Hình thức này áp dụng đối với khách hàng có nhu cầu và đề nghị vay vốn từng lần, khách hàng có nhu cầu vay vốn không thường xuyên hoặc khách hàng mà ngân hàng xét thấy cần thiết phải áp dụng cho vay từng lần để giám sát, kiểm tra, quản lý việc sử dụng vốn vay chặt chẽ an toàn. Mỗi lần vay vốn khách hàng và ngân hàng phải làm các thủ tục vay vốn cần thiết và ký hợp đồng tín dụng. Mỗi hợp đồng tín dụng có thể phát tiền vay một hay nhiều lần phù hợp với tiến độ và yêu cầu sử dụng vốn thực tế của khách hàng. Ngân hàng cho vay phải quản lý chặt chẽ doanh số cho vay đảm bảo tổng số tiền trên các giấy nhận nợ do khách hàng lập không vượt quá số tiền đã ký trong hợp đồng tín dụng.
* Cho vay theo hạn mức tín dụng
Theo hình thức này, ngân hàng và khách hàng ký hợp đồng tín dụng thoả thuận hạn mức tín dụng duy trì trong một thời hạn nhất định hoặc theo chu kỳ sản xuất kinh doanh. Như vậy, khách hàng được rút vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng cho phép căn cứ vào nhu cầu vốn của phương án sản xuất kinh doanh và chỉ phải xuất trình những thủ tục đơn giản, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp. Hình thức tín dụng này thường được áp dụng cho các khách hàng có nhu cầu vay vốn thường xuyên, sản xuất kinh doanh ổn định, có uy tín trong quan hệ kinh doanh với ngân hàng.
88 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1053 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại Sở giao dịch ngân hàng ngoại thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hàng có thể dùng giấy nhận nợ đó đem thế chấp lại một Ngân hàng khác để vay vốn. Nếu khắc phục được các rủi ro đi kèm, phương thức này là một hình thức đầu tư hấp dẫn đối với Ngân hàng ( không cần thiết phải xuất tiền cho vay) - Thí điểm áp dụng loại hình cho vay theo hình thức " Không thời han ".
Theo hình thức này món cho vay sẽ không có thời hạn hoàn trả cụ thể định trước, thay nào đó Ngân hàng sử dụng hình thức có báo trước. Nghĩa là khi muốn thu nợ Ngân hàng có thể báo trước cho khách hàng. Khách hàng sẽ có một thời gian nhất định để chuẩn bị nguồn tiền cần thiết trả cho Ngân hàng. Thực tế đây là một hình thức tín dụng khá linh hoạt cả về thời hạn và lãi suất. Mức lãi suất sẽ được điều chỉnh theo một tiêu thức chung trên thị trường (chẳng hạn theo lãi suất tín phiếu kho bạc ) .
Ngân hàng nên phát triển các trung tâm dịch vụ và tư vấn đầu tư
Trong thời đại hiện nay, khi nền kinh tế đã phát triển, hệ thống thông tin đã rộng khắp, mạng lưới tin học đã đi sâu vào mọi lĩnh vực ngành nghề thì việc đáp ứng các hiểu biết của con người trở lên cần thiết hơn. Cũng như nhiều trung tâm tư vấn khác, tư vấn của Ngân hàng là một lĩnh vực nhằm đánh giá phân tích, dự báo các thông tin về tình hình kinh tế, xã hội, pháp luật, thị trường, giá cả ... Liên quan đến vấn đề đầu tư giúp cho các DN đưa ra quyết định đầu tư một cách đúng đắn nhất, sáng suốt nhất .
Cho đến nay hầu như các DN ở nước ta ít hiểu biết về lĩnh vực đầu tư, chính vì vậy đầu tư vào các công trình chưa thu hút được kết quả như mong muốn, rủi ro đầu tư vẫn còn. Để phổ biện rộng khắp, giải đáp các thắc mắc, Ngân hàng nên có trung tâm dịch vụ tư vấn và đầu tư về các công trình, hướng dẫn cố vấn cho DN, tạo điều kiện cho các DN phát triền nhanh hơn, điều đó cũng làm cho chính Ngân hàng phát triển, thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế phát triển .
Tăng cường thực hiện Marketing Ngân hàng
Nhìn chung các NHTM nước ta chưa nhận thức được đầy đủ tầm quan trọng của Marketing trong hoạt động Ngân hàng nên chưa dành sự quan tâm hợp lý, thích đáng cho nó. Tư duy kinh doanh theo quan niệm Marketing còn thiếu vắng ở các NHTM Việt Nam, dẫn tới việc Marketing tuy bước đầu đã được ứng dụng trong Ngân hàng nhưng chủ yếu mới tập trung vào các hoạt động bề nổi như quảng cáo, khuếch trương còn các chức năng chủ yếu có ý nghĩa quan trọng quyết định sự thành công trong thực hành Marketing như nghiên cứu khách hàng, xác định thị trường mục tiêu, nâng cao uy tín, chất lượng dịch vụ Ngân hàng. .. thì hầu như còn rất mờ nhạt, bế tắc. Do vậy, để đưa Marketing thực sự thâm nhập vào Ngân hàng và phát huy tác dụng của nó, Sở giao dịch cần thực hiện một số biện pháp sau :
- Các cán bộ quản lý cần phải nhanh chóng chuyển sang tư duy kinh doanh mới, lấy quan điểm Marketing làm chủ đạo vì chỉ có tìm hiểu thị trường một cách kỹ lưỡng nắm bắt được sự thay đổi nhu cầu của khách hàng mới có thể đưa ra những giải pháp, chính sách linh hoạt nhằm hướng hoạt động của Ngân hàng về mục tiêu .
- Triết lý Marketing cần phải được thâm nhập vào tất cả các bộ phận giao dịch, tất cả các cán bộ nhân viên trong Ngân hàng .
- Thành lập phòng chức năng Marketing trong cơ cấu tổ chức quản trị, đề ra và định hướng hoạt động Marketing một cách khoa học, với đội ngũ cán bộ thực sự nhạy bén, am hiểu về Marketing .
- Cán bộ Marketing Ngân hàng cần phải xem xét ba yếu tố có tác động trực tiếp đến hoạt động của Ngân hàng :
+ Nhu cầu của khách hàng trên thị trường đối với sản phẩm của Ngân hàng
+ Khả năng thích ứng cầu của tất cả các Ngân hàng đối thủ trên thị trường .
+ Các sản phẩm, dịch vụ cung ứng của chính bản thân Ngân hàng mình .
Tất nhiên, nói thì bao giờ cũng dễ hơn làm, để đưa được Marketing vào Ngân hàng thực tế cần nhiều thời gian và phải trải qua rất nhiều khó khăn. Nhưng thực sự đây là một điều rất cần thiết đối với tất cả các NHTM Việt Nam, đặc biệt khi sự cạnh tranh trong lĩnh vực Ngân hàng mang tính quốc tế .
Mở rộng cho vay thành phần kinh tê'ngoài quốc doanh
Ngân hàng tiếp tục điều chỉnh cơ cấu cho vay và đầu tư phải phù hợp với cơ cấu thành phần kinh tế quốc dân. Đa dạng hóa các hình thức tín dụng để phân chia rủi ro và điều quan trọng là không phân biệt thành phần kinh tế, thực hiện chính sách khách hàng để cho vay .
Hiện nay, tỷ trọng tín dụng ngắn hạn đối với khu vực KTNQD còn quá nhỏ bé và ngày càng giảm sút. Mặc dù quy định về cho vay thành phần kinh tế này đòi hỏi rất cao và chặt chẽ nhưng không vì thế mà Ngân hàng không cho vay ra, thờ ơ với khách hàng, coi những khoản vay này là nhỏ bé ... Ngân hàng cần phải làm tốt hơn nữa quan hệ Ngân hàng - khách hàng, lấy khách hàng là DN ngoài quốc doanh, kinh tế tư nhân để hướng tới. Đặc điểm của các DN ngoài quốc doanh năng động, nhạy bén, thích ứng với cơ chế thị trường, bộ máy kinh doanh gọn nhẹ, hiệu quả kinh tế luôn gắn liền với lợi ích của người sản xuất, tuy vậy sự ra đời cũng như hoạt động của nhiều DN còn rất nhiều điều chưa sáng tỏ, vì vậy Ngân hàng rất dè dặt khi cho vay vì sợ không thu hồi được nợ, khách hàng bỏ trốn mất. Cho nên cho vay khu vực kinh tế này phải vừa biết năng động, nhìn nhận đâu là khách hàng đáng tin cậy, vừa phải phân tích xem khách hàng nào có triển vọng sẽ quịt nợ hay kinh doanh kém mà dẫn tới khả năng không lrả được nợ. Muốn mở rộng ra khu vực này Ngân hàng phải biết chấp nhận kiểu " năng nhặt chặt bị " không chê những vay nhỏ .
2.1. Giải pháp để nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn
2.1.1 Đổi mới chính sách tín dụng
Chính sách tín dụng vừa phải phù hợp với đường lối phát triển của Nhà nước đồng thời đảm đảm bảo kết hợp hài hòa quyền lợi của người gửi, người đi vay và chính bản thân Ngân hàng. Muốn vậy, phải xây dựng chính sách tín dụng trên cơ sở khoa học, phải đảm bảo khả năng sinh lời của các hoạt động tín dụng, trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ pháp luật và đường lối chính sách của Nhà nước, đồng thời đảm bảo tính công bằng. Chính sách tín dụng cần được tiếp tục hoàn thiện, đảm bảo vừa huy động được tiền gửi vào Ngân hàng ( đặc biệt là vốn ngắn hạn,là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn ) vừa đảm bảo NHTM kinh doanh có lãi, bảo toàn được vốn khuyến khích được các DN tiếp cận được nguồn vốn của các Ngân hàng, .
2.1.2 Đơn giản hóa các thủ tục cho vay
Sở giao dịch nên đơn giản hóa các thủ tục xin vay vốn, đẩy mạnh quá trình điều tra xét duyệt cho đối với các dự án có hiệu quả. Nhìn chung, khách hàng đi vay vốn bao giờ cũng ngại thủ tục xét duyệt cho vay quá rườm rà. Trong bộ hồ sơ xin vay vốn trung dài hạn có rất nhiều các thủ tục: Đơn xin vay, luận chứng kinh tế, dự toán công trình kinh tế kỹ thuật được cấp có thẩm quyền phê duyệt, bản quyết toán hiệu quả kinh tế của dự án ...
Trong các khách hàng vay vốn trung dài hạn của Ngân hàng chủ yếu là khách hàng truyền thống và khách hàng lâu dài từ trước đã tham gia vay vốn ngắn hạn của Ngân hàng. Vì vậy giữa bộ hồ sơ vay vốn trung dài hạn với bộ hồ sơ vay vốn ngắn hạn có hai điểm trùng nhau đó là: Báo cáo thực trạng tài chính của DN, báo cáo quyết toán của DN kế tiếp hai năm trước Do đó, Ngân hàng có thể đơn giản hai thủ tục này khi mà DN chưa có đủ thì hoàn toàn có thể áp dụng dựa vào bộ hồ sơ vay vốn ngắn hạn: vì trong nghiệp vụ vay vốn ngắn hạn, cán bộ tín dụng vẫn phải thường xuyên kiểm tra tình hình tài chính của DN. Tuy nhiên việc dựa vào bộ hồ sơ vay vốn ngắn hạn chỉ thường dùng cho các DN có quan hệ thường xuyên với Ngân hàng, còn đối với đơn vị lần đầu thì phải đảm bảo đầy đủ thủ tục. Việc đơn giản hóa như vậy sẽ làm khách hàng không ngần ngại khi đặt quan hệ vay vốn với Ngân hàng. Việc các thủ tục xét duyệt đơn giản cũng sẽ tại điều kiện cho Ngân hàng điều tra có trọng điểm, không mất thời gian tìm hiểu quá lâu. Đơn giản không có nghĩa là qua loa, hời hợt đó là nguyên tắc của Ngân hàng trước khi điều tra cho vay .
2.1.3.Nghiêm túc thực hiện quy trình cho vay, đặc biệt là khâu thẩm định.
Để đạt được hiệu quả cao khi cho vay,cần thực hiện đầy đủ và chặt chẽ quy trình tín dụng,đặc biệt làm tốt công tác thẩm định dự án vay vốn, công tác thẩm tra trong mỗi công đoạn của quy trình tín dụng nhằm nâng cao chất lượng tín dụng, giảm rủi ro ngân hàng,thúc đẩy sản xuất phát triển.
Thẩm tra trước khi cho vay ; là khâu quan trọng đầu tiên để quyết định cho vay, vì vậy cần phải thẩm định theo đúng theo đúng quy trình .
Nếu để xảy ra sai sót trong từng bước này thì vốn tín dụng cho vay sẽ khó có khả năng hoàn trả nợ .
Trình tự kiểm tra thường theo các bước:
Cán bộ tín dụng trực tiếp thẩm định :cán bộ tín dụng là người trực tiếp đưa ra kết luận phân tích kết quả đầu tư:
Phương án, dự án vay vốn phải có hiệu quả, có tính khả thi.
Hồ sơ thủ tục vay vốn phải đầy đủ hợp pháp theo chế độ quy định.Nếu xảy ra tố tụng tranh chấp thì đảm bảo an toàn về pháp lý cho ngân hàng.
Năng lực pháp lý của khách hàng như quyết định thành lập hợp pháp,đăng ký kinh doanh,quyết định bổ nhiêm người đại diện hợp pháp trước pháp luật..
Thẩm định về tính cách, uy tín của khách hàng nhằm hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất :Rủi ro do chủ quancủa khách hàng gây nên như thiếu năng lực,trình độ kinh nghiệm, khả năng thích ứng thị trường, đạo đức..uy tín của kháhc hàng thể hiện ở chất lượng hàng hoá, giá cả , mức độ chiếm lĩnh thị trường, chu kỳ sống của sản phẩm,quan hệ tài chính vay vốn trả nợ với bạn hàng và ngân hàng .
Năng lực tài chính của khách hàng xác định sức mạnh tài chính trong kinh doanh, khả năng thanh toán , khả năng hoàn trả nợ vay vốn của chủ sở hữu tham gia vào dự án, phương án vay vốn.
Trưởng phòng tín dụng : thực hiện kiểm tra việc thẩm định của cán bộ tín dụng, thậm chí tiến hành tái tái thẩm định nếu cần thiết và có ý kiến cho vay hay không.
Trong quá trình thẩm định phương án, dự án vay vốn vấn đề đặt ra là nếu cán bộ tín dụng chưa đủ điều kiện cũng như khả năng để thu thâp kiểm tra thông tin, số liệu, khẳng định kết quả tính toán của mình thì phải phối hợp với các cơ quan chức năng có thẩm quyền và điều kiện giúp đỡ để thẩm định đạt chất lượng cao, chính xác nhất.
Việc quyết định cho vay thực hiện theo nguyên tắc phân định trách nhiệm giữa các khâu thẩm dịnh và quyết định cho vay để nâng cao chất lượng tín dụng .
Thẩm tra quá trình cho vay: quá trình này giúp cho ngân hàng nắm được diễn biến của khoản tín dụng, phát hiện kịp thời khi có biểu hiện rủi ro xảy ra để có biện pháp đảm bảo hạn chế rủi ro tín dụng. Đây là khâu kiểm tra việc sử dụng vốn vay có đúng mục đích,đúng đối tượng không, là cơ sở để vốn vay phát huy hiệu quả, yêu cầu của quá trình này là phải xác định được tiền vay của ngân hàng hiện đang ở đâu,khả năntg thu hồi như thế nào .
Kiểm tra sau khi cho vay và thu nợ: thực hiện nguyên tắc vốn vay có hoàn trả,do vậy các cán bộ ngân hàng phải kiểm tra việc sử dụng vốn của khách hàng .
Kiểm tra sử dụng vốn vay: là công việc xác định xem vốn vay có hiệu quả không, nếu phát hiện sử dụng sai mục đích phải kịp thời thu hồi
Kiểm tra đảm bảo nợ vay (nếu có). Nhằm đảm bảo thường xuyên vốn vay có vật tư làm đảm bảo Trường hợp nợ vay không có đảm bảo phải có biện pháp thu hồi nợ
Đến hạn trả nợ khách hàng không trả nợ được do nguyên nhân khách quan thì ngân hàng xem xét cho gia hạn nợ theo qui định.
Tất toán khế ước, thanh lý hợp đồng tín dụng và đánh giá kết quả đầu tư: sau khi trả hết nợ vay ngân hàng ,cán bộ tín dụng phải tiến hành đánh giá hiệu quả tín dụng tốt hay xấu,phân loại doanh nghiệp để xác lập quan hệ tín dụng nhằm đảm bảo đầu tư có hiệu quả.
Tuy nhiên, công tác này ở các NHTM Việt Nam nói chung và Sở giao dịch1-NHNT nói riêng còn chưa được thực hiện một cách nghiêm túc, hiệu quả. Bên cạnh các nguyên nhân như trình độ của cán bộ tín dụng còn hạn chế, chưa được đào tạo chuyên sâu, thông tin khách hàng cung cấp bị sai lệch ... thì phương pháp thẩm định cũng là một nguyên nhân quan trọng làm cho chất lượng công tác thám định dự án chưa cao .
- Thứ nhất, hiệu quả tài chính cũng như các loại hiệu quả khác, bản chất của nó được thực hiện không đơn thuần chỉ trên một mặt nào đó mà trên nhiều khía cạnh khác nhau .
Do vậy hệ thống chỉ tiêu về thẩm định tài chính dự án đầu tư phải dầy đủ có mối quan hệ chặt chẽ với nhau để phản ánh về dự án đầu tư một cách hiệu quả nhất, trung thực nhất. Kết quả nghiên cứu ở nhiều nước trên thế giới, cho thấy các chỉ tiêu đó tựu trung chia làm hai nhóm chính: một là, các chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lợi của dự án đầu tư; hai là, nhóm phản ánh mức độ rủi ro của dự án. Trong mỗi nhóm chỉ tiêu cần phải lựa chọn, xác định số lượng, loại chỉ tiêu để phản ánh đặc thù của nhóm sao cho phù hợp với hoàn cảnh phân tích cụ thể .
- Thứ hai, thực chất của việc xây dựng tính toán những chỉ tiêu thẩm định dự án tài chính đầu tư có cơ sở toán học chặt chẽ, logic, ở đây, nếu quá chú trọng đến cơ sở lý thuyết thì rất khó cho việc áp dụng triển khai trong thực tiễn thẩm định tài chính dự án vì bị giới hạn nhiều điều kiện như thời gian, hoạt động tổ chức ...
- Thứ ba, hệ thống chỉ tiêu là nội dung chính trong thẩm định phương diện tài chính dự án đầu tư nhưng dù sao nó cũng chỉ là phương tiện để phân tích, đánh giá. Điều quan, trọng là phải sử dụng những chỉ tiêu đó để phân tích, đánh giá chất lượng hiệu quả của dự án đầu tư.
2.1.4 Cho vay kịp thời đầy đủ đối với các dự án có hiệu quả kinh tê'
Ngân hàng cần tiến hành đầu tư dứt điểm cho từng dự án, từng công trình tránh tình trạng cho vay thiếu hài hòa, khi thì tràn lan, khi thì thưa thớt. Trong quá trình điều tra xét duyệt cho vay, Ngân hàng cần chú trọng đến những công trình phục vụ xây dựng cơ cấu ca nền kinh tế quốc dân, thực sự có hiệu quả, đảm bảo đầu tư đúng mục đích, đúng kế hoạch có khả năng trả nợ lãi vay Ngân hàng đúng thời hạn, có khả năng thu hổi vốn nhanh, để đó có kế hoạch đầu tư một cách đầy đủ, kịp thời. Công trình sau khi được phê duyệt, Ngân hàng cần phát tiền vay theo đúng kế hoạch để đảm bảo thực hiện đúng tiến độ thi công đã đề ra, sớm đưa dự án vào sử dụng phát huy hiệu quả .
2.1.5 Ngân hàng phải xử lý linh hoạt các tình huống trong quá trình cho vay
Đây thực chất chỉ là giải pháp mang tính chất " chữa cháy " hơn là tính chất " phòng ngừa ". Thực hiện giải pháp này, cán bộ tín dụng thường xuyên phải theo sát tình hình thực tế cơ sở, đốc thúc thu nợ, lãi đúng hạn, tuyệt đối không để khách hàng có cảm giác là Ngân hàng không quan tâm lới mục tiêu thu hồi nợ lãi. Tuy nhiên, trong khi thu nợ sớm hoặc đốc thúc thu nợ lãi, cán bộ tín dụng nên sử dụng các biện pháp nghệ thuật ứng xử, nghiệp vụ phù hợp để vừa thu hồi được vốn vừa không làm mất lòng khách hàng. Trong trường hợp, khách hàng không trả được nợ, nhưng còn khả năng phát triển bởi hiện tại họ đang gặp khó khăn do những nguyên nhân bất khả kháng, thì cán bộ tín dụng có thể lập bảng tường trình và đơn xin gia hạn nợ hoặc cho vay thêm đối với khách hàng đó .
2.1.6 Tăng cường các biện pháp thu nợ, đảm bảo trả nợ và lãi vay Ngân hàng
Nếu thẩm định dự án là khâu đầu tiên và là khâu quyết định để cho vay đối với dự án thì quá trình đưa vốn ra theo dõi đôn đốc thu nợ cũng là khâu không kém phần quan trọng .
Khi một dự án đầu tư ngắn hạn được cho vay theo đúng mục đích, đúng lúc, đúng thời điểm, đúng số vốn ghi trong hợp đồng tín dụng thì công việc quản lý vốn vay ở đây là theo dõi kiểm tra số tiền mà DN rút ra lần trước xem có sử dụng đúng mục đích không. Việc kiểm tra này thông qua các chứng từ, hóa đơn, hợp đồng giá cả. .. Nếu DN sử dụng đúng mục đích như trong hợp đồng tín dụng thì đó là cơ sở cho việc phát vốn lần sau. Những trường hợp nào sử dụng sai mục đích thì phải sử lý ngay theo chế độ tín dụng. Ngoài ra phải theo dõi, bám sát mọi hoạt động kinh doanh của DN để đánh giá chính xác những diễn biến trong mối quan hệ giữa DN với khách hàng, phát hiện kịp thời khả năng có thể phát sinh nợ quá hạn, nợ khó đòi, từ đó có biện pháp xử lý ngay .
Việc đôn đốc thu nợ, thu lãi đúng kỳ hạn và đủ là trách nhiệm, là kỷ luật đối với cán bộ tín dụng. Lịch trả nợ gốc và lãi vay đã cam kết trong hợp đồng tín dụng phải theo dõi hàng ngày. Ngân hàng đổng thời phải gửi báo cáo cho DN có nợ quá hạn chuẩn bị nguồn trả vào trước kỳ hạn trả. Việc thu nợ, lãi đúng kỳ hạn sẽ không có nợ quá hạn thề hiện sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng .
Khi một dự án vay mà đã đến hạn trả nhưng DN chưa có nguồn vốn để trả nợ thì việc xem xél để gia hạn, trả nợ gốc phải đúng thẩm quyền được uỷ nhiệm và các chế độ tín dụng quy định, không tùy tiện gia hạn. Nếu trong các dự án cho vay có nợ quá hạn thì cán bộ tín dụng phải thường xuyên theo dõi mọi diễn biến để kịp thời thu hồi, tránh để nợ nần dây dưa .
Để xử lý nợ quá hạn thì Ngân hàng có biện pháp thích hợp để giúp đỡ DN tháo gỡ mọi khó khăn trong sản xuất kinh doanh. Ngân hàng giúp DN việc tư vấn trong sản xuất để giảm nợ quá hạn. Tuyệt đối không cho vay khoản mới khi chưa hết nợ cũ, không lấy nợ nuôi nợ .
2.1.7 Luôn luôn dự báo các rủi ro tiềm ẩn trong tín dụng ngắn hạn và có biện pháp phòng ngừa hữu hiệu
Sự quan tâm đến vấn đề phòng ngừa rủi ro đối với khoản tín dụng ngắn hạn không chỉ đòi hỏi đối với Ngân hàng mà còn đặc biệt đối với cơ quan quản lý tiền tệ. Bởi vì mức độ của khoản vay ngắn hạn là rất lớn, gây đột biến và kéo đài cho cả bên vay, Ngân hàng tài trợ và các bên có liên quan. Chính vì vậy, biện pháp xác định dự báo rủi ro tiềm ẩn trong thế chấp và bảo lãnh vay vốn là hết sức cần thiết đối với Ngân hàng. Việc dự báo rủi ro tiềm ẩn càng đầy đủ, các biện pháp phòng ngừa càng cẩn trọng thì hiệu quả tín dụng ngay từ khâu phán quyết càng cao. Đương nhiên việc phát hiện và dự báo các rủi ro tiềm ẩn để đề ra các biện pháp phòng ngừa phải là việc làm liên tục, thường xuyên không chỉ trước khi phán quyết mà cả trong suất trong quá trình đưa vốn vay ra cho đến khi thu hết nợ gốc và lãi vay .
Vì vậy khi tính toán nguồn trả nợ, thời hạn trả nợ, người ta tính toán cả phương án: phương án lạc quan nhất, phương án trung bình nhất. Để an toàn và phòng ngừa các rủi ro tiềm ẩn, có một cách thường dùng là lấy phương án sản xuất xấu nhất đề xem xét. Nếu phương án này vẫn trả được nợ và lãi vay Ngân hàng trong giới hạn cho phép, thì chắc chắn ngay tử khi phán quyết đã có thể yên tâm về khoản vay được duyệt .
Thế chấp và bảo lãnh cho việc vay vốn là chìa khóa an toàn cuối cùng cho việc vay vốn. Trong điều kiện hiện nay, việc sử dụng công cụ này đối với các DN ngoài quốc doanh, Ngân hàng phải biết sự nhạy cảm, đảm bảo nguyên tắc và chấp hành nghiêm chỉnh chính sách của Nhà nước, áp dụng một cách linh hoạt, sáng tạo nhưng không tùy tiện. Tuyệt đối không coi thế chấp, cầm cố, bảo lãnh là " bùa hộ mệnh " trong cho vay, không thể coi là chiếc chìa khóa an toàn đặc biệt mà chỉ coi là chiếc chìa khóa an toàn cuối cùng trong việc đảm bảo an toàn tín dụng. Thực hiện việc thế chấp, bảo lãnh đúng quy định và cho vay lãi phải dựa trên những cơ sở thực sự từ phía DN chứ không phải dựa vào duy nhất tài sản thế chấp .
2.1.8 Kế hoạch hóa công tác đào tạo cán bộ
Để có một khoản tín đụng có chất lượng, yếu tố trước tiên thuộc về người cán bộ tín dụng. Họ phải là người am hiểu khách hàng, hiểu biết sâu sắc thực lực tài chính, khả năng thanh toán của khách hàng kể cả hiện tại cũng như sau này, xác định được tiềm năng phát triển và dự báo được những biến động trong tương lai. Bên cạnh đó, cán bộ tín dụng cần phải hiểu được tâm lý của khách hàng, xem xét được mức độ trung thực của khách hàng để bảo đảm tính an toàn của khoản tín dụng. Có khả năng giao tiếp ứng xử hợp lý để có thể duy trì được các khách hàng có mối quan hệ từ trước, đồng thời lại thu hút được những khách hàng mới có tiềm năng .
Sự tác động của các chính sách kinh tế của Chính phủ hay ảnh hưởng của các biến động trên thị trường đến kết quả kinh doanh của một DN là vô cùng phức lạp. Điều này đòi hỏi cán bộ tín dụng cần có kiến thức hiểu biết nhất định về thị trường và về lĩnh vực chuyên môn mà khách hàng của mình đang tiến hành kinh doanh .
Tất cả các yêu cầu đó đối với một cán bộ tín dụng dường như là quá nhiều, một cán bộ dù tài giỏi đến đâu cũng không thể có đầy đủ những yếu tố đó. Vì vậy Ngân hàng cần phải kế hoạch hóa công tác đào tạo cán bộ, sớm thực hiện tiêu chuẩn hóa cán bộ tín dụng, dưa việc nâng cao trình độ trở thành mục tiêu phấn đáu và làm việc thường xuyên. Công tác đào tạo cần tập trung theo trọng điểm và đào tạo một cách toàn diện để thực sự có những cán bộ có đủ năng lực và hiểu biết phục vụ yêu cầu công tác kinh doanh, tránh đào tạo tràn lan, lãng phí.
Ưu tiên đào tạo cán bộ chủ chốt trước, sau đó đào tạo những cán bộ kế cận, có năng lực và phẩm chất đạo đức .
Hoạt động tín dụng sử dụng phần lớn nguồn vốn của Ngân hàng, giao tiền vào tay người khác, chính vì vậy cán bộ tín dụng phải cớ trình độ chuyên môn cao. Nhất là trong lĩnh vực trung dài hạn, phải thẩm định dự án, dự đoán trước cho một khoảng thời gian dài, vì vậy cán bộ tín dụng phải có cái nhìn tổng quát, có đầu óc phán đoán. Chính vì vậy Ngân hàng nên chọn những cán bộ có đầy đủ năng lực và nhiệt tình công tác vào hoạt động tín dụng trung dài hạn. Để nâng cao trình độ cho các cán bộ tín dụng, Ngân hàng nên tổ chức những lớp tập huấn đào tạo lại hoặc bổ sung kiến thức nghiệp vụ trong cơ chế thị trường cho các cán bộ quá lâu trong thời kỳ bao cấp; cho các cán bộ có năng lực đi học tập ở nước ngoài; tuyển chọn những cán bộ trẻ tuổi có năng lực thực sự am hiểu về kinh tế thị trường chuẩn bị cho đội ngũ kế cận. Ngân hàng có thể tạo điều kiện thuận về giờ giấc, học phí ... để giúp cán bộ tham gia các lớp học để nâng cao trình độ. Trong công tác đào tạo này, Ngân hàng nên chú trọng chất lượng hơn là số lượng. Các lớp tập huấn kiến thức chung lại Ngân hàng không nên tổ chức tại hội trường lớn - nơi mà ai cũng có thể làm việc riêng của người ấy mà nên tổ chức thành các lớp nhỏ với số lượng khoảng trên dưới 10 học viên. Cán bộ sau khi được Ngân hàng cử đi học cũng phải chịu trách nhiệm cụ thể tránh căn bệnh hình thức, Ngân hàng bỏ tiền cho cán bộ đi học những sau khi kết thúc khóa học lại không mang lại hiệu quả trong công việc .
2.1.9 Phát triển hình thức bảo hiểm quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Có hai cách thực hiện: một là, các DN trước khi tiên hành sản xuất kinh doanh thì phải mua bảo hiểm ở các công ty bảo hiểm; hai là, Ngân hàng kiêm luôn chức năng này. ở đây em xin đề cập đến cách thứ hai, vì nó phù hợp với điều kiện nước ta hiện nay hơn.
Để vay vốn Ngân hàng trước tiên DN phải lập một dự án như bình thường. Ngân hàng sẽ tiến hành thẩm định dự án đó. Nếu Ngân hàng thấy không cho vay được thì thôi, còn nếu cho vay được thì khi giao tiền cho khách hàng, Ngân hàng sẽ giữ lại một tỷ lệ nhất định của khoản vay và cấp cho khách hàng một thẻ bảo hiểm. Các khoản tiền bảo hiểm đó sẽ được sử dụng để bù đắp rủi ro cho Ngân hàng trong trường hợp khách hàng làm ăn thua lỗ, mất khả năng thanh toán. Cách làm này có lợi là Ngân hàng có thể chủ động phòng ngừa từ xa những rủi ro có thể xảy ra khi cho vay những dự án có tính rủi ro cao, đổng thời khách hàng không có lý do gì để trốn tránh trách nhiệm mua bảo hiểm, vì khoản đóng bảo hiểm đã được Ngân hàng giữ lại ngay khi cho vay. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng đây cũng chỉ là một trong
Những biện pháp nhằm hạn chế bớt tác hại của rủi ro, không thể coi đó là chỗ dựa cho Ngân hàng, mà điều cốt yếu là phải thực hiện tốt các biện pháp phòng ngừa để không cho các rủi ro đó xảy ra. Đó mới là mục tiêu mà ngành Ngân hàng cần hướng tới. Các DN cần phải thấy rõ được điều này không chỉ có lợi cho Ngân hàng mà còn có lợi cho chính DN vì khi mua bảo hiểm nếu gặp rủi ro trong quá trình sản xuất kinh doanh thì sẽ có khoản để bù đắp lại một phần hoặc toàn bộ tổn thất tùy thuộc vào mức đóng bảo hiểm .
2.1.10.Tăng cường công tác quản lý và giải quyết nợ quá hạn.
Nợ quá hạn luôn là vấn đề nhức nhối của ngân hàng, đây là một trong những yếu tố phản ánh chất lượng tín dụng .Do vậy giảm nợ quá hạn luôn là một trong những mục tiêu chính của Sở giao dịch.
Sở giao dịch có tỷ lệ nợ quá hạn thấp hơn so với tỷ lệ toàn ngành,nhưng không phải vì thế mà Sở không quan tâm đến vấn đề này. Để món vay không páht sinh nợ quá hạn, Sở nên chủ động kiểm soát ssược toàn bộ chu trình khép kín của một khoản tín dụng và có những biện pháp cụ thể nhằm ngăn chặn những nguy cơ phát sinh nợ quá hạn như:
- Sở cần tăng cường công tác quản lý nợ, giảm thiểu cơ hội phát sinh nợ quá hạn:
+ Không chỉ do yêu cầu của Sở mà mỗi cán bộ tín dụng tự bản thân phải có ý thức đúng và trung thực các điều khoản được quy địng.
+Cán bộ tín dụng trực tiếp thẩm định, trưởng phòng tín dụng,giám đốc ngân hàng tuy có sự độc lập nhưng vẫn phải có sự phối hợp chặt chẽ, bổ trợ lẫn nhau. Kiến nghị ngay những vấn đề không phù hợp thuộc phạm vi nghiệp vụ của mình về thể lệ.qui định tín dụng với cấp có thẩm quyền để có sự bổ sung kịp thời với thực tế.
+Sở luôn giám sát, kiểm tra chặt chẽ tất cả các khâu của quy trình tín dụng. Chú ý tới những dấu hiệu có thể dẫn đến rủi ro,dẫn tới nợi quá hạnnhư khách hàng chậm chễ trong việc nộp báo cáo tài chính cho ngân hàng, số dư tiền gửi giảm sút, xuất hiện nhiều séc phát hành quá số dư,sự gia tăng bất thườngcủa số dư hàng tồn kho, có sự châm chễ trong việc thanh toán nợ khi đến hạn hay có những ý muốn xin gia hạn nợ, việc nhận tín dụng chậm chễ không đúng theo kế hoạch dự kiến mặc dù sử dụng vốn đúng mục đích... để phát hiện và ngă chặn kịp thời các hành vi lừa đảo, sử dụng vốn vay sai mục đích của khách hàng làm ảnh hưởng tới sự an toàn của các khoản tiền đã cho vay.
+ Sở cũng cần xác định rõ xem khách hàng có gặp khó khăn gì trong quá trình sản xuất kinh doanh không .(đặc biệt là các khách hàng truyền thông).Nếu tìm thấy nguyên nhan, Sở có thể giúp khách hàng tháo gỡ khó khăn trong phạm vi của mình. Cán bộ tín dụng cần tích cực giúp khách hàng trong việc tìm kiếm các giải pháp hữu hiệu về các vấn đề : bán sản phẩm (tìm kiếm khách hàng và thị trường...) thu nợ ...
+ Đánh giá phân loại các khoản nợ thường xuyên theo quý, năm để đinh lượng rủi ro trong quá trình cho vay từ đó đi đến quyết định mở rông hay thu hẹp tín dụng và kịp thời có biện pháp theo dõi quản lý phù hợp với từng khoản nợ.
Quá trình đánh giá phân loại như sau :
+ Đánh giá các khoản nợ khi quyết định cho vay, do bị chi phối bởi các quy định trong chế độ, thể lệ tín dụng nên khi quyết định cho vay các khoản nợ chỉ rơi vào một trong hai trường hợp, đó là “nợ đủ tiêu chuẩn” hay “nợ cần chú ý”. ”Nợ đủ tiêu chuẩn” thường được áp dụng đối với khách hàng có đủ điều kiện vay vốn theo quy định hiện hành, thể hiện một khách hàng có tài chính tốt, có uy tín và khả năng chiếm lĩnh thị trường, có tài sản thế chấp hoặc có người bảo lãnh theo quy định của chế đô.
“Nợ cần chú ý” là những khoản nợ còn lại, tuy có đủ tiêu chuẩn vay vốn nhưng ở mặt này hay mặt khác ngân hàng còn băn khoăn do chưa có cơ sở thông tin tin cậy để kết luận chính xác.
+Đánh giá các khoản nợ trong quá trình theo dõi việc sử dụng tiền vay và trả nợ của khách hàng : sau khi phát tiền vay, các ngân hàng phải thường xuyên bám sát, kiểm tra việc sử dụng vốn và đon đốc khách hàng trả nợ đúng hạn. Căn cứ vào tình hình tài chính của khách hàng, các khoản nợ có biểu hiện khác thường nhưng chưa có dấu hiệu tổn thất thì vẫn được theo dõi như các khoản “nợ cần chú ý” để tìm ra nguyên nhân và có biện pháp tích cực sửa chữa những sai lệch đó có thể thu nợ đúng hạn.Đối với những khoản nợ có khả năng tổn thất cần được phân loại tuỳ theo mức độ tổn thất dự tính có thể xảy ra:
Nợ mức độ tổn thất cấp 1; loại nợ có bảo đảm đã quá hạn trả nợ trên 180 ngày, những khoản cho vay không có bảo đảm đã quá hạn đến 90 ngày.
Nợ có mức tổn thất cấp 2 : là những khoản cho vay có bảo đảm đã quá hạn trả nợ từ 181 ngày đến 360 ngày, những khoản cho vay không có bảo đảm đã quá hạn trả nợ từ 91 ngày đến 180 ngày.
Nợ có mức tổn thất cấp 3: là những khoản cho vay có bảo đảm đã quá hạn trả nợ từ 361 ngày trở lên, những khoản cho vay không có bảo đảm đã quá hạn từ 181 ngày trở lên.
Qua việc đánh gía và phân loại nợ Ngân hàng có thể dự tính được khả năng tổn thất của các khoản nợ, từ đó có biện pháp kịp thời.
Sau khi Ngân hàng đã áp dụng các biện pháp phòng ngừa nhưng nợ quá hạn vẫn tồn tại thì ngân hàng cần hành động như sau:
Trước hết ngân hàng cần tìm ra nguyên nhân dẫn đến nợ quá hạn. Đây là vấn đề cần phân tích kỹ lưỡng, chính xác nhằm xác định đúng nguyên nhân đã gây ra nợ quá hạn, để có những biện pháp xử lý cho thoả đáng.
Để xác định rõ được nguyên nhân ngân hàng cần xác định rõ được nhiều mặt:
Lật lại hồ sơ xin vay vốn và những giấy tờ mà Ngân hàng lập khi nhận đơn xin vay của khách hàng đến khi chuyển nợ quá hạn. Phải xem xét lại từng khâu trong quá trình thẩm định xem Ngân hàng đã mắc những sai sót gì trong khâu nào, trong công đoạn nào, trách nhiệm thuộc về ai...
Xem xét lại các điều kiện kinh tế , pháp lý của người vay khi thực hiện sản xuất kinh doanh và quá trình thực hiện dự án đã đề ra khi vay vốn.
Tiến hành điều tra, kiểm tra thực tế toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh gắn với quá trình sử dụng vốn vay cho đến khi nợ quá hạn phát sinh.
Qua đó rút ra được những kết luận là do những sai sót, vi phạm của các cán bộ tind dụng khi thẩm định cho vay hay là do nguyên nhân sai lầm trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, do chủ quan hay khách quan gây ra .
Sau khi đẫ xác định rõ nguyên nhân nợ quá hạn, phòng kế hoạch kinh doanh lên kế hoạch về số lượng nợ quá hạn và giao cụ thể cho từng cấn bộ tín dụng theo từng tháng, kịp thời khen thưởng đối với những cán bộ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, khuyến khích những sáng kiến giải quyết nợ quá hạn, xử lý nghiêm minh những cấn bộ thiếu tinh thần trách nhiệm, ý thức chưa tốt.
Cán bộ tín dụng sẽ là người trực tiếp tiếp xúc với khách hàng, tìm mọi cách thu hồi nợ quá hạn, do vậy họ cần phải nắm vững khách hàng của mình, xách định và khai thác nguồn thu hồi nợ.
Trong trường hợp khó khăn của khách hàng là do thiếu vốn trong kinh doanh thì Ngân hàng có thể xem xét tăng vốn cho doanh nghiệp bằng cách cho vay thêm vốn nếu thấy việc đầu tư có hiệu quả, nhằm tăng năng lực sản xuất của doanh nghiệp, giúp cho việc thu hồi hết nợ quá hạn.
Đối với các doanh nghiệp nhà nước phát sinh nợ quá hạn do có ứ đọng hàng tồn kho chưa bán được, Sở giao dịch I có thể giới thiệu đơn vị mua hàng, đề nghị người vay cắt bớt những khoản chi không cần thiết, nhanh chóng giải quyết hàng tồn đọng, đồng thời đề nghị doanh nghiệp thay đổi chiến lược kinh doanh hệ thống hoạt động sản xuất khi không có hiệu quả.
Nếu nợ qúa hạn do nguyên nhân khách quan thì Ngân hàng có thể xem xét gia hạn, điều chỉnh hợp đồng tín dụng cho tương ứng với kỳ hạn có thể thu được lợi nhuận của người vay.
Đối với các khách hàng cố tình dây dưa nợ quá hạn kéo dài, ngân hàng cần sử dụng các biện pháp cứng rắn, kết hợp sự hỗ trợ của chình quyền địa phương, các cơ quan chức năng để thu hồi nợ. Phải làm cương quyết dứt điểm từng trường hợp.
III. MộT Số KIếN NGHị
1 Đối với Nhà nước
Nhà nước cần tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho Ngân hàng hoạt động
Do tình hình kinh tế - xã hội phát triển nhanh, nhiều quan hệ xã hội mới phát sinh trong nền kinh tế thị trường thực sự phải có pháp luật điều chỉnh, tạo ra môi trường pháp lý lành mạnh trong sự phát triền kinh tế. Chính vì vậy đòi hỏi một hệ thống pháp luật đồng bộ làm chỗ dựa pháp lý cho Ngân hàng, cho DN là rất cần thiết. Hơn nữa, luật lệ của nước ta chưa ổn định, thay đổi luôn luôn không tạo ra cơ sở vững chắc cho Ngân hàng. Việc luôn bị sửa đổi của các Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư nước ngoài, Luật đất đai nhà cửa ... khiến cho các giấy tờ liên quan như giấy phép kinh doanh, giấy sở hữu nhà đất không rõ ràng, rất khó khăn cho Ngân hàng xem xét dự án có thể cho vay .
Riêng đối với lĩnh vực Ngân hàng, có hai bộ Luật Ngân hàng ( Luật NHNN và Luật các TCTD) là cơ sở pháp lý quan trọng để Ngân hàng cho vay đối với các loại hình DN khác nhau. Tuy nhiên việc ban hành các quy dình ngặt nghèo đối với khu vực KTNQD, khiến cho dư nợ của thành phần kinh tế này ngày càng giảm sút. NHNN cần ban hành quy chế có tính mềm dẻo hơn nhằm kích thích cán bộ tín dụng tìm nhiều khách hàng để cho vay .
Làm rõ nội dung lợi nhuận chịu thuế, chi phí hợp lý vốn chủ sở hữu và cơ sở ấn định mức phải chịu thuế lợi tức bồ sung. Có hai kiến nghị của các TCTD đối với các Luật thuế mới là áp thuế đúng luật định và thuế suất hợp lý .
- Trong Luật các TCTD quy định các hoạt động bảo lãnh mua bán tài sản xiết nợ, chiết khấu thương phiếu, giấy tờ có giá. .. thì không phải chịu thuế. Thế nhưng trong Thông tư 178/ TT hướng dẫn Thuế GTGT lại xếp các hoạt động trên vào hoạt động chịu thuế .
- Khoản thu sử dụng vốn Ngân sách Nhà nước với mức 6% là bất hợp lý. Đơn củ một ví dụ, NHCT Việt Nam với số vốn là 1. 1 00 tỷ đồng thì sẽ phải nộp 66 tỷ đồng/ năm cộng với các quỹ tích lũy được thì số tiền phải nộp là khoảng 78 tỷ đồng/ năm, giả sử lợi nhuận của NHCT việt Nam là khoảng 120 tỷ đồng thì số còn lại là quá ít .
Chính vì vậy việc hoàn thiện môi trường pháp lý là rất cần thiết. Các Luật không được chồng chéo lên nhau mà phải vừa đảm bảo tính dân chủ vừa phải kích thích cho tất cả các hoạt động đều phát triển và đi vào khuôn phép .
Nhà nước cần đầu tư tái tạo vốn cho hệ thống Ngân hàng
Theo các chuyên gia kinh tế, để tái lạo vốn cho hệ thống Ngân hàng đang suy yếu và gánh chịu những khoản nợ khó đòi xảy ra ở một số vụ án kinh tế lớn như Dệt Nam Định, Tamexco,... Chính phủ sẽ phải chi một khoản tiền không nhỏ. Nguồn tiền để cung cấp vốn tái tạo cho hệ thống Ngân hàng có thể lấy từ Ngân sách Quốc gia, từ việc phát hành công trái, trái phiếu Kho bạc, hoặc cũng có thể đi vay các tồ chức tài chính quốc tế như WB, IMF, ADB ... Giải pháp này đã được các quốc gia Châu á thực hiện có hiệu quả. Nhật Bản đã dành 1 6,7 tỷ JPY từ Ngân sách công cộng để kích thích trọn gói hệ thống Tài chính - Ngân hàng của nước này. Nguồn vốn vay các tổ chức Tài chính quốc tế cũng góp phần đáng kể vào công cuộc tái thiết hệ thống Tài chính - Ngân hàng trong khu vực sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1 997, điển hình ở các nước như Hàn Quốc, lnđônêsia, Thái Lan ...
Nhà nước cần có các biện pháp đồng bộ để ổn định tiền tệ
Trên tổng quan, chính sách tiền tệ giai đoạn 1998 - 2005 vẫn phải hướng vào mục tiêu kiềm chế lạm phát và ồn định sức mua đối nội và đối ngoại của đồng tiền, đồng thời góp phần thúc đẩy nền kinh tế trong nước phát triển với tốc độ cao và bền vững. Chính sách tiền tệ phải được điều hành bởi các công cụ, chính sách cụ thể về tín dụng đối với nền kinh tế, về quản lýngoại hối và chính sách đối với Ngân sách thay cho cách điều hành thông qua các chỉ tiêu kế hoạch như trước đây. Quan điểm trong xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ giai đoạn này là phải điều hòa được các quan hệ vốn có mâu thuẫn, đó là:
- Giữa mục tiêu kiềm chế lạm phát và mục tiêu tăng trưởng kinh tế .
- Giữa lợi ích chung kiềm chế lạm phát và tăng trưởng kinh tế với lợi ích của các NHTM và các TCTD .
- Giữa lợi ích người gửi tiền, nhà kinh doanh tiền tệ và người đi vay.
Định hướng trong giai đoạn này là phải chuyển mạnh sang vận dụng các công cụ tiền tệ gián tiếp thay cho việc sử dụng các công cụ tiền tệ trực tiếp vì hiện nay Việt Nam đã bước đầu hình thành các khung định chế và môi trường cho các công cụ gián tiếp được sử dụng .
Bên cạnh đó các công cụ trực tiếp ngày càng bộc lộ những nhược điểm như làm cho việc phân phối vốn không hiệu quả, kiềm chế tài chính cứng nhắc và thiếu linh hoạt trong khi đó các công cụ gián tiếp sẽ giúp cho NHNN điều hành tiền tệ một cách linh hoạt theo thị trường .
Giai đoạn sau năm 2000 về cơ bản hệ thống Ngân hàng Việt Nam đã được củng cố về nhiều mặt, do đó cần tiến thêm một bước trong cải cách quản lý về tiền tệ để tiến tới một hệ thống tài chính tự do và hòa nhập vào hệ thống tài chính khu vực và quốc tế .
Thị trường chứng khoán cần sớm được vận hành
Nền kinh tế thị trường luôn lồn tại hai kênh huy động và phân bổ vốn, một kênh thông qua các tổ chức lài chính trung gian và một kênh khác thông qua thị trường chứng khoán (TTCK). TTCK cùng với hệ thống Ngân hàng tạo nên một hệ thống tài chính đủ mạnh, cung cấp những nguồn vốn ngắn, trung dài hạn cho nền kinh tế. Đối chiếu với yêu cầu của TTCK chuẩn mực quốc tế, thì các công ty cổ phần Việt Nam chưa hội đủ điều kiện. Do vậy, bước quá độ TTCK Việt Nam chỉ là thị trường trái phiếu do Chính phủ phát hành. Hiện nay, bên cạnh hai hình thức phát hành truyền thống là đấu thầu trái phiếu Kho bạc qua Ngân hàng và bán lẻ trái phiếu Kho bạc tại các Kho bạc Nhà nước tỉnh, thành phố thì sẽ có thêm hai hình thức phát hành mới nữa là tồ chức đấu thầu trái phiếu Chính phủ và bảo lãnh phát hành. Theo kế hoạch trong năm 2000, Bộ Tài chính sẽ phát hành 16.000 tỷ đồng trái phiếu, một số năm tiếp theo sẽ tăng cao hơn nữa. Trong bước tiếp theo, Việt Nam phải xây dựng một số công ty cổ phần đại chúng làm hạt nhân và là người cung cấp hàng hóa cho TTCK. Cùng với quá trình cổ phần hóa các DNNN, số lượng các công ty cổ phần sẽ tăng lên, quy mô và phạm vi mở rộng đó sẽ là những người cung cấp hàng hóa cho TTCK Việt Nam ( trái phiếu DN, trái phiếu công trình ... ) tạo tiền đề cho việc ra đời của Sở giao dịch chứng khoán trong nay mai .
Tăng cường trách nhiệm từ phía Nhà nước - Doanh nghiệp - Ngân hàng
Từ năm 1 996 đến nay, việc mở rộng tín dụng Ngân hàng đã gặp không ít khó khăn, thậm chí có lúc tưởng chừng như vốn Ngân hàng đang bị " đóng băng ", trong khi đó các DN lại thiếu vốn trầm trọng. Để quan hệ giữa hoại động của Ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng ngày càng phát triển, cần có sự phối hợp đồng bộ của các cấp các ngành, và thực hiện các giải pháp chủ yếu sau đây :
- Kiên quyết sắp xếp lại các DNNN, chỉ để tồn tại những DN công ích DN làm ăn có hiệu quả, những DN thực sự cần thiết cho phái triển dân sinh, tạo điều kiện cho đầu tư tín dụng nâng cao được hiệu quả. Trong hội nghị tổng kết đổi mới và phát triển DNNN từ năm 1986 đến nay ( 3 - 4 /5/2000 ), đã thống nhất lộ trình đổi mới DNNN giai đoạn 2000 - 2003, số lượng DNNN sẽ chỉ còn lại 3000 DN, giảm đi 2280 DN, bao gồm 1498 DN được tiến hành CPH, hoặc giao bán, khoán, cho thuê ( 65,3% ); 380 DN sáp nhập vào các DN khác (16,7% ) và 368 DN phải giải thể, phá sản ( 16% ); 43 DN chuyển thành đơn vị sự nghiệp (2% ). Đến năm 2003, quy mô DNNN sẽ tăng vốn bình quân từ hơn 1 8 tỷ đồng /1 DN lên trên 27 tỷ đồng; giảm 18,5% tổng nợ, 15,3% nợ Ngân hàng và quan trọng nhất là hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ được nâng lên. Hiện chỉ có 20% DNNN đạt mức lợi nhuận trước thuế cả năm từ 12% trở lên ( tương đương với mức lãi suất Ngân hàng ). Theo phương án sắp xếp lại đến năm 2003, số DNNN đạt mức lợi nhuận nêu trên sẽ tăng lên 50%. Đến năm 2005, dự kiến chỉ còn 2000 DNNN, có thể nói, đây chính là sự " giảm lượng tăng chất, Các DNNN khẳng định được vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế, làm ăn có hiệu quả, có định hướng hoạt động chắc chắn, tạo sự tin lượng cho nhà đầu tư và cũng là mảnh đất tốt để phát triển hoại động tín dụng của Ngân hàng. Bên cạnh đó, sau khi sắp xếp sẽ xử lý nợ được 21 .000 tỷ đổng, trong đó có 7.000 tỷ đổng nợ Ngân hàng .
- Bộ Tài chính cần tiếp tục cấp bổ sung đủ mức vốn điều lệ đã được duyệt cho các DN để đảm bảo số tiền vốn tối thiểu cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNNN. Đối với các DN gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh do ảnh hưởng của chu kỳ sản xuất hoặc thực sự cần thiết phải tồn tại thì đề nghị Bộ Tài chính cho phép giãn nợ 3 - 5 năm để DN có thời gian sắp xếp lại sản xuất, tạo nguồn trả nợ cho Ngân hàng.
- Tiếp tục hoàn thiện sửa đổi, ban hành các bộ Luật, văn bản dưới Luật liên quan đến hoạt động của nền kinh tế nói chung, đến hoạt động của Ngân hàng nói riêng, tạo hành lang pháp lý cho hoại động của DN và NHTM đi đúng giới hạn cho phép và phân rõ trách nhiệm của người đi vay và người cho vay trong quan hệ tín dụng .
- Rà soát lại năng lực trình độ cũng như phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ làm công tác trực tiếp kinh doanh. Tiếp tục nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ Ngân hàng .
- Tiếp tục đa dạng hóa sản phẩm và dịch vụ của Ngân hàng, tạo ra nhiều sản phẩm mới ( tư vấn, bảo hiểm, thuê mua ... ) .
Nhà nước cồn thành lập trung tâm quản lý và bán đấu giá tài sản thê'châp
Hình thức công ty mua bán nợ đã xuất hiện từ rất lâu trên ở nhiều nước trên thế giới như Nhật Bản, Hàn Quốc ... Các công ty này được hình thành khách quan trong nền kinh tế thị trường khi có nhiều khoản nợ xuất hiện ở các TCTD khác nhau. Bản chất của chúng là các công ly kinh doanh các khoản nợ của các DN vay các TCTD để thu lợi nhuận .
Hiện nay, ở Việt Nam, Chính phủ đang xúc tiến thành lập công ty nợ trực thuộc Chính phủ thực hiện hai mục tiêu là đảm bảo an toàn, lợi ích của các TCTD và thực hiện mục tiện lợi nhuận. Ban lãnh đạo của công ty phải bao gồm các thành viên của NHNN, Bộ Tài chính, Tổng cục địa chính và cán bộ các ngành có liên quan đến việc quản lý và bán đâu giá .
Hoạt động của công ty bao gồm từ khâu định giá; nhận tài sản thế chấp, cầm cố đến việc quản lý các tài sản này và cuối cùng là bán đấu giá để thu hồi khoản vay nếu khách hàng không trả được nợ .
Thực hiện chê'độ kiểm toán chặt chẽ
Để giúp các Ngân hàng xét duyệt hồ sơ xin vay vốn của các khách hàng được chính xác, báo cáo tài chính của khách hàng phải phản ánh đúng tình hình thực tế đồng thời việc thu thập thông tin của Ngân hàng cũng phải được tiến hành thuận lợi và chính xác. Muốn vậy, Nhà nước cần sớm ban hành quy chế tài chính và hạch toán kinh doanh đối với khu vực KTNQD. Qua đó tăng cường tính hiệu lực pháp lý, đảm bảo tính đồng bộ chuẩn mực của công tác hạch toán kế toán, tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ Ngân hàng có những kết luận chính xác về tình hình tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng. Việc chấn chỉnh công tác kiểm toán phải đi đôi với nâng cao hiệu quả của hoạt động kiểm toán. Hiện nay ở nước ta đã có hệ thống kiểm toán Nhà nước, 15 công ty kiểm toán độc lập bao gồm cả công ty 100% vốn nước ngoài, công ty liên doanh, công ty kiểm toán của Nhà nước và trách nhiệm hữu hạn, song hiệu quả hoạt động của các công ty này chưa cao, một phần là do quan niệm của các DN thường rất ngại thực hiện kiểm toán do nhiều lý do khác nhau: có thể sợ kiểm toán phát hiện ra những sai sót về kế toán hay kiểm toán sẽ phát hiện ra những điều mà DN cần giấu kín ... Để nâng cao hiệu quả của công tác kiểm toán và làm cơ sở cho việc thẩm định tín dụng, trước mắt cần có sự thống nhất giữa các cơ quan kiểm toán Việt Nam, cụ thể hóa chuẩn mực kiểm toán sao cho phù hợp với thông lệ của kiểm toán quốc tế. Ví dụ như: một DN có số vốn điều lệ bao nhiêu thì cần phải tiến hành kiểm toán, trách nhiệm cung cấp và giữ bí mật thông tin của các cơ quan kiểm toán, áp dụng công nghệ kiểm toán gì, giá trị pháp lý của số liệu và chữ ký của cơ quan kiểm toán... Tiến tới, Nhà nước cần quy định chế độ kiểm toán bắt buộc đối với mọi loại hình DN, qua đó để đảm bảo độ tin cậy cho các báo cáo tài chính, góp phần nâng cao hiệu quả công tác thẩm định các dự án đầu tư .
2. Đối với NHNN
- Về xử lý tài sản thế chấp: NHNN quy định nếu sau thời hạn trả nợ cuối cùng là 1 0 ngày, bên vay không trả được nợ thì Ngân hàng làm đơn đề nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép phát mại tài sản thế chấp để thu hồi nợ. Mặt khác, trong thủ tục cho vay ràng buộc bên vay bằng một hợp đồng thế chấp tài sản có ghi: " nếu không trả nợ gốc và lãi thì Ngân hàng phải phát mai tài sản thê/chấp, cầm cố để thu hồi nợ ... ". Như vậy, người vay tự nguyện mang tài sản thế chấp hợp pháp đến vay vốn đã cam kết với Ngân hàng bằng đảm bảo. Ngân hàng làm bản thông báo công khai, trước hết dành quyền ưu tiên cho người có tài sản thế chấp đó được mua lại tài sản đó theo đánh giá của Hội đồng định giá. Sau 10 ngày nhận dược thông báo, nếu chủ tài sản không mua thì Ngân hàng sẽ có quyền bán cho người khác .
Như vậy, Ngân hàng có thể tự phát mại tài sản đó mà không phải xin ý kiến của các cơ quan Nhà nước khác .
- Về nâng cao chất lượng thông tin: một trong những nguyên nhân gây nên rủi ro trong hoạt động tín dụng trung dài hạn của các NHTM là sự thiếu thông tin cần thiết, chính xác từ phía khách hàng, từ thị trường và dự án. Vì vậy, muốn hoạt động của các NHTM đạt hiệu quả cao thì NHNN phải thiết lập một trung tâm lưu trữ thông tin có thể cung cấp những thông số chính xác nhất, mới nhất về các DN, các biến động trên thị trường, các thông tin có liên quan đến dự án ...
- Về mức lãi suất: trong một thời gian dài ta duy trì lãi suất ngắn hạn cao hơn trung dài hạn dẫn đến lượng vốn trung dài hạn huy động nhỏ, chưa thể đáp ứng phù hợp với yêu cầu vốn trong thời kỳ đổi mới công nghệ, thời kỳ CNH - HĐH đất nước. Thêm vào đó, lãi suất biến động thường xuyên gây ảnh hưởng lâm lý đến tính an toàn của tài sản tiết kiệm. NHNN nên khắc phục tồn tại này bằng cách điều chỉnh mức lãi suất theo nguyên tắc: thời gian càng dài lãi suâí càng cao. Ngoài ra, NHNN nên áp dụng hai mức lãi suất khác nhau cho nợ quá hạn phân theo nguyên nhân khách hàng và chủ quan. Sẽ là không công bằng nếu DN phải trả mức lãi suất cao gấp 1,5 lần nếu nguyên nhân gây nên nợ quá hạn là sự thay đổi của cơ chế chính sách của Nhà nước, hay do những ảnh hưởng của môi trường tự nhiên .
3. Đối với NHNT Việt Nam
-Về thẩm quyền phán quyết: theo quy định hiện hành cho vay trung dài hạn trên 2 tỷ đổng thì phải trình Tổng Giám đốc NHNT Việt Nam duyệt. Thông thường một món vay trung dài hạn thường phải mất 20 - 30 ngày để thấm định trước khi quyết định cho vay hay từ chối. Trong cơ chế thị trường cạnh tranh quyết liệt, nếu giải quyết như vậy sẽ làm mất cơ hội của khách hàng. Chính vì vậy, theo em trong quy chế cho vay của NHNT Việt Nam chỉ nên quy định khung pháp lý để cho các Ngân hàng cơ sở căn cứ vào đó để quy định cơ chế cho vay cụ thể, linh hoạt, phù hợp với từng nhóm khách hàng, tạo thế chủ động cho các Ngân hàng cơ sở thì chất lượng tín dụng sẽ được nâng cao hơn .
- Về mức lãi suất: để cho dự án đảm bảo tính khả thi, giúp Ngân hàng vừa mở rộng hoạt động tín dụng mà vẫn đảm bảo chất lượng, NHCT Việt Nam có thể quy đình mức lãi suất thoả thuận giữa khách hàng và Ngân hàng hay mức lãi suất có thể điều chỉnh để giảm rủi ro cho cả khách hàng và Ngân hàng. Lãi suất cho vay các DN ngoài quốc doanh cũng phải điều chỉnh thường xuyên theo từng thời kỳ .
4 Đối với doanh nghiệp
Doanh nghiệp càn cung cấp những thông tin chính xác cho Ngân hàng
Đa số khách hàng đi vay vốn thường than phiền rằng Ngân hàng còn gây nhiều khó khăn cho họ với nhiều thủ tục nhiêu khê, phiền hà, làm mất cơ hội sản xuất kinh doanh của họ. Song họ không ý thức được một điều là họ cũng là một phần trong những khó khăn đó vì :
- Khách hàng không muốn cung cấp đầy đủ thông tin vì họ sợ cung cấp nhiều sẽ vô tình phơi bày ra những yếu điểm của họ.
- Khách hàng thường cung cấp những thông tin không hoàn toàn chính xác vì họ muốn giữ kín những số liệu kinh doanh, sợ Ngân hàng tiết lộ ra ngoài. Chỉ gò ép vào những số liệu tài chính, sản xuất kinh doanh mà không căn cứ vào thực tế thì Ngân hàng khó có thể đưa ra quyết định một cách nhanh chóng và chính xác được .
- Mục đích xin vay cũng được trình bày chung chung, không rõ ràng ví dụ như " vay để phát triển sản xuất kinh doanh ". Với một lý do như vậy các cán bộ tín dụng yêu cầu là lại thủ tục là đúng đắn .
Số tiền vay và thời gian xin vay không đúng với nhu cầu thực tế, vì vay vốn trung dài hạn thì phải trả lãi suất cao hơn ngắn hạn nên mặc dù muốn vay trung dài hạn nhưng DN lại vay ngắn hạn, đến thời hạn trả nợ ngắn hạn thì lại đệ đơn xin gia hạn nợ. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh của Ngân hàng .
Để có thể đáp ứng được nhu cầu vốn tín dụng trung dài hạn của toàn bộ nền kinh tế thì chỉ có sự nỗ lực cố gắng của toàn bộ hệ thống NHTM là chưa đủ, mà phải có sự nỗ lực hợp tác, giúp đỡ từ phía đối tác còn lại đó là các DN. V vậy, các DN cần phải đổi mới tư duy, khắc phục những nhận thức sai lầm trên để có thể tự khẳng định được vị trí của mình trong nền kinh tế quốc dân đồng thời giúp đỡ hỗ trợ các Ngân hàng trong việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn .
ã Nâng cao năng lực hoạt động sản xuân kinh doanh của doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt, các DN luôn phải chủ động tìm kiếm thị trường và nắm bắt được nhu cầu, thị hiếu của khách hàng từ đó thực hiện nhiều biện pháp hợp lý như sắp xếp lại cơ cấu tổ chức, nâng cao khả năng quản lý, có chính sách đào tạo nhân lực, xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh hợp lý, đẩy mạnh hoạt động Marketing, phát huy nội lực và kết hợp với sự hỗ trợ giúp đỡ của hệ thống NHTM để có vốn tiến hành các dự án sản xuất kinh doanh có khả năng sinh lời cao ... để từ đó có khả năng chiếm lĩnh thị trường trong nước sau đó tiến ra thị trường quốc tế .
Kết luận
Trong nền kinh tế thị trường vấn đề sử dụng vốn vay ngân hàng có ý nghĩa hết sức quan trọng không chỉ với bản thân doanh nghiệp sản xuất kinh doanh mà còn đối với bản thân ngân hàng. Hiện nay nền kinh tế nước ta đang dần chuyển đổi cơ chế nên các hoạt động sản xuất kinh doanh cũng từng bước thay đổi cho phù hợp với tình hình mới. Cũng vì thế mà hoạt động tín dụng ngắn hạn cũng có những thay đổi cho phù hợp, tuy nhiên ngoài những mặt tích cực nó cũng còn những tồn tại cần giải quyêt.
Mặc dù đã rất cố gắng trong việc hoàn thành bản luận văn này nhưng do trình độ cũng như các yếu tố khác về thời gian, tài liêu còn hạn chế nên phần lý luận chỉ được xây dựng một cách khái quát. Do vậy phần lý luận này chỉ có tính chất định hướng hỗ trợ cho hoạt động tín dụng ngắn hạn của Sở Giao Dịch Ngân hàng ngoại thương Việt Nam.
Trong phần đánh giá thực trạng ở chương hai do chưa có kinh nghiệm nên những đánh giá của thực tập viên là rất khó khăn và còn có tính chất chủ quan. Bên cạnh đó do những hạn chế về nhiều mặt nên giải pháp đưa ra chưa chắc chắn đầy đủ và sát thực.
Tuy nhiên em mong muốn rằng bản luận văn này sẽ góp phần củng cố hoạt động tín dụng ngắn hạn tại Sở Giao Dịch Ngân hàng ngoại thương Việt Nam. Luận vaywn là kết quả tốt nhất đối với một sinh viên trong những năm học đại học. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong trường Đại học Kinh tế quốc dân, các bác, cô chú, anh chị tại phòng Tín dụng ngắn hạn của Sở Giao Dịch Ngân hàng ngoại thương Việt Nam đã giúp đỡ em hoàn thành bản luận văn này.
Mục lục
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6712.doc