Đề tài Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất kinh doanh tại Chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Huyện Phù Cừ

NHNN trên địa bàn tỉnh cần nắm vững phương hướng nhiệm vụ và mục tiêu phát triển kinh tế của tỉnh nhà, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội của toàn tỉnh, những ngành kinh tế mũi nhọn để tư vấn cho các TCTD trên địa bàn để đầu tư cho các dự án định hướng phát huy được hiệu quả vốn tín dụng và đảm bảo thu hồi vốn đúng hạn. Thực hiện công tác Thanh tra, kiểm tra tại chỗ cũng như giám sát từ xa đối với hoạt động của các TCTD trên địa bàn nhằm ngăn chặn tình trạng cạnh tranh thiếu lành mạnh của các TCTD, mặt khác ngăn chặn cán bộ tín dụng thực hiện sai các văn bản chế độ cũng như quy trình nghiệp vụ cho vay . góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của ngành Ngân hàng trên toàn tỉnh.

doc66 trang | Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1226 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất kinh doanh tại Chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Huyện Phù Cừ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
heo số lượng các món vay chứ không quan tâm đến chất lượng các khoản vay. 2.2.2.3.3. Doanh số thu nợ hộ sản xuất. D.Số thu nợ hộ sản xuất = D.Số thu nợ HSX x 100(%) D.Số cho vay HSX D.Số thu nợ HSX năm 2001= 23.397 x 100(%) = 84% 27.668 Tương tự ta tính được doanh số thu nợ HSX năm 2002,2003 là 67%, 76% Ta thấy tỷ lệ doanh số thu nợ hộ sản xuất giữa các năm tăng, giảm không đồng đều năm 2001 tỷ lệ này là 84% nhưng năm 2002 tỷ lệ này giảm xuống còn 67% nhưng đến năm 2003 tỷ lệ này lại tăng nên là 76%. Từ sự tăng giảm tỷ lệ này cho ta thấy Ngân hàng này đang có su thế chuyển từ vốn ngắn hạn sang vốn trung và dài hạn, đây cũng là một điều dễ hiểu đối với một Ngân hàng ở nông thôn hoạt động lấy nông dân là khách hàng chủ yếu, Vì hộ sản xuất chủ yếu vay để đầu tư chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi và đa dạng hoá sản phẩm trong nông nghiệp cần có thời gian nên phải cần vốn đầu tư từ 3-5 năm. Tuy nhiên Ngân hàng nay cũng cần phải xem xét một tỷ lệ hợp lý giữa cho vay ngắn hạn và cho vay trung và dài hạn vì nếu cho vay trung và dài hạn nhiều thì sẽ dẫn tới vòng quay vốn tín dụng bị giảm sút dẫn tới chất lượng tín dụng bị giảm sút, nếu cho vay quá nhiều vốn trung và dài hạn thì Ngân hàng sẽ gặp phải khó khăn khi cần vốn để chi trả sẽ dẫn tới mất khả năng thanh toán hơn thế nữa vốn trung và dài hạn thường kéo dài do đó rủi ro trong hoạt động tín dụng sẽ cao nên sẽ dẫn tới khả năng mất vốn cao. 2.3. đánh giá chất lượng tín dụng tại chi nhánh NHNO&PTNT Huyện Phù Cừ tỉnh hưng yên. 2.3.1. Kết quả đạt được. Trong những năm qua, Chi nhánh luôn cố gắng để mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng đối với hộ sản xuất để vừa tăng lợi nhuận mà vẫn bảo toàn vốn. Doanh số cho vay và dư nợ tín dụng hộ sản xuất tăng đều đặn cả về số tương đối lẫn số tuyệt đối qua các năm. Nợ quá hạn hộ sản xuất ngày càng chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng dư nợ hộ sản xuất. Cùng với thời gian, cơ cấu nguồn vốn cũng phong phú, đa dạng và ổn định hơn với doanh số cao hơn đã, đang và sẽ đáp ứng đầy đủ kịp thời nhu cầu về vốn sản xuất kinh doanh của các hộ, góp phần đáng kể vào việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi trong huyện, xoá bỏ tình trạng độc canh, làm tiền đề thuận lợi cho phát triển kinh tế địa phương, hạn chế đến mức tối đa tình trạng cho vay nặng lãi cũng như các tệ nạn xã hội khác trong nông thôn. Đạt được những thành công trên là do có sự đóng góp của tất cả các bộ phận trong cơ quan cũng như những chính sách liên quan đến tín dụng hộ sản xuất được hoàn thiện hơn trong thực tế. Cụ thể: Về dư nợ. Dư nợ được xem là chỉ tiêu cơ bản nhất để đánh giá quy mô tín dụng của một Ngân hàng. Một Ngân hàng có dư nợ bình quân thời kỳ cao có nghĩa là trong thời kỳ đó Ngân hàng có mức cho vay cao và là một dấu hiệu cho thấy Ngân hàng có một khoản thu nhập lớn trong tương lai. Cùng với thời gian, doanh số cho vay tăng lên nên dư nợ hộ sản xuất trong huyện cũng ngày càng tăng cả về số tương đối lẫn số tuyệt đối. Về dư nợ Ngân hàng No&PTNT Huyện Phù cừ tăng đều qua các năm kể cả về số tương đối đến số tuyệt đối. Đạt được kết qủa này là do trong những năm qua chi nhánh đã tích cực tuyên truyền quảng bá về chính sách tín dụng đối với hộ sản xuất giúp họ hiểu và tiếp cận được vốn vay Ngân hàng, bàn giao chỉ tiêu cho cán bộ tín dụng ngay từ đầu năm, đồng thời chi nhánh cũng bám sát chỉ tiêu kế hoạch được giao, căn cứ vào tình hình thực tế tại địa phương, công tác chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi của huyện để mở rộng cho vay để phục vụ sản xuất cho phù hợp. Về nợ quá hạn. Song song với công tác cho vay chi nhánh cũng quan tâm đến khả năng giả nợ của khách hàng, hàng thàng hàng quý chi nhánh thường xuyên sàng lọc đánh giá khách hàng cho nên nợ quá hạn của chi nhánh tăng về tỷ lệ tuyệt đối còn tỷ lệ tương đối đã có su hướng giảm qua các năm. Đạt được kết quả này là do: Ngân hàng đã thường xuyên rà soát, sàng lọc, phân tích chất lượng các món vay, theo dõi chặt chẽ quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng thông qua tổ vay vốn, cán bộ quản lý các cơ quan cũng như sự giám sát đầy tinh thần trách nhiệm của CBTD; áp dụng các chế tài tín dụng kiên quyết xử lý tài sản bảo đảm tiền vay, phối hợp với các cơ quan tổ chức để tận thu các khoản nợ khó đòi. Về quản trị Ngân hàng. Chi nhánh đã xác định mục tiêu và giải pháp thực hiện đúng đắn, phù hợp với chiến lược phát triển kinh doanh và dự phòng rủi ro của NHNN và hệ thống NHNo&PTNT; coi trọng công tác huy động vốn đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn huy động tại địa phương, tạo thế ổn định. Vì vậy, Chi nhánh đã phần nào thỏa mãn được nhu cầu tín dụng của khách hàng cả về quy mô và kỳ hạn và giảm thiểu được rủi ro. Về điều hành. Chi nhánh luôn bám sát thực tế, xử lý nhanh nhạy các tình huống phát sinh trong kinh doanh, đảm bảo tập trung thống nhất, đồng thời tăng cường phân cấp, uỷ quyền để phát huy tính chủ động sáng tạo của cán bộ tín dụng; kiên quyết trích lập dự phòng rủi ro; tăng cường công tác kiểm tra kiểm soát nội bộ, coi trọng công tác thi đua khen thưởng, đẩy mạnh công tác tuyên truyền. Chi nhánh luôn quan tâm đến việc bồi dưỡng và đào tạo đội ngũ CBTD phụ trách hộ sản xuất. Họ không chỉ đơn thuần làm công tác cấp tín dụng mà còn có khả năng tư vấn và định hướng giúp các hộ về giống, phân bón, ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất nhằm sử dụng đồng vốn có hiệu quả nhất. Bên cạnh đó, Chi nhánh cũng rất chú trọng đến việc đầu tư áp dụng công nghệ tin học hiện đại trong công tác tín dụng, đã góp phần cung cấp thông tin tín dụng chất lượng cao làm cho khách hàng tin tưởng đồng thời nâng cao được chất lượng tín dụng. Trong những năm qua, quan hệ với cấp uỷ chính quyền, các ngành hữu quan ở các cấp và các cơ quan thông tin đại chúng cũng được Ngân hàng chú trọng và tăng cường. Đặc biệt chương trình phối hợp giữa Hội Nông dân và NHNo&PTNT Huyện Phù Cừ ngày càng được mở rộng với các nội dung phong phú thiết thực và hiệu quả cao hơn. Ngoài việc phối hợp đầu tư vốn tín dụng phục vụ sản xuất kinh doanh cho một số cây trồng truyền thống như nhãn, vải hai đơn vị còn phối hợp triển khai các chương trình chăn nuôi bò sữa lai sind; nuôi trồng thuỷ sản như ba ba, cá chim trắng, trê lai; nuôi lợn siêu nạc. Ngoài ra, Ngân hàng tỉnh đã ký kết văn bản phối hợp liên ngành với các hội: hội nông dân, hội phụ nữ, hội cựu chiến binh, đoàn thanh niên mở ra hình thức cho vay mới thông qua tổ vay vốn. Dựa vào các văn bản này, NHNo&PTNT Huyện Phù Cừ đã kịp thời xây dựng một loạt tổ vay vốn tại các thôn xã trong huyện. Tuy là một chủ trương chung có sự chỉ đạo của Tỉnh nhưng Chi nhánh đã vận dụng một cách sáng tạo chủ trương trên vào hoàn cảnh thực tế của Huyện nên chỉ trong một năm đã họp và thành lập được 95 tổ vay vốn tại khắp 14 thôn xã trong huyện. Chi nhánh đã có chính sách linh hoạt cho từng đối tượng, đa dạng hoá phương thức cho vay. Chi nhánh cố gắng tạo điều kiện tốt nhất cho những hộ có nhu cầu tiếp cận với vốn vay Ngân hàng. Cán bộ tín dụng luôn gần gũi với các hộ sản xuất trong huyện, quan tâm đến những vướng mắc của hộ trong việc vay vốn Ngân hàng để kịp thời tham mưu với cấp trên giải quyết nhanh đáp ứng nhu cầu vay vốn của hộ. Nhờ đó tín dụng hộ sản xuất tại Chi nhánh được mở rộng về quy mô và hạn chế những khoản nợ xấu. Ngoài ra đạt được những thành tựu trên còn do Chi nhánh đã áp dụng phương thức chuyển tải vốn đến hộ sản xuất thích hợp trong từng giai đoạn, phù hợp với từng gia đình thông qua tổ vay vốn, nhờ đó đã góp phần giảm được tình trạng quá tải của cán bộ tín dụng. Tổ vay vốn có trách nhiệm nhận và hướng dẫn việc lập hồ sơ vay vốn, tổ chức bình xét nhu cầu vay vốn của từng thành viên đồng thời kiểm tra giám sát việc sử dụng tiền vay đúng mục đích, đôn đốc các thành viên trong tổ trả nợ gốc và lãi tiền vay cho Ngân hàng đúng hạn, cùng phối hợp với Ngân hàng xử lý các thành viên trong tổ vi phạm các quy định tín dụng của Ngân hàng. Nhìn chung phương thức chuyển tải này tương đối phù hợp với điều kiện hoạt động tại khu vực nông nghiệp, nông thôn. Thông qua việc chuyển tải vốn đến hộ qua tổ đã thúc đẩy được phong trào hợp tác hoá trong sản xuất kết hợp với việc chuyển giao kỹ thuật làm sống dậy tinh thần đoàn kết trong cộng đồng dân cư, góp phần phát triển thúc đẩy hình thành các tổ hợp tác mới và từng bước hoàn thiện mô hình hợp tác trong sản xuất nông nghiệp. 2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân. Song song với những kết quả đạt được, Chi nhánh NHNo&PTNT Huyện Phù Cừ đã và đang đứng trước những khó khăn rất lớn trong việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất. Một là, nguồn vốn hoạt động chưa đa dạng. Nguồn vốn tích luỹ trong nền kinh tế còn nhiều nhưng khả năng huy động vốn của Ngân hàng còn hạn chế do chưa phong phú về hình thức huy động, hơn nữa lại bị cạnh tranh gay gắt của một số kênh huy động vốn ngoài Ngân hàng như: Quỹ tiết kiệm bưu điện, Công ty bảo hiểm, Quỹ tín dụng. Việc thanh toán không dùng tiền mặt trong dân cư trên địa bàn rất hạn chế. Mặt khác, việc cung cấp các dịch vụ thanh toán của Ngân hàng còn ít, thời gian phục vụ còn hạn chế, thường chỉ phục vụ trong giờ hành chính nên đã giảm khả năng huy động vốn của Chi nhánh.Do vậy, khối lượng vốn của Ngân hàng hiện nay còn rất nhỏ và chủ yếu là vốn ngắn hạn, trong khi đó các hộ yêu cầu vốn dài hạn để trồng cây lâu năm, trồng cây ăn quả. Hai là, đối tượng đầu tư của Ngân hàng còn hạn hẹp và chưa đáp ứng nhu cầu phát triển cao trong lĩnh vực nông nghiệp Ngoài việc đầu tư để mở rộng sản xuất cho các hộ gia đình thì vấn đề đầu tư vào cơ sở hạ tầng, đầu tư vào các ngành nghề phi nông nghiệp ở nông thôn, chuyển giao khoa học công nghệ hay vấn đề chuyển đổi giống mới chưa thực sự được Chi nhánh quan tâm cùng phối hợp với các ngành hữu quan thực hiện. Ba là, hình thức giải ngân chưa đa dạng và khoa học, còn phiền hà về thủ tục vay vốn. Có thể nói thủ tục vay vốn là sự cần thiết và không thể thiếu được trong quá trình cho vay. Tuy nhiên, thủ tục rườm rà nhiều khi đã làm nản lòng các chủ hộ. Đến thời kỳ đáo hạn, khách hàng xin vay lại, cũng dự án ấy, quy mô sản xuất và năng lực tài chính không giảm, có tín nhiệm với Ngân hàng nhưng khách hàng vẫn phải lặp lại nguyên xi hồ sơ vay vốn như những hộ mới. Cũng chính vì thủ tục rườm rà nên phù hợp với từng đối tượng khách hàng vay nhất là trong điều kiện một huyện thuần nông trình độ dân trí có hạn như Phù Cừ và gây áp lực quá tải đối với cán bộ tín dụng. Do vậy, từng lúc từng nơi Chi nhánh còn chưa đáp ứng nhu cầu vay cho các hộ một cách kịp thời đồng thời vấn đề gia hạn nợ đang trở thành thủ tục phổ biến trong cho vay hộ nông dân. Hiện nay, thủ tục vay vốn đối với hộ sản xuất gồm quá nhiều các loại giấy tờ, nội dung thông tin kinh tế quy định trên các loại giấy tờ đó quá phức tạp không phù hợp với khả năng quản lý của hộ sản xuất, nội dung thông tin thiết thực với yêu cầu của tổ chức tín dụng như: thực trạng về kết quả sản xuất kinh doanh, quy mô sản xuất của hộ, dự kiến của hộ trong mùa vụ tới thì lại không có. Bốn là, lãi suất cho vay của Ngân hàng còn cao so với tỷ suất sinh lời của ngành nông nghiệp nói chung nên nông dân còn do dự khi vay vốn. Hiện nay, tại Chi nhánh NHNo&PTNT Huyện Phù Cừ lãi suất cho vay trung hạn là 1,15%/tháng; lãi suất cho vay ngắn hạn là 1%/tháng. Mức lãi tiền vay này là cao so với mức sinh lời từ việc trồng trọt chăn nuôi vẫn còn ở phương thức canh tác đơn giản của phần đông hộ sản xuất trong huyện. Năm là, cơ chế tín dụng nông nghiệp quy định thời gian cho vay theo chu kỳ sản xuất cây trồng vật nuôi. Nhưng cần thấy rằng sản xuất nông nghiệp không mang tính ổn định, các yếu tố sản xuất đều biến động cao, nông dân lại chưa được trang bị đầy đủ kiến thức kỹ thuật ngành mình sản xuất nên dẫn đến cây trồng vật nuôi chậm phát triển. Do vậy, nếu cán bộ tín dụng tính toán cho vay quá sát theo chu kỳ sản xuất thì có khi đến hạn trả nợ nông dân chưa có được thành phẩm để bán thu hồi vốn, đó là chưa kể khâu tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp rất bấp bênh. Sáu là, Ngân hàng hiện đang đầu tư căn cứ trên đối tượng đầu tư thực tế của người sản xuất, vấn đề đầu tư chưa xác định được hiệu quả khả thi trong tương lai. Do vậy Ngân hàng sẽ gặp rủi ro cao khi thị trường tiêu thụ và giá cả có biến động mạnh vì khách hàng gặp khó khăn trong việc hoàn trả nợ vay. Hạn chế ở trên do những nguyên nhân chính sau đây. Một là, hiện tại chế độ đãi ngộ bằng lợi ích vật chất đối với cán bộ tín dụng chưa thoả đáng, trong khi trách nhiệm lại quá nặng nề và sự rủi ro trong cho vay luôn rình rập. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng nêu trên là do hiện nay quy mô của tín dụng hộ sản xuất cả về số lượng hộ vay và tổng dư nợ đều tăng, trong khi đó biên chế nói chung và số lượng cán bộ tín dụng nói chung không tăng thêm, vì thế áp lực quá tải đối với cán bộ tín dụng là điều dễ hiểu. Bình quân mỗi cán bộ tín dụng tại Ngân hàng phải quản lý khoảng 600-700 hộ (kể cả hộ nghèo), món vay lại nhỏ, phân tán trên địa bàn rộng. Một thực tế là tiền lương của cán bộ tín dụng có dư nợ ba tỷ đồng bằng tiền lương của cán bộ tín dụng có dư nợ sáu tỷ đồng. Điều đáng chú ý với tư cách là người thẩm định, một số ít cán bộ đã có những biểu hiện như bao che cho khách hàng, báo cáo với lãnh đạo những thông tin thiếu trung thực, tìm cách hợp lý hoá hồ sơ, gò ép thời gian cho vay phù hợp với tính chất nguồn vốn làm cho việc thực hiện kế hoạch trả nợ của khách hàng không phù hợp với thời hạn đã cam kết. Hai là, vấn đề kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng vốn vay của CBTD đối với hộ sản xuất trên thực tế còn mang nặng tính hình thức, thủ tục đối phó chưa đảm bảo chất lượng, cho nên hiện nay biện pháp phòng ngừa rủi ro này chưa thực sự phát huy tác dụng trong thực tế. Trong quy định hiện hành của NHNo&PTNT Việt Nam lại không quy định cụ thể: cán bộ tín dụng phải kiểm tra, giám sát kế hoạch sử dụng vốn vay khi nào? kiểm tra bao nhiêu lần trong thời gian vay vốn? Từ đó hiện tượng “kiểm tra trên giấy” vẫn xảy ra. Thực tế cho thấy trong các hồ sơ tín dụng hầu hết chỉ có một biên bản kiểm tra của cán bộ tín dụng sau khi phát tiền vay, nhưng nội dung văn bản ghi rất chung chung, sơ sài mang tính chất đối phó để không bị xử phạt vi phạm hành chính theo NĐ20/2000/NĐ-CP của Chính phủ “Về việc xử phạt vi phạm vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động Ngân hàng” mà chưa phản ánh được sát tình hình sử dụng vốn vay của hộ vay. Bên cạnh đó, đối với những hộ vay thuộc tổ vay vốn thì cán bộ tín dụng thường không thực hiện kiểm tra điển hình đối với các tổ viên như quy định của NHNo Việt Nam mà còn có tâm lý ỷ lại vào việc đôn đốc, giám sát sử dụng vốn vay của các tổ trưởng. Chính điều này cũng dẫn đến nhiều sai sót trong thực tế:cho ai vay? vay để làm gì? hiệu quả ra sao? không phải lúc nào CBTD cũng làm đúng và không phải CBTD nào cũng nắm được cụ thể. Việc điều tra phân loại hộ để nắm bắt thông tin và thực trạng đời sống, nhu cầu vay vốn để sản xuất kinh doanh của từng hộ tiến hành không đồng bộ. Kết quả điều tra chưa phản ánh thực chất tình hình hộ, nhiều khi nó được làm như một thủ tục bắt buộc khi hội viên có nhu cầu vay, do đó chưa đạt được yêu cầu đặt ra và ảnh hưởng không nhỏ đến việc giải ngân. Chương 3: những giải pháp và kiến nghị nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất tại chi nhánh NHNO&PTNT Huyện Phù Cừ Tỉnh Hưng Yên. 3.1. Định hướng của NHNO&PTNT Huyện Phù Cừ Tỉnh Hưng yên. Những năm tiếp theo là tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, hoạt động của Ngân hàng sẽ đứng trước những thuận lợi cơ bản đó là: Nền kinh tế sẽ phát triển theo hướng bền vững và ổn định, môi trường pháp lý, môi trường kinh tế xã hội sẽ tiếp tục được hoàn thiện và củng cố. Nhưng hoạt động kinh doanh của NH Nông nghiệp Huyện Phù Cừ cũng phải đối đầu với nhiều khó khăn, thử thách, nền kinh tế trên địa bàn còn nghèo, tích luỹ nội bộ thấp, hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp chưa cao. Trước những thời cơ và thử thách đó: Căn cứ vào định hướng phát triển kinh tế của tỉnh Hưng Yên, căn cứ vào định hướng mục tiêu hoạt động của NHNo VN; NHNo Huyện Phù Cừ , định hướng công tác tín dụng của NHNo Huyện Phù Cừ trong thời gian tới là: Tiếp tục mở rộng và tăng trưởng tín dụng, tập trung chỉ đạo thực hiện tốt quyết định 67 - QĐ -TTG ngày 30/4/99 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách TDNH phục vụ phát triển Nông nghiệp và nông thôn, nghiên cứu cho vay các dự án vừa và nhỏ ở trên địa bàn Nông nghiệp và nông thôn và các hợp tác xã đã chuyển đổi có đủ điều kiện nghiên cứu và xác lập thị trường đầu tư, đối tượng đầu tư phù hợp với tình hình phát triển kinh tế trước mắt và lâu dài, xây dựng chính sách chiến lược khách hàng, xác định mục tiêu, phương châm "an toàn, hiệu quả và phát triển”. Tìm mọi biện pháp nâng cao chất lượng tín dụng giải quyết một cách triệt để nợ quá hạn nhất là các khoản nợ quá hạn tồn đọng từ những năm trước đây nhằm giảm nợ quá hạn đạt mức quy định của NHNoVN không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, nâng cao tinh thần trách nhiệm trong nhiệm vụ được giao. Chấp hành nghiêm chỉnh chế độ tín dụng của NHNo VN, luôn luôn giữ gìn kỷ cương phép nứơc Từ năm 2000 hoạt động tín dụng phải thực sự có chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện đạt 2 mục tiêu cơ bản là: " Đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng tín dụng nhanh và nâng cao chất lượng tín dụng đạt hiệu quả cao". 3.2. những giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại nhno&ptnt Huyện Phù Cừ tỉnh hưng yên. 3.2.1 Chấp hành nghiêm túc quy chế cho vay. Muốn nâng cao chất lượng tín dụng thì nhất thiết phải thực hiện cho vay đúng quy trình nghiệp vụ, chấp hành chế độ tín dụng nghiêm túc, thực hiện đúng nguyên tắc tín dụng , hồ sơ cho vay phải đầy đủ đảm bảo tính pháp lý. Phải đảm bảo nghiêm ngặt quy trình cho vay, quy trình gia hạn nợ, chuyển nợ quá hạn. Đặc biệt là phải coi trọng việc thẩm định, tái thẩm định các dự án xin vay trước khi trình lãnh đạo quyết định cho vay. Chỉ đạo cán bộ tín dụng làm tốt công tác kiểm tra cụ thể: Thực hiện tốt khâu kiểm tra trước khi cho vay, làm tốt khâu này đảm bảo an toàn 50 % món vay. Trước khi cho vay cán bộ tín dụng phải nắm được tư cách pháp nhân của khách hàng, tính khả thi của dự án, năng lực quản lý kinh doanh, năng lực tài chính của khách hàng. Khả năng tiêu thụ sản phẩm, tính pháp lý của tài sản thế chấp, giá trị của tài sản thế chấp, mục đích vay có hợp pháp hay không, khả năng trả nợ của người vay ... Kiểm tra trong khi cho vay: Kiểm tra tiến độ thực hiện dự án, việc sử dụng vốn vay của khách hàn, tính hợp pháp của các hợp đồng kinh tế, hoá đơn, phiếu xuất kho ... Kiểm tra sau khi cho vay: Đây là việc làm quan trọng để đánh giá chất lượng sử dụng vốn vay của khách hàng hiệu quả dự án đầu tư, việc bảo quản tài sản thế chấp cầm cố, kế hoạch trả nợ có đúng cam kết trong hợp đồng TD . Vì vậy việc kiểm tra có thể tiến hành thường xuyên hay đột xuất để phát hiện vay vốn có sử dụng đúng mục đích hay không, có đủ vật tư đảm bảo hay không. Từ đó quyết định đầu tư tiếp hay thu hồi. Như vậy có tăng cường việc kiểm tra giúp cho cán bộ tín dụng nắm chắc được việc sử dụng vốn có khả năng thanh toán hay không và đồng thời nhắc nhở khách hàng có ý thức sử dụng vốn vay và đảm bảo việc trả nợ. Song song với việc chấp hành nghiêm túc quy chế cho vay cần phải thực hiện tốt các bảo đảm tín dụng sẽ góp phần thực hiện đảm bảo an toàn trong kinh doanh tín dụng của Ngân hàng, khi sử dụng đảm bảo trong kinh doanh thực chất là tạo ra nguồn thu nợ thứ 2 trong hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng, mặt khác nó gắn trách nhiệm của người đi vay với khoản vay nâng cao ý thức của người vay trong việc sử dụng vốn vay và hoàn trả vốn vay cho Ngân hàng. Việc sử dụng các biện pháp đảm bảo tiền vay tạo điều kiện cho việc thiết lập quan hệ tín dụng đặc biệt là những quan hệ tín dụng chứa nhiều tiềm ẩn rủi ro. Do đó thực hiện tốt đảm bảo tín dụng , Ngân hàng cần quan tâm : Lựa chọn hình thức đảm bảo cho phù hợp, chắc chắn Có cơ sở pháp lý của tài sản Trách nhiệm quản lý đối với tài sản Đánh giá giá trị tài sản phải phù hợp Thường xuyên quan tâm đến giá của tài sản Sự tồn tại của tài sản trong thời hạn làm đảm bảo tiền vay 3.2.2. Hoàn thiện công tác phân tích và hướng dẫn khách hàng lập dự án vay vốn. Lập dự án vay vốn là công đoạn đầu tiên của một quá trình cho vay cho nên công đoạn này là rất quan trọng đối với một khoản vay. Bởi vì công đoạn lập dự án vay vốn nó quyết định đến khả năng vay được vốn của khách hàng. Nếu dự án vay vốn đó là khả thi thì người đi vay mới có thể vay được vốn của Ngân hàng. Nếu quá trình lập dự án mà không tốt thì khả năng người này vay được vốn của Ngân hàng là rất khó khăn. Song song trong quá trình hướng dẫn khách hàng lập dự án vay vốn đó thì người cán bộ tín dụng phải phân tích và thẩm định xem dự án nàycó thể đem lại được lợi nhuận cho người vay được hay không. Vì nguồn thu nhập mà dự án này đem lại sẽ là nguồn trả nợ chính cho Ngân hàng và phân tích nó có quan hệ nhân quả với chất lượng tín dụng. Đánh giá tình hình khách hàng càng chính xác, chất lượng tín dụng càng cao bởi vì thông qua đánh giá tổ chức tín dụng sẽ lượng định được mức độ rủi ro trong quá trình cho vay để có các biện pháp sử lý kịp thời nhằm hạn chế tới mức tối đa vốn bị thất thoát. yêu cầu của công tác phân tích là đánh giá tình hình khách hàng và chuẩn đoán được khả năng trả nợ của khách hàng theo những chỉ tiêu sau. 3.2.3.1. Phân tích vốn tự có của hộ tham gia vào dự án. Vốn tự có của hộ có thể là bằng tiền, bằng hiện vật . . Đối với những hộ sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp thì vốn tự có chủ yếu là sức lao động, còn các hộ sản xuất ngành nghề và kinh doanh dịch vụ, thương mại thì vốn tự có chủ yếu là phương tiện sản xuất , tiền mặt, tỷ lệ vốn tự có của hộ tham gia vào dự án, phương án sản xuất kinh doanh càng lớn thì mức độ an toàn vốn cho vay của Ngân hàng càng cao, vì khi có mọi dự định và cách thức cũng như quá trình tiến hành thực hiện dự án của hộ sẽ được tính toán một cách kỹ lưỡng, thận trọng hơn, nội dung này là một trong các chỉ tiêu quan trọng giúp cho cán bộ tín dụng xác định mức cho vay hợp lý, bởi trên thực tế cho thấy hầu hết các phương án, dự án thì hiệu quả sử dụng vốn đều không cao, khả năng trả nợ đúng hạn sẽ gặp nhiều khó khăn, cá biệt còn có những khoản rủi ro khó thu hồi. 3.2.3.2. Xác định tài sản hiện có của hộ. Tài sản hiện có của hộ cũng là nội dung cần thiết khi thẩm định cho vay, bởi vì thông qua thẩm định nhằm đánh giá thực lực kinh tế hiện có của hộ, thông qua đó cán bộ tín dụng có thể phân loại và xếp hộ theo tiêu thức hộ giàu, hộ khá, hộ trung bình, hộ nghèo, từ đó xác định mức cho vay hợp lý và có thái độ xử lý đúng đắn. Ngoài ra các tài sản này sẽ là nguồn trả nợ bổ sung của hộ vay trong những trường hợp phương án, dự án sản xuất kinh doanh của hộ gặp rủi ro. 3.2.3. Nâng cấp hệ thống thu thập và xử lý thông tin cho hoạt động TD Trong kinh doanh nhất là kinh doanh tiền tệ cần phải có nhiều thông tin. Nếu thiếu thông tin thì chẳng khác nào đi trong bóng tối. Vì vậy việc tổ chức thu thập thông tin và xử lý thông tin là rất quan trọng. Khi cho bất cứ một đối tượng nào vay thì cần phải có thông tin về đối tượng đó. Cho nên NHNo Huyện Phù Cừ cần tăng cường trang thiết bị để hiện đại hoá hệ thống công nghệ thông tin, nâng cao trình độ, khả năng tiếp nhận và xử lý thông tin của đội ngũ cán bộ tín dụng , khuyến khích CBTD tự hoàn thiện và nâng cao kiến thức của mình về chuyên môn cũng như ngoài chuyên môn, để có thể nắm bắt và xử lý thông tin một cách nhạy bén phục vụ cho công tác của mình. Tổ chức tốt việc tiếp thị, phân tích khách hàng, giám sát chặt chẽ quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng. Hoạt động tín dụng muốn đạt hiệu quả cao, an toàn thì cần phải có hệ thống thông tin hữu hiệu phục vụ cho công tác kinh doanh để nắm bắt đưa ra quyết định cho vay đúng đắn. 3.2.4. Tăng cường công tác kiểm soát nội bộ hoạt động tín dụng. Công tác kiểm soát nội bộ có vai trò quan trọng trong quản trị điều hành của các Ngân hàng , trong điều kiện kinh doanh đa dạng, cạnh tranh quyết liệt môi trường kinh doanh phức tạp, trình độ cán bộ còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu hiện nay. Vì vậy Ngân hàng cần phải tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ hoạt động tín dụng . Đặc biệt là kiểm tra chấn chỉnh việc chấp hành quy trình nghiệp vụ cho vay, hồ sơ cho vay có đầy đủ đảm bảo tính pháp lý hay không và kiểm tra đảm bảo tiền vay ... Kiểm soát cụ thể trên các mặt: Kiểm tra việc chấp hành kế hoạch dư nợ ngắn hạn, trung dài hạn Kiểm tra hồ sơ cho vay, cần đánh giá chính xác về tính hợp lệ, hợp pháp và có đầy đủ không? đặc biệt là tính pháp lý, tính thực tiễn của những tài liệu trong hồ sơ vay vốn. Kiểm tra về thời hạn cho vay, kì hạn trả nợ, mức dư nợ được cấp Kiểm tra việc bảo quản tài sản thế chấp, cầm cố xem xét mối tương quan về mặt giá trị tài sản đảm bảo so với vốn cho vay, việc quyết toán hợp đồng tín dụng , thanh lý tài sản đảm bảo. Kiểm soát việc đảm bảo an toàn vốn vay, cần kiểm tra các điều kiện về đảm bảo an toàn tiền vay như việc thực hiện quy chế an toàn vốn, các biện pháp bảo đảm tín dụng và hạn chế rủi ro. Kiểm soát việc thực hiện kế hoạch về nợ quá hạn, nợ có vấn đề .. Ngoài ra phải kiểm tra mục đích sử dụng tiền vay và khả năng trả nợ trực tiếp ở một số khách hàng, thường xuyên đối chiếu nợ để phát hiện sai sót đề xuất với giám đốc và cán bộ tín dụng có liên quan, có hướng xử lý chỉnh xửa góp phần đảm bảo an toàn vốn cho vay ra. Để nâng cao chất lượng công tác kiểm tra kiểm soát hoạt động tín dụng NHNo Huyện Phù Cừ cần bố trí những người làm công tác kiểm tra có trình độ nghiệp vụ chuyên môn, có phẩm chất đạo đức, có năng lực kinh nghiệm trong kiểm tra. Thường xuyên cho tập huấn học tập nâng cao trình độ, kiên quyết xử lý những trường hợp vi phạm Quy trách nhiệm đối với những cá nhân thực hiện sai Quy trình dẫn đến thất thoát vốn Ngân hàng . 3.2.5. Thực hiện tốt các biện pháp ngăn ngừa, hạn chế và xử lý nợ quá hạn. Hoạt động tín dụng là hoạt động sinh lời chủ yếu của NHTM, nền kinh tế thị trường, là nơi chứa đựng nhiều rủi ro. Như vậy nợ quá hạn là điều không thể tránh khỏi đối với hoạt động kinh doanh của bất kì NHTM nào, khi nói đến chất lượng tín dụng thì phải chú ý quan tâm đến nợ quá hạn, xem nợ quá hạn chiếm tỷ trọng bao nhiêu trong tổng dư nợ từ đó phân tích nguyên nhân để đưa ra các biện pháp. Đối với NHNo Huyện Phù Cừ , tỷ lệ nợ quá hạn so với tổng dư nợ đến 31/12/2003 là 0.963%. 3.2.5.1 Biện pháp phòng ngừa và hạn chế nợ quá hạn mới. Để từng bước nâng cao chất lượng tín dụng đối với NHNo Huyện Phù Cừ thì vấn đề đầu tiên là phải ngăn chặn nợ quá hạn mới phát sinh đây là một biện pháp tích cực nhất để hạn chế nợ quá hạn gia tăng. Ngăn chặn nợ quá hạn mới bằng nhiều biện pháp trong đó có biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro. Có thực hiện tốt các biện pháp phòng ngừa thì mới giảm rủi ro trong kinh doanh hay hạn chế mức thấp nhất rủi ro có thể xẩy ra. Từ đó Ngân hàng phân tích đánh giá được nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong kinh doanh để có biện pháp hạn chế. Trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng ngăn ngừa và hạn chế rủi ro cần giải quyết tốt một số vấn đề sau. Phân tích rủi ro bằng cách đa dạng hoá các loại hình kinh doanh, cho vay phân tán khách hàng, phân loại khách hàng, rà soát lại hồ sơ, phân loại dư nợ theo nguyên nhân để có biện pháp xử lý. Để hạn chế rủi ro bản thân NH phải đánh giá chính xác về khách hàng trước khi thiết lập một quan hệ hay trước khi bỏ vốn ra, cụ thể phải nghiên cứu năng lực pháp lý của khách hàng, khả năng tài chính của khách hàng, năng lực phẩm chất của người điều hành, năng lực kinh doanh của khách hàng. Nghiên cứu và hình thành các đảm bảo tín dụng một cách chắc chắn. + Người bảo lãnh phải có đủ điều kiện pháp lý và khả năng tài chính + Tài sản đảm bảo phải nghiên cứu theo giá cả, số lượng và chất lượng trên thị trường. + Việc lựa chọn đảm bảo phải phù hợp với tính chất khoản vay. - Phải nghiên cứu kỹ tình hình kinh tế đặc biệt là tình hình tài chính tiền tệ để xây dựng chính sách tín dụng của Ngân hàng đúng luồng. - Thu thập đầy đủ các thông tin về rủi ro của khách hàng. - Tăng cường công tác kiểm tra của Ngân hàng . - Tích cực giúp khách hàng trong việc tìm kiếm giải pháp hữu hiệu cho quá trình kinh doanh. Từ việc bán sản phẩm hàng hoá, dịch vụ thu hồi các khoản công nợ để trả nợ Ngân hàng . Nếu các khoản thu hồi có khả năng thu nhưng do nguyên nhân thu chậm là thích đáng thì có thể cho gia hạn nợ. 3.2.5.2. Biện pháp thu hồi nợ quá hạn. Để tiến hành thu hồi nợ quá hạn tốt NHNo Huyện Phù Cừ phải thường xuyên chỉ đạo cán bộ tín dụng tiến hành phân loại nợ quá hạn một cách chính xác theo nguyên nhân theo thời gian, theo khả năng thu hồi tổ chứ phân tích để đưa ra biện pháp thích hợp để thu hồi nợ quá hạn cụ thể cán bộ tín dụng bám sát khách hàng cùng UBND các xã phường để tự đôn đốc thu hồi nợ qúa hạn Tiếp tục duy chì ban chỉ đạo thu hồi nợ quá hạn nhưng cần phải có kế hoạch giao cho từng đoàn, từng cụm, giao cho từng cán bộ chịu trách nhiệm đôn đốc kiểm điểm nghiêm túc có thưởng phạt đối vào kết quả công tác của từng tháng, từng quý. Làm việc với UBND các xã phường và cơ quan nội chính để ký hợp đồng nhờ thu. Những khoản nợ khó đòi, mất khả năng thanh toán thì tiến hành xử lý theo 2 hướng: - Vận động khách hàng tự bán tài sản thế chấp để trả nợ hoặc kê biên xiết nợ để thu. - Những khách hàng chây ỳ cố tình không trả nợ lập hồ sơ khởi kiện ra toà án để thu. Biện pháp xử lý nợ quá hạn đặc biệt là xử lý nợ quá hạn có vần đề Về cơ bản khoản tín dụng (có vấn đề) là những khoản cho vay đã quá hạn ít nhất là 90 ngày mà Ngân hàng không thu hồi được, mặc dù các khoản tín dụng ( có vấn đề) tiền chất là kết quả của nhiều yếu tố nhưng về cơ bản, chúng là kết quả của sự không sẵn sàng chi trả khách hàng vay vốn hay không có khả năng thực hiện lời hứa để giảm bớt một phần hay toàn bộ nợ đã thoả thuận. Tiêu chuẩn để đánh giá sai phạm của các đơn vị, cá thể SXKD là luật pháp Nhà nước và các mục tiêu kinh tế tài chính. Tuy nhiên các tiêu chuẩn này thường được sử dụng khi đơn vị cá thể đó thực sự vi phạm pháp luật hoặc đang bị khởi tố trước pháp luật. Về phía Ngân hàng , cần nắm bắt nhanh chóng những dấu hiệu khó khăn tài chính của các đơn vị các cá thể vay vốn để có các quyết định kịp thời đối với số vốn tín dụng của mình, khi các dấu hiệu phản ánh một khoản vay có thể có vấn đề được nhận ra, biện pháp đầu tiên của cán bộ tín dụng phải thực hiện là xác định tính nghiêm trọng của vấn đề bằng các quá trình thích hợp có sự cộng tác thêm của khách hàng, Ngân hàng phải sử dụng thêm một loạt các biện pháp để ngăn ngừa, đề phòng, giảm bớt thiệt hại nếu người đi vay gặp khó khăn trong hoạt động kinh doanh khó khăn về tài chính. Đối với NHNo Huyện Phù Cừ hàng tháng, quý phải chỉ đạo bộ phận nghiệp vụ tiến hành phân tích nợ quá hạn, tìm ra nguyên nhân của khoản nợ quá hạn và khả năng thu hồi. Các cán bộ tín dụng là người đề xuất biện pháp xử lí trước, sau đó phòng kinh doanh và Ban Giám đốc nên thống nhất và đưa ra biện pháp xử lý sau đây. Đối với nợ quá hạn do nguyên nhân SXKD thua lỗ nhưng có khả năng phục hồi được sản xuất trong tương lai và còn tài sản, thái độ hoàn trả nợ của khách hàng không có ý chây ỳ thì NHNo Huyện Phù Cừ phải chỉ đạo phòng kinh doanh cùng cán bộ tín dụng áp dụng biện pháp kinh tế giúp khách hàng và tư vấn cho họ phục hồi SXKD, biện pháp này không những không đẩy khách hàng đến chỗ phá sản mà còn tạo khả năng thu hồi triệt để những khoản nợ khó đòi cho NH , đây là một biện pháp tích cực nhất và rất hợp đạo lý. Đối với nợ quá hạn do nguyên nhân thua lỗ nhưng không còn khả năng phục hồi, không còn vật tư và nợ quá hạn do chây ỳ, lừa đảo, sử dụng vốn sai mục đích kể cả còn tài sản thế chấp thì Ngân hàng cương quyết thu hồi vốn trường hợp đặc biệt khởi kiện trước pháp luật. Đối với nợ quá hạn do thiên tai, do cơ chế chính sách thì hoàn chỉnh đầy đủ hồ sơ xử lý theo thông tư 03 -LB và tập trung bán tài sản để tiếp tục xử lý nợ không thu được theo quyết định 238- HĐQT/ NHNo-VN. 3.2.6. áp dụng phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng đối với HSX Việc áp dụng phương thức cho vay từ lâu đối với các khách hàng kinh tế ngoài quốc doanh, HSX đây là những khách hàng có đặc điểm đa dạng về loaị hình, đa dạng về hình thức tổ chức sản xuất và mặt hàng kinh doanh chưa thật sự tạo thuận lợi cho những khách hàng có số vốn quay vòng thường xuyên và có tín nhiệm trong quan hệ vay trả vơí Ngân hàng . Vì vậy NHNo Huyện Phù Cừ nên mạnh dạn mở rộng việc áp dụng phương thức cho vay tối ưu nhất sao cho vừa giải quyết được vấn đề đơn giản hoá thủ tục cho vay đối với HSX. vừa giải quyết được tình trạng quá tải khối lượng công việc của cán bộ tín dụng hoạt động trên địa bàn hiện nay: Có 2 Phương thức cho vay có thế áp dụng trong cho vay HSX là cho vay từng lần và cho vay theo hạn mức, 2 phương thức này có những đặc điểm khác nhau, khác biệt về đối tượng khách hàng. Cho vay từng lần là phương thức cung ứng tiền vay thích hợp với những khách hàng chỉ có nhu cầu vay vốn tạm thời, có vốn tự có dồi dào . Cho vay theo hạn mức là phương thức thích hợp với những khách hàng SXKD ổn định tỷ trọng vốn tự có trong tổng vốn luân chuyển thấp, có nhu câu vay vốn thường xuyên. Khác biệt về đối tượng cho vay: Đối tượng cho vay theo phương thức từng lần là những vật tư, hàng hoá, chi phí có tính riêng biệt độc lập còn trong phương thức cho vay theo hạn mức đối tượng là toàn bộ nhu cầu vay vốn của người vay được coi là đối tượng tổng hợp không tách bạch từng loại vật tư, hàng hoá, chi phí. Khác biệt về mức giải ngân. Khách hàng vay theo phương thức cho vay từng lần thường phải nhận toàn bộ khoản vay một lần, mặc dù có thể chưa sử dụng hết ngày một lúc, số tiền đó vào SXKD của mình, trái lại trong phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng người vay được nhận dần tiền vay nhiều lần phù hợp với nhu cầu thực tế của mình. Khác biệt về định khoản: Trong cho vay từng lần, khoản vay được xác định theo số tiền mà NH sẽ đưa cho khách hàng vay, tức là được xác định dưới hình thức của doanh số cho vay, một lần vay được cho là kết thúc sau khi bên vay trả hết số tiền lãi, còn cho vay theo hạn mức tín dụng được định khoản bằng số dư cao nhất, không hạn chế số tiền mà khách hàng lĩnh tiền vay ra, nợ cũ chưa trả hết vẫn được vay tiếp nợ mới, nếu tổng mức dư nợ thực tế nhỏ hơn hạn mức tín dụng còn thời hạn hiệu lực Khác biệt về cách ổn định thời hạn trả nợ, thu nợ, chuyển nợ quá hạn, trong cho vay từng lần người vay phải cam kết trong hợp đồng tín dụng sẽ trả nợ vào những thời hạn cụ thể (ngày, tháng, năm) nào phải trả bao nhiêu nợ. Đến cuối ngày cụ thể đó nếu không trả đủ số nợ đã cam kết thì số nợ chưa trả được lập tức bị chuyển sang nợ quá hạn và phải chịu lãi suất phạt nợ quá hạn kể từ ngày đó đến khi trả hết nợ, thời hạn trả nợ cụ thể nói trên thường bị đặt theo chủ quan của Ngân hàng nên dễ phát sinh nợ quá hạn oan cho người vay. Ngược lại trong phương thức cho ay theo hạn mức tín dụng , bên vay không bị bắt buộc phải trả nợ vào một thời điểm cụ thể nào trong khoảng thời gian hạn mức tín dụng còn hiệu lực nhưng nếu họ tự nguyện trả thì không được từ chối. Khác biệt về thủ tục hồ sơ vay vốn: Trong cho vay từng lần thi mỗi lần vay người vay phải làm mọi thủ tục, giấy tờ theo Quy định và phải chờ qua bước thẩm định xét duyệt cho vay của Ngân hàng nên bị mất nhiều thơì gian chờ đợi và đi lại nhiều lần, còn trong cho vay theo hạn mức tín dụng thì công việc đó chỉ làm một lần đầu, những lần shận tiền tiếp theo không phải làm lại mà chỉ cần ký giấy nhận nợ với thời hạn trả nợ vào ngày còn hiệu lực cuối cùng của hạn mức tín dụng . Giữa 2 phương thức cho vay nói trên có sự khác biệt lớn về quyền và lợi ích của người vay trong cho vay từng lần, người vay ở thế bị áp đặt và chịu sự giám sát chặt chẽ của Ngân hàng , mặc dù trên danh nghĩa họ là đối tác bình đẳng trong hợp đồng tín dụng . Trong phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng giữa Ngân hàng và khách hàng có quan hệ thực sự bỉnh đẳng, người vay được thoả mãn đầy đủ, kịp thời vốn vay và được linh hoạt sử dụng tiền vay để chuyển hướng SXKD bắt kịp những cơ hội thị trường có lợi nhất, được nhận tiền vay hoặc trả nợ khi cần, nhờ đó mà tiết giảm được tiền lãi phải trả và có thể tránh được nợ quá hạn một cách máy móc của Ngân hàng . Do vậy từ những phân tích sự khác biệt trên của 2 phương thức cho vay, thì cho vay theo hạn mức tín dụng là phương pháp thích hợp nhất đối với HSX vay vốn không phải thực hiện thế chấp tài sản, phù hợp với đặc điểm và tính chất của HSX. Vì vậy NHNo Huyện Phù Cừ nên mạnh dạn mở rộng việc áp dụng phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng đối với HSX, các đơn vị, khách hàng có đặc điểm và tình hình SXKD hợp với phương thức này Thực hiện được vấn đề này chẳng những NHNo Huyện Phù Cừ tạo thêm nhiều thuận lợi cho khách hàng mà còn tạo điều kiện để vốn kinh doanh luân chuyển đều đặn qua qũy của Ngân hàng , qua đó tăng cường vai trò kiểm tra, kiểm soát tín dụng trong quá trình sử dụng vốn vay. Điều đó cũng có nghĩa là giảm bớt khoảng cách giữa vòng quay vốn lưu động của khách hàng và vòng quay vốn tín dụng của Ngân hàng góp phần nâng cao chất lượng tín dụng .Vấn đề ở đây chỉ là có những xửa đổi bổ sung trong Hợp đồng tín dụng nhằm tăng cường thế chủ động về nguồn vốn kinh doanh và yêu cầu an toàn vốn tín dụng cho Ngân hàng khi áp dụng hình thức cho vay theo hạn mức tín dụng . 3.2.7.Nâng cao vai trò của tổ vay vốn trong cho vay hộ sản xuất Điều kiện công nghệ hạn chế chưa cho phép ngân hàng có thể hoàn toàn quản lý và giám sát đến từng hộ sản xuất với các món vay nhỏ. Để tăng cường công tác quản lý và giám sát món vay thì vai trò của tổ vay vốn có ý nghĩa hết sức quan trọng. Hơn ai hết, tổ và ban quản lý tổ hiểu rõ được khả năng của từng thành viên trong tổ. Nếu trong tổ có một thành viên nào không trả được nợ thì các thành viên khác sẽ không được vay vốn tiếp. Điều này sẽ làm cho các thành viên trong tổ theo dõi nhau chặt chẽ hơn, quan tâm đến công việc của nhau hơn và truyền cho nhau những kinh nghiệm quý báu trong làm ăn sản xuất kinh doanh. Như vậy, tăng cường vai trò giám sát vốn vay của tổ sẽ làm giảm đáng kể hiện tượng sử dụng vốn sai mục đích, tránh thất thoát vốn. Nhưng đồng thời ngân hàng cũng phải đảm bảo mối quan hệ giữa trách nhiệm và quyền lợi để khuyến khích các thành viên trong tổ làm tốt hơn chẳng hạn ngân hàng dành một tỷ lệ hoa hồng thích đáng và kịp thời cho tổ. Chi nhánh cũng nên thực hiện công khai thủ tục, lãi suất, điều kiện vay vốn để người dân biết, thực hiện và giám sát việc thực hiện. Tiếp tục đẩy mạnh công tác thành lập tổ trên cơ sở nâng cao chất lượng công tác điều tra cơ bản tình hình hộ, đẩy mạnh công tác cho vay qua tổ đáp ứng nhu cầu vay vốn của hộ nông dân, quan tâm đúng mức, khai thác hết năng lực của Chi nhánh cũng như Hội Nông dân do đều có “chân rết” đến tận thôn, xã. Tổ chức theo dõi, chấn chỉnh việc sinh hoạt thường kỳ của các tổ vay vốn đã thành lập kết hợp với việc phổ biến các quy định thể lệ của ngân hàng, các kinh nghiệm sản xuất kinh doanh cho hội viên để việc sản xuất mang lại hiệu quả, nâng cao thu nhập, cải thiện và ổn định cuộc sống, bảo đảm an toàn vốn tín dụng và làm cơ sở để mở rộng đầu tư vốn. Hai bên thường xuyên gặp gỡ trao đổi nhằm giải quyết khó khăn, vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện. Tiếp tục tổ chức thực hiện tốt công tác tuyên truyền, thi đua, khen thưởng, tổng kết đánh giá quá trình thực hiện, từ đó đề ra các giải pháp thích hợp và rút ra các bài học kinh nghiệm để phổ biến chung. 3.3.Một số kiến nghị 3.3.1. Với các cơ quan quản lý nhà nước Thứ nhất, chính quyền địa phương cần có biện pháp chỉ đạo cụ thể cho các ngành, các cấp thực hiện đồng bộ giải pháp thúc đẩy sự nghiệp phát triển nông nghiệp nông thôn bền vững. Trong quá trình chỉ đạo phải có sự phân công trách nhiệm một cách rõ ràng phù hợp với chức năng nhiệm vụ của từng ngành. Đồng thời phải có biện pháp kiểm tra đôn đốc việc thực hiện của các ngành chức năng nhằm bảo đảm tính đồng bộ, kịp thời trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chung. Thứ hai, Nhà nước nên có chính sách, cơ chế chi tiết cụ thể xử lý rủi ro tín dụng nông nghiệp và nông thôn theo QĐ67/TTg Chính phủ cần ban hành thông tư hoặc Chính phủ cho phép liên bộ: tài chính- nông nghiệp và phát triển nông thôn-NHNN có thông tư liên ngành quy định cụ thể việc xử lý rủi ro tín dụng trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn. phạm vi xử lý đối với tất cả các loại rủi ro như rủi ro bởi thiên tai, hoạn nạn, rủi ro về thị trường, về cơ chế chính sách thực hiện cả trên phạm vi rộng, cục bộ hay cá biệt. Trong cơ chế này cần cho phép NHNo&PTNT triển khai cho vay ngay tiếp theo một khoản vay mới trong khi người vay gặp rủi ro bất khả kháng vẫn còn nợ khoản vay cũ, miễn là có xác nhận thiệt hại tổn thất của chính quyền địa phương. Đồng thời có chính sách xử lý tiếp theo là xoá nợ, giảm nợ, khoanh nợ…cần được vận dụng như chính sách miễn giảm thuế nông nghiệp. Cơ chế bù đắp của ngân sách cho ngân hàng cũng được xử lý kịp thời trong quý, sáu tháng và năm tài chính. Thứ ba, Nhà nước cần sớm tạo lập thị trường tiêu thụ nông sản, thuỷ sản ổn định cả trong và ngoài nước. Trong những năm qua, sản phẩm nông nghiệp ngày càng tăng, có khi phải bán hạ giá hoặc không bán được nên không bù đắp đủ chi phí, do vậy không khuyến khích người sản xuất. Vì vậy đòi hỏi Nhà nước cần có biện pháp xử lý đầu ra cho sản phẩm, làm cho hộ sản xuất có điều kiện yên tâm sản xuất và tăng thu nhập cho hộ. Thứ tư, Nhà nước cần quan tâm đến việc hướng dẫn, tuyên truyền, phổ biến kiến thức làm giàu, cách thức sử dụng đồng vốn có hiệu quả cho hộ sản xuất Trong thực tế có nhiều cách để phối hợp với để liên kết, nương tựa, học tập, đặc biệt trong nông nghiệp, nông thôn là lĩnh vực rộng lớn, liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành quản lý. Việc mỗi huyện thành lập một “Câu lạc bộ vì sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông thôn” để tổ chức toạ đàm, hội thảo, báo cáo, trình diện, tuyên truyền, phổ biến kiến thức làm ăn, tăng mối quan hệ chặt chẽ với các ban ngành, doanh nghiệp, hộ sản xuất có liên quan đến sự phát triển kinh tế nông thôn là hình thức tổ chức cần nghiên cứu xem xét. Thành viên gia nhập câu lạc bộ là các ban ngành, các doanh nghiệp, hộ sản xuất giỏi, ngân hàng…có liên quan đến sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông thôn. Thứ năm, chính quyền địa phương nhanh chóng cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ sản xuất nhằm mở rộng quyền được vay của hộ. Cơ quan địa chính tại các địa phương cần đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ sản xuất, đặc biệt chú trọng đến các địa bàn có đối tượng, năng lực sản xuất lớn và có nhu cầu vay vốn ngân hàng, các hộ làm kinh tế trang trại, phối hợp với ngân hàng trong việc xác lập vùng có điều kiện tăng trưởng sản xuất kinh doanh và có nhu cầu vay vốn đầu tư để sử dụng chính sách ưu tiên trong việc đo đạc và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và chứng nhận sở hữu nhà ở. Thứ sáu, UBND Tỉnh cần hỗ trợ ngân hàng trong quy hoạch các vùng đầu tư trên cơ sở quy hoạch của tỉnh hàng năm để Chi nhánh có địa chỉ đầu tư đúng theo chương trình phát triển kinh tế tại các địa phương. Cần lập quy hoạch từng vùng tập trung và kế hoạch hàng năm về việc đầu tư các loại cây con, vùng đầu tư, có kế hoạch về thị trường tiêu thụ các loại nông phẩm; chủ trương gắn đầu tư hộ sản xuất với việc tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp chế biến sản phẩm nông sản trong và ngoài địa bàn để ngân hàng có kế hoạch đầu tư khép kín từ sản xuất nông nghiệp đến chế biến sản phẩm nông sản. Từ đó, tạo điều kiện dễ dàng cho ngân hàng trong việc quản lý vốn tín dụng và tính toán hiệu quả mang tính khả thi trong thực tế. Thứ bảy, tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng và củng cố mạng lưới dịch vụ ở nông thôn, đồng thời Nhà nước nên có chính sách ưu đãi về thuế đối với khu vực kinh tế này. Chính phủ và chính quyền các cấp cần có các cơ chế chính sách tăng vốn đầu tư từ ngân sách cho việc phát triển kết cấu hạ tầng và các hoạt động dịch vụ ở khu vực nông thôn; đồng thời khẩn trương hoàn chỉnh việc xây dựng mạng lưới thu thập và cung cấp thông tin về công nghệ thị trường để khách hàng có điều kiện thực hiện tốt các dự án về vay vốn còn các tổ chức tín dụng sẽ có thêm cơ sở để quyết định cho vay. Mặt khác, Nhà nước cần có chính sách thuế ưu đãi phù hợp với hoạt động huy động vốn và cho vay khu vực nông thôn bởi hoạt động ở khu vực này thường có chi phí cao hơn các khu vực khác, tạo điều kiện để các tổ chức tín dụng thu hút thêm vốn về nông thôn. 3.3.2 Đối với Ngân hàng Nhà nước NHNN cần có những chính sách và biện pháp tích cực sớm nâng cao chất lượng công tác thông tin tín dụng phục vụ cho vay của các NHTM và TCTD.Cần bắt buộc các NHTM và TCTD tham gia vào hoạt động của hệ thống thông tin TD “ CIC” coi đó như một quyền lợi và nghĩa vụ của mình NHNN cần có biện pháp nâng cao hơn nữa chất lượng công tác thanh tra, kiểm soát để đảm bảo cho hoạt động tín dụng an toàn, hiệu quả và môi trường cạnh tranh lành mạnh trong kinh doanh tiền tệ tín dụng và dịch vụ Ngân hàng. Các tổ chức tài chính, Ngân hàng nước ngoài, tổ chức tín dụng quốc doanh và ngoài quốc doanh của NHNN, không được hạ thấp tiêu chuẩn tín dụng để cạnh tranh một cách không lành mạnh, giành giật khách hàng Đề nghị NHTW phối kết hợp với các Bộ - Ngành có liên quan để xửa đổi bổ sung một số nội dung tại thông tư số 03/TTLT/NHNN-BTP-BCA-BTC-TCĐC hướng dẫn việc xử lý tài sản đảm bảo tiền vay để thu nợ cho các TCTD cụ thể như sau: + Tài sản đảm bảo tiền vay tại TCTD hầu hết là bất động sản, và đây cũng là vướng mắc nhất khi xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ, tài khoản 2mục III, phần B thông tư 03 quy định " Trong trường hợp tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đát không xử lý được theo thoả thuận của các bên trong hợp đồng, thì TCTD đưa tài sản ra bán đấu giá để thu hồi nợ hoặc khởi kiện ra Toà án " đây là vấn đề rất khó khăn, vướng mắc trong thực tế, do thủ tục, trình tự đấu giá, thủ tục tố tụng dân sự. Đề nghị xửa đổi theo hướng "TCTD có quyền chủ động áp dụng các phương thức xử lý tài sản đảm bảo tức là trực tiếp bán, chuyển nhượng, cho thuê tài sản để thu hồi nợ " + Nên bỏ nội dung: TCTD phải xin phép việc bán đấu giá quyền sử dụng đất vì việc thế chấp quyền sử dụng đất đã được đăng ký tại Sở địa Chính hoặc UBND xã -phường thị trấn .Nên khi bán quyền sử dụng đất, TCTD có thể trực tiếp bán cho người mua theo quy định tại Nghị định 178. + Đề nghị cho miễn giảm thuế chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản bảo đảm để xử lý thu hồi nợ. NHNN trên địa bàn tỉnh cần nắm vững phương hướng nhiệm vụ và mục tiêu phát triển kinh tế của tỉnh nhà, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội của toàn tỉnh, những ngành kinh tế mũi nhọn để tư vấn cho các TCTD trên địa bàn để đầu tư cho các dự án định hướng phát huy được hiệu quả vốn tín dụng và đảm bảo thu hồi vốn đúng hạn. Thực hiện công tác Thanh tra, kiểm tra tại chỗ cũng như giám sát từ xa đối với hoạt động của các TCTD trên địa bàn nhằm ngăn chặn tình trạng cạnh tranh thiếu lành mạnh của các TCTD, mặt khác ngăn chặn cán bộ tín dụng thực hiện sai các văn bản chế độ cũng như quy trình nghiệp vụ cho vay .. góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của ngành Ngân hàng trên toàn tỉnh. Tài liệu tham khảo 1.Quản trị ngân hàng thương mại. –Peter Rose- 2.Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính. –Fredreic S.Miskin, Nhà xuất bản khoa học kỹ thuật, Hà Nội, 1994- 3.Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại. –David Cox- 4.Ngân hàng và nền kinh tế hàng hoá. –Lê Văn Tư- 5.Tạp chí Ngân hàng. 6.Thời báo Ngân hàng. 7.Tạp chí Thông tin ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn. 8.Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ. 9.Tạp chí Khoa học và Đào tạo ngân hàng. 10.Tạp chí Tài chính. 11.Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. 12.Các văn bản quy phạm pháp luật. 13.Cẩm nang tín dụng của NHNo&PTNTVN. Kết luận Đường lối đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước đề ra đã tạo môi trường thuận lợi cho các thành phần kinh tế phát huy tiềm năng, thế mạnh của mình. Trong quá trình đổi mới cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, các NHTM đóng vai trò rất quan trọng với chức năng của mình NH đã thực sự góp phần lớn vào công cuộc đổi mới đất nước. Với phương châm "Đi vay để cho vay " vốn TD thực sự thúc đẩy được sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế, đã và đang từng bước xoá đói giảm nghèo ở Nông thôn và phát triển kinh tế theo chiến lược phát triển kinh tế đến năm 2010 của Đảng và Nhà nước. Trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, các thành phần kinh tế đều tham gia vào quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá, các quan hệ kinh tế được mở rộng, cho vay đối với mọi thành phần kinh tế ngày càng nhiều, rủi ro về khả năng thu hồi vốn ngày một tăng lên. NH cũng không khác bất kì một ngành nào có thể gặp rủi ro, mất vốn. Hơn nữa NH là một ngành rất nhạy cảm với sự biến động của thị trường, hoạt động NH với bản chất của nó là chịu rất nhiều loại rủi ro. Với tư cách là một tổ chức kinh doanh tiền tệ TD, đồng thời là một công cụ hữu hiệu của Nhà nước nhằm phục vụ lợi ích phát triển kinh tế – xã hội, các NHTM nói chung và NHNo Huyện Phù Cừ nói riêng đã từng bước chuyển dịch cơ cấu TD của mình hướng tới mở rộng quan hệ TD với mọi thành phần kinh tế để khai thác tiềm năng thế mạnh phát triển kinh tế của Tỉnh Hưng Yên và của đất nước. Đặc biệt là thành phần kinh tế HSX có tiềm năng thế mạnh to lớn, thu hút nguồn vốn lớn trong tổng nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế, là nhân tố chủ yếu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế Nông nghiệp nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Mặc dù trong quá trình hoạt động kinh doanh còn gặp nhiều khó khăn, chất lượng TD chưa cao nhưng với định hướng đúng đắn và với sự nỗ lực cố gắng của NHNo Huyện Phù Cừ đã ngày càng mở rộng TD và cũng như từng bước nâng cao chất lượng TD đối với các thành phần kinh tế nói chung và kinh tế HSX nói riêng góp phần thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển theo hương Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Em hy vọng rằng, trên cơ sở những biện pháp đã thực hiện cùng với những định hướng giải pháp mới sẽ được thực hiện trong thời gian tới, phần nào giúp NHNo Huyện Phù Cừ có những bước tiến mới trong việc nâng cao chất lượng hoạt động của mình.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0282.doc
Tài liệu liên quan