn còn những tồn tại, hạn chế cần khắc phục để nâng cao chất lượng thẩm định.
2. Hạn chế
Hoạt động thẩm định dự án ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng tín dụng và ngược lại, chất lượng tín dụng phản ánh chất lượng hoạt động thẩm định, đặc biệt về mặt hiệu quả tài chính.
Trong những năm gần đây, chất lượng tín dụng trung và dài hạn ở công ty cho thuê tài chính được cải thiện nhưng chưa cao. Dư nợ tín dụng trung và dài hạn vào ngày 31/12/2005 là 13625 tỷ VNĐ, chiếm 56,8% tổng dư nợ, so với năm 2004 dư nợ là 12021 tỷ VNĐ, chiếm 58,7% . Qua đó chúng ta thấy dự nợ của năm 2005 so với năm 2004 tuy hơn về số tuyệt đối nhưng giảm về số tương đối. Nhưng ta thấy tỷ lệ nợ quá hạn và tỷ lệ nợ chờ xử lý giảm liên tục qua các năm từ 2004 đến 2006. Cụ thể như tỷ lệ nợ quá hạn/tổng dư nợ của năm 2004 là 5,9%, của năm 2005 là 4,3%, của năm 2006 là 3,1%. Còn tỷ lệ chờ xử lý cũng giảm, như năm 2004 là 9,2%, năm 2005 là 8,1%, năm 2006 là 7,1%. ( số liệu của bảng 1 )
Qua phân tích trên ta thấy công ty vẫn chú trọng tới khả năng trả nợ hơn là tính hiệu quả của dự án mặc dù nguồn trả nợ an toàn nhất là nguồn thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh của dự án vay vốn. Kết quả thẩm định tài chính dự án đầu tư chưa được sử dụng như là công cụ phân tích tài chính hiệu quả nhất để quyết định đầu tư tín dụng. Chính vì lẽ đó mà nhiều dự án cho cho thuê khi tính trên giấy tờ thì hoàn toàn có thể thu hồi lại vốn theo đúng thời hạn, nhưng trên thực tế dư nợ của một số dự án lại phải chuyển sang nợ khó đòi, giá thành của sản phẩm luôn cao hơn giá thành được tính trong dự án.
Ngoài ra hoạt động chính của công ty là cho thuê tài chính nhưng các phương thức cho thuê tài chính của công ty cũng chưa đa dạng, cơ cấu khách hàng và tài sản thuê chưa thực sự phong phú. Các hoạt động khác như nhận tư vấn, bảo lãnh, cho thuê uỷ thác, cho thuê vận hành hoặc bán đồ cũ, mua bán nợ, đầu tư..., là các hoạt động mà một công ty cho thuê ở các nước phát triển thường thực hiện, thì hiện nay công ty vẫn chưa thực hiện được nhiều. Các ơhương thức cho thuê như mua và cho thuê lại hay cho thuê giáp lưng, cho thuê hợp vốn chỉ rất ít hay chưa có. Tài sản thuê công ty vân chưa lớn và phong phú, một số ngành vẫn chưa thực hiên được như: hàng không, y tế, bất động sản.
Hình thức huy động vốn chủ yếu của công ty là từ Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, còn từ các tổ chức khác vẫn còn ít so với tổng vốn. Hình thức huy động vốn qua phát hành trái phiếu và nhận tiền gửi của nhân dân kỳ hạn 1 năm vẫn chưa được thực hiện. Công ty vẫn chưa tiếp cận được với các nguồn vốn rẻ của quốc tế.
3. Nguyên nhân
Để khắc phục những hạn chế nêu trên, trước hết cần phải tìm ra nguyên nhân của những hạn chế đó. Sau đây là một số vấn đề được coi là nguyên nhân chính ảnh hưởng đến hiệu quả công tác thẩm định nói chung và công tác thẩm định tài chính nói riêng ở công ty cho thuê tài chính ngân hàng đầu tư & phát triển Việt Nam và cũng là vấn đề tồn tại được quan tâm ở nhiều ngân hàng hoạt động tại Việt Nam.
3.1. Nguyên nhân từ phía công ty .
Đúc kết kinh nghiệm từ quá trình hoạt động, công ty cho thuê tài chính ngân hàng đầu tư & phát triển Việt Nam đã xây dựng một quy trình thẩm định để áp dụng trong toàn hệ thống, từ Trung ương tới địa phương, song quy trình này chưa hoàn chỉnh, còn nhiều bất cập, bất cập ở chỗ như đối với các dự án cho thuê có vốn nhỏ, thì công ty vẫn thực hiện thẩm định theo đúng quy trình thẩm định. Vẫn chưa nhất quán trong công tác đánh giá về tính hiệu quả cuả dự án, đó là việc có lên tính hiệu quả của dự án khi đã khấu trừ lãi vay ngân hàng không, hay tính hiệu quả của dự án khi đã trừ hết khoản chi phí, như trả lãi ngân hàng, đóng thuế và có dự án thì tính cả lạm phát của ròng tiền, có dự án lại không.
Nội dung thẩm định tuy đủ nhưng kĩ thuật thẩm định còn khá đơn giản thậm chí là sơ sài, không đáp ứng được những điều kiện kinh doanh thực tế ngày càng đa dạng và phức tạp. Ví dụ:
Công ty ít quan tâm tới tính chính xác của giá bán dự kiến và các yếu tố tác động tới giá bán như lạm phát, tình hình sản xuất, tiêu thụ từng năm. Giá bán chủ đầu tư trình lên thường cố định trong cả đời dự án là một điều phi thực tế. Tương tự, chi phí sản xuất được xác định liên quan tới khả năng tiêu thụ.
Để đơn giản, sản lượng tiêu thụ được dựa trên công suất thực tế trong khi sản lượng không phải là bất biến mà phải gắn với việc nghiên cứu nhu cầu thị trường. Giá bán, sản lượng không chính xác thì số liệu về doanh thu, chi phí, các chỉ tiêu hiệu quả tài chính không thể đủ độ tin cậy. (Đối với dự án Công trình thuỷ điện, do sản phẩm của dự án khá đặc biệt là điện, chủ dự án đã kí được hợp đồng tiêu thụ với giá cố định nên cán bộ thẩm định có thể chấp nhận số liệu gốc của chủ dự án về sản lượng tiêu thụ, doanh thu và một số loại chi phí).
· Việc xác định dòng tiền trong từng năm dự án hoạt động cũng bị ảnh hưởng trước hết là do doanh thu và chi phí không được xác định hợp lý, bỏ qua sự biến động của các yếu tố như hàng tồn kho, các khoản phải thu phải trả. Thứ hai, phần thu nhập âm của những năm lỗ phải được tính vào phần thu nhập trước thuế của năm sau trước khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp của năm sau. Nhưng thực tế thì doanh nghiệp không phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp khi bị lỗ, chỉ nộp thuế thu nhập khi có lãi mà không bị khấu trừ. Thứ ba, sau khi dự án hết thời gian hoạt động, khoản vốn lưu động ròng và giá trị thanh lý tài sản cố định của dự án phải được thu hồi và tính vào dòng tiền năm cuối. Song công ty lại thường không quan tâm tới hai khoản thu hồi này.
· Đối với một số dự án, công ty quá quan tâm đến khả năng trả nợ của dự án qua việc tính nguồn trả nợ từ khấu hao và lợi nhuận sau thuế hàng năm, coi đó là yếu tố quyết định cho vay hay từ chối. Nhưng nguồn tiền thực tế dùng để trả nợ sẽ nhỏ hơn nguồn trả nợ dự tính. Qua kinh nghiệm của các cán bộ tín dụng lâu năm, lợi nhuận tối đa dùng để trả nợ chỉ là 60% chứ không phải là 100% lợi nhuận sau thuế như chủ dự án đánh giá. Thông thường, công ty chỉ lập bảng dự trù doanh thu - chi phí mà chưa đề cập các báo cáo tài chính như Bảng cân đối tài sản, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ, Kế hoạch ngân quỹ. Như vậy công ty không thể tính toán chính xác các chỉ tiêu thể hiện khả năng thanh toán của dự án vì thực tế thiếu hụt tiền mặt trong thời gian dự án hoạt động là hoàn toàn có thể xảy ra. Thời gian cho vay, lịch trả nợ có thể bị áp đặt một cách chủ quan, khiên cưỡng mà không xuất phát từ những luồng tiền thực tế, gây khó khăn cho hoạt động của cả dự án và của công ty.
· Việc phân tích độ nhạy trong thẩm định tài chính dự án không phát huy được ý nghĩa quan trọng của nó là phòng ngừa và dự đoán rủi ro. Bởi vì phân tích độ nhạy mới chỉ dừng ở mức tính toán lại các chỉ tiêu hiệu quả tài chính khi cán bộ giả định một trong các yếu tố như giá bán, sản lượng giảm 5%, 10%; chi phí tăng 5%, 10%. Sự thay đổi các nhân tố không dựa trên cơ sở nhận định các khả năng có thể xảy ra trên thị trường về tỷ giá, lạm phát, tình hình cung cấp nguyên vật liệu. Do vậy trước những biến động của thị trường, công ty sẽ rơi vào tình thế bị động khi dự án được tiến hành.
Đội ngũ cán bộ thẩm định tại công ty cho thuê tài chính ngân hàng đầu tư & phát triển Việt Nam mặc dù đều có trình độ chuyên môn cao nhưng vẫn không tránh được những sai sót, thiếu kinh nghiệm và kiến thức về một số lĩnh vực nhỏ. Chưa mạnh dạn áp dụng những phương pháp thẩm định mới đòi hỏi độ chính xác cao hơn, chưa khai thác hiệu quả và tối đa các nguồn thông tin trên phương tiện truyền thông, cụ thể là Internet. Bên cạnh đó cơ chế cung cấp kinh phí cho cán bộ trong việc thu thập thông tin như đi thực tế, thuê tư vấn... còn gặp nhiều khó khăn. Vì thế việc các cán bộ thường giữ nguyên các thông số kĩ thuật của dự án cũng là điều dễ hiểu.
3.2. Nguyên nhân từ phía khách hàng
Với những điều kiện hạn chế của một nền kinh tế đang trong giai đoạn chuyển đổi, nhiều doanh nghiệp vẫn chưa làm quen được với cơ chế mới, khả năng tài chính yếu kém, kiến thức về quản lí, về luật kinh tế còn thấp. Điều này đặc biệt đúng với nhiều doanh nghiệp Nhà nước, vốn là bộ phận không nhỏ khách hàng chủ yếu của công ty cho thuê tài chính ngân hàng đầu tư & phát triển Việt Nam. Vì vậy công ty cũng bị ảnh hưởng bởi sự yếu kém của khu vực này trong khi điều hành hoạt động của dự án.
Mặt khác, nhiều khách hàng là doanh nghiệp tư nhân chuẩn bị hồ sơ không tốt do thiếu trình độ hoặc không đủ tiền thuê tư vấn, khiến công ty tốn nhiều thời gian thẩm định. Đáng báo động hơn, hiện tượng doanh nghiệp không hoàn toàn hợp tác với công ty đang dần trở nên phổ biến. Doanh nghiệp không cung cấp đủ thông tin hoặc các thông tin cung cấp lại phản ánh sai lệch thực trạng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và hiệu quả của dự án. So sánh 2 báo cáo tài chính không được kiểm toán trung thực của cùng một doanh nghiệp ở cơ quan thuế và ở công ty cho thuê tài chính, người ta có thể thấy sự đối nghịch giữa các số liệu, sự “vận dụng linh hoạt” các thủ thuật kế toán. Bởi vì doanh nghiệp vừa muốn giảm đến mức thấp nhất khoản thuế phải nộp, vừa hy vọng huy động được vốn vay từ công ty càng nhiều càng tốt. Như vậy, thiếu thông tin chính xác từ chính khách hàng dẫn đến thời gian thẩm định kéo dài, tính hiệu quả của dự án không đủ độ tin cậy. công ty bị hạn chế khả năng nhận biết rủi ro và khả năng thu lợi nhuận sẽ trở nên dè dặt, thận trọng trong việc cung cấp tín dụng, rốt cuộc vai trò của thẩm định tài chính dự án bị giảm sút một cách nghiêm trọng.
3.3. Nguyên nhân từ phía môi trường thông tin, kinh tế, pháp luật.
Hiện nay thông tin ở nước ta chưa được quản lí chặt chẽ, quy củ để tạo nên một thị trường thông tin hoàn hảo. Các thông tin thu thập từ khách hàng phần nhiều là sai lệch, thông tin tham khảo từ các Bộ ngành liên quan không nhiều, mang tính chất chắp vá, có khi lại trái ngược nhau. Thực vậy, cán bộ thẩm định không được cập nhật thông tin một cách nhanh chóng mà chỉ dựa vào kế hoạch sản xuất hoặc chương trình đầu tư do các Bộ ngành chủ quản cung cấp. Ví dụ như đầu năm 2000, sản lượng mía đường được thông báo theo nhu cầu là 1 triệu tấn, sau khi sản xuất, xác định lại nhu cầu chỉ là 800 nghìn tấn. Một số ngành công nghiệp mũi nhọn với những dự án đầu tư lớn như khí đốt, dầu mỏ thì tài liệu tham khảo và dự án để so sánh lại chưa có, nếu có cũng là lần đầu tiên xuất hiện. Điều này gây khó khăn cho việc đánh giá xác định hiệu quả thực tế của dự án.
Môi trường kinh tế - xã hội những năm gần đây tuy đã được cải thiện nhưng còn nhiều bất ổn với tình trạng lạm phát - giảm phát, khủng hoảng cung - cầu. Thành phần chủ đạo trong nền kinh tế là các doanh nghiệp cổ phần hoá gặp nhiều khó khăn trong sản xuất lẫn tiêu thụ, vốn tự có ít, công nghệ lạc hậu, chủ yếu đầu tư bằng vốn vay từ các ngân hàng, công ty chho thuê tài chính và vốn ngân sách cấp. Các dự án xin vay vốn từ công ty cho thuê tài chính ngân hàng đầu tư & phát triển Việt Nam của doanh nghiệp nhà nước tuy chưa được thẩm định rõ về mặt tài chính đã được các cơ quan cấp trên phê duyệt, cho nhận xét tốt. Chịu sức ép chính trị của những “vận động hậu trường”, quyết định cho vay của các ngân hàng quốc doanh không chỉ căn cứ vào tính hiệu quả của dự án mà bị chi phối bởi các chỉ tiêu, kế hoạch của nhà nước. Đối với những dự án đầu tư của thành phần ngoài quốc doanh, công ty lại quá chú trọng đến vấn đề bảo lãnh, thế chấp tài sản... Vì vậy, việc thẩm định nhiều khi chỉ mang tính hình thức.
Ngoài ra, cơ chế chính sách và hệ thống văn bản pháp lý về quản lý đầu tư trong nền kinh tế nói chung và trong hoạt động cho thuê nói riêng còn chồng chéo mà vẫn chưa đầy đủ, đồng bộ. Việc có quá nhiều quy chế cũng như việc để các quan chức địa phương tuỳ tiện áp dụng quy chế không những tạo cơ hội tham nhũng rộng khắp mà còn gây trở ngại cho gia tăng đầu tư. Mặc dù nguồn vốn luôn là vấn đề bức xúc hiện nay song khu vực kinh tế tư nhân đang gặp khó khăn khi đầu tư bởi các quy định, đòi hỏi có liên quan đến cơ chế giấy phép. Ngược lại các doanh nghiệp nhà nước dù có làm ăn thua lỗ thì vẫn có thể tìm đến các thể chế chính trị xin tự cấp để tiếp tục đầu tư hay trả nợ công ty. Nguồn vốn đầu tư không hiệu quả là nguồn vốn bị lãng phí, công tác thẩm định hiện chưa nhìn nhận đúng đắn chính là bởi nguyên nhân này. Môi trường kinh doanh bình đẳng với cơ chế chính sách ổn định hơn nhất định sẽ tạo điều kiện cho nhiều dự án lớn có thời hạn dài được thành lập để phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tóm lại, hoạt động thẩm định dự án trong những năm gần đây đã có nhiều đóng góp vào việc nâng cao chất lượng tín dụng của công ty cho thuê tài chính ngân hàng đầu tư & phát triển Việt Nam, song bên cạnh đó cũng còn tồn tại một số hạn chế cần khắc phục. Để đưa công ty cho thuê tài chính tiếp tục phát triển vững mạnh, trở thành công ty cho thuê tài chính đứng đầu trong khu vực vào thập kỉ tới, đòi hỏi phải có những giải pháp hữu hiệu nhằm xoá bỏ những hạn chế đó và hoàn thiện hoạt động thẩm định.
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI CÔNG TY CHO THUÊ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
ĐẦU TƯ – PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
I. ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY THEO DỰ ÁN ĐẦU TƯ CỦA CÔNG TY CHO THUÊ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
Tiếp tục thực hiện định hướng phát triển 10 năm và phát huy thế mạnh của công ty cho thuê tài chính, Hội đồng quản trị và Ban giám đốc công ty cho thuê tài chính ngân hàng đầu tư & phát triển Việt Nam đã thông qua mục tiêu của công ty, đó là “ cổ phần hoá thành một công ty cho thuê độc lập và trở thành một trong những công ty cho thuê tài chính lớn nhất tại Việt Nam, giữ vai trò chủ đạo trong lĩnh vực cho thuê tài chính ” và đặc biệt là luôn mang đên cho các doanh nghiêp có sự lựa chọn và khuynh hướng phát triển tôt nhất cho doanh nghiệp của mình. Trong quá trình thực hiện mục tiêu này, phương pháp quản lý, tập quán kinh doanh và tư duy kinh tế của công ty đã có nhiều chuyển biến tích cực. Đồng thời môi trường kinh doanh được cải thiện cũng tạo thuận lợi cho hoạt động cho thuê tài chính:
- Luật Doanh nghiệp có hiệu lực thi hành cao, làm tăng nhanh số doanh nghiệp mới thành lập, tham gia vào hoạt động kinh tế.
- Hiệp định thương mại Việt Mỹ được ký kết và phê chuẩn, mở ra nhiều cơ hội, triển vọng cho các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp liên doanh, liên kết với nước ngoài. Các tổ chức như AFEC, WTO.
- Một số chính sách chế độ được ban hành, sửa đổi: điều chỉnh luật thuế GTGT, luật khuyến khích đầu tư, thuế xuất nhập khẩu, chính sách mới về nông sản và thủy sản...
Công tác thẩm định của công ty cho thuê tài chính được công ty mẹ và ngân hàng nhà nước đánh giá cao về chất lượng và cũng như hiệu quả trong công tác thẩm định cho thuê tài chính.
Các chỉ tiêu đề ra:
- Phấn đấu mức tăng dư nợ tín dụng hàng năm từ 20-28% trở lên, trong đó tín dụng dịch vụ và ngành cho thuê chủ chốt chiếm 68-80% tổng dư nợ.
- Tăng cường tỷ trọng tín dụng trung và dài hạn từ 48-55% tổng dư nợ, tập trung vốn cho các ngành, tập đoàn kinh tế, dự án có vai trò chiến lược: điện, dầu khí, bưu chính, hàng không, điện tử...
- tiếp tục mở rộng chức năng cho thuê tài chính, các dịch vụ khác ngoài chức năng cho thuê.
- Phấn đấu cổ phần hóa công ty để công ty lớn manh hơn và phù hợp với thị trường đang lớn mạnh theo từng ngày.
Định hướng hoạt động cho vay theo dự án đầu tư:
- Duy trì và phát huy các biện pháp huy động vốn hữu hiệu, có khả năng cạnh tranh cao; thu hút các doanh nghiệp đi thuê bằng những hình thức marketing về những ưu đãi cho thuê của công ty, vì hiện nay có rất nhiều các doanh nghiệp mới được thành lập, nên họ chưa am hiểu cho lắm về lợi ích của việc “ đi thuê bằng hiện vật”. Tăng cường nguồn vốn trung và dài hạn; củng cố uy tín trong nước và quốc tế, tranh thủ tiếp nhận các nguồn vốn uỷ thác.
- Hoạt động tín dụng đảm bảo tăng trưởng với tốc độ phù hợp tăng trưởng và nhu cầu vốn của nền kinh tế, tập trung vào các dự án an toàn, có hiệu quả không chỉ đối với kinh tế của công ty mà còn đối với toàn nền kinh tế xã hội.
- Mở rộng đối tượng cho vay không phân biệt loại hình sở hữu, song chú trọng dành lượng vốn lớn để cung cấp tín dụng cho các Tổng Công ty, các dự án lớn; ưu tiên cho lĩnh vực xuất nhập khẩu và các lĩnh vực trọng điểm của Quốc gia; bám sát các dự án lớn đã cam kết để thực thi vai trò cho thuê đầu mối thu xếp vốn. Đồng thời nâng cao chất lượng tín dụng và thẩm định, đẩy nhanh công tác tín dụng và thẩm định để tạo điều kiện cho doanh nghiệp vay vốn kịp thời với chính sách lãi suất và phí dịch vụ hấp dẫn; có các giải pháp về khai thác tài sản xiết nợ, xử lý nợ khó đòi nhằm thu hồi vốn về cho công ty.
Để thực hiện mục tiêu chung của công ty cho thuê tài chính ngân hàng đầu tư & phát triển Việt Nam và mục tiêu nâng cao chất lượng tín dụng đầu tư cho dự án nói riêng, công tác thẩm định luôn là một trong những quan điểm mấu chốt thành công của các dự án và cũng là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt tại công ty cho thuê tài chính.
Định hướng công tác thẩm định dự án đầu tư:
- Thẩm định tài chính phải đứng trên quan điểm của người cho vay để xem xét tính khả thi, hiệu quả của dự án, nhận thức rõ lợi ích của công ty gắn bó chặt chẽ với lợi ích của chủ đầu tư.
- Xuất phát từ tình hình thực tiễn trong ngành và phục vụ hoạt động cho vay của công ty cho thuê tài chính trong từng giai đoạn.
- Công tác thẩm định tài chính dự án phải được quán triệt trong toàn hệ thống, không chỉ ở bộ phận thẩm định trực tiếp mà còn ở các phòng ban liên quan.
- Công tác thẩm định phải được tiến hành thường xuyên trong các giai đoạn của quá trình vay vốn với mọi dự án xin vay.
- Thẩm định tài chính phải được quy trình hoá, công nghệ hoá chú trọng sự phù hợp với định hướng hoạt động cho vay của công ty, trở thành thế mạnh trong kinh doanh.
- Thẩm định tài chính phải đóng vai trò tham mưu và chủ chốt có hiệu quả cho các cấp lãnh đạo trước khi quyết định cho vay hay từ chối.
Với vai trò quan trọng của mình trong công ty, phòng thẩm định đã không ngừng vươn lên, học hỏi thêm và luôn tự bồi dượng về chuyên môn để góp phần vào sự thành công của công ty.
II. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI CÔNG TY CHO THUÊ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
1. Hợp lý hoá tổ chức điều hành
Các dự án đưa đến công ty cho thuê tài chính có quy mô, tính chất đa dạng nên công tác tổ chức điều hành khoa học, hợp lý sẽ phát huy được tính sáng tạo, năng lực cá nhân, đảm bảo sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bộ phận. Để xây dựng thành công một cơ chế hoạt động hiệu quả, công ty cần phải xúc tiến:
- Hoàn thiện hệ thống tổ chức thẩm định theo hướng tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa phòng Thẩm định đầu tư với phòng Khách hàng, phòng Quản lý tín dụng và các phòng khác. Bên cạnh đó, hình thành mối quan hệ về thẩm định với Ngân hàng nhà nước, Bộ đầu tư, bộ phận thẩm định ở các Ngân hàng thương mại quốc doanh lớn.
- Xem xét, kiện toàn cơ cấu phù hợp, dễ kiểm tra, kiểm soát từ Trung ương cho tới chi nhánh; bộ máy nhân sự tinh giản, gọn nhẹ, hướng vào hiệu quả của hoạt động.
- Thực hiện nghiêm túc phân quyền về phán quyết và thẩm định như đang làm hiện nay, có sự điều chỉnh mức phán quyết trong từng giai đoạn cho phù hợp với từng chi nhánh, đối tượng khách hàng cũng như lĩnh vực kinh doanh khác nhau.
- Củng cố vai trò đầu não của phòng Thẩm định đầu tư dưới các góc độ như: tái thẩm định các dự án vượt quyền phán quyết của chi nhánh, đánh giá chất lượng thẩm định của cả hệ thống, cố vấn cho các chi nhánh thẩm định những dự án phức tạp, tham mưu cho Ban lãnh đạo kịp thời đôn đốc, điều chỉnh và quản lý nợ, kết hợp với phòng Tổ chức , tín dụng đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ thẩm định cho các cán bộ ở chi nhánh.
2. Tiếp tục hoàn thiện nội dung quy trình thẩm định
Những văn bản, quy định có liên quan tới công tác thẩm định tài chính ở công ty cho thuê tài chính ngân hàng đầu tư & phát triển Việt Nam chưa tạo được sự thống nhất có hiệu quả trong các cấp, trước mắt công ty cần xây dựng chuẩn hoá một văn bản quy định riêng. Trong đó nội dung quy trình thẩm định được sửa đổi, bổ sung ở một số khía cạnh sau:
· Thẩm định doanh thu và chi phí: Sự chính xác của số liệu dự tính doanh thu và chi phí phụ thuộc vào việc phân tích thị trường đầu ra, đầu vào của sản phẩm. Khi thẩm định đòi hỏi có những mô hình phân tích thị trường một cách khoa học và có thể sự đoán về cung cầu hiện tại cũng như tương lai, so sánh sản phẩm của dự án với sản phẩm cạnh tranh trên thị trường có định lượng cụ thể, không chỉ dựa vào cảm tính và công suất thiết kế của máy móc mà phải dựa vào thực tế thực nghiệm và thức tế của thị trường. Một số loại chi phí quản lí doanh nghiệp, lãi vay vốn lưu động ngân hàng do chủ dự án đưa vào không nên mặc nhiên chấp nhận, mà phải xem xét lại. Vì đây là những chi phí không được quy định rõ ràng nên cần có sự so sánh với những dự án tương tự (dự án đầu tư mới) và tham khảo chỉ tiêu cũ những năm trước (dự án đầu tư mở rộng).
Đối với những dự án lớn, việc thẩm định thị trường đầu ra, đầu vào hoặc thẩm định mặt kĩ thuật công nghệ còn khó khăn, phức tạp, nếu cần thiết (vượt hạn mức tín dụng quy định), công ty nên thuê tư vấn thẩm định.
· Việc sử dụng các chỉ tiêu đánh giá tài chính:
Hệ thống chỉ tiêu thẩm định tài chính là nội dung chính trong công tác thẩm định mới, hiện đại trên cơ sở áp dụng các chỉ tiêu, phương pháp tiên tiến trên thế giới và vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam hiện nay. Bên cạnh các chỉ tiêu tuyệt đối có tính tới giá trị thời gian của tiền, kết hợp cả các chỉ tiêu tương đối mới có thể đánh giá sâu sắc tình trạng tài chính dự án. Trước khi tính toán các chỉ tiêu phải xác định dòng tiền vào - ra chính xác, phải nhìn từ nhiều góc độ khác nhau của thị trường. Ở đây những điểm bất hợp lý cần chú ý sửa đổi như sau:
- Về tính thuế thu nhập doanh nghiệp: Lỗ của các năm trước nên cộng vào lợi nhuận trước thuế của các năm sau để tính thuế thu nhập doanh nghiệp, xác định khả năng trả nợ thực tế của dự án.
- Về xử lí các khoản thu hồi: Hầu hết các dự án đều có giá trị thu hồi là tài sản cố định, vì máy móc, nhà xưởng, vào thời điểm kết thúc dự án vẫn còn một giá trị thị trường nhất định, khi thanh lí sẽ tạo nên một luồng tiền thu cuối dự án. Thu nhập này có thể bị tính thuế thu nhập doanh nghiệp hoặc không tuỳ theo chế độ kế toán hiện hành. Do đó, phải xác định đúng giá của các tài sản cố định đó trong thời điểm lúc bấy giờ. Ngoài ra khoản thu hồi vốn lưu động ròng cũng phải được cộng trong dòng tiền vào năm cuối.
- Về thời gian hoạt động của dự án: Xác định các chỉ tiêu liên quan đến giá trị thời gian của tiền thì phải căn cứ vào các dòng tiền phát sinh trong cả dự án, không nên chỉ xem xét trong thời gian vay nợ như hiện nay. Với dự án không xác định được rõ thời gian hoạt động thì ngân hàng có thể lấy thời gian khấu hao thiết bị để tính toán.
- Về tỷ lệ chiết khấu: Trên lí thuyết tỷ lệ chiết khấu chính là chi phí bình quân gia quyền của vốn, nhưng trong điều kiện như ở Việt Nam, chi phí vốn tự có rất khó tính. Ngân hàng có thể sử dụng lãi suất cho vay (hoặc lãi suất trái phiếu kho bạc Nhà nước) cộng thêm % mức độ rủi ro của dự án. Tuy vậy việc xác định tỷ lệ % rủi ro này cũng rất khó, để tránh phụ thuộc vào cảm tính nên xây dựng thống nhất một danh mục để đánh giá mức độ rủi ro với từng lĩnh vực ngành nghề cụ thể để làm cơ sở tham khảo cho từng dự án.
· Phân tích tài chính dự án qua các năm hoạt động: Một dự án khả thi là dự án cải thiện được tình hình tài chính của doanh nghiệp vì đem lại luồng sinh khí mới. Như vậy nếu sử dụng các hệ số tài chính trong đánh giá tài chính dự án sẽ cho một cái nhìn cụ thể hơn về hoạt động tài chính - sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp, về tính khả thi của dự án và khả năng trả nợ đối với công ty. Do đó công ty cần yêu cầu chủ dự án lập hoặc tự lập các báo cáo tài chính tạm thời của các năm trong thời hạn vay vốn, thiết lập các hệ số tài chính làm cơ sở đánh giá mức độ rủi ro của khoản vay. Trong khi phân tích, ngân hàng có thể áp dụng phương pháp tỷ lệ, phương pháp phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn, phương pháp phân tích rủi ro, phương pháp phân tích tiền mặt... để thẩm định, đánh giá hiệu quả tài chính của dự án trong nhiều năm.
· Phân tích rủi ro:
Hai phương pháp mà công ty có thể sử dụng phổ biến trước mắt là phân tích độ nhạy và phân tích tình huống. Phân tích mô phỏng tuy có độ chính xác cao nhưng đòi hỏi có cơ sở dữ liệu phong phú, nhân viên phân tích cần phải có kinh nghiệm, phải xác định được xác suất xảy ra và có phương tiện kĩ thuật hiện đại. Việc áp dụng phương pháp này hiện nay ở Việt Nam la chưa có hiệu quả cao.
Công ty cho thuê tài chính nên sử dụng phân tích độ nhạy một cách hiệu quả hơn, không chỉ đơn thuần là tìm được yếu tố nhạy cảm để quản lý dự án mà còn để đánh giá độ tin cậy vững chắc của yếu tố dự báo.Thay vì cố định các mức độ biến động là 5%, 10% hay 15% như hiện nay, Ngân hàng có thể chỉ ra biên độ dao động của các nhân tố khi các chỉ tiêu, hệ số tiến đến gần giới hạn tối thiểu cho phép, từ đó suy ra khả năng xảy ra rủi ro là bao nhiêu, nói cách khác độ tin cậy của các dự báo tài chính là như thế nào.
3. Nâng cao hiệu quả của hệ thống thông tin
Trong môi trường kinh tế sôi động như hiện nay, thông tin chính là một vũ khí cạnh tranh lợi hại và quan trọng đối với công ty nói riêng và các công ty cho thuê tài chính, ngân hàng nói chung. Để đảm bảo xây dựng được hệ thống thông tin hiệu quả, trước hết công ty cần hoàn thiện mạng lưới cung cấp thông tin, báo cáo nội bộ. Mọi thông tin liên quan đến dự án đều phải được cung cấp một cách thông suốt, đầy đủ và kịp thời. Với lợi thế của công ty cho thuê tài chính là các cơ sở chi nhánh cũng như Trung ương được trang bị nhiều máy vi tính khá hiện đại, đều được nối mạng internet nếu khai thác tốt thì đây sẽ là chìa khoá giải quyết vấn đề về thông tin vì thời kỳ hiện nay là thời kỳ của bùng nổ thông tin, công nghệ qua internet.
Công ty có thể ban hành quy chế thu thập thông tin định kỳ cho các bộ phận thông tin ở công ty. Các phòng ban, các cá nhân sẽ thu thập và lưu trữ thông tin cụ thể về tình hình trên địa bàn mình, hàng tháng gửi báo cáo về Trung ương qua mạng vi tính nội bộ. Đồng thời tại Trung ương sẽ thành lập một trung tâm chuyên trách nhằm xử lý, phân loại và tổng hợp thông tin theo ngành, khu vực hoặc theo đối tượng khách hàng truyền thống của công ty là các Tổng Công ty lớn. Ngoài ra thông tin còn được tổng hợp theo ba nội dung chủ yếu:
- Thông tin về kinh tế xã hội nói chung: chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, những đối mới của các văn bản pháp luật, sự phát triển kinh tế, đầu tư trực tiếp nước ngoài, tình hình xuất nhập khẩu…
- Thông tin về tài chính ngân hàng: các nghị định, thông tư, quy chế của Chính phủ, Bộ tài chính, ngân hàng nhà nước…
- Thông tin thị trường: sự biến động về số lượng và giá bán của nguyên vật liệu sản xuất, máy móc tiêu dùng, hàng tiêu dùng…để từ đó có thể xác định chính xác giá của các máy móc thiết bị, các sản phẩm cho thuê, ..
Đối với việc thu thập thông tin từ bên ngoài, công ty cần đa dạng hóa các nguồn cung cấp từ ngân hàng nhà nước, các ngân hàng thương mại khác, công ty kiểm toán, các cơ quan thông tấn trong và ngoài nước, khách hàng khác... Hàng ngày, một khối lượng thông tin khổng lồ thuộc các lĩnh vực kinh tế xã hội được cập nhật ở xa lộ thông tin là mạng toàn câù Internet, một kho dữ liệu vô tận mà công ty có thể khai thác để phục vụ cho công tác thẩm định cũng như lợi ích chung của toàn công ty. Sự khách quan và đa dạng của những nguồn tin này được coi là nhân tố đủ để đánh gía tính chính xác của kết quả thẩm định.
Các thông tin sẽ lưu trữ dưới dạng các ngân hàng dữ liệu rất thuận tiện cho việc phân tích, cung cấp và quản lý, tạo sự kết nối chặt chẽ giữa việc tìm hiểu thông tin về khách hàng, thị trường với công tác thẩm định.
4. Ứng dụng Marketing ngân hàng
Ngày nay, Marketing được xác định là một môn khoa học và cũng là một nghệ thuật, nhưng có cùng mục tiêu là thu hút khách hàng, mở rộng thị trường. Với việc ứng dụng Marketing trong hoạt động tín dụng, công ty có thể nâng cao tối đa chất lượng tín dụng vì những hiểu biết về thị trường sẽ tạo ra giải pháp thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Từ đó hoạt động thẩm định cũng được cải tiến theo hướng đơn giản hóa và đi vào chiều sâu.
Một chiến lược Marketing đầy đủ bao gồm 4 chính sách sau:
- Chính sách thông tin thị trường.
- Chính sách sản phẩm và giá.
- Chính sách phân phối.
- Chính sách giao tiếp, khuyếch trương.
Thông qua việc nghiên cứu, điều tra sự thay đổi trong nhu cầu của khách hàng, khả năng cạnh tranh của các ngân hàng đối thủ, công ty cho thuê tài chính có thể xác định rõ khách hàng mà công ty có thể phục vụ tốt. Lựa chọn đoạn thị trường phù hợp để có định hướng phát triển là hết sức cần thiết, công ty nên tạo cho mình một thế mạnh riêng. Ví dụ như là thế mạnh trong hoạt động kinh doanh, thanh toán ngoại tệ lúc đó ngoài khách hàng truyền thống là các DNNN, khách hàng tiềm năng của công ty chính là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp có hướng phát triển trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. Lưu ý những đối tượng là doanh nghiệp vừa và nhỏ đã thuộc thị phần của công ty cho thuê tài chính, hay những dự án nhằm phát triển khu vực kinh tế nông thôn lại thuộc lĩnh vực của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển nông thôn... Sau đó Ngân hàng tiến hành phân loại khách hàng thành nhóm như khách hàng mới và cũ, khách hàng có uy tín hay ẩn chứa nhiều rủi ro... nhằm áp dụng chính sách ưu đãi đối với từng nhóm, đồng thời có cơ chế thu thập quản lý thông tin, đánh giá hiệu quả dự án ngay từ đầu, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thẩm định dự án sau này, nhất là về phần tài chính vì trong thẩm định tài chính rất cần có sự minh bạch và rõ ràng trong các khâu về vốn, thu chi, lợi nhuận…..
Trong chính sách sản phẩm và giá, cùng với chính sách lãi suất hấp dẫn, công ty phải cung cấp ngày càng nhiều sản phẩm - dịch vụ tốt hơn. Công tác thẩm định tuy không phải là hoạt động sinh lời trực tiếp cho công ty nhưng có tác dụng thu hút khách hàng, làm tăng uy tín của công ty qua việc tư vấn, đánh giá đúng dự án của chủ đầu tư và cho họ những lời khuyên đối với dự án hoặc bảo mật thông tin có hiệu quả. Như vậy thực hiện tốt chính sách này cũng góp phần thúc đẩy hoạt động thẩm định ngày càng được hoàn thiện hơn.
5. Giải pháp về nhân sự
Đối với hoạt động cho thuê nói chung và hoạt động thẩm định dự án đầu tư nói riêng, con người luôn là nhân tố trung tâm chi phối, ảnh hưởng và quyết định. Do đó để nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án, công ty cần xây dựng một chiến lược phát triển nguồn nhân lực dài hạn với những kế hoạch về đào tạo, tuyển dụng, đãi ngộ ... như sau:
Kế hoạch hóa nguồn nhân lực:
Công ty nên có cán bộ chuyên trách về quản lý nhân sự, trên cơ sở nghiên cứu, tổng hợp nhu cầu nhân sự tại mỗi chi nhánh và sở giao dịch để hỗ trợ cho cán bộ quản lý phòng Dự án và phòng Thẩm định. Từ đó xây dựng một đội ngũ cán bộ hội đủ cả 3 điều kiện: trình độ, kinh nghiệm và sở trường (năng khiếu cá nhân). Một cán bộ tín dụng giỏi khi tiếp nhận dự án đầu tư không chỉ thực hiện các nghiệp vụ đơn thuần như lập chứng từ, lập hợp đồng tín dụng, mà trước hết phải thẩm định tính khả thi của dự án đó. Công việc này đòi hỏi người cán bộ tín dụng phải có kiến thức tổng hợp về kinh tế vĩ mô, vi mô, về hoạt động của công ty cho thuê tài chính, tài chính doanh nghiệp, quản lý dự án, về bảo hiểm, kỹ thuật ..., đồng thời kết hợp với những kinh nghiệm tích luỹ từ các dự án khác để đưa ra đánh giá, dự báo chính xác. Bên cạnh đó, năng khiếu cá nhân sẽ giúp cán bộ tín dụng có khả năng phán đoán những rủi ro tiềm ẩn, có tính quyết đoán và linh hoạt để không bỏ lỡ thời cơ đầu tư.Đây là những yêu cầu cần thiết đặt ra cho công tác tuyển dụng cán bộ. Ngoài ra để có một cơ cấu nhân sự hợp lý, gọn nhẹ, công ty nên có chính sách thu hút các chuyên gia, xây dựng đội ngũ cộng tác viên hỗ trợ trong công tác thẩm định dự án về mặt kỹ thuật, chuyên môn.
Đánh giá khả năng và bố trí nhân sự:
Cho vay là hoạt động mang đầy tính rủi ro, đặc biệt là cho vay đối với dự án vì một dự án đòi hỏi vốn lớn, thời gian thực hiện dài... Cán bộ tín dụng lại là người giám sát dự án, còn phòng thẩm định sẽ kiểm tra, thẩm định và xét duyệt dự án rồi trình Ban Giám đốc, do đó mà hiện tượng tiêu cực như nhận hối lộ, tiết lộ bí mật của khách hàng rất dễ xảy ra. Vì vậy chuyên viên nhân sự cần phải có những kỷ luật nghề nghiệp, quy định cụ thể đối với sai phạm của nhân viên, đưa ra yêu cầu phải trung thực, có tinh thần trách nhiệm đối với từng nhân viên.
Từng thời kỳ nhất định, phòng Quản trị kết hợp với các phòng ban khác rà soát lại đội ngũ cán bộ thẩm định, lên kế hoạch điều chỉnh vị trí công tác cũng như mức lương hợp lý theo trình độ, đạo đức. Những cán bộ có trình độ chuyên môn cao, có tư cách đạo đức tốt và tâm huyết với nghề cần được chú ý đào tạo, bố trí vào những vị trí chủ chốt, đảm nhận các dự án có quy mô lớn...
Xây dựng kế hoạch đào tạo và bồi dưỡng cán bộ
Công ty nên tiếp tục thực hiện một cách có hệ thống toàn bộ quá trình đào tạo từ việc xem xét, xác định nhu cầu của cán bộ để có biện pháp giải quyết thoả đáng. Nâng cao trình độ của cán bộ thẩm định bằng việc đào tạo ngắn hạn hoặc dài hạn ngoài giờ hành chính về nghiệp vụ tài chính, tín dụng, thẩm định. Cử những cán bộ có năng lực theo học các khoá đào tạo chuyên ngành về dự án và thẩm định dự án ở trong nước và nước ngoài, khuyết khích họ học hỏi nhiều và học cao hơn để về phục vụ cho công ty. Chú trọng công tác bồi dưỡng, cập nhật kiến thức không chỉ trong lĩnh vực chuyên môn mà còn hết sức cần thiết trong các lĩnh vực khác như ngoại ngữ, tin học, quản lý, pháp luật ...
Phổ biến đầy đủ, kịp thời cho cán bộ về quy trình tín dụng và thẩm định, các văn bản hướng dẫn của bộ, ngành liên quan, đồng thời thường xuyên cập nhật thông tin về chính sách tín dụng mới, thông tin về khách hàng, thị trường. Yêu cầu cán bộ thẩm định trong mọi trường hợp đều phải theo đuổi chính sách mang tính định hướng đã được vạch ra, song cần có sự năng động trong khuôn khổ hoạt động của mình.
CÔng ty tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích cán bộ tự đào tạo, nâng cao trình độ và hỗ trợ về mặt vật chất, thời gian cũng như đưa ra các cơ hội thăng tiến một cách bình đẳng.
6. Kiến nghị nhằm tạo điều kiện thực hiện các giải pháp đề ra
6.1. Kiến nghị với Nhà nước và các cơ quan chức năng
Tài chính - Ngân hàng là một lĩnh vực nhạy cảm, phản ứng nhanh với các thay đổi dù nhỏ của môi trường kinh tế vi mô. Một mặt còn yếu trong môi trường kinh tế vĩ mô Việt Nam hiện nay chính là tính ổn định và nghiêm minh về luật pháp, chính sách. Đối với riêng hoạt động thẩm định tài chính dự án đầu tư vẫn còn gặp nhiều khó khăn về mặt pháp lý do hệ thống pháp luật Việt Nam khi chuyển sang cơ chế thị trường đang trong quá trình hình thành chưa đồng bộ, nhiều lĩnh vực chưa có hoặc có quy định không thống nhất, sơ hở và thường xuyên thay đổi. Do vậy, Nhà nước và các cơ quan chức năng cần nhanh chóng hoàn thiện môi trường pháp lý, đảm bảo tính đầy đủ, thống nhất cũng như nâng cao hiệu lực trong sự điều chỉnh của pháp luật với hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh.
Thứ nhất, Nhà nước cần thiết lập một hệ thống luật đồng bộ và hợp lý:
Hoàn thiện áp dụng Luật cho thuê tài chính để gắn trách nhiệm của người vay vốn với pháp luật chặt chẽ.
Hoàn thiện và bổ sung Luật phá sản doanh nghiệp, Luật thế chấp tài sản, Luật phát mại tài sản..., các công ty cho thuê tài chính và các ngân hàng phải có quyền phát mại tài sản của doanh nghiệp để thu hồi vốn.Ban hành kèm theo quy chế thế chấp, cầm cố tài sản và bảo lãnh một cách cụ thể.
Ban hành văn bản quy định rõ trách nhiệm của các bên liên quan đối với kết quả thẩm định dự án đầu tư, đối với kết quả của công tác công chứng.
Hoàn thiện chính sách sử dụng và quản lý đất đai trong lĩnh vực đầu tư.
Tuy nhiên khi đổi mới, bổ sung các văn bản pháp luật, Nhà nước cần thông báo, phổ biến và đưa ra thời gian ân hạn thực hiện đối với các công ty cho thuê tài chính, đặc biệt là đối với các dự án. Vì thời gian thực hiện dự án đầu tư là trung và dài hạn, khi dự án đi vào hoạt động thì luật mới bắt đầu ban hành, dự án có thể gặp khó khăn do chi phí tăng, thuế tăng... so với dự kiến. Nhà nước nên chăng có những ân hạn đối với những dự án này để hỗ trợ cho dự án một phần chi phí bất thường xảy ra.
Thứ hai, Chính phủ và Bộ Kế hoạch và đầu tư tiến hành duyệt và công khai quy hoạch phát triển kinh tế xã hội các ngành, vùng, địa phương. Các quy hoạch, định hướng này phải được xây dựng rõ ràng và cụ thể, đảm bảo tính hiệu quả, ổn định để các doanh nghiệp và ngân hàng yên tâm đầu tư vốn, đồng thời làm cơ sở tham khảo khi thực hiện thẩm định.
Thứ ba, Bộ Tài chính cần có biện pháp quy định các doanh nghiệp áp dụng chế độ kế toán thống nhất, số liệu kế toán phải trung thực, đầy đủ. Tăng cường các biện pháp quản lý kinh doanh để doanh nghiệp thực hiện đúng chức năng, quy mô hoạt động phù hợp với vốn điều lệ và năng lực doanh nghiệp. Bên cạnh đó phải thanh tra, kiểm tra sổ sách thường xuyên để phát hiện và xử lý kịp thời các doanh nghiệp vi phạm. Khuyến khích phát triển công tác kiểm toán, số liệu kế toán nhất định phải được kiểm toán trước khi thực hiện các quan hệ như tín dụng, nộp thuế.
Thứ tư, Hàng năm các Bộ, ngành cần hệ thống hoá thông tin liên quan đến lĩnh vực mình quản lý, công khai tình hình hoạt động, phát triển qua các tài liệu chuyên ngành hoặc tập hợp lại ở các trung tâm thông tin của ngành, ở các báo cáo thường niên để chủ đầu tư và ngân hàng thuận lợi hơn cho việc lập và thẩm định dự án đầu tư của mình. Cụ thể như các Bộ chủ quản cần sớm ban hành những quy định về đơn giá xây dựng tổng hợp, tỷ suất vốn đầu tư, định mức tiêu hao nguyên vật liệu ... cho từng ngành, lĩnh vực để xác định rõ tổng vốn đầu tư và chi phí sản xuất hàng năm.
Thứ năm, Những dự án đầu tư trước khi chủ đầu tư xin vay vốn ngân hàng thường được các cơ quan chức năng phê duyệt, thẩm định. Để nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư, đề nghị các cơ quan hữu quan cần khách quan, chính xác trong khâu này. Ngoài ra, với các dự án vay vốn tín dụng Nhà nước, công ty cho thuê tài chính cần được tham gia thẩm định ngay từ đầu, không để lặp lại tình trạng hầu hết các dự án vay vốn tín dụng Nhà nước là do chỉ thị cấp trên, công ty không có quyền quyết định nhằm đảm bảo vốn hoạt động của công ty cũng như hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của Nhà nước.
6.2. Kiến nghị đối với ngân hàng nhà nước và các ngân hàng thương mại
Ngân hàng nhà nước nên xây dựng sớm một hệ thống văn bản quy định cơ chế, quy trình thẩm định và trách nhiệm các bên. Đồng thời xác định hệ thống chỉ tiêu thẩm định mang tính chuẩn mực cùng các ngưỡng đánh giá cho từng ngành, lĩnh vực, từng cấp độ để các ngân hàng thương mại và các công ty cho thuê tài chính dựa trên cơ sở đó so sánh, thẩm định.
Ngoài việc hệ thống hoá những kiến thức cơ bản về thẩm định dự án, ngân hàng nhà nước nên tăng cường hỗ trợ cho công ty cho thuê tài chính ngân hàng đầu tư & phát triển Việt Nam trong công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ thẩm định của đội ngũ nhân viên; trợ giúp cung cấp tài liệu, thông tin phục vụ cho công tác phân tích tài chính dự án. Bản thân chất lượng hoạt động của Trung tâm phòng ngừa rủi ro phải được nâng cao, ví dụ đưa ra mức độ rủi ro của từng ngành nghề, lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp để làm căn cứ cho công ty phân loại, xếp hạng doanh nghiệp. Vai trò điều phối của Trung tâm cần phát huy như là đầu mối của việc thu thập trao đổi thông tin, là đầu mối của các ngân hàng thương mại, giữa hệ thống công ty với các cơ quan quản lý kinh tế như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tổng cục Thống kê...
Hiện nay, có rất nhiều dự án quy mô lớn, vượt mức đầu tư cho phép của một ngân hàng, do đó các ngân hàng thương mại quốc doanh và các công ty cho tuê tài chính có thể kết hợp với nhau để tạo ra vốn lớn và đồng tài trợ cho dự án. Việc hợp tác này còn tận dụng được thế mạnh của mỗi ngân hàng và đồng thời cũng chia sẻ được rủi ro.
Đề nghị các cán bộ thẩm định dự án cần phối hợp với nhau để tăng thêm lượng thông tin về khách hàng có liên quan đến dự án, tránh được những rủi ro tín dụng do thế chấp một tài sản ở nhiều ngân hàng, nhiều công ty cho thuê tài chính, những khoản vay đảo nợ... Hàng năm, ngân hàng nhà nước và các ngân hàng thương mại, các công ty cho thuê tài chính nên tổ chức những cuộc họp toàn ngành nhằm tăng cường sự hiểu biết trong công tác thẩm định , cũng như các nghiệp vụ cho thuê.
6.3.Kiến nghị đối với chủ đầu tư
Công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư có được hoàn thiện hay không không chỉ phụ thuộc vào công ty cho thuê mà còn phụ thuộc rất nhiều vào các chủ đầu tư đi thuê vì đây là đối tượng vay vốn và cũng chính là người sử dụng vốn vay. Do đó chủ đầu tư cũng phải giúp đỡ công ty trong việc thẩm định dự án:
Cung cấp cho công ty một cách đầy đủ và chính xác các thông tin của mình mà công ty cho thuê tài chính yêu cầu. Tự bồi dưỡng nâng cao năng lực lập báo cáo khả thi và dự án đầu tư.
Khách hàng nên mạnh dạn, chủ động nghiên cứu các dự án mới, quy mô lớn và cần chủ động trong việc tổ chức một đội ngũ cán bộ có năng lực, có trình độ, có trách nhiệm để tìm ra và xây dựng những dự án, đưa doanh nghiệp đến những cơ hội mới, mang lại thu nhập cho doanh nghiệp.
Chủ đầu tư cần tổ chức tốt quá trình sản xuất kinh doanh của mình, đó là việc đảm bảo cho quá trình thực hiện dự án được tiến hành một cách thông suốt, đều đặn... đảm bảo sự ăn khớp với dự kiến trong dự án.
KẾT LUẬN
Hoàn thiện các phương thức cho thuê tài chính, quy trình thẩm định của công ty cho thuê tài chính Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, cũng chính là vấn đề mà chuyên đề đã đề cập đến. Chuyên đề này đã phần nào nói lên được tầm quan trọng của công tác thẩm định, đặc biệt là công tác thẩm định tài chính dự án cho thuê đối với công ty cho thuê tài chính.
Chuyên đề đã tìm hiểu và phân tích các phương pháp thẩm định, chất lượng thẩm định và các nhân tố ảnh hưởng tới công tác thẩm định. Qua đó, rút ra được những nhận xét, hạn chế còn tồn tại trong công tác thẩm định, phương thức cho thuê và nguyên nhân của những hạn chế đó. Trên những mặt đã đạt được, những hạn chế và các định hướng phát triển của công ty, chuyên đề đã rút ra được những giải pháp, những đề xuất và một số kiến nghị trình lên công ty, các ngân hàng thương mại, chủ đầu tư …
Đứng trên khía cạnh của một công ty cho thuê tài chính thì tài chính là một trong những nhân tố quan trọng, nó sẽ là chất để gắn kết giữa dự phát triển và tồn tại của công ty. Vì vậy, em mong rằng những giải pháp, kiến nghị đề xuất ở trên sẽ góp một phần nào đó vào công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại công ty cho thuê tài chính – Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam nói riêng và các công ty tài chính của hệ thống các Ngân hàng nói chung.
DANH MỤC THAM KHẢO
Ngân hàng thương mại - Edward W. Reed & Edward K. Gill - 1993.
Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính - Frederik S. Mishkin - 1995.
Commercial bank management - Peter S. Rose - Second Edition.
Quyết định dự toán vốn đầu tư (Phân tích kinh tế các dự án đầu tư) -Harold Bierman, JR & Seymour Smidt - NXB Thống kê.
Thẩm định dự án đầu tư - Vũ Công Tuấn - NXB TP Hồ Chí Minh.
lập dự án đầu tư – PGS.TS. nguyễn bạch nguyệt – ĐH KTQD
Tạp chí Ngân hàng năm, 2004, 2005.2006.2007.
Mẫu báo cáo thẩm định – công ty cho thuê tài chính.
CHƯƠNG II. Thực trạng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại
công ty cho thuê tài chính ngân hàng đầu tư & phát triển Việt Nam…………..1
I. Giới thiệu chung về công ty cho thuê tài chính
ngân hàng đầu tư & phát triển Việt Nam…………………………………...……1
1.1. lịch sử ra đời của công ty cho thuê tài chính
Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam……………………………………….…..1
1.2. Cơ cấu tổ chức…………………………………..……………………………..3
1.2.1. Nguyên tắc tổ chức và điều hành ………………………...………………...3
1.2.2. Mô hình tổ chức………………………………...……………………………3
1.2.3. Chức năng của các phòng………………………...…………………………4
1.3. Hoạt động cho vay theo dự án đầu tư trong những năm gần đây……...…17
II.Thực trạng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại
công ty cho thuê tài chính ngân hàng đầu tư & phát triển Việt Nam…..……..21
1. Quy trình thẩm định…………….……………………………………...……….21
1.1. Các bước thực hiện…………………..……………………………...……….21
1.2. đối với các dự án tái thẩm định…………………..…………………………23
1.3. Báo cáo thẩm định dự án cho thuê tài chính………………..……………..25
1.4. Thẩm định tài chính của dự án đầu tư tại
công ty cho thuê tài chính ngân hàng ĐT&PT VN………………..……………32
1.5. Phương pháp thẩm định, tính toán tài chính, khả năng
trả nợ và các chỉ tiêu tài chính của dự án cho thuê tài chính…………..……..36
2. Minh hoạ bằng dự án đầu tư đã được thẩm định tại
công ty cho thuê tài chính ngân hàng đầu tư & phát triển Việt Nam…………55
III. Đánh giá công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại
công ty cho thuê tài chính ngân hàng đầu tư & phát triển Việt Nam ..……….66
1. Kết quả đạt được..……………………………………………………………..66
2. Hạn chế ……………………………...………………………………………….71
3. Nguyên nhân………………………...………………………………………….72
3.1. Nguyên nhân từ phía công ty……………………………..………………….73
3.2. Nguyên nhân từ phía khách hàng………………………...………………….75
3.3.Nguyên nhân từ phía môi trường thông tin, kinh tế, pháp luật………….......75
CHƯƠNG III: Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính
dự án đầu tư tạicông ty cho thuê tài chính ngân hàng
đầu tư & phát triển Việt Nam……………………………………………………78
I. Định hướng hoạt động cho vay theo dự án đầu tư của
công ty cho thuê tài chính ngân hàng đầu tư & phát triển Việt Nam…..……..78
II. Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư tại
công ty cho thuê tài chính ngân hàng đầu tư & phát triển Việt Nam…..…….80
1. Hợp lý hoá tổ chức điều hành………..………………………………………...80
2. Tiếp tục hoàn thiện nội dung quy trình thẩm định………………..………….81
3. Nâng cao hiệu quả của hệ thống thông tin…………...……………………......84
4. Ứng dụng Marketing ngân hàng……………………...……………………......85
5. Giải pháp về nhân sự………………………………………..………………….86
6. Kiến nghị nhằm tạo điều kiện thực hiện các giải pháp đề ra………...……...88
6.1. Kiến nghị với Nhà nước và các cơ quan chức năng……………..….………88
6.2.Kiến nghị đối với ngân hàng nhà nước và các ngân hàng thương mại.….....90
6.3.Kiến nghị đối với chủ đầu tư…..……………………………………………...91
KẾT LUẬN………………………………...……………………………………...92
DANH MỤC THAM KHẢO………………………..…………………………...93
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- DT56.docx