Đề tài Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Đông Hà Nội

- Các DNVVN đáp ứng tích cực, kịp thời nhu cầu tiên dùng ngày càng phong phú và đa dạng mà các doanh nghiệp lớn không thể làm được, chế biến hàng hoá xuất khẩu và tăng kim ngạch xuất khẩu. Hệ thống siêu thị cũng không thể thay thế được các cửa hàng bán lẻ, những nhà máy quy mô lớn hiện đại không sản xuất được những sản phẩm đơn chiếc. Bằng sự đa dạng ngành nghề, tính nhạy cảm thị trường các DNVVN sẽ có nhiều thuận lợi trong sản xuất và cung cấp dịch vụ, đáp ứng mọi sản phẩm và nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Với lợi thế so sánh về các nguyên liệu nông lâm thuỷ hải sản để sản xuất hàng hoá xuất khẩu, lợi thế về ngành nghề thủ công truyền thống đã tạo ra khả năng vô cùng to lớn cho khu vực DNVVN tham gia sản xuất, gia công chế biến, đại lý khai thác cho xuất khẩu. Do DN lớn hạn chế về khu vực địa lý, phương pháp tổ chức sản xuất và nếu muốn kinh doanh thường phải sử dụng các DNVVN làm vệ tinh thu mua nguyên liệu, chế biến, đóng gói.

doc86 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1196 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Đông Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
định chưa được kiểm tra thực tế tại DN, nơi thực hiện dự án. Mối quan hệ giữa phòng thẩm định và phòng tín dụng có lúc chưa nhịp nhàng, chưa kết hợp chặt chẽ với nhau. - Nguồn vốn huy động của Chi nhánh chủ yếu là thời hạn dưới 12 tháng nên chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu vay vốn trung dài hạn của DN. Thêm nữa về thành phần lại chủ yếu của các Tổ chức tín dụng nên lãi suất cao. Với một lãi suất đầu vào như vậy thì đa số các DNVVN hoạt động trong lĩnh vực thương mại dịch vụ mới chấp nhận được. Trong khi đó, các DN tiến hành sản xuất chế biến, xây dựng cơ bản, lợi nhuận thu được thường thấp hơn lĩnh vực thương mại dịch vụ sẽ gặp trở ngại khi tiếp cận vốn vay Ngân hàng. Vì vậy, vốn của Chi nhánh chưa xâm nhập rộng rãi vào mọi lĩnh vực, mọi ngành nghề. Công tác kiểm tra, kiểm soát sau khi cho vay: Dù quy trình cho vay có được tiến hành nghiêm túc và chặt chẽ tới đâu mà thiếu kiểm tra, kiểm soát trong khi DN sử dụng vốn vay thì mức độ an toàn tín dụng vẫn chưa được đảm bảo. Để khách hàng trả được nợ gốc và lãi đúng hạn và đầy đủ thì trước tiên khách hàng phải sử dụng vốn vay đúng mục đích. Công tác kiểm tra kiểm soát là nhằm đảm bảo sử dụng vốn vay đúng mục đích. Tuy nhiên tại Chi nhánh công tác này không phải lúc nào cũng được thực hiện thường xuyên, nhiều khi lại thực hiện mang tính chiếu lệ hình thức mà thôi. Một phần vì đã có tài sản đảm bảo nên cán bộ xem nhẹ công tác này, nhưng thực tế xử lý tài sản đảm bảo tiền vay là vô cùng phức tạp. Không bám sát đồng vốn cho vay như vậy thì không thể tư vấn, giúp đỡ DN thoát khỏi tình trạng khó khăn một cách kịp thời và dễ dẫn tới khoản vay có vấn đề. Trang thiết bị và công nghệ còn lạc hậu, chưa đảm bảo đáp ứng đủ nhu cầu giao dịch tiên tiến như thanh toán thẻ, thanh toán điện tử...Chương trình World Bank chưa được triển khai và đưa vào thực hiện. Hoạt động Marketing ngân hàng chưa được hiểu đầy đủ và quan tâm đúng mức. Ngân hàng cũng là DN nên trong nền kinh tế thị trường phải đặc biệt chú ý tới công tác này mới là đúng đắn. Chi nhánh mới chỉ thực hiện đơn thuần các hoạt động như tuyên truyền, quảng cáo mà chưa thực sự xuất phát từ việc nghiên cứu nắm bắt nhu cầu của các DNVVN và tìm cách để thoả mãn những nhu cầu đó. Nhân sự tại chi nhánh còn nhiều bất cập. Về số lượng, cán bộ tại Đông HN chiếm tỷ lệ rất thấp so với quy định của NHNNo & PTNT VN. Riêng cán bộ tín dụng chiếm có 23% trên tổng số cán bộ. Đặc thù của Chi nhánh là phần lớn số cán bộ này lại từ Tổng cty VBĐQ chuyển sang và từ các tỉnh chuyển đến nên nghiệp vụ Ngân hàng cũng như địa bàn, phong cách làm việc đều chưa quen. Trình độ nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ tín dụng chưa theo kịp với yêu cầu, thiếu kinh nghiệm trong việc điều tra, nghiên cứu, thẩm định các dự án và phương án vay vốn. Cán bộ tín dụng chưa lượng hóa được công việc cần làm, khâu chọn lọc và phân loại khách hàng chưa được quan tâm đúng mức, làm thường xuyên dẫn đến việc cho vay tràn lan, cho vay sai mục đích, không kiểm tra hướng dẫn cho DN sử dụng vốn vay có hiệu quả. Tăng trưởng tín dụng nhưng không kiểm soát được. Vì chạy theo chỉ tiêu và hệ số lương nên đôi khi nợ quá hạn bị che dấu, định kỳ hạn nợ, gia hạn nợ không căn cứ khả năng trả nợ và nguồn vốn trả nợ. Hơn nữa, công tác bồi dưỡng, đào tạo nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ chưa được lãnh đạo thật sự quan tâm. Tuy Chi nhánh cũng mở các lớp tập huấn nghiệp vụ nhưng còn ít, nhân viên học chiếu lệ, kém nhiệt tình, hiệu quả đem lại thấp. Một số ít cán bộ đã không nghiên cứu kỹ và tuân thủ đầy đủ quy trình, thể lệ tín dụng. Cá biệt có một bộ phận cán bộ thoái hoá, biến chất, tư cách đạo đức kém đã cố tình làm sai quy trình tín dụng, móc ngoặc với DN, thậm chí có những cán bộ đã lợi dụng chức quyền của mình để gây khó dễ cho khách hàng, tham ô, nhận quà biếu... Hệ thống thông tin phòng ngừa rủi ro thiếu hiệu quả. Để đi đến quyết định cho vay là cả một quá trình lựa chọn, thu thập, xử lý thông tin về khách hàng. Thực tế, việc thu thập, khai thác và sử dụng thông tin còn nhiều hạn chế. Chi nhánh phải tự tìm hiểu, chủ động thu thập, sàng lọc và lựa chọn thông tin để thẩm định khách hàng. Thông tin do thu thập từ nhiều nguồn nên dễ bị nhiễu, bị mâu thuẫn gây khó khăn trong đánh giá khách hàng. Để phòng ngừa rủi ro, một trong các điều kiện Ngân hàng yêu cầu là phải có đầy đủ tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ ba. Tài sản thế chấp trong một chừng mực nào đó có thể thay thế thông tin và là dấu hiệu cho biết rằng rủi ro sẽ giảm. Tuy nhiên, điều cần quan tâm là hiệu quả kinh tế của khoản vay và năng lực điều hành kinh doanh của DN. Nhiều trường hợp các món vay có tài sản thế chấp lại chứa đựng rủi ro cao hơn các món vay tín chấp. Mặt khác, trong quan hệ tín dụng, tài sản thế chấp hay cầm cố chưa phải là yếu tố bảo toàn vốn một cách tuyệt đối vì cũng có thể tài sản thế chấp được đem đi thế chấp ở nhiều nơi, giá cá của tài sản nhà đất biến động mạnh, có khi hạ thấp nhiều so với thời điểm Ngân hàng cho vay. Nguyên nhân từ phía các DNVVN : Năng lực tài chính của DN quá thấp, vì vậy muốn bảo đảm vốn cho hoạt động kinh doanh được liên tục, các khách hàng này đều phải bổ sung vốn bằng cách đi vay. Tuy nhiên, việc tiếp cận được vốn Ngân hàng còn nhiều khó khăn, phức tạp bởi không hội tụ được đầy đủ các điều kiện chov ay vốn như thiếu tín nhiệm trong quan hệ vay trả, không có khả năng xây dựng phương án sản xuất kinh doanh cho mình hay không có các dự án khả thi, không có đủ tài sản thế chấp và cầm cố hợp pháp và đặc biệt là vốn tự có trên tổng mức đầu tư của dự án quá thấp, thường chỉ vài phần trăm. Vì vậy, đối với các DNVVN mà phần lớn là nằm trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh Ngân hàng khó có thể bao sân vì rủi ro tín dụng tiềm ẩn quá lớn. Bên cạnh đó, trình độ năng lực của DN không theo kịp đòi hỏi của cơ chế thị trường. Các chủ DNVVN nói chung và nhất là của các DN ngoài quốc doanh vừa thiếu kinh nghiệm, kiến thức, trình độ và bản lĩnh của những nhà sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường. Từ chỗ yếu kém nhiều DN không thể tự mình xây dựng phương án sản xuất kinh doanh khả thi, trong khi thói quen sử dụng các dịch vụ tư vấn mang tính chuyên nghiệp chưa trở thành phổ biến. Đơn giản như việc làm các thủ tục đề xuất xin vay vốn Ngân hàng của một số DN ngoài quốc doanh cũng phải nhờ cán bộ tín dụng làm thay. Các DN chưa thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật. Trên thực tế pháp lệnh kế toán thống kê rất có ít hiệu lực đối với DN ngoài quốc doanh. Hệ thống sổ sách kế toán ghi chép đơn giản, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm cá nhân, mang tính chất gia đình. Hầu hết các DNVVN không có báo cáo tài chính hoặc có thì thiếu và sơ sài, không được kiểm toán. Vì vậy, Chi nhánh nói riêng và Ngân hàng nói chung có rất ít thông tin về loại hình DN này làm cho mức độ tin cậy đối với DNVVN bị hạn chế và gây nhiều khó khăn cho công tác thẩm định tình hình SXKD, tình hình tài chính của người vay cũng như quản lý sử dụng vốn vay của họ. Mặt khác, bên cạnh những người làm ăn chân chính, tại nhiều NHTM đã xuất hiện một số khách hàng thành lập các Cty ma, ký kết hợp đồng rởm làm vỏ bọc để lợi dụng rút tiền Ngân hàng dẫn đến hình sự hoá quan hệ dân sự đã làm cho cán bộ tín dụng nói riêng và Ngân hàng nói chung nản lòng. Với thực trạng như vậy, Chi nhánh bên cạnh chủ trương mở rộng tín dụng tới DNVVN cũng không trau dồi chuyên môn nghiệp vụ, thận trọng với khách hàng này để mở rộng quy mô gắn liền với nâng cao chất lượng tín dụng. Nguyên nhân khách quan : Môi trường pháp lý chưa đầy đủ và đồng bộ. Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, vì vậy hệ thống pháp luật chung cho toàn bộ nền kinh tế chưa hoàn chỉnh, thiếu đồng bộ và thiếu những đạo luật quan trọng. Đồng thời việc thực thi pháp luật và các chính sách trên thực tế đã bộc lộ nhiều nhược điểm. Quản lý Nhà nước đối với DNVVN còn nhiều lỏng lẻo. Nhiều quy định hiện nay còn rắc rối, thủ tục về đăng ký kinh doanh còn phức tạp về số lượng giấy tờ, các công đoạn kiểm duyệt, thời gian kiểm duyệt. Khuôn khổ pháp lý liên quan đến hoạt động tín dụng giữa NHTM với DN nói chung, DNVVN nói riêng còn bất cập đã gây bó buộc hoạt động của các DNVVN, vừa tạo khe hở để các DNVVN lợi dụng. Đặc biệt là môi trường pháp lý về tài sản thế chấp. Đây là nguyên nhân cơ bản gây tồn tại trong quan hệ tín dụng đối với DNVVN. Việt nam chưa có bảo hiểm tín dụng nên việc thế chấp, cầm cố tài sản hoặc bảo lãnh của bên thứ ba là những hình thức được coi là đảm bảo nhất. Quyết định 217/QĐ-NH1ngày 17/8/1996 và nay là Quyết định 178 của Thống đốc NHNN quy định về thê chấp, cầm cố và bảo lãnh vay vốn Ngân hàng là cơ sở pháp lý để NHTM thực hiện. Thực tế, 90% giá trị các bất động sản được dùng làm tài sản thế chấp; các động sản như thiết bị, phương tiện vận tải...chiếm tỷ trọng nhỏ vì NHTM không có kho bảo quản, không đủ trình độ đánh giá chính xác giá trị tài sản của nó. Cho nên thực trạng hiện nay phát sinh một số vướng mắc. Khi Ngân hàng nhận thế chấp, cầm cố là giữ tài sản hoặc bản chính giấy tờ sở hữu tài sản, nhưng các DN không có giấy tờ chứng minh quyền sở hữu hoặc quản lý các tài sản cố định như các thành phần kinh tế khác. DN tư nhân, tài sản thế chấp chủ yếu là nhà đất nhưng giấy tờ chứng nhận quyền sử dụng đất chưa được cấp đầy đủ và tiến độ rất chậm. Số tiền vay tối đa 70% giá trị tài sản thế chấp mà giá trị giá trị thuê đất đã trả cộng với tài sản trên đất thì rất nhỏ so với giá trị thực của khu đất. Về quy định phát mại tài sản thế chấp, luật dân sự và luật DN Nhà nước đều mới quy định chung về cơ quan có thẩm quyền tổ chức đấu giá tài sản mà chưa có quy định cụ thể về xử lý tài sản thế chấp khi bên vay thiếu khả năng trả nợ. Môi trường kinh tế thiếu ổn định : Nền kinh tế Việt Nam đang trên đà đổi mới đã thu được những kết quả đáng kể như kinh tế nhiều thành phần đang hình thành và ngày càng phát triển, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, lạm phát được đẩy lùi...Tuy nhiên những kết quả trên vẫn không che lấp được một số biểu hiện không bình thường của nền kinh tế. Đó là từ năm 1998 đến nay tốc độ tăng trưởng chững lại, tỷ lệ lạm phát giảm liên tục làm cho sản xuất kinh doanh trì trệ đã là nguy cơ kìm hãm sự tăng trưởng kinh tế. Tình hình buôn lậu, hàng giả và sự tràn ngập hàng ngoại đang trở thành trở ngại lớn, làm các nhà SXKD chân chính luôn phải thay đổi phương án đầu tư dể tồn tại. Trong môi trường kinh doanh thất thường biến động như vậy, rủi ro đầu tư là rất lớn và không thể lường hết được. Vì vậy, sự mở rộng đầu tư của các NHTM nói chung và mở rộng cho vay trung dài hạn đối với DNVVN bị hạn chế. Chính sách vĩ mô còn bất cập. Đây là những chính sách rất quan trọng, tạo hành lang cho việc vốn tín dụng được đầu tư đúng địa chỉ. Chính sách vĩ mô của Nhà nước ta chưa phù hợp và đang trong quá trình điều chỉnh, đổi mới và hoàn thiện ( chính sách thuế, chính sách đầu tư, chính sách đất đai, chính sách XNK, chủ trương đóng cửa rừng, cấm xuất khẩu gỗ...). Các DN điều chỉnh phương án SXKD không kịp thời với sự thay đổi của các chính sách kinh tế vĩ mô nên gặp khó khăn, kinh doanh thua lỗ hoặc không đủ điều kiện tiếp tục vay. Chi nhánh NHNNo & PTNT Đông Hà Nội thuộc NHNNo & PTNT VN –NHTM quốc doanh nên hoạt động của nó chịu nhiều tác động của các chính sách, quy định của Nhà nước cũng như ngân hàng Nhà nước. Chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đã được xác định rõ trong đường lối phát triển kinh tế của Đảng và nhất quán trong các Bộ ban ngành, do vậy đối với khu vực DNVVN đã khơi dậy một định hướng phát triển. Đến nay Chi nhánh đã và đang tiếp tục mở rộng cả quy mô và chiều sâu cung ứng vốn cho DNVVN nhưng trên thực tế DNNN vẫn được ưu tiên hơn DNNQD mà chủ yếu là các DNVVN. Chương 3 Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh NHNno & PTNT Đông Hà Nội. 3.1 Định hướng hoạt động tín dụng đối với các DNVVN tại Chi nhánh Đông Hà Nội Những tác động của nền kinh tế xã hội ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng trong thời gian tới: Mục tiêu phát triển kinh tế năm 2005 Quốc hội đề ra tăng trưởng 8,5%, chỉ số giá cả tăng không quá 6,5%. Lãi suất có xu hướng tăng nhẹ. Đây là một áp lực rất lớn về nguồn vốn của Ngân hàng đầu tư cho nền kinh tế. Giá vàng, ngoại tệ biến động thường xuyên, khó lường. Nhà nước điều chỉnh khung giá đất và từng bước hình thành thị trường bất động sản, giá xăng dầu, sắt thép, xi măng tăng nhanh. Ngân hàng Thế giới và các Cơ quan kiểm toán Quốc tế đã yêu cầu các NHTM phải thực hiện lộ trình cơ cấu lại Ngân hàng và thực hiện các chuẩn mực Quốc tế trên mọi lĩnh vực hoạt động Ngân hàng nói chung và tín dụng nói riêng. NHNN đã và sẽ điều chỉnh Quyết định 488, Quyết định 1627 theo hướng giám sát chặt chẽ hơn chất lượng tín dụng. Tiến trình sắp xếp lại các DN, các Cty cổ phần, Cty TNHH với nhiều chi nhánh, nhiều văn phòng đại diện trong khi vốn tự có thấp, vay vốn nhiều Ngân hàng, nhiều địa bàn; các thủ đoạn trốn thuế lừa đảo ngày càng tinh vi xảo quyệt...Năng lực quản lý, năng lực tài chính yếu kém nhưng SXKD đa năng nhiều lĩnh vực. Nợ đọng vốn xây dựng cơ bản lớn trong đó có một phần vốn của các NHTM Cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường, thị phần ( cả nguồn vốn và dư nợ) giữa các NHTM thường xuyên diiễn ra là không tránh khỏi. Hội đồng quản trị NHNNo & PTNT VN nhất trí xác định năm 2005 là năm “ Hội nhập “ với mục tiêu tổng quát: Tập trung sức toàn ngành, thực hiện bằng được những nội dung cơ bản theo tiến độ đề án cơ cấu lại NHNo & PTNT VN 2001-2010 đã được phê duyệt, tiếp tục duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý, đảm bảo cân đối, an toàn và khả năng sinh lời, đáp ứng được yêu cầu chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp, nông thôn, mở rộng và năng cao chất lượng dịch vụ Ngân hàng đủ năng lực cạnh tranh; tập trung hiện đại hoá đào tạo nguồn nhân lực, đổi mới công nghệ Ngân hàng phù hợp với hiện đại hoá, đủ năng lực hội nhập cho những năm tiếp theo”. Chiến lược hoạt động đối với DNVVN là đưa ra các định hướng tiếp cận đến DNVVN trong cơ cấu tổ chức và danh mục khách hàng ; Quảng bá và phát triển sản phẩm của DNVVN; Giới thiệu các chính sách thủ tục, đặc biệt là chiến lược cho vay DNVVN ; Tập trung hoá trông tin về DNVVN ; Đẩy mạnh dịch vụ Ngân hàng điện tử ; tăng cường trao đổi bán sản phẩm ; Phát triển các dịch vụ đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Theo định hướng của HĐQT và Tổng giám đốc NHNNo & PTNT VN về công tác kinh doanh, với Chi nhánh Đông Hà Nội giữ vững thị trường và thị phần; thực hiện việc mở rộng cho vay đối với DN hoạt động theo luật DN, các DN vừa và nhỏ và hộ gia đình; mở rộng tín dụng gắn với năng cao chất lượng tín dụng, lấy chất lượng tín dụng làm thước đo đánh giá năng lực, trình độ hiệu quả của cán bộ tín dụng; tăng cường công tác kiểm tra chuyên đề tín dụng; chú trọng công tác đào tạo và đào tạo lại, giáo dục chính trị tư tưởng... Cụ thể, mục tiêu tín dụng năm 2005 như sau: Dư nợ: 900 – 1000 tỷ, ngoại tệ quy đổi 95 tỷ ( tăng trưởng từ 25 – 30% so với năm 2004 ). Nguồn vốn : 1625 tỷ trong đó huy động từ dân cư 488 tỷ, ngoại tệ quy đổi 306 tỷ. Tỷ lệ NQH < 2% . Tỷ lệ cho vay trung, dài hạn: 35 – 40% đạt 292 tỷ. Phấn đấu chênh lệch lãi suất đầu ra đầu vào là + 0,35 %. 3.2 Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNVVN tại Chi nhánh 3.2.1 Tăng cường khai thác những nguồn vốn có chi phí thấp Để có thể mở rộng tín dụng hơn nữa cho các DNVVN đồng thời gắn với việc nâng cao chất lượng tín dụng thì một giải pháp quan trọng là phải tạo được nguồn vốn bền vững, ổn định với chi phí thấp và quy mô đủ lớn. Tiền gửi dân cư tuy số lượng của từng cá nhân không nhiều nhưng số lượng người gửi lại đông đảo, lãi suất tiền gửi tiết kiệm thấp nên chi phí hạ và nguồn tiền này cũng tương đối ổn định. Vì vậy, Chi nhánh nên đẩy mạnh huy động nguồn tiền từ đối tượng này. Không thể tăng lãi suất để cạnh tranh như các NHTMCP, song Chi nhánh thuộc NHTM quốc doanh nên có uy tín, độ tin tưởng cao hơn nhiều. Đó là một ưu thế hơn hẳn các NHTMCP khác. Bên cạnh hoàn thiện các hình thức tiết kiệm truyền thống, các hình thức khuyến mại để thu hút khách hàng như tiết kiệm bậc thang luỹ tiến theo số dư tiền gửi, theo thời gian gửi, tiết kiệm gửi góp...đang tiến hành cũng rất hiệu quả. Tuy nhiên, Chi nhánh cần tăng cường quảng cáo, tiếp thị trên báo, đài, truyền hình, gửi thông báo đến những khách hàng giàu tiềm năng, những khách hàng đã có quan hệ với Ngân hàng để nhiều người dân biết được các hình thức khuyến mại, các lợi ích họ sẽ được hưởng một cách tường tận. Chi nhánh cũng có thể đưa ra các hình thức thưởng như gửi tiền với số tiền trên 50 triệu đồng, gửi tiền từ 20 triệu đồng với thời hạn trên 24 tháng được một phiếu mua hàng siêu thị, phiếu rút thăm trúng thưởng nhà chung cư, xe máy, đồ gia dụng...Chi nhánh cũng cần đẩy mạnh các biện pháp tránh nợ quá hạn để nâng cao chất lượng tín dụng, đẩy mạnh các biện pháp thu hồi nợ đúng hạn và đầy đủ để tái quay vòng vốn. Mới thành lập, Chi nhánh không thể ngay lập tức huy động loại kỳ hạn dài từ tiền gửi tiết kiệm mà nên chủ động tìm kiếm, tham gia vào các dự án, chương trình tài trợ cho vay của các tổ chức, Ngân hàng nước ngoài. Đa dạng hóa các công cụ huy động vốn như phát hành kỳ phiếu, trái phiếu. Tùy từng loại thích hợp có thể huy động vốn với kỳ hạn 9 tháng, 12 tháng, 24 tháng trên nguyên tắc kỳ hạn càng dài thì lãi suất càng cao. Một nguồn tiền huy động có chi phí thấp và quy mô huy động cũng sẽ lớn đó là tiền gửi thanh toán. Khách hàng tham gia gửi tiền với hình thức này không phải vì lãi suất mà để phục vụ nhu cầu thanh toán thường xuyên trong tiêu dùng, sinh hoạt với các cá nhân và phục vụ nhu cầu thanh toán trong kinh doanh đối với các DN, tổ chức. Vấn đề mà khách hàng quan tâm nhất là chất lượng dịch vụ, độ chính xác và sự nhanh chóng tiện lợi và an toàn. Vì vậy, Chi nhánh cần tạo được sự luân chuyển vốn nhanh và an toàn, nhân viên nhiệt tình và lịch sự, tạo thuận tiện, nhanh gọn cho khách hàng gửi tiền và rút tiền bằng cách nâng cao công nghệ Ngân hàng, hiện đại hoá khâu thanh toán như với loại hình thẻ cần lắp đặt nhiều máy rút tiền tự động ở nơi công cộng, các siêu thị, cửa hàng...Như vậy sẽ thu hút thêm nhiều khách hàng gửi tiền tại Chi nhánh, huy động được nguồn vốn lớn quy mô, bền vững và chi phí thấp. 3.2.2 Nâng cao chất lượng công tác thẩm định Công tác thẩm định đóng một vai trò quan trọng trong chất lượng tín dụng. Thẩm định là một khâu để hạn chế rủi ro tín dụng, thực hiện tốt công tác này thì chất lượng tín dụng mới được đảm bảo. Trước tiên, để chất lượng thẩm định được tốt thì cán bộ thẩm định phải được trau dồi chuyên môn nghiệp vụ qua các đợt tập huấn, lớp bồi dưỡng nâng cao và cả tư cách đạo đức. Cán bộ thẩm định cần nêu cao tinh thần trách nhiệm, nắm vững kiến thức nghiệp vụ, tin học, ngoại ngữ, am hiểu pháp luật, nắm bắt và xử lý thông tin kịp thời, vững vàng trong xử lý nghiệp vụ, giữ vững phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp. Cán bộ thẩm định làm việc dựa trên các thông tin số liệu DN cung cấp, thông tin chủ động tìm kiếm, thông tin do các tổ chức và cơ quan có chức năng cung cấp...do đó thu thập thông tin đầy đủ và chính xác là rất quan trọng đối với thẩm định. Cần thu thập thường xuyên những thông tin về diễn biến của nền kinh tế, những điều chỉnh trong cơ chế, chính sách có liên quan đến các ngành, lĩnh vực. Nâng cao chất lượng thông tin và dự báo rủi ro trong hoạt động kinh doanh. Hoàn thiện hệ thống thông tin, báo cáo thống kê thẩm định và lưu trữ hồ sơ. Trong phạm vi Chi nhánh, cần kiện toàn tổ chức của phòng thẩm định, gắn kết chặt chẽ giữa phòng thẩm định và tín dụng. Càng ngày nội dung thẩm định càng bao trùm nhiều lĩnh vực, nên phân chia để mỗi cán bộ chịu trách nhiệm một lĩnh vực như thương mại, xây dựng, chế biến...sẽ phát huy được năng lực chuyên môn của từng cán bộ. Đối với những dự án thuộc lĩnh vực chuyên môn như tin học, kỹ thuật...nên thuê chuyên gia, nhà tư vấn hỗ trợ trong quá trình thẩm định. Như vậy, do cán bộ thành thạo với lĩnh vực thẩm định nên sẽ tiết kiệm được thời gian thẩm định, kết quả thẩm định chính xác hơn và dẫn đến chất lượng thẩm định sẽ được nâng cao. 3.2.3 Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát tiền vay Không phải sau khi giải ngân cho DN là nhân viên tín dụng thụ động ngồi chờ tới ngày nhận lãi và trả gốc. Kiểm tra, kiểm soát tiền vay của DN sẽ giúp Ngân hàng kiểm soát được hành vi của người vay vốn, đảm bảo vốn vay sử dụng đúng mục đích. Chỉ khi vốn vay được sử dụng đúng mục đích thì mới đảm bảo tính sinh lời và an toàn của khoản vay. Cán bộ tín dụng phải tiến hành công tác này thường xuyên, nghiêm túc chứ không làm chiếu lệ qua loa hay vì lợi ích riêng mà che đậy thực trạng DN, gia hạn nợ sai nguyên tắc để tránh nợ quá hạn. Cán bộ tín dụng cần xem xét báo cáo tài chính mới nhất của DN, một số giấy tờ hóa đơn liên quan. Yêu cầu DN mở tài khoản thanh toán tại Chi nhánh để nắm chính xác và dễ dàng tình hình SXKD thực tế của DN. Ngoài ra, định kỳ mỗi quý một lần cán bộ tín dụng phải đến cơ sở kiểm tra đột xuất không thông báo trước. Đánh giá giá trị của tài sản thế chấp, cầm cố để có các biện pháp bảo quản phù hợp, yêu cầu DN bổ sung tài sản đảm bảo nếu chúng bị mất giá trị hay ngừng cấp thêm vốn vay. Đồng thời cũng phải nắm bắt thông tin bất lợi đối với dự án vay vốn của DNVVN hay hững thông tin nóng hổi về kinh tế, pháp luật để kịp thời thông báo, tư vấn cho DN biện pháp đối phó, đảm bảo hiệu quả của đồng vốn vay cho cả hai phía. 3.2.4 Xử lý kịp thời nợ quá hạn Rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi, nợ quá hạn cũng vậy. Các NHTM tuỳ từng thời kỳ sẽ đưa ra một tỷ lệ nợ quá hạn chấp nhận được. Tỷ lệ nợ quá hạn 0,69% hiện nay của Chi nhánh là rất thấp song nó vẫn là một biểu hiện chưa tốt của chất lượng tín dụng, nhất là DNVVN chiếm tỷ trọng nợ quá hạn cao nhất 0,625%. Hơn nữa thực chất do mới đi vào hoạt động kinh doanh trong thời gian ngắn nên nợ quá hạn chưa phát sinh nhiều. Chi nhánh cần đánh giá khả năng thu hồi của toàn bộ các khoản nợ đã gia hạn, điều chỉnh kỳ hạn nợ và nợ quá hạn. Sau đó cần tiến hành phân loại theo khả năng thu hồi và phân tích nguyên nhân đưa đến nợ quá hạn căn cứ vào hồ sơ xin vay vốn, tình hình sản xuất kinh doanh thực tế, quá trình sử dụng vốn vay rồi đưa ra kết luận do yếu tố khách quan hay chủ quan. Trên cơ sở đó tập trung cán bộ để thu nợ, không để nợ quá hạn mới phát sinh do nguyên nhân chủ quan. Xử lý kịp thời nợ quá hạn không chỉ giúp Ngân hàng giảm thiểu tổn thất, thu hồi vốn mà còn tránh để DN rơi vào tình trạng xấu hơn khi cứ lún sâu vào làm ăn không hiệu quả. Hiện tại nợ quá hạn tại Chi nhánh 100% là nợ do chậm trả lãi trong vòng 3 tháng, vì vậy cán bộ tín dụng nên cố gắng bám sát DN, tư vấn giúp đỡ để DN tháo gỡ khó khăn trước mắt. Đối với DN cố tình trây ì, không hợp tác và có dấu hiệu lừa đảo, làm ăn bất chính thì không giải ngân tiếp nếu còn, phát mại tài sản thế chấp và cầm cố là lựa chọn cuối cùng để thu hồi nợ vì rất phức tạp. 3.2.5 Trích lập quỹ bù đắp rủi ro Chi nhánh phê duyệt một khoản vay, cấp tín dụng cho một DN với niềm tin DN sẽ SXKD hiệu quả, sẽ trả gốc và lãi đúng quy định nhưng với rất nhiều biến động ở cả bản thân DN và trên thị trường, rủi ro trong tín dụng là không thể tránh khỏi. Đặc biệt với các DNVVN vốn ít, kinh nghiệm quản lý kinh doanh còn thiếu thì mức độ rủi ro tín dụng với khách hàng này là rất lớn. Khi rủi ro tín dụng với DN xảy ra, thì kể cả có các tài sản đảm bảo giá trị lớn và hợp lệ thì Ngân hàng cũng không bao giờ thu hồi được đủ vốn vay, vẫn chịu thiệt hại kinh tế và giảm sút cả uy tín. Vì vậy, để bảo đảm an toàn trong hoạt động tín dụng, giảm bớt thiệt hại phải chịu Chi nhánh phải trích lập hình thành nên quỹ bù đắp rủi ro. Quỹ dự phòng bù đắp rủi ro được trích lập trên cơ sở khả năng mất vốn của khoản vay một mặt sẽ giúp Ngân hàng khắc phục được những hậu quả thiệt hại, đứng vững trên thị trường đồng thời sẽ tăng cường sức mạnh tài chính, khả năng thanh toán của ngân hàng, từ đó nâng cao được chất lượng tín dụng nói chung và với DNVVN nói riêng. 3.2.6 Nâng cao chất lượng nhân sự Công nghệ máy móc có hiện đại tới mấy cũng không thể thay thế bàn tay con người. Con người là yếu tố cốt lõi của mọi hoạt động trong nền kinh tế xã hội. Trong hoạt động của Chi nhánh cũng vậy, để nâng cao chất lượng tín dụng cần nâng cao chất lượng nhân sự để phục vụ, đáp ứng yêu cầu của các DN ngày một tốt hơn. Chú trọng đến công tác đào tạo và đào tạo lại nhằm từng bước nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ cho cán bộ tín dụng để tiếp cận với xu thế hội nhập và tiến trình hiện đại hoá của ngành Ngân hàng. Thực hiện tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho từng cán bộ, làm rõ trách nhiệm cá nhân trong các khâu công việc. Muốn vậy, Chi nhánh cần tổ chức các lớp bồi dưỡng, tổ chức các hoạt động tập thể cho cán bộ như thăm quan, văn nghệ, tổ chức hội thi CBTD giỏi làm căn cứ đánh giá phân loại CBTD, cử cán bộ đi học tập và tạo điều kiện cho cán bộ tiếp tục theo học cao học, văn bằng hai...Lấy hiệu quả công việc của từng CBTD để đánh giá năng lực và phẩm chất của họ, không vì bằng cấp hay quan hệ mà đánh giá chủ quan. Kịp thời khen thưởng cũng như phạt để tạo động lực khuyến khích cán bộ nhân viên nhiệt tình cống hiến, có tinh thần trách nhiệm cao trong công tác. Tín dụng với DNVVN gặp nhiều rủi ro hơn các khách hàng khác nên cần có mức khen thưởng khi DN mà CBTD quản lý không xảy ra tình trạng nợ quá hạn. Đồng thời CBTD cũng phải chịu phạt khi món vay mình quản lý có vấn đề như chuyển thành nợ khó đòi, nợ không có khả năng thu hồi mà nguyên nhân là do CBTD thiếu chuyên môn, làm sơ sài hay cố ý. Thưởng phạt nghiêm minh là đòn bẩy cho CBTD hăng hái làm việc, có trách nhiệm hơn từ đó sẽ giảm thiểu rủi ro tín dụng và đồng thời nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng hơn. 3.2.7. Đa dạng hoá các hình thức tín dụng Tại Chi nhánh hiện mới chỉ cho vay theo hạn mức và cho vay theo từng lần là chủ yếu, cho vay để mở L/C tuy đã tiến hành nhưng quy mô còn nhỏ. Để nâng cao sự cạnh tranh với các tổ chức tín dụng khác cũng như đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu phong phú các khách hàng DNVVN thì một giải pháp quan trọng là cần áp dụng nhiều hình thức tín dụng. Ngày càng có nhiều dự án với quy mô vốn lớn song một Ngân hàng với các quy định cho vay của mình, cũng như không bỏ quá nhiều vốn vay vào một dự án để giảm bớt rủi ro thì cho vay đồng tài trợ là một hình thức thích hợp. Khi ấy, Chi nhánh cùng với một nhóm các tổ chức tín dụng khác sẽ cùng cho vay với một dự án hoặc phương án vay vốn của khách hàng. Với hình thức cho vay này, Chi nhánh sẽ thiết lập nhiều mối quan hệ hơn đối với các tổ chức tín dụng, với DN. Chi nhánh không chỉ thu được lợi nhuận trước mắt mà còn phân tán được rủi ro, nâng cao uy tín và tích luỹ thêm kinh nghiệm. Với DNVVN thì nhu cầu đổi mới công nghệ, thay mới trang thiết bị máy móc luôn là một nhu cầu cần thiết. Muốn nâng cao cạnh tranh, sản xuất ra được những sản phẩm giá rẻ và chất lượng cao thì con đường ngắn nhất là đổi mới công nghệ. Đặc biệt, các DNVVN ở nước ta còn rất lạc hậu về công nghệ kỹ thuật, máy móc kém hiện đại. Song trang bị máy móc hay đổi mới công nghệ rất tốn kém, bản thân DNVVN không đủ vốn để mua sắm, cũng không đủ điều kiện về tài sản đảm bảo để vay vốn Ngân hàng. Hơn nữa, nhiều máy móc có giá trị lớn nhưng nhu cầu sử dụng của DN lại ngắn hơn thời gian khấu hao của tài sản. Thêm vào đó, Nghị định số 16 ngày 2/5/2001 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của công tác cho thuê tài chính đã tạo ra một hành lang pháp lý thông thoáng cho hoạt động này. Với nghị định 16 đối tượng cho thuê đã được mở rộng bao gồm tất cả các DN, tổ chức, cá nhân hoạt động tại Việt Nam. Bên cho thuê tài chính được nhập khẩu trực tiếp những máy móc thiết bị mà bên thuê đã được phép mua, nhập khẩu và sử dụng; bên thuê được sử dụng bản sao giấy chứng nhận đăng ký khi lưu hành phương tiện vận tải đi thuê; chuyển quyền sở hữu tài sản thuê khi kết thúc thời hạn thuê không phải nộp thuế chức bạ... Vì vậy, Chi nhánh cần sớm tiến hành cho thuê tài chính để mở rộng khách hàng, nâng cao trình độ nghiệp vụ và cũng là nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNVVN. Cho thuê là một cách để tài trợ vốn cho DNVVN với các yêu cầu đơn giản hơn cho vay bởi tài sản vẫn thuộc quyền sở hữu của Ngân hàng do đó dễ dàng kiểm soát, xử lý khi gặp vấn đề. Thuê mua có tác dụng thay thế các khoản vay có bảo đảm và giảm rủi ro cho các khoản tài trợ trung hạn đối với các DNVVN không có báo cáo hoạt động kinh doanh và báo cáo kiểm toán. Ngân hàng chỉ cần quan tâm đến báo cáo tài chính, đặt cọc và thời hạn trả cùng một phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả. Chi nhánh cũng cần nghiên cứu, thử nghiệm và đưa ra nhiều sản phẩm và dịch vụ sau dành cho DNVVN như là những sản phẩm dành riêng cho DNVVN. Đó là các khoản cho vay với tính linh hoạt cao đáp ứng các yêu cầu tài chính của từng DNVVN, bao gồm thấu chi và cho vay có kỳ hạn ; Tài khoản phát hành séc ; Ngân hàng qua điện thoại hoặc Internet ; Dịch vụ tài trợ thương mại bao gồm tín dụng ngắn hạn cho nhập khẩu nguyên liệu, tài trợ hỗ trợ xuất khẩu, bảo hiểm vận tải tàu biển ; Dịch vụ cung cấp tài liệu và xác nhận ; Dịch vụ thương mại bao gồm chỉ định thanh toán tiền hàng, ghi nợ trực tiếp từ tài khoản của khách hàng và thẻ tín dụng và thanh toán qua mạng ; Các sản phẩm bảo hiểm cho bên thứ 3 theo uỷ thác. 3.2.8 Tăng cường công tác tư vấn cho Doanh nghiệp vay vốn Ngân hàng cũng là một Doanh nghiệp nhưng là một Doanh nghiệp đặc biệt vì kinh doanh tiền tệ. Trong cơ chế thị trường hiện nay, NHNNo & PTNT Đông Hà Nội tuy là một Chi nhánh thuộc Ngân hàng quốc doanh nhưng để đứng vững và phát triển vẫn phải tự thân vận động là chính. Muốn mở rộng tín dụng, tìm kiếm được nhiều khách hàng tiềm năng, dự án có tính khả thi cao đem lại hiệu quả lớn Ngân hàng cần trở thành người đồng hành với khách hàng. Nhất là các DNVVN thiếu về kinh nghiệm, yếu về trình dộ chuyên môn và quản lý thì Ngân hàng càng cần tư vấn hơn bao giờ hết. Chính những đặc điểm hạn chế của DNVVN mà đôi khi họ có ý tưởng rất sáng tạo, nhạy bén và đúng đắn song không đủ khả năng lập nên một dự án khả thi, một phương án SXKD hiệu quả. Khi ấy, rất cần các cán bộ Ngân hàng gợi ý, tư vấn để DN có thể được nhận tài trợ từ Ngân hàng. Như cung cấp các thông tin về kinh tế, giá cả thị trường, điều luật quy định của pháp luật, cung cấp kinh nghiệm từ các dự án khác có liên quan. Cán bộ cũng nên hướng dẫn quy trình, các bước tiến hành, cùng DN tìm ra thiếu sót để khắc phục và đưa ra được một dự án, phướng án SXKD chuẩn xác, hiệu quả. Tư vấn cho khách hàng để sử dụng tiền vay có hiệu quả là cách tốt nhất để bảo đảm người vay trả nợ Ngân hàng đúng hạn. Tư vấn là một công việc khó khăn, bởi nó không chỉ đòi hỏi trình độ chuyên môn nghiệp vụ tín dụng của nhân viên mà còn cả trình độ về lĩnh vực kinh doanh của DN vay vốn. Để thực hiện tốt công tác tư vấn cho DN vay vốn, người tư vấn phải trau dồi kiến thức một cách tổng quan, bám sát thực tiễn, nhiệt tình hỗ trợ DN tháo gỡ vướng mắc nhưng cũng phải thật sự khách quan. Nhân viên Ngân hàng cần đẩy mạnh công tác tư vấn cho DN, đóng vai trò định hướng tránh tình trạng làm hộ, làm thay hay áp đặt cho DN. Việc tạo lập được mối quan hệ lâu dài, trên tinh thần hỗ trợ lẫn nhau giữa Ngân hàng và khách hàng DNVVN sẽ mang lại lợi ích cho cả hai bên. Vừa thúc đẩy mở rộng tín dụng một cách an toàn, hiệu quả vừa đáp ứng tốt nhất nhu cầu vốn cho DN. 3.2.9 Mở rộng Marketing Ngân hàng để thu hút thêm nhiều khách hàng Trong khi nhiều ngành kinh tế, nhiều Doanh nghiệp đang ứng dụng marketing vào hoạt động kinh doanh của mình và coi đây là công cụ cạnh tranh và tăng hiệu quả hoạt động hữu hiệu thì với các Ngân hàng, marketing vẫn còn khá xa lạ. Một phần vì Ngân hàng vốn có vị thế, uy tín lớn trong nền kinh tế nên vẫn duy trì quan niệm khách hàng là người cần mình, tìm đến với mình. Đến nay, mặc dù nhiều Ngân hàng cũng đã đổi mới, quan tâm hơn tới marketing song chỉ dừng lại ở bề ngoài và ở khâu giới thiệu “ sản phẩm “ mà thôi. Đó là các hình thức tuyên truyền, quảng cáo trên báo đài, truyền hình, tham gia tài trợ các chương trình, hoạt động văn hoá thể thao để khuyếch trương...Đó chỉ là một công đoạn nhỏ của hoạt động marketing. Từ lãnh đạo đến nhân viên Chi nhánh cần tìm hiểu, học hỏi và nhất quán quan niệm về marketing Ngân hàng, đó là một hệ thống tổ chức quản lý của một Ngân hàng để đạt được mục tiêu đặt ra của Ngân hàng là thoả mãn tốt nhất nhu cầu về vốn, cũng như các dịch vụ khác của Ngân hàng đối với nhóm khách hàng lựa chọn bằng các chính sách, các biện pháp hướng tới mục tiêu cuối cùng là tối đa hoá lợi nhuận. Ngân hàng cần nghiên cứu thị trường để có thể nắm bắt các thông tin về môi trường kinh doanh, về khách hàng như đâu là khách hàng triển vọng, họ có những nhu cầu gì, môi trường kinh tế, dân cư, chính trị, văn hoá tác động như thế nào...Từ đó Ngân hàng cần sử dụng linh hoạt các chính sách thông tin, nghiên cứu, tìm hiểu điều tra ; sản phẩm giá cả ; phân phối và chính sách giao tiếp khuyếch trương. Làm tốt hoạt động Marketing thì Ngân hàng sẽ thu hút thêm nhiều khách hàng bởi Ngân hàng cung cấp được cho khách hàng mục tiêu những sản phẩm mà họ có nhu cầu đồng thời đem lại hiệu quả cho hoạt động kinh doanh, đảm bảo sức cạnh tranh lành mạnh của Ngân hàng. Thoả mãn nhu cầu của khách hàng một cách tốt nhất đồng thời đảm bảo tính sinh lời và an toàn là thước đo cho một chất lượng tín dụng tốt. 3.3 Một số kiến nghị đối với cơ quan Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước và NHNo & PTNT Việt Nam 3.3.1. Kiến nghị đối với cơ quan Nhà nước Chính phủ và các ban ngành cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật để khuyến khích các doanh nhân, doanh nghiệp yên tâm hoạt động theo đúng pháp luật và Ngân hàng Thương mại có hành lang pháp lý chuẩn để tuân theo. Ban hành các chính sách hỗ trợ, bảo vệ DNVVN, chính sách thuế, chính sách thương mại, đất đai. Nhà nước cần ban hành các đạo luật cơ bản tạo môi trường pháp lý cần thiết để các DNVVN dễ dàng thực hiện các biện pháp đảm bảo nghĩa vụ trả nợ và các Ngân hàng dễ dàng trong việc xử lý tài sản đảm bảo nợ khi có rủi ro xảy ra như : Luật sở hữu tài sản và các văn bản dưới luật quy định rõ chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của các cơ quan quản lý Nhà nước về cấp chứng thư sở hữu tài sản; các văn văn bản dưới luật hướng dẫn thực hiện việc xử lý phát mại tài sản thế chấp, cầm cố. Có như vậy mới góp phần tạo ra sự đảm bảo chắc chắn hơn cho các NHTM và từ đó khuyến khích họ trong việc cho vay vốn đối với các DNVVN. Xây dựng quỹ bảo lãnh tín dụng cho các DNVVN: Tình trạng chung và các DNVVN là vốn ít, công nghệ lạc hậu, trình độ quản lý hạn chế, có dự án kinh doanh khả thi nhưng không đủ điều kiện để tiếp cận vốn tín dụng Ngân hàng mà phải vay vốn từ các nguồn phi chính thức với lãi suất cao. Vì vậy có thể Nhà nước can thiệp trong việc hỗ trợ DNVVN tiếp cận vốn tín dụng thông qua việc thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng đối với DNVVN. Đây là biện pháp để Nhà nước chia sẻ rủi ro với các NHTM, thúc đẩy nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNVVN. Mô hình hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng: Trong giai đoạn trước mắt, nước ta cần xây dựng quỹ bảo lãnh tín dụng dưới hình thức tổ chức tài chính Nhà nước. Việc xây dựng quỹ bảo lãnh tín dụng phải phù hợp với định hướng chiến lược phát triển kinh tế nói chung và đặc điểm phát triển của DNVVN nói riêng. Hệ thống quỹ bảo lãnh tín dụng cho các DNVVN cần được hình thành theo mô hình quỹ bảo lãnh tín dụng trung ương và một số Chi nhánh phân theo vùng lãnh thổ gắn liền với khu vực tập trung các DNVVN. Quỹ nên là tổ chức trung gian giữa Nhà nước và doanh nghiệp, là một định chế tài chính phi lợi nhuận nằm trong hệ thống giám sát của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Đối tượng phục vụ của quỹ bảo lãnh tín dụng: đó là các DNVVn hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại, xây dựng, giao thông, vận tải...Những DN này có dự án khả thi, có đủ điều kiện vay vốn các NHTM nhưng chưa có đủ giá trị tài sản thế chấp, cầm cố. Quỹ bảo lãnh cho các DN mới thành lập cũng như đang hoạt động kinh doanh, quỹ sử dụng nguồn vốn của mình để bảo lãnh cho các món vay ngắn hạn, trung và dài hạn. - Nguyên tắc và mức bảo lãnh: Quỹ chỉ cấp bảo lãnh cho DNVVN có dự án khả thi đã được tổ chức tín dụng thẩm định là có hiệu quả nhưng chủ đầu tư không đủ tài sản thế chấp; cấp bảo lãnh thực hiện theo cơ chế cộng đồng trách nhiệm và phân chia rủi ro. Điều đó có nghĩa là trong quan hệ vay vốn, Doanh nghiệp phải có tổi thiểu 20% vốn tự có cho dự án, Quỹ chỉ bảo lãnh cho 80% còn lại. Khi DN không trả được nợ Ngân hàng thì quỹ thanh toán nợ cho DN bằng 70% số tiền cam kết bảo lãnh còn Ngân hàng chịu rủi ro 30%. Điều kiện được nhận bảo lãnh: DNVVN thành lập và hoạt động theo pháp luật Việt Nam, có dự án khả thi, tình hình tài chính lành mạnh không có nợ đọng về thuế, không có nợ quá hạn tại các tổ chức tín dụng và các tổ chức kinh tế khác. DN phải nộp phí bảo lãnh tính trên số dư nợ thực tế của khoản vay được bảo lãnh. Mức bảo lãnh cho một khách hàng là không qua 500 triệu đồng đối với quỹ bảo lãnh trung ương và không qua 300 triệu dồng đối với quỹ bảo lãnh dịa phương. Quỹ bảo lãnh tín dụng ra đời và hoạt động thì đây là một biện pháp của Chính phủ thực hiện chính sách hỗ trợ giúp các DNVVN tháo gỡ khó khăn vướng mắc về vấn đề đòi hỏi phải có đủ giá trị tài sản thế chấp, cầm cố đồng thời cũng tạo điều kiện cho các Ngân hàng phát huy thế mạnh về vốn của mình, mở rộng tín dụng và giảm tỷ lệ rủi ro đối với DNVVN. 3.3.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước Trung tâm thông tin của Ngân hàng Nhà nước cần cung cấp các thông tin về sức mạnh tài chính, tình hình kinh doanh, hệ số an toàn vốn, quan hệ tín dụng của khách hàng với các tổ chức tín dụng, với các doanh nghiệp khác...một cách chính xác và nhanh chóng. Những thông tin này là cơ sở để Ngân hàng sử dụng trong quá trình thẩm định DN vay vốn. Ngân hàng Nhà nước cần đóng vai trò nhà quản lý vĩ mô, đưa ra những chiến lược, định hướng mang tính khái quát và chung nhất cho các NHTM. Những điều chỉnh trong chính sách lãi suất, tỷ giá, dự trữ bắt buộc...định hướng về ngành mũi nhọn cần đầu tư hay vùng kinh tế tiềm năng có ảnh hưởng mạnh tới môi trường kinh doanh của các Ngân hàng. Do vậy, phải được đưa ra kịp thời, tính toán hết sức kỹ lưỡng. Song những quy định quá chi tiết và cụ thể sẽ không những không phát huy được vai trò quản lý của NHNN mà còn gây khó khăn trong hoạt động của các NHTM. Vì mỗi Ngân hàng sẽ có những đặc điểm riêng về vị trí địa lý, định hướng hoạt động, các hình thức kinh doanh chính...cũng như nguồn vốn và trình độ nghiệp vụ. Có sự khác biệt như vậy nên không thể thống nhất trong các quy định chi tiết chung. NHNN thực hiên việc quản lý và giám sát chặt chẽ hoạt động của các NHTM song cũng cần đảm bảo tính độc lập tự chủ, để các NHTM mềm dẻo linh hoạt thích nghi với thị trường. Trong quá trình ban hành các văn bản chế độ chính sách, Ngân hàng Nhà nước nên căn cứ trên bài học kinh nghiệm của các nước phát triển khác, những lỗ hổng trong các văn bản để xây dựng và sửa đổi cho kịp thời, đáp ứng nhu cầu thực tiễn như các quy định về điều kiện vay vốn, tài sản dảm bảo tiền vay... Bên cạnh đó cũng cần có văn bản hướng dẫn thực hiện, có bộ phận kiểm tra để ngăn chặn những sai phạm, để chấn chỉnh kịp thời cũng như phát hiện những điều không phù hợp trong chính sách, quy định để kịp thời sửa đổi. Công tác thanh tra, kiểm tra cần được đổi mới để đơn giản hơn, bớt tốn kém nhân lực, chi phí và thời gian như hiện nay mà vẫn hiệu quả. Như đào tạo chuyên môn nghiệp vụ cho các thanh tra viên thường xuyên, hạn chế thủ tục tiếp đón tốn kém lãng phí, ứng dụng công nghệ hiện đại vào công tác kiểm tra cho nhánh chóng, hiệu quả. Ngân hàng Nhà nước nên có chính sách phối hợp với các cơ quan nghiên cứu, trường Đại học và các Viện có uy tín trong nước soạn thảo chương trình bổ túc kiến thức về nghiệp vụ, kinh tế, chính trị xã hội, công nghệ thông tin... để đội ngũ cán bộ Ngân hàng có điều kiện trau dồi và tiếp nhận các kiến thức mới. Trình độ kiến thức, tư tưởng của cán bộ nhân viên Ngân hàng có được nâng lên thì mới có khả năng vận dụng chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước một cách đúng đắn và nhanh chóng. Đặc biệt trong thời đại thông tin như ngày nay, nhân viên ngành Ngân hàng càng cần có kiến thức tổng hợp để hoàn thành nhiêm vụ được giao, vươn lên và tránh tụt hậu quá xa so với khu vực và thế giới. 3.3.3. Kiến nghị đối với NHNNo&PTNT Việt Nam NHNNo&PTNT Việt Nam nên thành lập ban DNVVN tại Hội sở chính và các phòng DNVVN tại Chi nhánh và giao cho các phòng ban này nhiệm vụ cung cấp dịch vụ Ngân hàng cho các DNVVN như là các khách hàng bán lẻ. Ban DNVVN tại Hội sở chính sẽ có trách nhiệm báo cáo với một Phó tổng giám đốc. Ban này sẽ có những chức năng cơ bản tương tự như những ban khác tại Hội sở chính như chịu trách nhiệm xây dựng chính sách và thủ tục cho DNVVN, xây dựng kế hoạch và dự toán ngân sách hàng năm của ban, quản lý về phát triển nhân sự của ban, tham gia các kháo đào tạo của NHNNo & PTNT VN, báo cáo khi được yêu cầu. Ngoài ra, ban này có các chức năng liên quan đến đối tượng khách hàng DNVVN, cụ thể là: - Tham gia vào việc thiết kế và cập nhật sản phẩm mới cho DNVVN. - Thụ lý và thẩm định các khoản cho vay, bảo lãnh đối với DNVVN vượt quá quyền hạn phê duyệt của Chi nhánh. - Tham gia vào tìm kiếm vào nguồn vốn từ bên ngoài để cho vay theo hạn mức tín dụng cho các DNVVN. Tổ chức thực hiện, giám sát kiểm tra và báo cáo về việc thực hiện hạn mức tín dụng. - Giám sát việc thực hiện các chính sách và thủ tục liên quan đến đối tượng khách hàng vừa và nhỏ tại tất cả các đơn vị của NHNNo&PTNT và đề xuất các biện pháp xử lý hoặc khắc phục trong trường hợp không tuân thủ. - Định kỳ và đột xuất xem xét lại hoạt động kinh doanh và tình hình tài chính của các Doanh nghiệp vừa và nhỏ. Phòng khách hàng DNVVN sẽ được thành lập các Chi nhánh, sẽ cung cấp tất cả các sản phẩm, dịch vụ của NHNNo&PTNT dành cho DNVVN. Trong thời gian đầu mô hình này cần được thực hiện thí điểm tại ít nhất 2 Chi nhánh trong vòng 8 tháng. Trong 8 tháng này NHNNo&PTNT sẽ thực hiện đánh giá thường xuyên hoạt động kinh doanh đối với DNVVN, hoàn thiện các quy trình và chuẩn bị cho việc thành lập Phòng DNVVN tại tất cả các Chi nhánh. Phòng có trách nhiệm báo cáo với lãnh đạo Chi nhánh và Ban DNVVN tại Hội sở chính. ở cấp Chi nhánh, phòng có trách nhiệm sau: - Giới thiệu tất cả các sản phẩm và dịch vụ phục vụ DNVVN cho khách hàng hiện có và khách hàng tiềm năng của NHNNo&PTNT Việt Nam. - Chuẩn bị và đề xuất cấp tín dụng ( và bảo lãnh ) cho DNVVN trình cấp có thẩm quyền phê duyệt. - Thực hiện các hợp đồng tín dụng, bảo lãnh đã được phê duyệt với khách hàng DNVVN. Thu hồi nợ tín dụng của DNVVN. Để thực hiện hoạt động kinh doanh với khách hàng DNVVN một cách thận trọng, NHNNo & PTNT VN cần đảm bảo sự tách biệt hợp lý giữa các chức năng thương mại ( cấp Chi nhánh gồm có nhân viên quầy giao dịch và cán bộ phòng DNVVN ), quản lý rủi ro và các hoạt động quản lý khoản cho vay. Các chức năng quản lý rủi ro và quản lý khoản cho vay trình bày sau đây áp dụng đối với toàn bộ hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, việc đề cập cụ thể ở đây là để làm rõ hơn chức năng của phòng DNVVN. Đối với quản lý rủi ro, những chức năng sau nếu liên quan đến DNVVN cần được gắn kết với hoạt động của Hội sở chính và báo cáo với Phó tổng giám chịu trách nhiệm về quản lý rủi ro và giám sát tín dụng. Nghiên cứu và đề xuất các chính sách, thủ tục thực hiện tín dụng, quản lý rủi ro hoạt động và rủi ro thị trường, quản lý tài sản và các khoản nợ không sinh lời ( cho DNVVN ), phối hợp với các phòng ban khác. Xây dựng và thực hiện xếp hạng rủi ro và các hệ thống, công cụ quản lý rủi ro khác như quản lý danh mục, báo cáo về rủi ro, hệ thống thông tin quản lý tín dụng. Xây dựng và đề xuất các giới hạn rủi ro. Định giá khoản cho vay. Giám sát danh mục cho vay đối với DNVVN của Ngân hàng để đảm bảo quản lý tập trung, xác định những chỗ có vấn đề và những rủi ro mới. Kết hợp thu thập và cung cấp thông tin tín dụng đối với DNVVN cho các đơn vị kinh doanh và các cán bộ quản lý danh mục tín dụng. Hỗ trợ kinh doanh trong việc xác định và giải quyết các khoản cho vay có vấn đề đối với DNVVN. Về quản lý khoản cho vay, những chức năng sau nếu liên qaun đến các DNVVN cần được gắn kết với hoạt động của Hội sở chính và báo cáo với Phó tổng giám đốc chịu trách nhiệm về giám sát hoạt động. Xây dựng hạn mức cho vay. Đăng ký và lưu giữ an toàn các tài liệu gốc và tài sản thế chấp. Bảo quản tài liệu và nhật ký tài sản thế chấp. Xác định giá trị giới hạn giải ngân khoản cho vay. Xây dựng báo cáo về vượt hạn mức hàng ngày. Phát lệnh yêu cầu hoàn trả khoản vay. Kết luận Chi nhánh Đông Hà Nội là Chi nhánh cấp 1 thuộc NHNNo & PTNT Việt Nam – một trong bốn Ngân hàng quốc doanh lớn cảu nước ta. Tuy mới thành lập nhưng Chi nhánh đã đạt được kết quả kinh doanh rất đáng khích lệ, các chỉ tiêu đềuc so tốc độ tăng trưởng cao.Đặc biệt với định hướng đúng đắn là mở rộng quy mô gắn liền nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNVVN, Chi nhánh đã thiết lập quan hệ tín dụng rộng rãi với khách hàng này. Doanh nghiệp vừa và nhỏ ngày càng có vai trò quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước. Sự tồn tại và phát triển của loại hình Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan. Đây cũng là định hướng phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước ta trong điều kiện hội nhập khu vực và toàn cầu hóa. Vì vậy, nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNVVN là một việc làm hết sức cần thiết, là động lực khuyến khích các DNVVN mạnh dạn đầu tư. sản xuất kinh dianh mang lại hiệu quả cho bản thân Doanh nghiệp và toàn xã hội. Trên cơ sở tổng hợp các số liệu, tài liệu có liên quan và quan sát thực tế, chuyên đề đã hoàn thành các nội dung cơ bản sau: Khái quát và làm rõ vai trò, vị trí của DNVVN đối với sự phát triển kinh tế ở Việt Nam. Tầm quan trọng của tín dụng Ngân hàng tới DNVVN và các vấn đề cơ bản về chất lượng tín dụng nói chung. Giới thiệu tình hình kinh doanh của Chi nhánh Đông Hà Nội và thực trạng chất lượng tín dụng đối với DNVVN. Rút ra những kết quả tích cực và nguyên nhân gây ra các hạn chế trong chất lượng tín dụng đối với DNVVN. Mạnh dạn đề xuất một số giải pháp và kiến nghị. Đề tài của chuyên đề thực tập này là một vấn đề lớn và phức tạp. Do vậy, chuyên đề khó tránh khỏi những mặt còn hạn chế, thiếu sót cần được bổ sung cho phù hợp với thực tiễn. Em rất mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp quý báu của các thày cô giáo và các ban để dề tài hoàn thiện hơn. Lời mở đầu 1 Chương 1 3 Chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của Ngân Hàng Thương Mại 3 1.1 Tín dụng ngân hàng đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ 3 1.1.1 Vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với sự phát triển của nền kinh tế 3 1.1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của Doanh nghiệp vừa và nhỏ 3 1.1.1.2 Vai trò của các Doanh nghiệp vừa và nhỏ 7 1.1.2 Một số vấn đề cơ bản về tín dụng Ngân hàng 10 1.1.2.1 Khái niệm về tín dụng Ngân hàng 10 1.1.2.2 Phân loại tín dụng Ngân hàng 11 1.1.3 Tầm quan trọng của tín dụng tới doanh nghiệp vừa và nhỏ 13 1.2 Chất lượng tín dụng của Ngân hàng thương mại đối với các DN vừa và nhỏ 17 1.2.1 Quan niệm về chất lượng tín dụng 17 1.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng đối với các DNVVN 18 1.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng đối với các DNVVN 23 1.2.3.1 Nhân tố từ phía Ngân hàng 23 1.2.3.2 Nhân tố từ phía khách hàng 26 1.2.3.3 Nhân tố từ phía nền kinh tế xã hội 27 Chương 2 29 Thực trạng chất lượng tín dụng đối với 29 doanh nghiệp vừa và nhỏ ở chi nhánh 29 NHNNo & PTNT Đông Hà Nội 29 2.1 Giới thiệu chung về chi nhánh NHNNo & PTNT Đông Hà Nội 29 2.1.1 Chức năng và nhiệm vụ của chi nhánh 29 2.1.2 Bộ máy tổ chức điều hành tại Đông Hà Nội 32 2.1.3 Tình hình hoạt động kinh doanh tại Chi nhánh Đông Hà Nội 36 2.2 Thực trạng chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh Đông Hà Nội 41 2.2.1 Những quy định chung về tín dụng đối với DNVVN ở Chi nhánh 41 2.2.2 Thực trạng chất lượng tín dụng đối với DNVVN tại Chi nhánh Đông Hà Nội những năm gần đây 46 2.3 Đánh giá thực trạng chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Chi nhánh 53 2.3.1 Những kết quả đạt được 53 2.3.2 Hạn chế và nguyên nhân 55 2.3.2.1 Một số mặt hạn chế trong tín dụng đối với DNVVN tại Chi nhánh 55 2.3.2.2 Nguyên nhân chủ yếu làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng đối với DNVVN 56 Chương 3 64 Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại 64 Chi nhánh NHNno & PTNT Đông Hà Nội. 64 3.1 Định hướng hoạt động tín dụng đối với các DNVVN tại Chi nhánh Đông Hà Nội 64 3.2 Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNVVN tại Chi nhánh 66 3.2.1 Tăng cường khai thác những nguồn vốn có chi phí thấp 66 3.2.2 Nâng cao chất lượng công tác thẩm định 67 3.2.3 Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát tiền vay 68 3.2.4 Xử lý kịp thời nợ quá hạn 69 3.2.5 Trích lập quỹ bù đắp rủi ro 69 3.2.6 Nâng cao chất lượng nhân sự 70 3.2.7. Đa dạng hoá các hình thức tín dụng 71 3.2.8 Tăng cường công tác tư vấn cho Doanh nghiệp vay vốn 72 3.2.9 Mở rộng Marketing Ngân hàng để thu hút thêm nhiều khách hàng 73 3.3 Một số kiến nghị đối với cơ quan Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước và NHNo & PTNT Việt Nam 74 3.3.1. Kiến nghị đối với cơ quan Nhà nước 74 3.3.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước 76 3.3.3. Kiến nghị đối với NHNNo&PTNT Việt Nam 78 Kết luận 81 Tài liệu tham khảo Giáo trình Ngân hàng thương mại – Phan Thị Thu Hà- Đại học Kinh tế quốc dân. Sổ tay tín dụng của NHNNo & PTNT Việt Nam tháng 7/2004. Cẩm nang tín dụng của NHNNo & PTNT Việt Nam 2001. Báo cáo kết quả kinh doanh, kết quả tín dụng năm 2004 của Chi nhánh NHNNo & PTNT Đông Hà Nội. Chính sách hỗ trợ và phát triển DNVVN ở Việt nam – dự án kỷ yếu kế hoạch, kết quả giai đoạn 1 Học viện chính trị Quốc Gia Hồ Chí Minh- Hà Nội tháng1/1996. Vốn tín dụng Ngân hàng đầu tư cho phát triển kinh tế ngoài quốc doanh – Tạp chí phát triển kinh tế số 126, tháng 04/2001 – Nguyễn Đắc Hưng. Niên giám thống kê 1998 – NXB Thống kê. Kinh nghiệm phát triển DNVVN ở Mỹ – Tạp chí NCKT, số 6/1995 Nguyễn Tố Uyên. Một số vấn đề trong chính sách quản lý các DNVVN ở nước ta hiện nay – Tạp chí NCKT , số 3/1996 – Trần Ngọc Ngoạn. Phát triển SME trong quá trình công nghiệp hoá ở Việt nam – Tạp chí NCKT số 246 tháng 1/1999 – Dương Bá Phượng.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc4713.doc
Tài liệu liên quan