Hiện nay uy tín của của doanh nghiệp ngoài quốc doanh đối với các Ngân hàng không cao, do đó việc các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tiếp cận được nguồn vốn của Ngân hàng là rất khó khăn.
Để được đáp ứng nhu cầu tín dụng, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cần củng cố và nâng cao uy tín đối với Ngân hàng bằng việc sản xuất kinh doanh có hiệu quả, hoàn trả nợ vay Ngân hàng đúng hạn. Để làm được điều này các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cần :
ã Các DNNQD phải thiết lập được các phương án kinh doanh, dự án sản xuất có tính khả thi cao.
Các DNNQD rất khó khăn trong việc tìm kiếm, thiết lập được phương án, dự án sản xuất kinh doanh có tính khả thi cao. Bởi vì các doanh nghiệp khi thành lập phương án sản xuất kinh doanh mới chỉ chú ý đến việc lựa chọn các qui trình công nghệ hiện đại, các yếu tố đầu vào, đầu ra của quá trình sản xuất, phương thức đầu tư vốn mà chưa dự kiến hết tình huống rủi ro có thể xảy ra như : mức cầu của sản phẩm trên thị trường, giá cả sản phẩm có thể thay đổi theo thời gian, nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng thay đổi. Vì thế các phương án sản xuất kinh doanh nhiều khi không phát huy hết hiệu quả, dẫn đến việc hoàn trả vốn vay Ngân hàng không đúng hạn, gây hiện tượng ứ đọng vốn, hiệu quả kinh tế thấp, chất lượng tín dụng bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Do vậy việc các doanh nghiệp xác định được phương án, dự án sản xuất kinh doanh có tính khả thi cao, dự kiến được hết các tình huống có thể xảy ra sẽ tạo điều kiện cho hoạt động tín dụng của Ngân hàng được an toàn, chất lượng tín dụng bảo đảm
78 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1147 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Ngân hàng Công thương Thái Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giao. Việc phân tích cơ cấu nguồn vốn, dự báo biến động của lãi suất chưa được quan tâm, chú ý. Cán bộ làm công tác huy động vốn chưa thấm nhuần quan điểm trong kinh doanh là góp phần tạo ra cơ cấu vốn hợp lí để đạt hiệu quả cao trong kinh doanh và chưa làm được vai trò quảng cáo giới thiệu về Ngân hàng mình .
Mức tăng trưởng tín dụng tuy đạt tỷ lệ cao song tăng trưởng không đều, chủ yếu tăng ở dư nợ VND dẫn tới Chi nhánh thiếu nguồn VND phải nhận vốn điều hoà về cho vay, trong khi đó Ngân hàng lại thừa nguồn ngoại tệ huy động được.
Công tác xử lý nợ tồn đọng tuy đã có nhiều cố gắng tích cực, kết quả xử lý đáng khích lệ, song so với khối lượng tài sản tồn đọng thì mới đạt tỷ lệ nhỏ. Cán bộ tín dụng chưa chủ động tích cực, kịp thời tìm kiếm biện pháp, đề xuất các giải pháp cụ thể để xử lý nợ quá hạn, tài sản bảo đảm tồn đọng.
Các khách hàng là doanh nghiệp ngoài quốc doanh có quan hệ với Ngân hàng vẫn là ít so với số lượng DNNQD có trong tỉnh. Số doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả không lớn.
Việc phối kết hợp giữa các phòng ban trong Chi nhánh trong hoạt động kinh doanh chưa tốt. Tinh thần, ý thức chấp hành giờ giấc làm việc, vệ sinh nơi công cộng, ý thức mặc trang phục, đeo phù hiệu chưa nghiêm túc
Công tác tiếp thị còn yếu chưa trở thành ý thức của mỗi cán bộ NHCT Thái Bình, đặc biệt thái độ tác phong trong giao tiếp ứng xử với khách hàng còn xảy ra tình trạng thiếu ân cần, tận tuỵ, còn để khách hàng kêu ca
Từ những biểu hiện tồn tại về chất lượng hoạt động tín dụng nói trên, có thể nói rằng thực trạng chất lượng tín dụng tại Chi nhánh NHCT Thái Bình chưa phải thực sự là tốt, cần thiết phải tìm ra nguyên nhân ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động tín dụng và đề ra các giải pháp khắc phục để đảm bảo an toàn và nâng cao khả năng sinh lời cho hoạt động tín dụng Ngân hàng
2.2 Nguyên nhân
Nguyên nhân của thực trạng này rất đa dạng, song có thể gộp lại một số nguyên nhân sau:
2.2.1 Nguyên nhân từ phía Ngân hàng
Trình độ năng lực cán bộ tín dụng và lãnh đạo phòng còn nhiều hạn chế, chưa thực sự hiểu hết các nghiệp vụ kinh doanh thuần tuý của Ngân hàng, nhất là công tác thanh toán quốc tế, kế toán thanh toán ... do đó việc tư vấn giúp khách hàng trong quá trình tác nghiệp còn bộc lộ nhiều khiếm khuyết.
Công tác thẩm định khách hàng lần đầu tiên có quan hệ tín dụng với Ngân hàng chưa thực hiện bài bản, chưa tuân thủ các bước trong qui trình nghiệp vụ, chưa điều tra sâu về khách hàng. Thẩm định các dự án đầu tư còn sơ sài, chiếu lệ, chủ yếu dựa vào thông tin sẵn có của khách hàng. Cán bộ tín dụng chưa phân tích đánh giá được ý nghĩa các chỉ tiêu tài chính và các thông tin liên quan đến khách hàng và thị trường.
Số liệu báo cáo thẩm định hồ sơ thiếu tính lô gích, không đầy đủ, không chính xác thông tin thiếu tin cậy (vì thông tin số liệu cập nhật quá lâu) do đó không phản ánh đúng bản chất thực tế tình hình tài chính, sản xuất kinh doanh của khách hàng.
Công tác bảo quản lưu giữ hồ sơ, sổ sách theo dõi tiền vay khách hàng không đầy đủ thiếu khoa học. Cá biệt có một số trường hợp cán bộ tín dụng không lưu giữ và làm mất hồ sơ .
Công tác kiểm tra giám sát, quản lý tiền vay còn nhiều hạn chế, nhất là công tác kiểm soát sau cho vay chưa được thực hiện thường xuyên, không lập biên bản làm việc hoặc kiểm tra cụ thể. Cán bộ tín dụng chưa kiểm soát được dòng tiền của khách hàng, việc cho vay, thu nợ chủ yếu dựa vào tài sản đảm bảo là chính .
Tinh thần trách nhiệm đối với công việc được giao còn nhiều hạn chế, thái độ tác phong làm việc với khách hàng chưa thật văn minh lịch sự, chưa chủ động trong việc tìm kiếm khách hàng. Kết quả và chất lượng công việc chưa cao, thể hiện: dư nợ hữu hiệu bình quân còn thấp, xử lí thu hồi nợ quá hạn còn chậm, nhiều phòng còn phát sinh nợ quá hạn.
Cán bộ tín dụng chưa chủ động và tích cực, kịp thời tìm kiếm biện pháp đề xuất các giải pháp cụ thể để xử lý nợ quá hạn, tồn đọng, tài sản bảo đảm tồn đọng kết quả xử lý nợ còn nhiều hạn chế.
Chưa có chế độ khuyến khích khen thưởng đối với cán bộ tín dụng hợp lý dẫn đến hiện tượng có một số cán bộ tín dụng ngại cho vay, sợ trách nhiệm và chưa quyết tâm với công việc
2.2.2 Nguyên nhân từ phía doanh nghiệp ngoài quốc doanh .
Trình độ quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp còn nhiều hạn chế, các doanh nghiệp hầu như không lập được các phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả cao
Vốn hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ít, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh lại chỉ được vay Ngân hàng tối đa 70% tài sản thế chấp do đó các doanh nghiệp ít có khả năng mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, ít được tiếp cận với công nghệ mới.
Tình trạng lừa đảo, gian lận trong kinh doanh vẫn diễn ra ở một số doanh nghiệp ngoài quốc doanh gây nên hậu quả xấu đến các mặt hoạt động của Ngân hàng.
Việc cung cấp các thông tin về tình hình sản xuất kinh doanh, tài chính không đầy đủ, nếu có thì không kịp thời hoặc bị sai lệch so với thực tế diễn ra ở một số các doanh nghiệp gây khó khăn cho công tác kiểm tra, giám sát và quản lý của Ngân hàng
2.2.3. Nguyên nhân khách quan
Năm 2002 là năm Ngân hàng nhà nước Việt nam thực hiện nhiều bước điều chỉnh lãi suất, nhất là việc thay đổi cơ chế điều hành lãi suất theo cơ chế thị trường từ tháng 6/2002 đã ảnh hưởng tới qui mô tín dụng và tạo ra tính bị động trong việc tính toán hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng
Địa bàn tỉnh Thái Bình nhỏ hẹp trong khi có nhiều tổ chức tín dụng tham gia kinh doanh tín dụng nên có sự cạnh tranh hết sức gay gắt về: lãi suất huy động, lãi suất cho vay, khách hàng và dịch vụ Ngân hàng khác. Nhưng bất cập nhất là tình trạng hạ thấp điều kiện vốn vay để chiếm giữ lôi kéo khách hàng. Nhiều tổ chức tín dụng cùng cho vay 1 khách hàng tạo ra môi trường kinh doanh thiếu lành mạnh, rất khó kiểm soát hoạt động kinh doanh và không kiểm soát được dòng tiền của khách hàng nên khả năng rủi ro tiềm ẩn của Ngân hàng có nguy cơ tăng cao
Kinh tế Thái Bình chủ yếu vẫn là nông nghiệp, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, hiệu quả thấp, kinh tế công nghiệp, tiểu thủ công phát triển chậm chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng thu nhập quốc dân. UBND tỉnh và các ngành, cơ quan chức năng chưa có những chính sách và biện pháp hữu hiệu để thu hút đầu tư từ bên ngoài để phát triển kinh tế trong tỉnh.
Hậu quả tình hình mất ổn định trong những năm vừa qua và chính sách thu hút vốn đầu tư trong, ngoài tỉnh chưa thật hấp dẫn nên chưa có sự bứt phá trong tăng trưởng đầu tư, phát triển. Nhiều doanh nghiệp chưa mạnh dạn và không có khả năng đầu tư mở rộng, đổi mới thiết bị công nghệ. Một số doanh nghiệp lớn được giao nhiệm vụ là chủ dự án lớn thì chưa đáp ứng được các điều kiện tín dụng nhất là khả năng tài chính hạn chế, vốn tự có thấp, không có vốn ngân sách hỗ trợ, phần lớn phải dựa vào nguồn vốn vay Ngân hàng hoặc bảo lãnh thanh toán qua Ngân hàng, đối tượng đầu tư thiếu tính khả thi do đây là những ngành hàng đã và đang chịu áp lực cạnh tranh cao trong và ngoài nứơc.
Hành lang pháp lý cho hoạt động tín dụng chưa đồng bộ. Một số văn bản pháp lý liên quan tới vấn đề bảo đảm tiền vay như vấn để thế chấp, cầm cố vay vốn Ngân hàng còn nhiều vướng mắc hay vấn đề xử lý tài sản thế chấp còn gặp nhiều khó khăn
Việc cải cách hành chính chuyển biến chậm. Hiện tượng phiền hà sách nhiễu vẫn còn xảy ra. Đặc biệt thủ tục hành chính nhất về đất đai triển khai từ các ngành chức năng còn chậm nên rất khó khăn cho việc đáp ứng vốn tín dụng cho các doanh nghiệp
Chương III:
Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp ngoàI quốc doanh tạI NHCT Thái Bình.
I. Định hướng hoạt động tín dụng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tạI NHCT Thái Bình.
Ngân hàng Công thương Thái Bình hoạt động kinh doanh trên địa bàn tỉnh Thái Bình, có uy tín nên thu hút được nhiều khách hàng trong đó có nhiều doanh nghiệp lớn, vì vậy nguồn vốn huy động và dư nợ tăng trưởng ngày càng cao. Tuy nhiên, Ngân hàng gặp không ít khó khăn :
Vốn huy động tăng nhanh nhưng chủ yếu tăng ở loại có lãi suất cao và nguồn vốn huy động bằng VND không đạt kế hoạch do nguồn huy động chủ yếu là tiền gửi của dân cư và tiền do huy động kì phiếu trái phiếu còn tiền gửi của các doanh nghiệp, các đơn vị tổ chức chưa lớn dẫn đến cơ cấu nguồn chưa hợp lý.
Mức tăng trưởng tín dụng tuy đạt tỷ lệ cao song tăng trưởng không đều chủ yếu là dư nợ VND dẫn tới Chi nhánh thiếu nguồn phải nhận vốn điều hoà để cho vay.
Tình hình tài chính của của nhiều doanh nghiệp hết sức khó khăn: vốn tự có ít, tình trạng công nợ lớn, hàng tồn kho ứ đọng, kém phẩm chất ...
Vì vậy, mục tiêu chiến lược của NHCT Thái Bình xác định trong những năm tới là Xây dựng Chi nhánh thành một Ngân hàng thương mại chủ lực và hiện đại trên địa bàn tỉnh, hoạt động kinh doanh có hiệu quả, tài chính lành mạnh, kỹ thuật công nghệ cao, kinh doanh đa năng, chiếm thị phần lớn trên địa bàn tỉnh Thái Bình.
Để đạt được mục tiêu chiến lược trong những năm tới, với chủ đề hoạt động là Huy động vốn, phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ Ngân hàng trong năm 2003 Chi nhánh NHCT Thái Bình đã đặt ra một số chỉ tiêu cụ thể như sau :
Tăng trưởng nguồn vốn ổn định vững chắc từ 20-25%, phấn đấu có cơ cấu nguồn hợp lý, có mức lãi suất đầu vào chấp nhận được. Biện pháp :
Tập trung các biện pháp để đẩy mạnh huy động vốn, đa dạng hoá các loại tiền gửi, tích cực tiếp thị để khai thác nguồn tiền gửi của các doanh nghiệp các tổ chức xã hội thông qua việc mở rộng quan hệ thanh toán và các tiện ích Ngân hàng, tranh thủ nguồn vốn trong thanh toán, nguồn vốn đầu vào với lãi suất thấp để tạo thế cạnh tranh trong sử dụng vốn.
Duy trì mạng lưới huy động vốn ở các phòng, các quĩ tiết kiệm hiện có và mở thêm từ 1 đến 2 quĩ để khơi tăng nguồn vốn. Cán bộ nguồn vốn phải có tác phong giao dịch văn minh lịch sự, tận tuỵ phục vụ khách hàng và giới thiệu hướng dẫn mọi dịch vụ của Ngân hàng.
Tăng trưởng dư nợ cả năm đạt khoảng 15%. Việc tăng trưởng dư nợ phải thực hiện chính sách chọn lọc khách hàng và phải bám sát mục tiêu, định hướng phát triển kinh tế của tỉnh. Duy trì và tăng trưởng đầu tư tín dụng vào những ngành kinh tế mũi nhọn như : công nghiệp may, công nghiệp cơ khí, làng nghề, kinh tế biển ... Biện pháp :
Trước hết phải tập trung vào các khách hàng truyền thống có quan hệ lâu năm và có uy tín với Ngân hàng như công ty XNK Bình Minh công ty Bia Hương Sen, xí nghiệp dệt Hồng Quân...
Tích cực tìm kiếm những khách hàng mới, làm ăn có hiệu quả trên cơ sở giao chỉ tiêu dư nợ cho cán bộ tín dụng trên nguyên tắc đảm bảo an toàn vốn, có hiệu quả kinh tế cao. Đặc biệt chú ý tới những công ty xuất nhập khẩu, những công ty có quan hệ làm ăn với nước ngoài trong và ngoài tỉnh để sử dụng có hiệu quả nguồn ngoại tệ mà Ngân hàng huy động được.
Tiếp tục đổi mới công tác tiếp thị để giữ khách hàng tốt nhất, đến với khách hàng ở khu công nghiệp. Đặc biệt phải chú ý chọn lọc các dự án lớn mà Ngân hàng có thể đầu tư được.
Bám sát đôn đốc, thu hồi và xử lý dứt điểm nợ quá hạn mới phát sinh, tập trung dứt điểm nợ tồn đọng cũ, phấn đấu tỷ lệ nợ quá hạn <2%.
Phấn đấu chênh lệch lợi nhuận hạch toán khoảng 5 tỷ đồng
Ngoài ra, còn một số mặt công tác khác được NHCT Thái Bình đề ra như: hoàn thiện và nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ hiện có, tăng cường các biện pháp kiểm tra kểm soát... nhằm tạo sức mạnh tổng hợp để Ngân hàng hoàn thành các mục tiêu đề ra.
II. Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp ngoàI quốc doanh tạI NHCT Thái Bình.
1. Nâng cao chất lượng thẩm định đối với khách hàng và dự án vay vốn.
Công tác thẩm định dự án vay vốn là hết sức quan trọng, một số cán bộ tín dụng còn coi nặng tài sản thế chấp làm căn cứ để cho vay chưa quan tâm đúng mức đến thẩm định dự án vay vốn mà thường bỏ qua các khâu trong quá trình thẩm định dẫn đến rủi ro trong công tác tín dụng.
Mục đích của tín dụng là bổ xung vốn cho khách hàng phục vụ các nhu cầu sản xuất kinh doanh. Vì vậy, các khách hàng phải giải trình dự án hoặc kế hoạch sản xuất kinh doanh của mình với Ngân hàng để xin vay vốn.
Ngân hàng muốn đạt hiệu quả cao khi cho vay cần phải làm tốt công tác thẩm định dự án, phương án vay vốn, nhằm nâng cao chất lượng tín dụng, giảm rủi ro cho Ngân hàng góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển. Việc thẩm định tín dụng tập trung vào 2 vấn đề chủ yếu sau :
Dự án vay vốn phải có đủ các điều kiện cho vay, nguyên tắc cho vay theo thể lệ qui định cụ thể đối với loại cho vay đó, đảm bảo sau khi cho vay Ngân hàng sẽ thu được gốc và lãi đúng hạn
Hồ sơ xin vay vốn phải đầy đủ hợp lệ, hợp pháp theo chế độ qui định, nếu xảy ra tranh chấp tố tụng thì đảm bảo an toàn về pháp lý cho Ngân hàng
Trong quá trình thẩm định cán bộ tín dụng cần tập trung một số vấn đề sau:
Năng lực pháp lý của doanh nghiệp như : quyết định thành lập, đăng kí kinh doanh, quyết định bổ nhiệm giám đốc...
Điều tra uy tín, tư cách của doanh nghiệp nhằm mục tiêu hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro do chủ quan của doanh nghiệp gây ra như : về đạo đức, năng lực trình độ, kinh nghiệm, khả năng thích ứng với thị trường của khách hàng để có thể phát hiện ra âm mưu lừa đảo ngay từ ban đầu của một số khách hàng. Uy tín của doanh nghiệp thể hiện ở chỗ giá cả, chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp chiếm lĩnh trên thị trường, các quan hệ thanh toán với bạn hàng và với Ngân hàng sòng phẳng, tình hình tài chính lành mạnh ...
Năng lực tài chính của doanh nghiệp được thể hiện ở khả năng độc lập tự chủ trong sản xuất kinh doanh, khả năng thanh toán nói chung, khả năng hoàn trả vốn vay nói riêng.
Thẩm định về phương diện thị trường : phân tích khả năng tiêu thụ sản phẩm về mặt giá cả, qui cách phẩm chất, mẫu mã thị hiếu của người tiêu dùng. Xem xét các hợp đồng bao tiêu sản phẩm về số lượng chủng loại, giá cả, thời hạn thanh toán và phương thức thanh toán... doanh nghiệp không nên bán hàng cho một thị trường hoặc một nhà tiêu thụ duy nhất mà cần nhiều thị trường, nhiều mối liên hệ để tiêu thụ để có thể chủ động trong việc bán hàng, tránh được sự ép giá và hàng bị ứ đọng.
Thẩm định tính khả thi của dự án về nội dung kinh tế tài chính. Đây là yếu tố quyết định trực tiếp đến việc lựa chọn các dự án đầu tư. Vì vậy, Ngân hàng và doanh nghiệp thường sử dụng một số phương pháp chung, một số phương pháp thẩm định tính khả thi của dự án.
Đó là những phương pháp dựa trên giá trị hiện tại : giá trị hiện tại thuần, tỷ suất hoàn vốn nội bộ, ngoài ra còn phân tích chỉ số doanh lợi, thời gian hoàn vốn, độ nhạy cảm của dự án.
Thẩm định về môi trường xã hội, phương án tổ chức thực hiện, phương án tổ chức quản lý.
Khi đã thẩm định khách hàng và dự án vay vốn đủ mọi phương diện nêu trên, Ngân hàng sẽ kết luận và quyết định cho vay hay không cho vay. Chính vì vậy, đây là khâu quan trọng nhất ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng ngân hàng.
Trong quá trình thẩm định dự án vay vốn của doanh nghiệp, nếu có vấn đề nào đó mà cán bộ Ngân hàng chưa đủ điều kiện và trình độ để thẩm định thì cần phải phối hợp với các cơ quan chức năng có thẩm quyền giúp đỡ để thẩm định đạt được chất lượng cao như thẩm định về phương diện kỹ thuật.
2. Tăng cường phân tích tài chính doanh nghiệp ngoài quốc doanh làm cơ sở quyết định cho vay.
Hoạt động phân tích tài chính là một trong những hoạt động cơ bản trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nhằm giải quyết mối quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh. Để tiến hành sản xuất kinh doanh đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng vốn nhất định và có nhiệm vụ huy động các loại vốn cần thiết cho nhu cầu kinh doanh. Đồng thời tiến hành phân phối, quản lý, sử dụng số vốn hiện có một cách hợp lý, có hiệu quả cao nhất, đảm bảo cho quá trình sản xuất được liên tục, giá trị vốn không ngừng sinh sôi nảy nở, luôn giữ uy tín với các chủ nợ trong việc thanh toán .
Thường xuyên xem xét đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp sẽ giúp cho Ngân hàng nắm được thực trạng hoạt động tài chính, xác định rõ nguyên nhân, mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến tình hình tài chính của khách hàng. Từ đó có thể đề ra những quyết định đúng đắn trong quan hệ tín dụng với khách hàng, phòng ngừa rủi ro, nâng cao chất lượng tín dụng và hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng.
Xét thực chất thì hoạt động tín dụng của Ngân hàng là hoạt động cho vay thu hồi vốn và lãi theo thời gian qui định, điều này thể hiện chất lượng công tác tín dụng. Nhưng muốn có chất lượng cao thì cán bộ tín dụng phải hiểu được đối tượng cho vay.
Yếu tố đầu tiên để cán bộ tín dụng quyết định cho vay hay không lại là sự hiểu biết về khách hàng của mình. Sự hiểu biết đó tuỳ thuộc vào khả năng phân tích tình hình tài chính, cán bộ tín dụng nắm được các thông tin hữu ích về doanh nghiệp, những thông tin này giúp cho cán bộ tín dụng nắm được một cách khái quát tình hình về vốn, nguồn vốn, tình hình thu chi của doanh nghiệp, cụ thể :
Thông qua bảng cân đối kế toán có thể biết được kết cấu nguồn vốn và kết cấu tài sản của doanh nghiệp từ đó nhà phân tích có thể biết được loại hình doanh nghiệp, qui mô, mức độ tự chủ tài chính của doanh nghiệp.
Thông qua báo cáo kết quả kinh doanh cho biết sự dịch chuyển của tiền trong quá trình sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp và cho phép dự tính khả năng hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai. Nó cung cấp những thông tin tổng hợp về tình hình và kết quả sử dụng những tiềm năng về vốn, lao động, kỹ thuật và trình độ quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Thông qua báo cáo lưu chuyển tiền tệ nhà phân tích nắm được tình hình ngân quĩ của doanh nghiệp để đánh giá doanh nghiệp có đảm bảo được khả năng chi trả hay không.
Phân tích các báo cáo tài chính phải xem xu hướng phát triển của doanh nghiệp theo thời gian khoảng từ 3 đến 5 năm, đồng thời phải so sánh kết quả hoạt động các doanh nghiệp với nhau trong cùng một ngành hoặc trong cùng một mối quan hệ kinh tế.
Phân tích tài chính thể hiện ở mức độ chính xác trong việc rút ra các chỉ số tài chính và phân tích nó, bởi vì các chỉ số này rất hữu ích trong phân tích kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Các chỉ số tài chính được phân thành 4 nhóm sau:
Các tỷ số về khả năng thanh toán : đây là nhóm chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp.
Các tỷ số về khả năng cân đối vốn hoặc cơ cấu vốn : nhóm chỉ tiêu này phản ánh mức độ ổn định và tự chủ tài chính cũng như khả năng sử dụng nợ vay của doanh nghiệp.
Các tỷ số về khả năng hoạt động : đây là nhóm chỉ tiêu đặc trưng cho khả năng sử dụng tài nguyên , nguồn lực của doanh nghiệp.
Các tỷ số về khả năng sinh lãi : nhóm chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả sản xuất - kinh doanh tổng hợp nhất của một doanh nghiệp.
Tuỳ theo mục tiêu phân tích tài chính mà nhà phân tích chú trọng nhiều hơn tới nhóm tỷ số này hay nhóm tỷ số khác. Khi xem xét quyết định cho vay ngắn hạn, Ngân hàng sẽ đặc biệt quan tâm tới khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Còn khi xem xét quyết định cho vay trung và dài hạn, Ngân hàng sẽ đặc biệt quan tâm tới khả năng hoạt động và hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Vì vậy căn cứ vào kết quả phân tích để xác định hướng cho vay và đối tượng cho vay, tăng khả năng an toàn vốn vay.
Phân tích báo cáo tài chính có thể hiểu sâu sắc về thực trạng tài chính của doanh nghiệp. Mặc dù vậy, cán bộ tín dụng cần biết những hạn chế của nó để tránh sai sót khi đánh giá. Vì trong cơ chế thị trường, để giải quyết nhiều mục tiêu khác nhau, một doanh nghiệp không đưa ra những báo cáo đích thực của mình, nhiều số liệu ma xuất hiện hoặc được trang điểm để tâng bốc cho tiềm lực của doanh nghiệp. Lạm phát cũng làm nhiễu sự phân tích, sự biến động của nền kinh tế làm cho số liệu so sánh thiếu chính xác. Vì vậy, cán bộ tín dụng phải tìm mọi cách loại trừ ảnh hưởng của chúng để kết quả phân tích được chính xác nhất.
3. Phân loại doanh nghiệp ngoài quốc doanh để xác định mức cho vay hợp lí, đảm bảo chất lượng tín dụng.
Hoạt động của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở nước ta chịu một tai tiếng lớn về sự lừa đảo, công ty ma, chiếm dụng vốn... dẫn đến sự mất lòng tin trong Ngân hàng. Tuy nhiên, đây chỉ là những con sâu làm rầu nồi canh, vẫn có rất nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động rất hiệu quả, có lãi, hoàn thành nghĩa vụ đối với nhà nước, trả nợ rất đúng qui định. Xuất phát điểm của thành phần kinh tế này là từ nguồn vốn của bản thân nên thường là ít. Để kích thích và giúp đỡ họ phát triển một cách bền vững, Ngân hàng cần có chính sách khách hàng cụ thể, nghiên cứu những đối tượng khách hàng thuộc nhóm này, có sự ổn định trong kết quả kinh doanh để tài trợ vốn cho họ, tạo sự cạnh tranh lành mạnh với các doanh nghiệp nhà nước, kích thích sự phát triển của nền kinh tế. Đối với NHCT Thái Bình với hơn 60% số doanh nghiệp có quan hệ tín dụng với Ngân hàng là doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì vấn đề phân loại doanh nghiệp để xác định mức cho vay hợp lý là việc làm hết sức cần thiết trong việc nâng cao chất lượng tín dụng.
Phân tích báo cáo tài chính các doanh nghiệp là việc làm rất cần thiết và quan trọng trong quá trình đi đến quyết định đầu tư. Căn cứ vào kết quả phân tích tài chính doanh nghiệp, Ngân hàng thực hiện phân loại khách hàng từng bước thanh lọc những khách hàng yếu kém, thu hút và cho vay những khách hàng hoạt động tốt.
Việc phân loại các doanh nghiệp được thể hiện như sau:
Doanh nghiệp loại A : là doanh nghiệp sản xuất kinh doanh ổn định, có lãi, thực hiện tốt nghĩa vụ với ngân sách nhà nước. Tình hình tài chính lành mạnh, quan hệ thanh toán có uy tín và sòng phẳng, không có nợ quá hạn, lãi treo, có hệ số bảo toàn vốn > 1 (nghĩa là doanh nghiệp không những bảo toàn vốn mà còn tăng vốn).
Với doanh nghiệp loại A, ngoài việc cho vay theo hạn mức tín dụng đã duyệt, nếu có phương án sản xuất kinh doanh theo từng thời vụ có tính khả thi, Ngân hàng có thể tiếp tục cho vay vốn hoặc bảo lãnh nếu doanh nghiệp yêu cầu.
Doanh nghiệp loại B : là doanh nghiệp sản xuất kinh doanh không ổn định kết quả tài chính bình thường, lãi thấp, quan hệ thanh toán với Ngân hàng, bạn hàng, ngân sách nhà nước chưa có uy tín cao, hệ số bảo toàn vốn = 1
Với doanh nghiệp loại B, Ngân hàng chỉ cho vay trên cơ sở nhu cầu vốn lưu động cần thiết sau khi đã trừ đi vốn tự có đối với những phương án sản xuất kinh doanh có tính khả thi cao. Những nhu cầu mới phát sinh về vốn vay Ngân hàng phải được xem xét kĩ càng và cẩn trọng.
Doanh nghiệp loại C : là doanh nghiệp sản xuất kinh doanh không ổn định, kết quả sản xuất kinh doanh thua lỗ, không có biện pháp khắc phục, quan hệ thanh toán với Ngân hàng không sòng phẳng, có phát sinh nợ quá hạn, lãi treo, hệ số bảo toàn vốn <1 (doanh nghiệp mất dần vốn). Với doanh nghiệp loại này, Ngân hàng không cho vay, nếu còn dư nợ thì tìm cách khẩn trương thu hồi vốn vay.
Việc phân tích tài chính và xếp loại doanh nghiệp đòi hỏi cán bộ tín dụng phải tiến hành thường xuyên liên tục 6 tháng một lần. Làm tốt công tác này cán bộ tín dụng hiểu được đối tác của mình và sẽ có quyết định đúng đắn trong kinh doanh.
4. Tăng cường các biện pháp bảo đảm an toàn trong hoạt động tín dụng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
4.1. Thành lập bộ phận thẩm định tín dụng hoạt động độc lập với phòng tín dụng, nâng cao chất lượng thẩm định với doanh nghiệp .
Hiện nay, tại NHCT Thái Bình cán bộ tín dụng chịu trách nhiệm tín dụng từ đầu đến cuối trong qui trình tín dụng, do vậy sẽ không tránh khỏi rủi ro tín dụng do những nguyên nhân chủ quan, khách quan mang lại mà hậu quả của nó khó lường trước được. Mặt khác qui trình tín dụng như vậy làm cho việc xét duyệt các hồ sơ tín dụng của cán bộ lãnh đạo rất khó khăn do không có đủ thời gian để xem xét kĩ lưỡng tất cả hồ sơ tín dụng, cán bộ lãnh đạo chỉ xem xét đánh giá trong tờ trình thẩm định của cán bộ tín dụng . Do đó dễ xảy ra rủi ro tín dụng.
Việc tham gia của các bộ phận hoạt động độc lập sẽ giúp quá trình kiểm tra, đánh giá khoản vay, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại Chi nhánh NHCT Thái Bình.
4.2. Xây dựng hệ thống thông tin tín dụng về các doanh nghiệp ngoài quốc doanh .
Thông tin tín dụng có vai trò quan trọng trong việc quản lý chất lượng tín dụng. Nhờ có thông tin tín dụng người quản lý có thể đưa ra những quyết định cần thiết liên quan đến khoản vay, theo dõi và quản lý khoản vay. Thông tin tín dụng có thể thu được từ các tổ chức tín dụng, các nguồn thông tin khác trên phương tiện thông tin đại chúng nhưng trên thực tế các thông tin này rất hạn chế và không được cập nhật kịp thời. Cụ thể, thông tin về thị trường và khách hàng rất quan trọng trong việc ra quyết định cho vay của Ngân hàng. Cán bộ tín dụng cần phải nắm vững thông tin về khách hàng như năng lực tài chính, năng lực quản lý và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp... đồng thời cần có thông tin về thị trường để có các dự báo về các tác động kinh tế, chính trị, về lĩnh vực mình cho vay mà kiểm tra giám sát hoạt động của khách hàng, xử lý chính xác, xử lý kịp thời và hạn chế rủi ro đối với vốn cho vay.
Để việc thẩm định, đánh giá được chính xác hơn, NHCT Thái Bình cần thành lập bộ phận tư vấn khách hàng và thông tin tín dụng. Nhiệm vụ chủ yếu của bộ phận này là :
Thu thập thông tin và lưu trữ thông tin về khách hàng vay vốn : Tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính, tài sản hiện có, các mối quan hệ Ngân hàng, hồ sơ cá nhân của chủ doanh nghiệp...
Thu thập và phân tích các yếu tố vi mô, vĩ mô có tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị .
Tư vấn pháp luật, kĩ thuật công nghệ cho bộ phận tín dụng.
Các nhân viên của bộ phận này phải là người có năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có kỹ thuật phân tích kiến thức thị trường. Những thông tin do bộ phận này cung cấp kết hợp với những thông tin do bộ phận tín dụng thu thập sẽ giúp quá trình đầu tư đánh giá chính xác hơn, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng.
4.3. Tăng cường công tác kiểm tra kiểm soát nội bộ trong lĩnh vực cho vay .
Nhiều giám đốc và nhà quản lý Ngân hàng cho rằng họ quản lí được chất lượng hoạt động tín dụng bởi vì họ tham gia vào quá trình xét duyệt cho vay. Nhưng trong thực tế khả năng thanh toán của khách hàng luôn thay đổi do biến động của môi trường kinh doanh. Những thay đổi này sẽ tác động xấu đến tình hình tài chính của khách hàng, ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng. Hiển nhiên rằng sau khi cho vay Ngân hàng phải tiếp tục quản lý, khi có dấu hiệu rủi ro xảy ra, Ngân hàng phải áp dụng các biện pháp xử lý kịp thời để thu hồi nợ. Việc kiểm tra giám sát tín dụng sẽ giúp hạn chế rủi ro xảy ra, duy trì lợi nhuận cho Ngân hàng, kiểm tra giám sát tín dụng là biện pháp quản lý chất lượng khoản vay, giúp Ngân hàng tránh được những tổn thất do khách hàng mang lại. Để tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát truớc tiên phải đề ra các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng khoản vay, xếp hạng khoản vay để có những biện pháp xử lý kịp thời đối với những khoản vay xuống hạng, hoặc đối với những khoản vay bị xếp hạng thấp.
Hiện nay, tại Chi nhánh NHCT Thái Bình công tác kiểm tra giám sát tín dụng cũng được trú trọng, Ngân hàng đã thành lập Hội đồng tín dụng (bao gồm : ban giám đốc, trưởng phòng kinh doanh, trưởng phòng kiểm soát và một vài cán bộ tín dụng) để thường xuyên kiểm tra, kiểm soát các khoản cho vay nhằm phát hiện đánh giá kịp thời rủi ro tín dụng trước khi nó xảy ra và gây tổn thất cho Ngân hàng. Mục đích của kiểm tra, giám sát tín dụng là hỗ trợ cho phòng kinh doanh và ban lãnh đạo Ngân hàng quyết định được chất lượng hoạt động tín dụng và xác định khả năng thu hồi các khoản nợ vay. Để nâng cao hiệu quả kiểm tra, giám sát tín dụng trước hết phải xây dựng chính sách kiểm tra giám sát tín dụng đáp ứng yêu cầu thực tế của Ngân hàng. Chính sách này phải được ban Giám đốc Ngân hàng thông qua.
5. Tiêu chuẩn hoá cán bộ, đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ Ngân hàng từ đó góp phần nâng cao chất lượng tín dụng .
5.1. Nâng cao trách nhiệm thưởng phạt nghiêm minh đối với cán bộ tín dụng
Cán bộ tín dụng là người trực tiếp thẩm định và đề xuất cho vay đối với khách hàng, là người chịu trách nhiệm chính đối với những khoản tín dụng bị rủi ro. Do vậy phải nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng, có chế độ thưởng phạt nghiêm minh. Những cán bộ tín dụng vi phạm cơ chế, qui trình nghiệp vụ tín dụng phải được xử lý nghiêm khắc, đặc biệt đối với những cán bộ tín dụng có hành vi tiêu cực làm ảnh hưởng đến lợi ích của Ngân hàng.
Tuỳ theo mức dộ có thể áp dụng các hình thức xử lý kỉ luật :
Chuyển làm công tác khác.
Tạm đình chỉ công việc.
Sa thải.
Nếu vi phạm nghiêm trọng có thể đưa ra truy tố trước pháp luật.
Ngoài việc nâng cao trách nhiệm của cán bộ tín dụng, Ngân hàng phải có chế dộ khen thưởng với những cán bộ có thành tích xuất sắc trong hoạt động tín dụng. Đây là việc làm rất quan trọng nhằm giải quyết tình trạng cán bộ tín dụng “ngại” cho vay. Do yếu tố tâm lý, cán bộ tín dụng cho rằng nếu cho vay thu nợ hàng trăm tỷ cũng không dược khen thưởng, tăng lương, nhưng chỉ cần một phát sinh quá hạn là bị chỉ trích, xử lí và bị coi là yếu kém...
5.2. Nâng cao trình độ nghiệp vụ đội ngũ cán bộ tín dụng để gián tiếp nâng cao chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Yếu tố con người luôn được đặt lên hàng đầu quyết định thành công hay thất bại của một tổ chức kinh doanh, đặc biệt trong hoạt động tín dụng của một Ngân hàng thương mại đầy rẫy những rủi ro cạm bẫy rất dễ sa ngã, vì vậy nếu không có một đội ngũ cán bộ có đạo đức, nghề nghiệp và trình độ chuyên môn thì Ngân hàng sẽ phải gánh chịu những tổn thất rất lớn do hoạt động tín dụng gây ra.
Vì vậy, NHCT Thái Bình muốn có chất lượng tín dụng tốt cần phải có định hướng, tiêu chuẩn hoá cán bộ, trước mắt phải đào tạo về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ sau đó tập trung đào tạo các kỹ năng cơ bản sau :
Kỹ năng giao tiếp : Đây là kỹ năng rất quan trọng trong việc tiếp xúc, tìm hiểu khách hàng, cán bộ tín dụng có kỹ năng giao tiếp tốt, có khả năng thu thập được nhiều thông tin hơn nữa từ phía khách hàng.
Kỹ năng điều tra : Kỹ năng này đòi hỏi cán bộ tín dụng phải thu thập khai thác thông tin phục vụ công tác thẩm định, đánh giá một khoản vay
Kỹ năng phân tích : Đòi hỏi cán bộ tín dụng phải biết nhận định đánh giá một cách có cơ sở khoa học, từ đó rút ra kinh nghiệm, có biện pháp tốt hơn để không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng.
Kỹ năng viết : Đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có khả năng tổng hợp thông tin để viết báo cáo, tờ trình có tính thuyết phục lên lãnh đạo.
Kỹ năng đàm phán : Đòi hỏi cán bộ tín dụng phải biết thương lượng với khách hàng các vấn đề liên quan đến vấn đề tuân thủ các điều kiện qui định trong chế độ, thể lệ cho vay trước khi kí hợp đồng tín dụng.
Trên cơ sở những yêu cầu đòi hỏi thực tế trong quá trình công tác, Ngân hàng cần rà soát lại đội ngũ cán bộ hiện có và có kế hoạch đào tạo, đào tạo lại, bổ xung những mặt còn thiếu, còn yếu nhằm không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tín dụng.
III . Một số kiến nghị
1. Kiến nghị đối với Ngân hàng Công thương Việt nam .
Để chất lượng tín dụng nói chung và công tác tín dụng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói riêng ngày càng được nâng cao, NHCT Việt nam có thể tiến hành một số biện pháp cụ thể sau :
Trước hết NHCT Việt nam nên tổ chức nhiều hội thảo, chuyên đề về tín dụng nhất là tín dụng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh để các cán bộ tín dụng của các Chi nhánh có điều kiện trao đổi kinh nghiệm công tác và nâng cao trình độ của các cán bộ tín dụng. Ngân hàng Công thương Việt nam nên nghiên cứu tạo ra hành lang pháp lý để bảo vệ cán bộ tín dụng và tìm cách đơn giản bớt các báo cáo, đồng thời sử dụng mạng máy tính để nhặt số liệu báo cáo, hạn chế tới mức tối đa làm tay báo cáo để cán bộ tín dụng tập trung vào chuyên môn hơn. Triển khai kịp thời, hướng dẫn cụ thể các văn bản, quyết định của Ngân hàng Nhà nước về việc thi hành Luật các Tổ chức tín dụng.
Từ 1/10/1998 Luật các Tổ chức tín dụng có hiệu lực thi hành, đồng thời các pháp lệnh Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính ngày 23/5/1990 hết hiệu lực. Trong quá trình thực thi luật mới tất yếu sẽ phát sinh nhiều vướng mắc, Ngân hàng Nhà nước sẽ có văn bản hướng dẫn, quyết định việc thi hành Luật các Tổ chức tín dụng. Do vậy vấn dề đặt ra là NHCT Việt nam cần triển khai kịp thời và hướng dẫn một cách cụ thể các văn bản quyết định của Ngân hàng nhà nước về việc thi hành Luật các Tổ chức tín dụng và các văn bản dưới luật của Ngân hàng nhà nước kịp thời. Hoạt động của các Chi nhánh Ngân hàng Công thương cũng như hoạt động của các Chi nhánh Ngân hàng thương mại khác diễn ra thường xuyên, liên tục trên cơ sở tuân thủ đúng pháp luật và hướng dẫn của ban ngành cấp trên, do đó nếu văn bản không được triển khai kịp thời cụ thể thì có thể dẫn tới hiệu lực của văn bản sẽ bị hạn chế tác dụng và khi đã triển khai không kịp thời thì việc sửa sai còn khó hơn nhiều... đó có thể là nguyên nhân đầu tiên ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động tín dụng .
Để thu được lợi nhuận cao, Ngân hàng phải mở rộng được tín dụng của mình đối với các thành phần kinh tế. Để làm được điều đó thì trước tiên Ngân hàng phải cải cách thủ tục vay vốn. Hiện nay rất nhiều khách hàng là các doanh nghiệp tư nhân, Công ty TNHH, hộ sản xuất kinh doanh phàn nàn rằng để vay được vốn của Ngân hàng thì cần phải có quá nhiều điều kiện liên quan đến nhiều loại giấy tờ và tốn rất nhiều thời gian. Mặc dù nước ta đã chuyển nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước được hơn 15 năm nhưng những lề thói làm việc của các cơ quan hành chính Nhà nước vẫn còn tình trạng gây sách nhiễu, phiền hà cho nhân dân, việc công chứng còn mất thời gian...Vì vậy, để phục vụ khách hàng vay vốn một cách thuận lợi, nhanh chóng đề nghị Ngân hàng Công thuơng Việt nam cho phép bỏ những thủ tục giấy tờ không cần thiết
Tiếp tục củng cố và hoàn thiện cơ chế tín dụng : Một cơ chế tín dụng thích hợp với từng loại hình doanh nghiệp trong từng lĩnh vực ngành nghề sẽ giảm nợ quá hạn. Cơ chế tín dụng phải phù hợp với đặc điểm sản xuất của các đơn vị có nhu cầu vốn thường xuyên sẽ tránh được ứ đọng hay nợ quá hạn.
Tăng cường bộ máy tổ chức và chất lượng hoạt động thông tin rủi ro trong nội bộ hệ thống Ngân hàng Công thương để nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng và phòng ngừa rủi ro.
2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước
2.1. Hoàn thiện qui chế cho vay của các tổ chức tín dụng
Ngày 31/12/2001 Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt nam đã ban hành quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN 1 về qui chế cho vay của Tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Nhìn chung nội dung của qui chế này phù hợp với Luật các tổ chức tín dụng cũng như phù hợp với tình hình kinh tế Việt nam hiện nay. Tuy nhiên, có một số qui định trong qui chế đó trong giai đoạn trước mắt là chưa phù hợp cần phải điều chỉnh để mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng Ngân hàng.
Theo qui chế cho vay đối với khách hàng thì một khách hàng được vay nhiều tổ chức tín dụng hay nhiều tổ chức tín dụng cùng cho vay một khách hàng. Nhờ cơ chế cho phép mà các khách hàng vay vốn có quyền lựa chọn tổ chức tín dụng phù hợp để giao dịch, quan hệ vay vốn, để thực hiện các dự án sản xuất kinh doanh. Điều này còn có tác động tích cực đến sự cạnh tranh của các Ngân hàng thương mại, đó là việc đổi mới phong cách làm việc, mở rộng các nhiệp vụ cho vay và đầu tư, tăng cường mở rộng các dịch vụ Ngân hàng nhằm thu hút khách hàng, nhờ đó mà hệ thống Ngân hàng đã có những bước phát triển, khẳng định là ngành tiên phong trong cơ chế thị trường .
Nhưng trong kinh doanh hiện nay ở Việt nam, do điều kiện thông tin chưa phát triển để cung cấp một cách đầy đủ và kịp thời, do đó các biện pháp ngăn chặn rủi ro còn nhiều hạn chế. Trong khi đó, khi được Ngân hàng cho vay vốn lưu động phục vụ sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp sử dụng số tiền vay này nhằm mục đích mua nguyên vật liệu, thuê nhân công... có tính chất ngắn hạn phục vụ cho một chu kì sản xuất kinh doanh, kết thúc sẽ giải phóng vốn trả lại cho Ngân hàng. Đối với Ngân hàng đây lại là tài sản mang tính ngắn hạn, rất nhiều món vay khó quản lí, việc điều tra cho vay rất phức tạp. Thậm chí có bộ thanh toán chứng từ nguyên vật liệu dùng vay vốn nhiều Ngân hàng, giải ngân song mới phát hiện thì vốn đã sử dụng sai mục đích. Đây cũng chính là khâu cho vay có nhiều sơ hở gây nên nợ quá hạn cao đối với Ngân hàng hiện nay. Chính vì vậy Ngân hàng Nhà nước cần có qui chế bắt buộc việc cung cấp thông tin của các Ngân hàng thương mại cho nhau và chịu trách nhiệm về vật chất khi cung cấp sai sự thật làm thiệt hại cho Ngân hàng bạn về một số nội dung như : dư nợ tại thời điểm yêu cầu hoặc yêu cầu các Ngân hàng thương mại hay tổ chức tín dụng khác khi cho vay đối với các doanh nghiệp phải cung cấp ngay thông tin về Ngân hàng nhà nước để làm cơ sở cho các Ngân hàng thương mại xin cung cấp thông tin.
Mặt khác, với việc 1 khách hàng có thể vay vốn ở nhiều tổ chức tín dụng cũng là mặt hạn chế đối với việc kinh doanh của các Ngân hàng thương mại. Bởi vì để cạnh tranh, thu hút khách hàng, các tổ chức tín dụng thi nhau hạ lãi suất xuống làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của các tổ chức tín dụng. Do vậy để hạn chế rủi ro thì Ngân hàng nhà nước cần phải qui định mức lãi suất cho vay thống nhất hay dao động trong một biên độ nhỏ đối với các tổ chức tín dụng trên cùng một địa bàn .
2.2. Hoàn thiện qui chế đảm bảo tiền vay của các tổ chức tín dụng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh .
Ngày 29/12/1999 Chính phủ đã ban hành nghị định 178/1999/NĐ-CP qui chế về bảo đảm tiền vaytrong việc cấp tín dụng dưới hình thức cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng vay theo qui định của Luật các Tổ chức tín dụng. Đây là văn bản pháp lý quan trọng hướng dẫn các tổ chức tín dụng các biện pháp bảo đảm nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi các khoản nợ đã cho khách hàng vay. Theo qui định này, Tổ chức tín dụng có quyền chủ động xử lí tài sản đảm bảo tiền vay, thu hồi nợ. Cụ thể là khi đến hạn mà khách hàng vay, bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đối với Tổ chức tín dụng thì tài sản đảm bảo tiền vay được xử lý theo phương thức đã thoả thuận trên hợp đồng. Trường hợp các bên không xử lý được tài sản đảm bảo tiền vay theo phương thức đã thoả thuận thì Tổ chức tín dụng có quyền bán, chuyển nhượng tài sản cầm cố, thế chấp để thu hồi nợ và uỷ quyền cho bên thứ ba xử lý tài sản đảm bảo tiền vay. Nếu tài sản đảm bảo tiền vay không xử lý được do không thoả thuận được giá bán thì Tổ chức tín dụng có quyền định giá bán để thu hồi nợ. Tiền thu được từ xử lý tài sản đảm bảo tiền vay sau khi trừ đi các chi phí xử lý thì Tổ chức tín dụng thu theo thứ tự : nợ gốc, lãi quá hạn, các chi phí khác (nếu có).
Tuy trong thực tế việc Ngân hàng lấy được tài sản thế chấp thu hồi nợ đã gặp nhiều trở ngại như : bên đi vay không tự nguyện bàn giao tài sản cho Ngân hàng, thân nhân bên thế chấp tài sản thường đe doạ cán bộ Ngân hàng trong khi làm nhiệm vụ phát mại tài sản, nhiều chủ nợ cùng đến đòi chia tài sản thế chấp... Do vậy, những qui định trên đây của NĐ 178 phải được Ngân hàng nhà nước Việt nam phối hợp với các bộ, ngành liên quan như : Bộ Tư Pháp, Bộ Công an, Bộ Tài chính, Tổng cục địa chính... sớm có thông tư hướng dẫn thì nghị định bảo đảm tiền vay mới có thể thực hiện trên thực tế một cách đồng bộ và có hiệu quả trong cuộc sống .
2.3. Nâng cao chất lượng công tác thông tin tín dụng về các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Ngân hàng thương mại khi cho bất cứ một doanh nghiệp nào vay thì đều cần phải có thông tin về khách hàng đó để có quyết định cho vay đúng đắn. Bởi vì vay được vốn là một vấn đề không đơn giản, trong thực tế không phải doanh nghiệp nào cũng sử dụng có hiệu quả và đúng mục đích các món vay đặc biệt là đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Đó là chưa nói tới những kẻ giả danh giả mạo nhận là doanh nghiệp để vay trái phép chiếm dụng vốn bất hợp pháp, gây rủi ro tổn thất cho Ngân hàng. Vì vậy hoạt động tín dụng muốn đạt hiệu quả cao, an toàn cần phải có hệ thông thông tin hữu hiệu phục vụ các công tác này. Nhận thức rõ vai trò và yêu cầu thông tin phục vụ công tác tín dụng và kinh doanh của Ngân hàng, ban lãnh đạo Ngân hàng nhà nước đã sớm cho chủ trương xây dựng hệ thống thông tin phòng ngừa rủi ro tín dụng mà sau này đã trở thành hệ thống thông tin tín dụng (gọi tắt là CIC) của Ngân hàng.
Hệ thống CIC đã phần nào cải thiện tình trạng thiếu thông tin tín dụng phục vụ công tác cho vay của các Ngân hàng thương mại và Tổ chức tín dụng. Tuy nhiên do mới thành lập, còn đang trong giai đoạn củng cố và hoàn thiện nên CIC vẫn còn đang phải đương đầu với nhiều khó khăn trong việc thu thập và xử lí thông tin. Việc thu thập và cập nhật các thông tin của CIC thực hiện vẫn chưa có hiệu quả, các số liệu cập nhật không kịp thời, độ tin cậy thấp đã khiến cho Ngân hàng thương mại và các Tổ chức tín dụng thường ít sử dụng tài liệu do CIC cung cấp. Một trong số những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng trên là : thông tin của CIC phần lớn do các doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng cấp. Thông tin này thường phản ánh sai lệch do các doanh nghiệp chưa thực hiện đúng và đầy đủ pháp lệnh về kế toán thống kê, việc cung cấp thông tin không kịp thời làm cho các thông tin thường lạc hậu so với thời điểm cung cấp. Về phía các Tổ chức tín dụng, chưa tuân thủ đúng các qui định về cung cấp thông tin xác định dư nợ của khách hàng, thiếu tinh thần hợp tác với nhau để cho vay một doanh nghiệp mà có khi còn bí mật thông tin về doanh nghiệp mà mình biết để đảm bảo quyền lợi cho riêng mình. Chính vì vậy, thông tin của CIC không đủ khả năng giúp cho Ngân hàng thương mại đánh giá đúng thực trạng tài chính và dư nợ của các doanh nghiệp để đảm bảo sự đúng đắn của các quyết định cho vay, khiến cho tỷ lệ nợ quá hạn và nợ khó đòi ở các Ngân hàng thương mại Việt nam chiếm tỷ lệ cao, vượt quá mức cho phép. Ngân hàng nhà nước cần có những chính sách và biện pháp tích cực, sớm nâng cao chất lượng công tác thông tin tín dụng, hoạt động cho vay của các Ngân hàng thương mại và các Tổ chức tín dụng. Cần bắt buộc các Ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng tham gia vào hoạt động hệ thống CIC coi đó như một quyền lợi và nghĩa vụ của mình.
3. Kiến nghị đối với Nhà nước
Như chúng ta đã thấy vai trò của doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong nền kinh tế thị trường đang ngày càng được nâng lên. Xu thế hiện nay, Nhà nước đang tiến hành chuyển đổi, cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước, giảm tỷ trọng doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế, chỉ giữ lại những doanh nghiệp thực sự làm ăn có hiệu quả. Để chính sách này thực thi có hiệu quả Nhà nước cần quan tâm hơn nữa đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh bằng việc ban hành những chính sách.
Ban hành những chính sách kích thích đầu tư có hiệu quả
Là một trong những giải pháp nhằm mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng, thúc đẩy khát vọng đầu tư của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, nâng cao khả năng đáp ứng các điều kiện và tiêu chuẩn tín dụng.
Đơn giản hoá các thủ tục liên quan đến đầu tư, giảm thấp một số chi phí như : chi phí công chứng vay vốn và công chứng tài sản thế chấp, lệ phí đăng kí sở hữu tài sản, một số loại chi phí chìm khác do tính quan liêu, phức tạp của quản lí hành chính Nhà nước
Nhà nước cần rà soát lại toàn bộ các thủ tục, các loại phí mà doanh nghiệp phải chịu để có biện pháp giảm bớt cho doanh nghiệp
Có chính sách giảm , miễn hoặc cho nợ thuế .
Theo luật khuyến khích đầu tư trong nước, Nhà nước có chính sách miễn, giảm thuế đối với cơ sở kinh doanh đầu tư xây dựng dây chuyền sản xuất mới, mở rộng qui mô, đổi mới công nghệ, cải thiện môi trường sinh thái, nâng cao năng lực sản xuất. Những chính sách này có tác dụng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Nhà nước cần ban hành nhiều chính sách hơn nữa để phát huy thế mạnh của từng vùng, từng doanh nghiệp.
Nâng cao hiệu lực của bộ máy quản lí Nhà nước
- Thực hiện kiểm soát quản lí chặt chẽ, tăng cường trách nhiệm trong việc cấp giấy phép thành lập và đăng kí kinh doanh của doanh nghiệp sao cho phù hợp với năng lực thực tế của doanh nghiệp đó. Tránh hiện tượng cấp giấy phép thành lập công ty TNHH, doanh nghiệp tư nhân tràn lan gây hậu quả xấu cho các đối tác cũng như cho xã hội. Cơ quan cấp giấy phép phải chịu trách nhiệm về tư cách pháp nhân, vốn tự có thực tế, năng lực trình độ của doanh nghiệp đó.
Nhà nước cần xem xét việc sở hữu và năng lực trình độ quản lí thực tế của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Thường xuyên kiểm tra, theo dõi doanh nghiệp hoạt động có đúng theo luật định hay không, hết thời gian hoạt động nếu không đủ điều kiện hoặc không làm thủ tục gia hạn phải yêu cầu doanh nghiệp làm thủ tục giải thể hoặc phá sản.
Tiếp tục hoàn thiện, sửa chữa các bộ luật, văn bản dưới luật liên quan đến hoạt động của nền kinh tế nói chung, hoạt động của nghành Ngân hàng nói riêng. Tạo hành lang pháp lí cho hoạt động của doanh nghiệp và các Ngân hàng thương mại đi đúng giới hạn cho phép và phân tích rõ trách nhiệm của ngưoừi cho vay và người đi vay trong quan hệ tín dụng.
Nhà nước cần có các biện pháp thiết thực chống gian lận thương mại, chống hàng giả đảm bảo môi trường kinh doanh lành mạnh cho các doanh nghiệp .
4. Kiến nghị đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Hiện nay uy tín của của doanh nghiệp ngoài quốc doanh đối với các Ngân hàng không cao, do đó việc các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tiếp cận được nguồn vốn của Ngân hàng là rất khó khăn.
Để được đáp ứng nhu cầu tín dụng, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cần củng cố và nâng cao uy tín đối với Ngân hàng bằng việc sản xuất kinh doanh có hiệu quả, hoàn trả nợ vay Ngân hàng đúng hạn. Để làm được điều này các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cần :
Các DNNQD phải thiết lập được các phương án kinh doanh, dự án sản xuất có tính khả thi cao.
Các DNNQD rất khó khăn trong việc tìm kiếm, thiết lập được phương án, dự án sản xuất kinh doanh có tính khả thi cao. Bởi vì các doanh nghiệp khi thành lập phương án sản xuất kinh doanh mới chỉ chú ý đến việc lựa chọn các qui trình công nghệ hiện đại, các yếu tố đầu vào, đầu ra của quá trình sản xuất, phương thức đầu tư vốn mà chưa dự kiến hết tình huống rủi ro có thể xảy ra như : mức cầu của sản phẩm trên thị trường, giá cả sản phẩm có thể thay đổi theo thời gian, nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng thay đổi. Vì thế các phương án sản xuất kinh doanh nhiều khi không phát huy hết hiệu quả, dẫn đến việc hoàn trả vốn vay Ngân hàng không đúng hạn, gây hiện tượng ứ đọng vốn, hiệu quả kinh tế thấp, chất lượng tín dụng bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Do vậy việc các doanh nghiệp xác định được phương án, dự án sản xuất kinh doanh có tính khả thi cao, dự kiến được hết các tình huống có thể xảy ra sẽ tạo điều kiện cho hoạt động tín dụng của Ngân hàng được an toàn, chất lượng tín dụng bảo đảm
Các DNNQD phải thực hiện đổi mới qui trình công nghệ tiên tiến.
Các doanh nghiệp cần không ngừng đổi mới qui trình công nghệ nâng cao năng suất, chất lượng phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh, thúc đẩy nền kinh tế cả nước phát triển. Trên cơ sở đó khối lượng tín dụng của Ngân hàng đầu tư cho nền kinh tế ngày càng tăng, vốn vay quay vòng nhanh, chất lượng tín dụng được nâng cao.
Các DNNQD phải thực hiện đa dạng hoá sản phẩm
Đa dạng hoá sản phẩm là quá trình mở rộng hợp lí danh mục sản phẩm nhằm tạo nên cơ cấu sản phẩm có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng. Đa dạng hoá sản phẩm sẽ thúc đẩy quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tăng doanh thu, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Vì vậy để bảo đảm tồn tại và phát triển, dành thắng lợi trong cạnh tranh các doanh nghiệp phải tự hoàn thiện đổi mới mình, trước hết là đổi mới sản phẩm và điều kiện sản xuất. Đa dạng hoá sản phẩm là một biện pháp tích cực bảo đảm thắng lợi của doanh nghiệp trong cạnh tranh và gián tiếp nâng cao chất lượng tín dụng doanh nghiệp.
Kết luận
Kinh doanh tiền tệ trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay, các Ngân hàng gặp phải rất nhiều khó khăn. Thực trạng đó là kết quả nguyên nhân thuộc về cơ chế kinh tế, hơn nữa là do các Ngân hàng thiếu năng lực kinh doanh trong cơ chế thị trường, năng lực tổ chức, nghiệp vụ còn non yếu chưa thích nghi với cơ chế mới. Để tồn tại và phát triển đòi hỏi mỗi Ngân hàng thương mại phải vượt lên chính mình, đẩy lùi khó khăn vướng mắc tồn tại trong kinh doanh. Cố gắng nâng cao chất lượng tín dụng là một điều rất cần thiết. Trong thời gian sắp tới, nền kinh tế Việt nam sẽ có nhiều chuyển biến mới, các doanh nghiệp sẽ có rất nhiều sự thay đổi, vì vậy muốn kinh doanh tốt các Ngân hàng thương mại cần có những biện pháp chiến lược kinh doanh đúng đắn hợp lí. Yêu cầu đặt ra là trong giai đoạn mới nhà nước cần hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật và chỉ đạo thích hợp. Và đặc biệt mỗi Ngân hàng thương mại cần có những biện pháp giải quyết hiệu quả khó khăn đang tồn tại và những khó khăn mới nảy sinh. Nâng cao trình độ nghiệp vụ, đào tạo lại cán bộ tín dụng sao cho thích nghi với tình hình mới.
Nhận thức được vấn đề này, qua kiến thức em đã học được trong trường Đại học và qua tìm hiểu thực tế tại Ngân hàng Công thương Thái Bình em đã đi sâu nghiên cưú về tình hình chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh, qua đó phân tích những nguyên nhân và đưa ra một số biện pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh cuả Ngân hàng.
Do nhiều yếu tố khách quan cũng như chủ quan của bản thân, nên bài luạn văn này khó tránh khỏi những khiếm khuyết. Em mong rằng với suy nghĩ của mình sẽ góp phần nhỏ bé vào công cuộc đổi mới và lành mạnh hoá hệ thống Ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế nước ta trên con đường Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá ./.
Danh mục tài liệu tham khảo
Fredric s Mishkin, NXB Khoa học kỹ thuật 1995 “Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính”.
Peter s. Rose, NXB Tài chính 2001 “ Quản trị Ngân hàng thương mại”
PGS. TS Lưu Thị Hương chủ biên, NXB Giáo dục 2002, “Tài chính doanh nghiệp”
PGS Nguyễn hữu Viện, NXB Đại học quốc gia Hà Nội “ Luật kinh tế”
PGS. TS Lê Văn Tư, ĐH Kinh tế TPHCM 1994 “ Các nghiệp vụ Ngân hàng thương mại”
Tạp chí Ngân hàng các số năm 2001, 2002.
Tạp chí Thông tin tài chính tiền tệ các số năm 2002
Các báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh NHCT Thái Bình năm 2000, 2001, 2002 .
Các tài liệu liên quan khác
Mục lục
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 37037.doc