Tháng 1/1981 ban bí thư trung ương Đảng ban hành chỉ thị 100 về khoán trong nông nghiệp, thực chất là giải phóng (tự do hoá) sức lao động của hàng chục hộ nông dân thoát khỏi sự rằng buộc của cơ chế tập trung.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, với đường lối đổi mới, nông nghiệp được xác định là “Mặt trận hàng đầu” tiếp tục đổi mới quản lý kinh tế nhằm giải phóng lực lượng sản xuất ở nông thôn, chuyển nền nông nghiệp tự túc tự cấp sang sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Đảng và Nhà nước đã ban hành những chủ trương, chính sách để thực hiện định hướng nêu trên. Nhờ đó nền kinh tế hộ sản xuất dần được đặt vào đúng vị trí của nó.
Tháng 4/1998- Bộ chính trị đã ban hành Nghị quyết 10 nhằm cụ thể hoá một bước quan điểm đổi mới của Đại hội VI đối với lĩnh vực quản lý nông nghiệp, tạo điều kiện cho việc hình thành và thúc đẩy kinh tế hộ sản xuất phát triển. Từ đó hộ nông dân được thừa nhận là một đơn vị kinh tế tự chủ trong sản xuất kinh doanh và là đơn vị kinh tế ở nông thôn.
Sau nghị quyết 10 của Bộ trính trị, rồi đến NQ 66 HĐBT của hội đồng bộ trưởng ngày 02/ 03/ 1992, cùng luật doanh nghiệp tư nhân NĐ 29 ngày 29 /03/1998, luật Công ty . thì hộ sản xuất đã được thừa nhận là một đơn vị kinh tế bình đẳng như các thành phần kinh tế khác. Điều này được khẳng định tại điều 21 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992: “Kinh tế gia đình được khuyến khích phát triển”.
65 trang |
Chia sẻ: DUng Lona | Lượt xem: 1043 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Hoa lư - Ninh Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m gần đây Ngân hàng đã chú trọng mở rộng cho vay, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế của địa phương. Đã chú trọng mở rộng cho vay các dự án có tính khả thi như chăn nuôi Việc đầu tư đã có hiệu quả hộ vay vốn trả nợ tương đối tốt, mở rộng cho vay đời sống CBCNV, giúp hàng trăm CBCNV, cán bộ hưu trí có vốn sửa sang nhà cửa, mua sắm phương tiện phục vụ công tác và sinh hoạt.
Các Ngân hàng cấp 3 đã chú trọng mở rộng cho vay, tốc độ tăng trưởng tuy chưa đồng đều do đặc thù hoạt động kinh doanh của từng khu vực nhưng cũng đã có nhiều kết quả đáng khích lệ
Trong năm qua hiểu rõ yêu cầu cấp thiết của việc bảo đảm cân đối tỷ lệ cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn vừa phù hợp với khả năng huy động vốn tại địa bàn vừa đảm bảo yêu cầu sản xuất kinh doanh, đảm bảo sự lưu chuyển vốn nhanh hạn chế rủi ro. NHNo &PTNT huyện Hoa Lư đã khống chế được tỷ lệ cho vay cơ cấu đảm bảo theo quy định.
Xác định mục tiêu quan trọng của Ngân hàng là phải không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng. Để giảm thấp tỷ lệ nợ quá hạn, hạn chế nợ quá hạn mới phát sinh, tìm mọi biện pháp thu hồi nợ quá hạn, nợ tồn đọng. Ban lãnh đạo Ngân hàng chỉ đạo các chi nhánh tập trung, kiên quyết phối hợp với UBND các xã xử lý nghiêm khắc các con nợ chây ỳ.
Ngân hàng đã tổ chức cho CBCNV học tập văn bản chế độ và chuyên môn nghiệp vụ, tin học ứng dụng vào công việc và học tập Marketing nhằm nâng cao trình độ CBCNV nhất là cán bộ tín dụng.
Những kết quả trên đây đã khẳng định hoạt động Tín dụng của Ngân hàng đã thực sự đi vào cuộc sống, được đông đảo nhân dân đồng tình hưởng ứng. Nguồn huy động được tăng cường đầu tư vốn được mở rộng, nhiều hộ vay đã thoát khỏi đói nghèo. Vốn Ngân hàng đã góp phần giải quyết công ăn việc làm, ổn định tình hình chính trị địa phương.
Ngân hàng đã khai thác tiềm năng to lớn của thị trường nông thôn, theo sát mục tiêu kinh tế của địa phương, xác định hướng tín dụng. Từ đó lập kế hoạch kinh doanh tại Ngân hàng để xác định hướng cho vay, mức cho vay đối tượng cụ thể. Mở rộng và củng cố mạng lưới Ngân hàng cấp 3,phòng giao dịch, các tổ chức cho vay, thu nợ lưu động tiếp cận cơ sở gần gũi với nhân dân.
Đi đôi với việc tăng trưởng dư nợ, Ngân hàng tập trung vào củng cố nâng cao chất lượng tín dụng coi đây là nhiệm vụ quan trọng thường xuyên tổ chức phân tích nợ quá hạn có biện pháp tích cực đôn đốc thu hồi nợ quá hạn.
Công tác thanh tra, kiểm soát được coi trọng và thực hiện thường xuyên một cách nghiêm túc. Hàng năm ngoài việc kiểm tra của Ngân hàng cấp trên, NHNo&PTNT huyện hoa lư tổ chức tự kiểm tra đối chiếu địa bàn., nhằm phát hiện và ngăn ngừa kịp thời những sai sót trong thực thi quy trình nhiệm vụ, chấn chỉnh những mặt hạn chế, đảm bảo chất lượng tín dụng. Thực hiện khoán tài chính đến người lao động khuyến khích CBCNV hoàn thành công việc được giao.
Đạt được thành tích trên là nhờ sự quan tâm chỉ đạo thường xuyên của Ngân hàng cấp trên trong việc kiểm tra, đôn đốc Ngân hàng cơ sở, các tổ chức hội thực hiện tốt thể chế quy định, hạn chế những sai sót xảy ra. Được sự quan tâm của huyện uỷ, hội đồng nhân dân, UBND huyện, các ban ngành đoàn thể trong huyện tạo điều kiện để Ngân hàng thực hiện tốt việc huy động vốn cũng như việc đầu tư vốn đến hộ sản xuất.
2.4.2. Hạn chế.
Những năm qua dư nợ cho vay hộ sản xuất đã có sự tăng trưởng nhưng còn chưa cao, chưa đáp ứng được tiềm năng yêu cầu của người dân. Ngân hàng chưa chủ động tìm khách hàng để cho vay, nợ khó đòi vẫn còn, việc mở rộng hình thức cho vay qua tổ nhóm còn thấp trong tổng dư nợ cho vay hộ sản xuất, chủ yếu là các món vay nhỏ dư nợ dưới 10 triệu đồng.
Quá trình thẩm định dự án của cán bộ tín dụng đối với dự án, phương án của khách hàng chưa thực hiện tốt theo quy định. Cả cán bộ tín dụng lẫn người vay đều không biết chắc chắn khả năng sinh lợi của dự án.Cán bộ tín dụng chưa tư vấn được cho khách hàng trong khi đó nhu cầu tư vấn từ phía khách hàng là rất lớn vì trình độ của hộ sản xuất còn thấp, còn thiếu kiến thức khoa học kỹ thuật.
Ngân hàng hầu như chưa có chính sách cũng như các sản phẩm để khuyến khích những khách hàng vay vốn trả nợ đúng hạn nhằm mở rộng đầu tư cho vay và nâng cao chất lượng tín dụng.
Những nguyên nhân của hạn chế trên:
Thứ nhất: Nguyên nhân khách quan
Do môi trường kinh doanh chưa ổn định, nền kinh tế Việt Nam mới chuyển sang cơ chế thị trường, nhiều hộ nông dân không bắt kịp những thay đổi của chính sách kinh tế vĩ mô cũng như đòi hỏi ngày càng cao và luôn thay đổi của thị trường nhất là về chất lượng, chủng loại, giá cả sản phẩm hàng hoá. đa số hộ còn hạn chế về năng lực sản xuất kinh doanh, trình độ và kinh nghiệm quản lý, kỹ thuật sản xuất còn thủ công lạc hậu. Vốn tích luỹ ban đầu còn rất nhỏ nên trong điều kiện cạnh tranh gay gắt của thị trường việc sản xuất cũng như việc tiêu thụ sản phẩm gặp không ít khó khăn.
Mạng lưới cung cấp nguyên vật liệu đầu vào cũng như việc tiêu thụ sản phẩm đầu ra chưa ổn định ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất kinh doanh của nông dân. Điều này hạn chế đến việc mở rộng cho vay của Ngân hàng.
Thứ hai: Nguyên nhân chủ quan.
Nhìn chung trình độ cán bộ Ngân hàng đặc biệt là cán bộ tín dụng chưa đồng đều, cơ cấu cán bộ tín dụng còn thấp chỉ dừng ở cách cho vay truyền thống. Trình độ hiểu biết về sản xuất nông nghiệp còn hạn chế do đó ảnh hưởng đến việc thẩm định. Việc tìm kiếm các dự án phục vụ phát triển, nông nghiệp nông thôn còn gặp nhiều khó khăn.
Cán bộ tín dụng chưa được học tập các kỹ thuật sản xuất, nuôi trồng, chưa được tham dự các chương trình khuyến nông, khuyến ngư do vậy hạn chế việc tư vấn cho khách hàng. Thông tin phòng ngừa rủi ro trong hoạt động tín dụng chưa được quan tâm sử dụng do đặc thù khách hàng của NHNo &PTNT huyện Hoa Lư là nông dân nhỏ, lẻ
Sự quá tải đối với công việc của cán bộ tín dụng, gây ra tình trạng làm chưa tốt trong một số quy trình tín dụng có thể gây rủi ro cho Ngân hàng. Theo quy định hiện nay cán bộ tín dụng phải trực tiếp thực hiện nhiều công đoạn từ khi thẩm định cho vay, lập hồ sơ hồ sơ cho vay, giám sát thu nợ thu lãi, thực hiện kiểm tra thường xuyên .
Chương 3
Một số Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng Tín dụng
hộ sản xuất tại NHN0 & PTNT huyện Hoa lư
3.1. Định hướng của NHN0 & PTNT huyện Hoa lư
Những năm tiếp theo NHNo & PTNT huyện Hoa Lư sẽ tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, hoạt động của Ngân hàng sẽ đứng trước những thuận lợi cơ bản, đó là: Nền kinh tế sẽ phát triển theo hướng bền vững và ổn định; môi trường pháp lý, môi trường kinh tế xã hội sẽ tiếp tục được hoàn thiện và củng cố. Nhưng hoạt động kinh doanh của NHNo & PTNT huyện Hoa Lư cũng phải đối đầu với nhiều khó khăn, thử thách: nền kinh tế trên địa bàn còn nhiều, tích luỹ nội bộ thấp, hiệu quả kinh doanh của hộ sản xuất và các doanh nghiệp chưa cao. Trước những thời cơ và thách thức đó, căn cứ vào định hướng phát triển kinh tế của tỉnh Ninh Bình, căn cứ vào định hướng mục tiêu hoạt động của NHNo & PTNT Việt Nam, của NHNo & PTNT Tỉnh Ninh Bình, định hướng công tác tín dụng của NHNo & PTNT huyện Hoa Lư trong thời gian tới là:
- Tiếp tục mở rộng và tăng trưởng Tín dụng, tập trung chỉ đạo thực hiện tốt quyết định 67/QĐ/TTG ngày 30/4/1999 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách tín dụng Ngân hàng phục vụ phát triển Nông nghiệp và nông thôn và các hợp tác xã đã chuyển đổi có đủ điều kiện nghiên cứu và xác lập thị trường đầu tư, đối tượng đầu tư phù hợp với tình hình phát triển kinh tế trước mắt và lâu dài, xây dựng chính sách chiến lược khách hàng, xác định mục tiêu, phương châm “an toàn, hiệu quả và phát triển”.
- Tìm mọi biện pháp nâng cao chất lượng tín dụng, giải quyết một cách triệt để nợ quá hạn, nhất là các khoản nợ quá hạn tồn đọng từ những năm trước đây nhằm giảm nợ quá hạn để đạt được mức quy định của NHNo & PTNT Việt Nam, không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, nâng cao tinh thần trách nhiệm trong nhiệm vụ được giao.
- Chấp hành nghiêm chỉnh chế độ tín dụng của NHNo & PTNT Việt Nam, luôn giữ gìn kỷ cương phép nước, hoạt động tín dụng năm sau phải cao hơn năm trước, có sự chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện để đạt được 2 mục tiêu cơ bản là: “Đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng tín dụng nhanh và nâng cao chất lượng tín dụng đạt hiệu quả cao”.
Để đạt được mục tiêu và định hướng đó, NHNo & PTNT huyện Hoa Lư đã đề ra những giảp pháp sau:
- Làm tốt công tác huy động vốn: việc huy động vốn được thực hiện trên cơ sở mở rộng mạng lưới huy động, sử dụng triệt để và hiệu quả công cụ lãi suất để khuyến khích lợi ích vật chất, nâng cao khả năng cạnh tranh.
- Về tăng trưởng tín dụng:
+ Căn cứ vào kết quả tiến hành phân loại hộ sản xuất, tiếp tục nghiên cứu cho vay đối với các hộ sản xuất có đủ điều kiện, làm ăn có hiệu quả, nghiên cứu và cho vay tháo gỡ khó khăn đối với những hộ sản xuất khó khăn nhưng có phương án làm ăn tốt và được các cấp có thẩm quyền duyệt.
+ Nghiên cứu và cho vay đối với các hợp tác xã đã chuyển đổi và có đủ điều kiện, trước hết là mở rộng cho vay dịch vụ phục vụ cho nông nghiệp.
+ Tiếp tục triển khai thực hiện tốt quyết định 67/QĐ-TTg của thủ tướng Chính phủ cho vay hộ sản xuất và mở rộng cho vay các loại hình khác như cho vay đời sống đối với cán bộ công nhân viên theo QĐ06/HĐQT về việc cho vay đối với khách hàng ngày 18/01/2001.
3.2 Một số giải pháp cơ bản cơ bản nhằm nâng cao chất lượng Tín Dụng hộ sản xuất tại NHNo & PTNT huyện Hoa lư
3.2.1 Một số giải pháp:
Đề cập tới vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng, đặc biệt là tín dụng hộ sản xuất đã có nhiều người nghiên cứu và đưa ra nhiều giải pháp, tuy nhiên không phải những giải pháp này áp dụng ở Ngân hàng nào cũng đem lại hiệu quả cao. Tại mỗi địa phương khác nhau, mỗi giai đoạn khác nhau cần có các giải pháp cụ thể khác nhau. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận tại trường và đi thực tế tại địa bàn huyện Hoa Lư tôi thấy để nâng cao hơn nữa chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất cần thực hiện tốt các giải pháp sau:
3.2.1.1. Cho vay tập trung có trọng điểm.
Đầu tư vốn tập trung có trọng điểm, đối với những khách hàng thuộc những ngành, vùng có tiềm năng lớn và phát triển bền vững. Một nguyên tắc quan trọng để tránh rủi ro của Ngân hàng khi thực hiện cho vay đối với khách hàng là: “Đòi hỏi phải tiến hành kinh doanh một cách thận trọng”, vì vậy Ngân hàng phải chọn lọc khách hàng một cách kỹ lưỡng, trước mắt Ngân hàng cần tiếp tục đầu tư vào các tiểu ngành hoạt động có hiệu quả là chăn nuôi lợn, gà, gia cầm, trâu bò, trồng cây ăn quả, chế biến nông sản ...
3.2.1.2. Đẩy mạnh cho vay hộ sản xuất qua tổ nhóm tương trợ (tổ tín chấp).
Tổ tương trợ là mô hình do cộng đồng dân cư tự nguyện thành lập, dưới sự chỉ đạo của chính quyền xã hay các tổ chức, đoàn thể chính trị xã hội được UBND xã công nhận và cho phép hoạt động. Hoạt động của tổ tương trợ là nhằm giúp đỡ nhau giữa các thành viên và giải quyết tốt các vấn đề sau:
Thứ nhất: Tổ là nơi xác nhận và đánh giá nhu cầu vay vốn của hộ sản xuất đảm bảo công khai, chuẩn xác, kịp thời. Nhờ đó Ngân hàng giải ngân nhanh mà vẫn đảm bảo chất lượng tín dụng.
Thứ hai: Việc hình thành tổ tín chấp vay vốn có quy ước riêng là điều kiện cần thiết, thực hiện vai trò kiểm tra, đôn đốc, giám sát sử dụng vốn vay trả nợ đúng hạn của hộ vay vốn.
Thứ ba: Tổ là nơi để các họp tác xã tương trợ lẫn nhau, không những về nhu cầu tín dụng mà còn về kiến thức kỹ thuật sản xuất, về nguyên vật liệu đầu vào, tiêu thụ sản phẩm đầu ra.
Thứ tư: Cho vay qua tổ tín chấp sẽ khắc phục được khó khăn về tài sản thế chấp của hộ xin vay mà vẫn đảm bảo chất lượng tín dụng. Bởi lý do là tài sản thế chấp gần như không có khả năng phát mại do tập quán của người Việt Nam không muốn mua lại các tài sản này.
Mặt khác, hình thức chuyển tải vốn tín dụng tới hộ sản xuất thông qua tổ tín chấp đem lại lợi ích cho cả hai phía: Hộ vay vốn và Ngân hàng. Đối với hộ gia đình: họ có khả năng tiếp cận vốn tín dụng Ngân hàng mà không mất nhiều chi phí giao dịch, đi lại. Điều này có ý nghĩa quan trọng vì hiện nay số số tiền vay của đa phần các hộ gia đình còn nhỏ nên người dân dễ nảy sinh tâm lý ngại đi vay Ngân hàng mà vay mượn người xung quanh, gây tình trạng cho vay nặng lãi không có hiệu quả kinh tế. Đối với Ngân hàng: thông qua hình thức tổ tín chấp, việc cung cấp tín dụng được thực hiện tốt hơn, hiệu quả hơn đồng thời đảm bảo an toàn cho vay.
Quyết định 67/1999/QĐ - TTg ngày 30/3/1999 về một số chính sách tín dụng Ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn đã mở ra một “ngày mới” cho hoạt động tín dụng nông nghiệp nông thôn tạo nhiều thuận lợi cho người nông dân vay vốn Ngân hàng. NHNo & PTNT huyện Hoa Lư đã mở đợt tuyên truyền rộng rãi trong toàn thể cán bộ của Quyết định 67, hướng dẫn thể lệ chế độ cho vay, công khai mức lãi suất cho vay, thời hạn cho vay, đối tượng cho vay. Chính quyền, các đoàn thể, tổ trưởng tổ vay vốn, cán bộ tín dụng đi thẩm định từng hộ có nhu cầu vay và quyết định giải ngân khi hộ có đủ điều kiện vay vốn.
Việc triển khai cho vay theo hình thức này tại Ngân hàng có thuận lợi là có thể mở rộng cho vay, giảm chi phí hoạt động, nâng cao trách nhiệm của mỗi tổ viên trong việc trả nợ vì chỉ cần một thành viên của tổ không trả nợ thì cả tổ cũng phải chịu trách nhiệm liên đới. Tại Ninh Bình danh từ “tổ tín chấp” đã trở nên thân thuộc với bà con, kết quả cho vay qua nhóm của NHNo & PTNT huyện Hoa Lư đã cho thấy nợ quá hạn hàng năm rất thấp dưới 1%. Mặt khác, cho vay qua nhóm giảm áp lực quá tải đối với cán bộ tín dụng. Điều này góp phần không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng tín dụng.
Bên cạnh những thuận lợi trên, việc triển khai hình thức cho vay này cũng gặp nhiều khó khăn:
+ Do trình độ dân trí của bà con ta nhiều nơi còn thấp nên việc tổ trưởng nhóm đứng ra làm thay Ngân hàng một số công đoạn là rất khó. Trong thời gian qua, đã có một vài tổ trưởng vi phạm quy chế khi tiến hành kiểm tra Ngân hàng mới phát hiện ra và xử lý kịp thời. Thực tế Ngân hàng đã mở các lớp tập huấn cho tổ trưởng song kết quả thu được còn hạn chế.
+ Nhiều tổ trưởng tổ tín chấp tỏ ra chưa tích cực trong hoạt động một phần là do công tác thu nợ thu lãi khó khăn, nhiều khi họ phải đi lại nhiều lần mới thu được do tổ viên đi vắng hoặc cố tình tránh mặt, phần khác là do hoa hồng phí được hưởng quá thấp không tương xứng với công sức họ bỏ ra.
Như vậy, với những khó khăn trên, để mở rộng hình thức cho vay hộ sản xuất qua tổ nhóm tương trợ, Ngân hàng cần thực hiện tốt những vấn đề sau:
Thứ nhất: Ngân hàng cần phối hợp tốt với các tổ chức chính trị xã hội đặc biệt là Hội nông dân và Hội phụ nữ.
Thứ hai: Nâng cao trình độ của tổ trưởng tổ vay vốn:
+ Đối với những tổ trưởng không thể đảm nhiệm công việc, không có đạo đức, thường làm sai quy định thì cán bộ tín dụng có thể có thể yêu cầu họp tổ, thông báo tình hình và đề nghị bầu tổ trưởng khác.
+ Đối với những tổ trưởng chưa quen việc hoặc đôi khi còn làm sai thì phải tiến hành điều chỉnh, phổ biến lại công việc ngay hoặc cho đi tập huấn lại. Ngoài ra, khi có những thay đổi, cán bộ tín dụng nên tập hợp các tổ trưởng để phổ biến cho kịp thời.
Thứ ba: Nâng mức hoa hồng phí cho tổ trưởng. Mức phí 3% hiện nay tính trên tổng số lãi thu được chưa tương xứng với trách nhiệm mà người tổ trưởng phải đảm nhiệm cũng như các hao phí mà họ bỏ ra. Ngân hàng có thể căn cứ vào mức độ khó khăn của công việc để định mức phí, đồng thời tiến hành động viên khen thưởng kịp thời. Những tổ thực hiện thu nợ, thu lãi tốt có thể khen thưởng cho tổ trưởng bằng vật chất hoặc phối hợp với các Hội hay chính quyền địa phương để khen ngợi trước tập thể... Động viên kịp thời sẽ tạo động lực để các tổ trưởng nâng cao tinh thần trách nhệm, từ đó hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ được giao.
Thứ tư: Phối hợp chặt chẽ với các đoàn thể, các tổ trưởng tổ tín chấp để tuyên truyền, quảng cáo cho hình thức vay vốn này.
Thứ năm: Về lâu dài, trong quá trình sàng lọc Ngân hàng nên chuyển một số tổ tín chấp có đủ điều kiện sang thể chế tài chính vi mô.
3.2.1.3 Tổ chức món vay mới có hiệu quả.
Việc cho vay mới phải làm thật nghiêm chỉnh đúng quy trình để tạo ra mặt bằng dư nợ mới có chất lượng cao bằng cách: Hàng quý, Ngân hàng cần tổ chức bảo vệ kế hoạch tín dụng của các phòng kinh doanh qua đó xác định rõ hướng đầu tư cụ thể, đối tượng đầu tư cần tập trung, mức độ đầu tư, việc đầu tư mới phải lấy hiệu quả và an toàn vốn làm đầu. Thực hiện tốt các thủ tục về giải ngân, kiểm tra sử dụng vốn vay; ngoài việc kiểm tra các cán bộ tín dụng thì trưởng phòng nghiệp vụ kinh doanh Ngân hàng, giám đốc Ngân hàng nên kiểm tra thí điểm một số hộ sản xuất và tổ nhóm vay vốn ít nhất là một tháng một lần để chỉnh sửa kịp thời những sai sót. 3.2.1.4 áp dụng các biện pháp phân tích tài chính kỹ thuật trong quy trình tín dụng.
Cán bộ tín dụng NHNo & PTNT huyện Hoa Lư đôi khi sử dụng kinh nghiệm truyền thống trong quá trình phân tích tín dụng, do đó chất lượng tín dụng không đảm bảo. Để giải quyết vấn đề này Ngân hàng phải thực hiện các biện pháp sau:
Thứ nhất: Ngân hàng phải nâng cao chất lượng thẩm định dự án hoặc phương án sản xuất kinh doanh của hộ xin vay vốn, thực hiện nghiêm túc quá trình thẩm định trước khi ra quyết định cho vay. Ngân hàng yêu cầu cán bộ tín dụng sử dụng phương pháp phân tích về tài chính cũng như về kỹ thuật để thẩm định dự án từ đó ra quyết định cho vay hay không cho vay.
Thứ hai: Đối với món vay nhỏ cần áp dụng thủ tục riêng để thẩm định làm cho hoạt động phân tích trở nên đơn giản hơn.
Thứ ba: Ngân hàng cải tiến thủ tục thẩm định món vay trung dài hạn. Ngân hàng soạn thảo các mô hình tài chính cho quá trình sản xuất, chăn nuôi gia súc gia cầm, trồng trọt ... để giúp cán bộ tín dụng thẩm định món vay cả về phương diện tài chính. Ngân hàng cần triển khai các lớp đào tạo cán bộ tín dụng về các vấn đề này nhằm nâng cao khả năng cũng như trình độ thẩm định dự án của cán bộ tín dụng.
Thứ tư: Khi quyết định thời hạn cho vay và định kỳ hạn nợ, Ngân hàng yêu cầu cán bộ tín dụng phải sử dụng dòng lưu chuyển tiền tệ và gắn với chu kỳ sản xuất kinh doanh hơn là kinh nghiệm truyền thống. Đồng thời Ngân hàng phải trợ giúp cán bộ tín dụng kiến thức về vấn đề này thông qua các khoá đào tạo.
3.2.1.5 Thực hiện công tác thu nợ có hiệu quả, ngăn ngừa nợ quá hạn tiềm ẩn và nợ quá hạn mới phát sinh.
Chất lượng tín dụng còn thể hiện qua công tác thu nợ có hiệu quả. Vì chúng ta nhận thấy rằng đặc điểm chung của tín dụng là quan hệ vay mượn dựa trên cơ sở “lòng tin”, “thời hạn” và “có sự hoàn trả”. Nếu không có 1 trong 3 đặc trưng này sẽ không có quan hệ tín dụng lâu dài. Do đó, Ngân hàng cần có một hệ thống thu nợ để nhắc nhở những khoản nợ đến hạn trả của khách hàng cũng như đôn đốc trả nợ. Hoạt động của hệ thống này rất quan trọng vì chứng tỏ rằng Ngân hàng:
+ Có hiệu quả trong việc kiểm tra và quản lý tài khoản vay.
+ Nghiêm khắc trong hoạt động kinh doanh.
+ Muốn duy trì quan hệ tốt đẹp với khách hàng.
Việc gửi thư nhắc nhở và tiến hành đòi nợ có tính hệ thống và đúng lúc phải được thực hiện đối với tất cả các tài khoản. Trong thông báo, lời lẽ phải lịch thiệp song cũng cần nghiêm khắc, cương quyết yêu cầu khách hàng thanh toán đủ và đúng hẹn.
Chất lượng tín dụng cao còn thể hiện qua việc xử lý nợ quá hạn, ngăn ngừa nợ quá hạn tiềm ẩn và nọ quá hạn mới phát sinh. Từ năm 1999 Ngân hàng đã thực hiện giải pháp: phân tích thực trạng dư nợ một cách thường xuyên và có hệ thống rất có hiệu quả. Giải pháp này cần được tiếp tục áp dụng sâu rộng hơn nữa và có hiệu quả tốt hơn nữa.
Ngân hàng luôn duy trì tổ chức phân tích tình hình dư nợ đến từng xã, từng cán bộ và từng khách hàng. Qua việc phân tích xác định rõ món vay có vấn đề, nợ quá hạn theo mức độ khác nhau; xác định xã trọng điểm, khách hàng trọng điểm. Định kỳ hàng tháng Ngân hàng chia hoạt động tín dụng ra làm 4 phần để phân tích và chỉ đạo cụ thể từng phần sau:
- Phần 1 là nợ quá hạn: Tổ chức phân tích từng đối tượng và phân loại ra 3 loại:
+ Loại thu ngay.
+ Loại thu dần một phần và loại khó thu. Từ đó xác định nguồn thu, biện pháp thu, thời gian thu phù hợp.
- Phần 2 là nợ sắp đến hạn: Từ ngày 01 đến ngày 10 tháng trước tổ chức in ra những món nợ đến hạn của tháng sau, thông báo cho cán bộ tín dụng. Từ ngày 20 đến ngày 25 các cán bộ tín dụng đi gặp gỡ khách hàng để xác định khả năng thu của từng khách hàng đến hạn tháng sau, từ đó có biện pháp cụ thể đến từng khách hàng, nếu có khó khăn phải báo cáo cho lãnh đạo để có biện pháp giúp đỡ. Làm tốt phần này đã hạn chế nợ quá hạn phát sinh.
- Phần 3 là nợ chưa đến hạn: sẽ tổ chức kiểm tra sau, chú ý những món nợ từ 10 triệu đồng trở lên và tập trung kiểm tra vào hai nội dung đó chính là: Vật tư bảo đảm tiền vay và diễn biến của tài sản thế chấp, nếu có vấn đề thì xử theo các biện pháp tín dụng, giúp đỡ khách hàng khắc phục khó khăn có điều kiện trả nợ Ngân hàng.
- Phần 4 cho vay mới: Yêu cầu cho vay nghiêm chỉnh, đúng quy trình nhằm tạo ra mặt bằng dư nợ mới chất lượng lành mạnh hơn.
Để xử lý những khoản nợ quá hạn cần thực hiện các giải pháp sau:
Thứ nhất: Đối với nợ quá hạn phải thu ngay: là loại nợ bị quá hạn do định kỳ hạn nợ chưa sát, do thu hoạch mùa màng chậm, tiêu thụ sản phẩm và thanh toán chậm, do nguyên nhân khách quan như thiên tai mất mùa, cán bộ tín dụng phải bám sát khách hàng để theo dõi đôn đốc thu hồi nợ, cho phép khách hàng được ra hạn nợ. Khi khách hàng có đủ khả năng trả nợ phải thu ngay, thu đủ 100%. Tuy nhiên Ngân hàng cần ngăn chặn việc gia hạn nợ tuỳ tiện, gia hạn để chạy theo chỉ tiêu đề ra khi nhận khoán, giấu giếm khuyết điểm. Cán bộ tín dụng phải xác định được nguồn hoàn trả của các hộ vay, nếu điều này không thể thực hiện được thì không được phép gia hạn. Đối với hộ vay vốn có tài sản thế chấp khi gia hạn không đủ giá trị theo quy định thì yêu cầu có thêm tài sản thế chấp.
Thứ hai: Đối với nợ quá hạn phải thu dần: Là loại nợ khách hàng thiếu khả năng thanh toán không đủ tiền trả ngay một lần, cán bộ tín dụng phải chia số nợ ra nhiều kỳ để khách hàng trả dần, mỗi lần ít nhất 15% số nợ ghi trên khế ước.
Thứ ba: Đối với nợ khó đòi: Tỷ lệ nợ khó đòi, tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng số nợ quá hạn của Ngân hàng cao do cả nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan như khách hàng sử dụng vốn sai mục đích vay vốn, kinh doanh kém dẫn đến thua lỗ. Có thể áp dụng các biện pháp như thu giữ tài sản thế chấp, thu hồi sản phẩm vào mùa vụ...
3.2.1.6 Ngân hàng đưa ra các sản phẩm khuyến khích:
Các sản phẩm này vừa khuyến khích hộ sản xuất vay vốn vừa khuyến khích hộ trả nợ đúng hạn, bao gồm:
- Khuyến khích hoàn vốn nhanh: Theo đặc tính này, Ngân hàng định ra một mức lãi suất cao hơn mức lãi suất vay thông thường. Nếu khách hàng trả gốc và lãi đúng hạn hoặc trước hạn thì vào ngày đáo hạn khách hàng đó sẽ được hưởng 20% số lãi mà họ đã thanh toán cho Ngân hàng. Yếu tố này thúc đẩy họ thanh toán đúng hạn. Bên cạnh đó đặc tính này tạo ra sự gặp gỡ thường xuyên giữa Ngân hàng và khách hàng, từ đó giúp Ngân hàng giám sát và đưa ra giải pháp giải quyết nợ khó đòi có thể xảy ra hoặc hỗ trợ khách hàng trong sản xuất.
- Cho vay trả góp: Việc thu nợ gốc vào cuối kỳ hạn nợ đã không tạo cho Ngân hàng thói quen trả nợ, đặc biệt đối với những hộ có thu nhập thấp. Vì vậy Ngân hàng đưa ra phương thức cho vay trả góp, phương thức này cho phép khách hàng trả nợ gốc làm nhiều lần trong kỳ hạn nợ vay. Số tiền trả nợ gốc phụ thuộc vào chu kỳ sản xuất kinh doanh và các khoản thu nhập để trả nợ của khách hàng.
- Lãi suất linh hoạt: Ngân hàng đưa ra nhiều mức lãi suất khác nhau ứng với từng mức tiền vay cụ thể, từng loại hình sản xuất, kinh doanh cụ thể để khuyến khích khách hàng vay vốn tập trung vào những mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước và của địa phương.
- Kết hợp tín dụng với tiết kiệm: Ngân hàng đưa ra sản phẩm tiết kiệm nhằm khuyến khích hộ sản xuất đặc biệt là hộ có thu nhập thấp gửi tiết kiệm và vay vốn hoàn trả đúng hạn ứng với những số tiền tiết kiệm, khách hàng được vay một hạn mức tín dụng có ưu đãi về hơn lãi suất, thời hạn. Sản phẩm này vừa giải quyết được vấn đề tài sản thế chấp , vừa bảo đảm để khách hàng hoàn trả tiền vay đúng hạn, vừa góp phần giúp các hộ sản xuất tiết kiệm tiền nâng cao mức sống, mở rộng sản xuất kinh doanh của họ.
3.2.1.7. Duy trì mối quan hệ lâu dài với khách hàng vay vốn.
Mối quan hệ giữa Ngân hàng và khách hàng vay vốn là quan hệ 2 chiều chặt chẽ. Ngân hàng hỗ trợ về vốn sản xuất kinh doanh cho khách hàng và ngược lại, khách hàng vay vốn đem lại nguồn thu chủ yếu cho Ngân hàng. Bởi thế, chính sách đối với khách hàng đối với khách hàng vay vốn là trọng tâm trong chiến lược kinh doanh của bất kỳ Ngân hàng thương mại nào. Đối với NHNo & PTNT huyện Hoa Lư thiết lập được quan hệ lâu dài với hộ sản xuất sẽ đem lại rất nhiều lợi ích:
+ Biết được nhu cầu vay thực tế cũng như chu kỳ sản xuất kinh doanh của họ để có hình thức tài trợ thích hợp đáp ứng nhu cầu vốn.
+ Giảm chi phí để điều tra về khách hàng trước khi ra quyết định cho vay vì thông tin của khách hàng đã được lưu trữ tại Ngân hàng.
+ Bảo đảm an toàn vốn vay và chất lượng tín dụng món vay vì những khách hàng có quan hệ lâu dài thường kinh doanh có hiệu quả và ý thức trả nợ tốt. Từ đó tạo nguồn thu ổn định, vững chắc cho Ngân hàng.
Tuỳ từng đối tượng hộ vay mà Ngân hàng có những chính sách thích hợp. Đối với khách hàng vay vốn lần đầu, nhân viên Ngân hàng phải xoá bỏ tâm lý e ngại ban đầu thông qua sự chủ động giúp đỡ họ giải quyết vướng mắc về thủ tục cho vay, cách thức giải ngân, thu lãi và nợ gốc: tiến hành giải ngân nhanh chóng sau khi xét duyệt cho vay để tạo ấn tượng ban đầu tốt đẹp về hình ảnh Ngân hàng. Đối với khách hàng đã quen từ trước có tín nhiệm, Ngân hàng có thể ưu đãi về lãi suất cho vay, giảm bớt các điều kiện cho vay vốn ... Mặt khác trong quá trình kinh doanh nếu khách hàng gặp khó khăn chưa trả được nợ, Ngân hàng cùng tháo gỡ và tạo điều kiện giúp đỡ họ để họ tiếp tục quá trình sản xuất kinh doanh. Cán bộ Ngân hàng nên thăm hỏi, tặng quà đúng các dịp ý nghĩa như: lễ, tết đối với khách hàng vay lớn có tín nhiệm cao để thắt chặt hơn mối quan hệ.
3.2.2. Giải pháp mở rộng cho vay hộ sản xuất đảm bảo chất lượng.
3.2.2.1. Lập kế hoạch cho vay.
Hoạt động cho vay hộ sản xuất tạo ra thu nhập hàng đầu cho NHNo & PTNT huyện Hoa Lư. Sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng cơ cấu vốn đầu tư và được đảm bảo khi có sự lựa chọn khách hàng cẩn thận. Tất cả điều những điều này nằm trong chính sách cho vay hay kế hoạch chiến lược các hoạt động cho vay của Ngân hàng. Cơ cấu kế hoạch có thể chia ra thành 2 phần cụ thể là:
- Xác định thị trường: Là đề ra phương hướng cho vay của Ngân hàng bao gồm việc lựa chọn các ngành hoặc hoạt động kinh tế có triển vọng phục vụ hiệu quả và lâu dài, hạn chế cho vay ngành kém hiệu quả.
- Thiết lập đường lối tín dụng: Là xác định phương hướng chung phân bổ các khoản cho vay khách hàng thuộc các nhóm ngành. Điều này giúp Ngân hàng phân bổ một cách cân đối cơ cấu đầu tư nhằm đạt được sự tăng trưởng bền vững trong ngành được tài trợ trong khi vẫn cho phép đa dạng hoá hoạt động, phân tán rủi ro trong cho vay.
Việc thiết lập căn cứ trên mục tiêu chương trình phát triển kinh tế của tỉnh cũng như định hướng của ngành, phân định chức năng rõ ràng với từng đơn vị cơ sở. Các chi nhánh Ngân hàng huyện (Ngân hàng cấp III ) cung cấp các dữ liệu kinh tế xã hội, báo cáo về cơ cấu cho vay, phân tích cung cầu tín dụng của hộ sản xuất tại địa bàn hoạt động. Yêu cầu đặt ra thông tin phải đảm bảo tính chính xác, đầy đủ, kịp thời và thường xuyên được cập nhật. NHNo & PTNT Huyện Hoa lư đã tổng hợp và sàng lọc thông tin lập ra kế hoạch cho vay thường niên và thời kỳ 3 năm, 5 năm. Việc lập kế hoạch chính xác và khoa học sẽ hướng dẫn các nhân viên Ngân hàng nhất là cán bộ tín dụng tập trung nỗ lực vào đối tượng khách hàng chính một cách hiệu quả hơn.
3.2.2.2. Tăng cường tiếp cận đến từng hộ sản xuất.
Việc xây dựng và củng cố mạng lưới Ngân hàng cơ sở rộng khắp với nhiều điểm giao dịch là điều kiện thuận lợi giúp cho Ngân hàng tiếp xúc gần hơn đến các hộ gia đình nhưng chưa tạo điều kiện cho khách hàng nhỏ đến với Ngân hàng. Một số lý do hộ sản xuất còn ít được tiếp cận đến tín dụng Ngân hàng đã được tổng kết lại:
1. Thiếu thông tin từ phía Ngân hàng.
2. Nhiều vùng còn xa với các điểm giao dịch của Ngân hàng.
3. Chi phí cho vay cao.
4. Yêu cầu thế chấp ngặt nghèo.
5. Hồ sơ giấy tờ phức tạp.
6. Rủi ro trong nông nghiệp có thể dẫn đến khách hàng không trả được nợ.
Do đó việc tiếp xúc trực tiếp với các hộ gia đình đóng một vai trò quan
trọng trong việc mở rộng tiếp cận. Ngân hàng cần một hệ thống thông tin tuyên truyền về lợi ích khi quan hệ với Ngân hàng cũng như giúp đỡ tìm ra vướng mắc của họ để cùng tháo gỡ. Để mở rộng tiếp cận từng hộ sản xuất, Ngân hàng cần thực hiện một số vấn đề sau:
Thứ nhất: Cần tăng cường năng lực thẩm định món vay nhỏ và quy trình cho vay để đẩy mạnh tiến bộ mở rộng khả năng tiếp cận.
Thứ hai: Cần tăng cường năng lực thẩm định các món vay nhỏ và quy trình thẩm định cũng nên được hoàn thiện với các thủ tục riêng để đơn giản hoá hoạt động phân tích dự án. Cần soạn thảo các bảng tham khảo nhanh chóng về doanh thu và chi phí dưới hình thức một danh sách kiểm tra đối với từng hoạt động sản xuất khác như: chăn nuôi, trồng trọt ...
Thứ ba: Khi đánh giá hiệu quả công việc của cán bộ tín dụng, nên bổ sung thêm một tiêu thức đó là số lượng người vay do cán bộ tín dụng quản lý.
Thứ tư: Cán bộ tín dụng không nên bị bắt buộc phải đình chỉ hoạt động cho vay của mình trong trường hợp đã tuân thủ đầy đủ các quy chế cho vay trong quá trình thẩm định, xét duyệt và theo dõi khoản vay. Nếu như cán bộ tín dụng đã tuân thủ đầy đủ các quy chế cho vay, họ không nên quy trách nhiệm đối với những rủi ro đã xảy ra. Rủi ro của các khoản vay trong trường hợp đó mang tính chất thể chế hơn là rủi ro của cá nhân tín dụng.
3.2.2.3. Đa dạng hoá các loại hình cho vay, phương thức cho vay có kết hợp giữa thời hạn cho vay với chu kỳ sản xuất và thu hoạch.
Phương thức cho vay từng lần có ưu điểm là có thể đảm bảo an toàn vốn vay do mỗi lần cho khách hàng vay, Ngân hàng đều tiến hành thẩm định hồ sơ xin vay; đồng thời có thể kế hoạch hóa được nguồn vốn và việc tính toán thu nợ, thu lãi đơn giản hơn xong nó có nhược điểm là thủ tục xin vay rườm rà, không thuận tiện cho khách hàng, khối lượng hồ sơ chứng từ nhiều. Hiện nay, với phương châm hoạt động định hướng theo khách hàng, các Ngân hàng ở nhiều nước trên thế giới và một số Ngân hàng thương mại Việt Nam áp dụng phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng rất phổ biến. Như vậy, để tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng, giảm khối lượng giấy tờ trong kế toán, tăng cường khả năng cạnh tranh, NHNo & PTNT Việt Nam nên áp dụng phương pháp cho vay theo hạn mức nhiều hơn.
Trong điều kiện hiện nay, việc áp dụng phương pháp cho vay này tại NHNo & PTNT huyện Hoa Lư gặp một số khó khăn sau:
- Do nhu cầu vốn đa số hộ sản xuất là không thường xuyên, những hộ này thường thiếu vốn đầu tư ban đầu nên họ chỉ vay một lần rồi thôi hoặc sau một thời gian khá dài họ mới vay lại.
- Do hoạt động sản xuất kinh doanh của các hộ sản xuất phần lớn là không ổn định: hiện nay thị trường tiêu thụ các mặt hàng do các hộ sản xuất kinh doanh trong các ngành nông, lâm, ngư, diêm nghiệp rất thất thường lúc thì được lãi rất lớn, lúc thì lại thua lỗ kéo dài do công tác dự báo thị trường của ta còn khá hạn chế, các hộ sản xuất chưa có kế hoạch lâu dài, vững chắc, thấy trồng cây gì, con gì có lãi cao là đổ xô vào dẫn đến cung vượt cầu, hàng không bán được, rồi thua lỗ như việc trồng điều, tiêu, ớt, nuôi tôm...
Đối với hộ vay vốn kinh doanh buôn bán thì họ có nhu cầu vốn thường xuyên song cũng do thị trường biến động nên khi buôn bán gặp nhiều khó khăn. Hiện nay đa số các đại lý là đại lý hoa hồng, vốn tự có hầu như không có nên cán bộ tín dụng rất khó xác định nhu cầu vay vốn thực tế của họ là bao nhiêu.
Với những khó khăn trên, để có thể áp dụng phương thức co vay này một cách hiệu quả, Ngân hàng cần phải phân chia khách hàng, cụ thể ở đây là các hộ sản xuất bao gồm cả hộ gia đình, cá nhân, tổ hợp tác thành các nhóm. Đối với những hộ sản xuất có nhu cầu vay vốn không thường xuyên thì áp dụng phương pháp cho vay từng lần, còn những hộ có nhu cầu vốn thường xuyên thì chỉ nên áp dụng phương pháp cho vay theo hạn mức tín dụng đối với:
+ Các hộ hoạt động trong các ngành nông lâm ngư diêm nghiệp có nhu cầu vốn thường xuyên như các trang trại trồng trọt chăn nuôi với quy mô lớn, làm ăn có hiệu quả, thu nhập tương đối ổn định. Đối với những hộ này, do nhu cầu thị trường hiện nay có nhiều biến động nên cán bộ tín dụng cần phải kiểm tra nắm bắt tình hình kinh doanh của họ, có thể giới thiệu mối làm ăn hoặc đưa ra lời khuyên giúp họ hoạt động tốt hơn.
+ Đối với những hộ làm nghề thủ công mỹ nghệ kinh doanh có hiệu quả, có nhu cầu vốn thường xuyên như các hộ làm nghề chạm, khắc, dệt lụa, mây tre đan xuất khẩu...
+ Đối với các đại lý bán buôn và bán lẻ hoạt động kinh doanh tốt. Đối với những hộ này, khi cho vay cán bộ tín dụng cần phải biết các mối quan hệ làm ăn, số tiền mà hộ thực sự bỏ ra để kinh doanh, trên cơ sở đó xác định chính xác nhu cầu vốn vay của khách hàng. Ngoài ra, cán bộ tín dụng cũng phải quan tâm đến danh mục mặt hàng mà hộ kinh doanh, xem xét nhu cầu về mỗi mặt hàng trên địa bàn, qua đó đánh giá sự hợp lý của danh mục hàng hoá kinh doanh và có thể đưa ra lời khuyên cho khách hàng nên tăng cường buôn bán mặt hàng gì để có hiệu quả cao.
Thực hiện phương thức cho vay tay ba. Đây là phương thức cho vay gián tiếp đến hộ sản xuất thông qua các công ty cung ứng vật tư, công ty bao tiêu sản phẩm. Cơ cấu cho vay gồm ba bên: Ngân hàng, công ty cung ứng sản phẩm hoặc công ty bao tiêu sản phẩm và hộ sản xuất.
Như vậy, nhìn chung trong thời gian qua Ngân hàng đã từng bước đa dạng hoá hình thức cho vay, góp phần tích cực thúc đẩy sự phát triển của nông nghiệp và nông thôn, song cần phải kết hợp giữa thời hạn cho vay với với chu kỳ sản xuất và thu hoạch của sản phẩm nông nghiệp, vì đối tượng cho vay phải tương ứng với chu kỳ sản xuất cộng với thời gian tiêu thụ sản phẩm, như vậy mới tạo điều kiện cho các hộ nông dân thu hồi được vốn và có lãi để trả nợ.
3.2.2.4. Ngân Hàng chủ động tìm các dự án và tư vấn cho khách hàng.
Một nguyên nhân dẫn đến khách hàng không có khả năng trả nợ là khách hàng không biết sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và tiêu thụ ở đâu. Vì thế nhu cầu tư vấn của khách hàng lớn. Muốn giải quyết vấn đề này đòi hỏi Ngân hàng phải thực hiện tốt các giải pháp sau:
- Thứ nhất: Ngân hàng chủ động phối hợp cùng các ngành khác tìm kiếm các dự án sản xuất, kinh doanh đưa đến cho khách hàng và trợ giúp vốn cho khách hàng. Ngân hàng giúp khách hàng lập dự án và tính toán khả năng sinh lời của dự án.
- Thứ hai: Ngân hàng phối hợp với các cơ quan khoa học, kỹ thuật để giúp tư vấn cho khách hàng về kỹ thuật sản xuất, về hoạt động liên quan đến sản xuất kinh doanh, về ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
- Thứ ba: Ngân hàng tổ chức các lớp đào tạo cán bộ tín dụng về khoa học kỹ thuật, liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh, về pháp luật ... để cán bộ tín dụng trực tiếp tư vấn cho khách hàng.
- Thứ tư: Ngân hàng tư vấn cho khách hàng về các vấn đề pháp lý liên quan đến hợp đồng sản xuất, kinh doanh, hợp đồng thực hiện dự án khi có nhu cầu.
- Thứ năm: Ngân hàng chủ động phối hợp với các ngành khác tìm thị trường cung ứng vật tư và thị trường tiêu thụ sản phẩm cho khách hàng. Đồng thời Ngân hàng cũng thực hiện cho hộ sản xuất vay thông qua các công ty cung ứng vật tư và tổ chức tiêu bao sản phẩm. Đây là hình thức cho vay gián tiếp đến hộ sản xuất của Ngân hàng, với quy trình tín dụng có cơ cấu ba bên: Ngân hàng, Công ty cung ứng vật tư hoặc đơn vị bao tiêu sản phẩm và hộ sản xuất.
3.2.2.5. Cải tiến hồ sơ thủ tục và thể lệ tín dụng sao cho vừa đơn giản, vẫn đảm bảo tính pháp lý cao.
Trong điều kiện hiện nay, số hộ có đủ giấy tờ hợp lệ, đủ trình độ để kê khai những giấy tờ trong quy định về thể lệ tín dụng của Ngân hàng chưa nhiều, song nhu cầu vốn lại rất lớn. Nếu Ngân hàng không cho họ vay thì sẽ dẫn đến mất khách hàng, hoặc tổ chức tín dụng khác thu hút mất, cho nên cho nên việc cải tiến thủ tục hồ sơ gọn nhẹ an toàn và thuận tiện là một yêu cầu tất yếu, muốn vậy Ngân hàng cần phải:
- Có thể lệ tín dụng chung mà trong đó chỉ quy định đối tượng không cho vay còn biện pháp cho vay, điều kiện cho vay cần cụ thể cho một số đối tượng, địa bàn đặc thù. ở những vùng hẻo lánh, vùng xa do hạn chế về trình độ và điều kiện đi lại làm thủ tục khó khăn, vậy giấy tờ không thể dài dòng và phức tạp.
- Cải tiến bộ hồ sơ cho vay của hộ loại II, rút bớt hoặc gộp một số loại giấy tờ còn chồng chéo, trùng lặp để tạo điều kiện đơn giản hoá trong quá trình lập hồ sơ và theo dõi thực hiện cả đối với Ngân hàng và khách hàng như: nên tìm cách gộp tờ khai tài sản thế chấp, biên bản định giá tài sản, giấy uỷ quyền phát mại tài sản vào cùng hợp đồng thế chấp (vì đằng nào thông tin trong những giấy tờ này phải nêu lại trong hợp đồng thế chấp) nhưng vẫn phải đảm bảo tính pháp lý.
3.2.2.6 Vấn đề tài sản thế chấp.
Mọi Ngân hàng khi cho vay đều muốn thu hút nguồn vốn của mình bằng con đường hoàn trả cả gốc và lãi của người vay chứ không muốn bằng con đường xử lý những tài sản dùng làm đảm bảo tiền vay.
Mặc dù vậy cầm cố, thế chấp tài sản vẫn là cần thiết khi cho vay vì đó là cơ sở để thu hồi vốn khi người vay không hoàn trả được nợ nhất là đối với hoạt động của các hộ sản xuất nông nghiệp có nhiều rủi ro cho nên trong thời gian tới, vấn đề tài sản thế chấp Ngân hàng cần phải:
- Không nên quá tập trung vào vấn đề tài sản thế chấp, cầm cố khi xem xét một khoản vay vì nhiều khi sẽ mất đi cơ hội kinh doanh mà tuỳ từng trường hợp cụ thể kết hợp với hình thức tín chấp, đơn giản hoá những vấn đề liên quan dến những tài sản thế chấp cầm cố vì thực tế khi đến vay Ngân hàng thì loại giấy tờ mà người vay phải kê khai nhiều khi không phải giấy tờ liên quan trực tiếp đến khoản vay mà chủ yếu những giấy tờ này liên quan đến tài sản đảm bảo tiền vay trong trường hợp thế chấp cầm cố chỉ là một hợp đồng phụ của hợp đồng tín dụng hoàn toàn không có ý nghĩa quyết định để nâng cao chất lượng tín dụng.
- Khi các cơ quan quản lý nhà nước chịu trách nhiệm cấp giấy chứng thư quyền sở hữu tài sản cho các chủ sở hữu còn chậm, chưa được rộng khắp thì Ngân hàng chủ động thay đổi một số quy định về thế chấp, cầm cố để giữ khách hàng là cần thiết.
3.2.2.7 Phát huy hiệu quả cơ chế khoán tài chính.
Theo khoán tài chính thì dùng 5 chỉ tiêu: nguồn vốn, dư nợ, thu nợ đến hạn, thu nợ quá hạn, thu lãi để xác định thu nhập cho từng cán bộ tín dụng đã đem lại những tác động tích cực nhưng do môi trường kinh doanh của mỗi địa bàn khác nhau ảnh hưởng rất lớn đến kết quả hoạt động của Ngân hàng nói chung, cán bộ tín dụng nói riêng, thực tế cho thấy những nơi có môi trường kinh doanh thuận lợi thì cán bộ tín dụng cũng như Ngân hàng có thể hoàn thành 5 chỉ tiêu này một cách dễ dàng, có thu nhập cao và ngựơc lại với các địa bàn khó khăn cán bộ tín dụng sẽ rất khó hoàn thành 5 chỉ tiêu, và thu nhập sẽ thấp.
Như vậy, những chỉ tiêu này áp dụng chung cho mọi Ngân hàng và cán bộ tín dụng thì không phù hợp. Cho nên Ngân hàng cần điều chỉnh lại các chỉ tiêu trên theo từng địa bàn để cho công bằng đảm bảo đời sống thu nhập của các cán bộ tín dụng.
3.3. Một số kiến nghị.
3.3.1. Đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
- Ngân hàng Nhà nước cần có những chính sách và biện pháp tích cực sớm nâng cao chất lượng công tác thông tin tín dụng phục vụ cho vay của các Ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng, cần bắt buộc các Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng tham gia vào hoạt động của hệ thống thông tin tín dụng, coi đó như một quyền lợi và nghĩa vụ của mình.
- Ngân hàng Nhà nước cần có biện pháp nâng cao hơn nữa chất lượng công tác thanh tra, kiểm soát để đảm bảo cho hoạt động tín dụng an toàn, hiệu quả và môi trường cạnh tranh lành mạnh trong kinh doanh tiền tệ tín dụng và dịch vụ Ngân hàng. Các tổ chức tài chính, Ngân hàng nước ngoài, tổ chức tín dụng quốc doanh và ngoài quốc doanh của Ngân hàng Nhà nước, không được hạ thấp tiêu chuẩn tín dụng để cạnh tranh một cách không lành mạnh, giành giật khách hàng của nhau.
- Đề nghị Ngân hàng Nhà nước phối kết hợp với các Bộ, Ngành có liên quan để sửa đổi, bổ sung một số nội dung tại thông tư số 03/TTLT/NHNN - BTP - BCA - BTC - TCĐC hướng dẫn việc xử lý tài sản đảm bảo tiền vay để thu nợ cho các tổ chức tín dụng, cụ thể như sau:
+ Tài sản đảm bảo tiền vay tại tổ chức tín dụng hầu hết là bất động sản và đây cũng là vướng mắc nhất khi xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ, tại khoản 2 mục III phần B thông tư 03 quy định: “Trong trường hợp tài sản đảm bảo là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất không xử lý được theo thoả thuận của các bên trong hợp đồng thì các tổ chức tín dụng đưa tài sản ra bán đấu giá để thu hồi nợ hoặc khởi kiện ra Toà án”. Đây là vấn đề rất khó khăn, vướng mắc trong thực tế do thủ tục, trình tự đấu giá, thủ tục tố tụng dân sự. Vì vậy đề nghị theo hướng “tổ chức tín dụng có quyền chủ động áp dụng các phương thức xử lý tài sản đảm bảo, tức là trực tiếp bán, chuyển nhượng, cho thuê tài sản để thu hồi nợ”.
+ Nên bỏ nội dung: tổ chức tín dụng phải xin phép việc bán đấu giá quyền sử dụng đất vì việc thế chấp quyền sử dụng đất đã được đăng ký tại Sở địa chính hoặc UBND xã - phường - thị trấn mà thay vào đó là khi bán quyền sử dụng đất, tổ chức tín dụng có thể trực tiếp bán cho người mua theo quy định tại Nghị định 178. + Đề nghị cho miễn thuế chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản bảo đảm để xử lý thu hồi nợ
- Ngân hàng Nhà nước trên địa bàn tỉnh cần nắm vững phương hướng nhiệm vụ và mục tiêu phát triển kinh tế của tỉnh nhà, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội của toàn tỉnh, những ngành kinh tế mũi nhọn để tư vấn cho các tổ chức tín dụng trên địa bàn để đầu tư cho các dự án định hướng phát huy được hiệu quả vốn tín dụng và đảm bảo thu hồi vốn đúng hạn. Thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra tại chỗ cũng như giám sát từ xa đối với hoạt động của các tổ chức tín dụng trên địa bàn nhằm ngăn chặn tình trạng cạnh tranh thiếu lành mạnh của các tổ chức tín dụng, mặt khác ngăn chặn cán bộ tín dụng thực hiện sai các văn bản chế độ cũng như quy trình nghiệp vụ cho vay góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của ngành Ngân hàng trên toàn tỉnh.
3.3.2.Đối với uỷ ban nhân dân tỉnh Ninh Bình.
Trên cơ sở kế hoạch phát triển kinh tế của tỉnh, đề nghị tỉnh chỉ đạo các ngành chức năng có quy hoạch cụ thể kinh tế vùng, ngành nghề, cây con. Từ đó, chỉ đạo xây dựng các dự án khả thi làm căn cứ giúp Ngân hàng nghiên cứu đầu tư phục vụ phát triển kinh tế địa phương; chỉ đạo các cơ quan hữu quan phối hợp với nhau tạo điều kiện giúp đỡ Ngân hàng trong việc xử lý tài sản đảm bảo. Tiếp tục chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tạo điều kiện cho các hộ vay vốn dễ dàng hơn; nghiên cứu điều chỉnh khung giá đất thổ cư phù hợp với giá thị trường, tạo thuận lợi để người vay tăng giá trị tài sản đảm bảo, nâng mức vốn vay Ngân hàng; tăng cường phối hợp giữa các ban ngành để làm công tác dự báo thị trường, đặc biệt là thị trường nông phẩm tốt hơn; giành một số kinh phí của tỉnh để hỗ trợ cho các hợp tác xã, các hộ sản xuất nâng cao trình độ quản lý, hiểu biết về kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi, chế biến.
3.3.3. Đối với NHNo&PTNT Việt Nam:
Chính phủ đã ban hành văn bản về ưu đãi cho vay đối với mô hình kinh tế trang trại, NHNo & PTNT Việt Nam nên sớm ban hành quy chế cho vay mô hình kinh tế này. Đề nghị NHNo & PTNT Việt Nam kiến nghị với các cơ quan chính phủ có biện pháp tăng cường hiệu lực của các trung tâm bán đấu giá để hỗ trợ Ngân hàng xử lý nợ bằng các biện pháp như xiết nợ, mua bán nợ, xử lý triệt để những khoản nợ khó đòi.
NHNo &PTNT Việt Nam cần nghiên cứu, tổng kết cho phù hợp hơn về cơ chế cho vay qua tổ nhóm, cơ chế giải ngân, thu nợ mô hình tổ chức cho vay lưu động, xác định rõ hình thức cho vay trang trại để mở rộng các mô hình có hiệu quả, tạo hành lang pháp lý rõ ràng, chặt chẽ, thuận lợi cho mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất.
NHNo & PTNT Việt Nam cần định ra sản phẩm dịch vụ cải tiến phù hợp với thực tế (với hộ nông dân, hộ sản xuất) như áp dụng hình thức tài khoản tiền gửi không kỳ hạn với nhiều mức lãi suất khác nhau tuỳ thuộc vào số dư trên tài khoản.
NHNo & PTNT Việt Nam nên tiếp tục mở rộng mạng lưới đến cấp xã hơn nữa để chiếm lĩnh thị trường, giữ vững khách hàng truyền thống. Đồng thời chuyển các Ngân hàng liên xã thành các đơn vị sinh lời, tạo điều kiện cho việc triển khai hệ thống khuyến khích cán bộ, hệ thống thông tin quản lý nhằm phân tích đầy đủ chính xác hơn nữa về tình hình hoạt động của mỗi chi nhánh.
3.3.4 Đối với NHNo & PTNT Tỉnh Ninh Bình.
Để nâng cao chất lượng tín dụng trước hết cần quan tâm tới con người vì yếu tố con ngươì là trung tâm của mọi vấn đề. Lãnh đạo Ngân hàng nên triển khai đào tạo đội ngũ cán bộ có năng lực thấp, đào tạo và giúp đỡ cán bộ tín dụng có kiến thức về cơ chế thị trường, những kiến về khoa học kỹ thuật liên quan đến hoạt động Ngân hàng, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, có như vậy cán bộ tín dụng mới có đủ khả năng đánh giá, thẩm định các dự án đầu tư đạt kết quả. Đặc biệt nâng cao trình độ vi tính và ngoại ngữ để hướng tới việc "giao dịch một cửa".
Phối hợp với ban ngành kinh tế trong tỉnh phổ biến và triển khai mạnh mẽ chủ trương cho vay của Chính phủ theo quyết định 67/ QĐ- CP về chính sách tín dụng đối với việc phát triển nông nghiệp nông thôn.
Tăng cường cơ sở vật chất: máy tính, các phương tiện làm việc cho các chi nhánh, từng bước hiện đại hoá Ngân hàng, góp phần nâng cao vị thế Ngân hàng trên thị trường.
Phối hợp với ngành liên quan để xây dựng các định mức kinh tế kỹ thuật của từng loại cây con chủ yếu trên địa bàn, qua đó chỉ đạo các NHNo&PTNT trực thuộc xây dựng định suất đầu tư phù hợp với thực tế trên địa bàn, chỉ đạo các chi nhánh Ngân hàng trực thuộc phối hợp với UBND phường (huyện), xã thực hiện việc lập "Hồ sơ kinh tế địa phương ", xây dựng đề án chiến lược kinh doanh theo sự chỉ đạo của NHNo & PTNT Việt Nam, để giúp cho cán bộ tín dụng xác định chính xác nhu cầu của hộ.
Tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền, quảng cáo hoạt động của Ngân hàng trên các phương tiện thông tin đại chúng, vận động khách hàng mở tài khoản tiền gửi tư nhân và vận động thanh toán không dùng tiền mặt qua Ngân hàng.
Đề nghị NHNo & PTNT Việt Nam nghiên cứu chế độ ưu đãi cho đội ngũ cán bộ tín dụng ở địa bàn nông thôn các chế độ về công tác phí thoả đáng, để khuyến khích cán bộ tín dụng bám sát địa bàn, hoàn thành suất sắc nhiệm vụ.
Đề nghị với chính phủ cho phép cho vay theo quyết định 67/ QĐ- CP đối với nhu cầu vay vốn phục vụ tiêu thụ hàng nông sản tại nông thôn, những hộ kinh doanh nhỏ ở thành thị để tạo điều kiện cho khách hàng được vay vốn thuận tiện.
Tóm lại, đầu tư tín dụng đối với hộ sản xuất là một bộ phận quan trọng trong tổng thể các loại hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT. Để mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất, cần phải có sự phối kết hợp đồng bộ của các cấp, các cơ quan, ban ngành liên quan và sự nỗ lực của bản thân Ngân hàng thì mới đạt được hiệu quả cao.
Kết luận
Đường lối đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước đề ra đã tạo môi trường thuận lợi cho các thành phần kinh tế phát huy tiềm năng, thế mạnh của mình. Trong quá trình đổi mới cơ cấu kinh tế theo hướng Công nghiệp hóa-hiện đại hóa, các Ngân hàng thương mại đóng vai trò rất quan trọng với và họ thực sự đã góp phần lớn vào công cuộc đổi mới của đất nước. Với phương châm “Đi vay để cho vay”, vốn tín dụng thực sự thúc đẩy được sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế, đã và đang từng bước xoá đói giảm nghèo ở nông thôn và phát triển kinh tế theo chiến lược phát triển kinh tế đến năm 2010 của Đảng và Nhà nước.
Trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, các thành phần kinh tế đều tham gia vào quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá, các quan hệ kinh tế được mở rộng, cho vay với mọi thành phần kinh tế ngày càng nhiều, rủi ro về khả năng thu hồi vốn ngày một tăng lên. Với tư cách là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, đồng thời là một công cụ hữu hiệu của Nhà nước nhằm phục vụ lợi ích phát triển kinh tế xã hội, các Ngân hàng thương mại nói chung và NHNo & PTNT huyện Hoa Lư nói riêng đã từng bước chuyển dịch cơ cấu tín dụng của mình hướng tới mở rộng quan hệ tín dụng với mọi thành phần kinh tế để khai thác tiềm năng, thế mạnh phát triển kinh tế của tỉnh Ninh Bình và của đất nước, đặc biệt là thành phần kinh tế hộ sản xuất có tiềm năng to lớn, thu hút nguồn vốn lớn trong tổng nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế, là nhân tố chủ yếu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng Công nghiệp hóa-hiện đại hóa. Mặc dù trong quá trình hoạt động kinh doanh còn gặp nhiều khó khăn, chất lượng tín dụng chưa thực sự cao nhưng với định hướng đúng đắn và với sự nỗ lực, cố gắng của mình, NHNo & PTNT Hoa Lư đã ngày càng mở rộng tín dụng và cũng như từng bước nâng cao được chất lượng tín dụng đối với các thành phần kinh tế nói chung và kinh tế hộ sản xuất nói riêng, góp phần thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển theo hướng Công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước.
Qua quá trình học tập tại trường cộng với thời gian thực tập 3 tháng tại NHNo & PTNT huyện Hoa Lư, tôi đã tiếp thu được những kiến thức lý luận cơ bản và những kinh nghiệm làm việc thực tế nhất định. Mặc dù đã được sự giúp đỡ tận tình của cô giáo, thạc sỹ Lê Hương Lan và các cô, các chú trong NHNo & PTNT Huyện Hoa Lư song chuyên đề của tôi mới chỉ đưa ra được một số giải pháp và kiến nghị chưa thật cụ thể. Tuy vậy, tôi cũng hy vọng rằng những ý kiến của tôi sẽ được Ngân hàng tiếp thu, trên cơ sở đó Ngân hàng sẽ nghiên cứu thêm để có thể ứng dụng trong thực tế, từng bước nâng cao chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất.
Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của cô giáo, thạc sỹ Lê Hương Lan và Ban lãnh đạo cùng toàn thể cán bộ nhân viên NHNo & PTNT huyện Hoa Lư đã tạo điều kiện cho tôi hoàn thành chuyên đề này./.
mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 2313.doc