Đề tài Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân Hàng TMCP Việt Á

Con người là nhân tố trung tâm chi phối và có ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động tín dụng ngắn hạn nói riêng của ngân hàng. Để hoạt động tín dụng được hiệu quả thì ngân hàng cần có những cán bộ hội đủ ba điều kiện : trình độ, kinh nghiệm và độ nhạt bén. Một cán bộ tín dụng giỏi phải là một nhà kinh tế giỏi. Công vịêc của họ không chỉ đơn thuần là xem xét tính toán các số liệu mà họ phải có một kiến thức tổng hợp về kinh tế vĩ mô, kinh tế vi mô, hoạt động tài chính, hoạt động kinh tế để đưa ra những quyết định chính xác. Bên cạnh đó, kinh nghiệm và độ nhạy bén cũng không kém phần quan trọng. Một cán bộ thiếu kinh nghiệm và độ nhạy bén có thể không nhìn thấy hết đựoc vấn đề và sẽ đưa ra những quyết định sai lầm, ảnh hưởng đến ngân hàng. Để đáp ứng được yêu cầu này, ngân hàng cần tập trung vào một số giải pháp sau: - Vấn đề tuyển dụng và bồi dưỡng cán bộ tín dụng Ngân hàng cần có chính sách tuyển dụng cán bộ hợp lý để thu hút được những sinh viên xuất sắc, có năng lực trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, đã tốt nghiệp những trường đại học có uy tín. Hơn nữa, việc tuyển chọn phải trên cơ sở yêu cầu của từng loại công việc và có tiêu chuẩn rõ ràng. Những cán bộ ngân hàng, cán bộ quản lý điều hành hoặc trực tiếp tác nghiệp trong lĩnh vực tín dụng cần có tiêu chuẩn chung là: + Lập trường tư tưởng vững vàng, có tinh thần đạo đức, có ý thức kỉ luật cao. + Phải có kiến thức nghiệp vụ chuyên môn giỏi, nắm bắt nhanh nhạy, đầy đủ các chính sách chủ trương của Đảng, Pháp luật của Nhà nước, biết vận dụng sáng tạo trong từng công tác được giao. + Đối với cán bộ trực tiếp giao dịch với khách hàng, thẩm định dự án, đề xuất với lãnh đạo ra các quyết định xử lý thì ngoài yêu cầu chung còn đòi hỏi họ là những ngưòi thực sự khách quan, có hiểu biết nhất định về kinh tế thị trường, có thể đi sâu đi sát thực tế.

doc67 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1665 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân Hàng TMCP Việt Á, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hời thiết lập và nâng cao hiệu quả xử lí thông tin tín dụng trên cơ sở ngân hàng phải lựa chọn khách hàng bằng nhiều biện pháp cần thiết để mở rộng thị phần khách hàng đối với các tổng công ty. Thông qua việc xây dựng chiến lược khách hàng, mà ngân hàng có thể tiến hành quản lý khách hàng một cách sát thực hơn. Nhờ đó, mà ngân hàng có thể chủ động trực tiếp tham gia vào những dự án mới của doanh nghiệp từ đầu, không phải đợi đến lúc doanh nghiệp đến xin vay qua đó ngân hàng có thể nắm rõ dự án hơn. 3.2.2. Đa dạng hóa hoạt động tín dụng Đa dạng hoá là một trong những phương châm hoạt động của ngân hàng nhằm giảm thiểu rủi ro, đảm bảo an toàn cho bản thân ngân hàng và người gửi tiền. Đa dạng hoá hoạt động tín dụng bao gồm đa dạng hoá về phương thức cho vay, ngành nghề. Đa dạng hoá phương thức cho vay Ngân hàng nên mở rộng cung ứng cho vay bằng hình thức chiết khấu thương phiếu. Đây là một nghiệp vụ ít rủi ro vì chiết khấu cho phép ngân hàng có quyền được truy đòi khi không thu đựoc nợ của người phát hành. Hơn nữa chiết khấu không làm đóng băng vốn của ngân hàng do thời hạn ngắn lại có thể tái chiết khấu nên khoản vốn của ngân hàng nhanh chóng được giải phóng, nâng cao tính thanh khoản tài sản có của ngân hàng. Ngoài ra, ngân hàng có thể sử dụng thêm các phương thức cho vay khác như : cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, cho vay luân chuyển … Ngân hàng có thể kết hợp cùng một lúc nhiều phương thức cho vay. Đối với những phương thức cho vay mới ngân hàng cần giải thích cặn kẽ cho khách hàng hiểu về cách thức, ưu nhược điểm của từng loại để khách hàng có thể tiến hành vay thuận lợi vào những lần sau. Sau mỗi lần áp dụng phương thức mới, ngân hàng nên rút ra những vấn đề nên và không nên từ ý kiến của khách hàng để phát huy những mặt tích cực, hạn chế mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của mỗi phương thức. - Đa dạng hoá về lĩnh vực cho vay của ngân hàng Trong các ngành kinh tế, Ngân hàng TMCP Việt á cho vay trên nhiều lĩnh vực như: thương mại du lịch, xây dựng cơ bản… Điều này phù hợp với vai trò của ngân hàng. Tuy nhiên, ngân hàng cũng nên quan tâm đến cho vay nhành nghề truyền thống của khách hàng, tập trung cho vay những ngành nghề kinh doanh ít chịu ảnh hưởng của quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế và lộ trình gia nhập WTO của Việt Nam… Bằng cách này ngân hàng có thể phân tán được rủi ro, tăng lợi nhuận. Để làm tốt điều này Ngân hàng TMCP Việt á cần phải tập trung tìm kiếm, khai thác hơn nữa các khách hàng thuộc ngành này, nâng cao công tác thẩm định dự án, nâng cao nghiệp vụ của cán bộ tín dụng về lĩnh vực này. 3.2.3. Thực hiện có hiệu quả quy trình nghiệp vụ tín dụng Quy trình nghiệp vụ tín dụng bao gồm những nội dung kĩ thuật nghiệp vụ cơ bản, các bước tiến hành từ khi bắt đầu đến lúc kết thúc một món vay mà những điểm chính là khâu thẩm định mặt hiệu quả tài chính của món vay, kiếm tra kiểm soát việc sử dụng vốn vay trong quá trình vay của khách hàng, nhắc nhở khách hàng về thời gian trả nợ và lãi để khách hàng có kế hoạch trả nợ… đây là những công việc cần thiết đối với cán bộ tín dụng khi tiến hành cho vay để hạn chế khả năng mất vốn, hạn chế rủi ro đến mức thấp nhất. Để cho vay đạt hiệu quả cao khi cho vay, cần thực hiện đầy đủ và chặt chẽ quy trình cho vay, đặc biệt làm tốt công tác thẩm định dự án vay vốn, nắm bắt được các thông tin về khách hàng, tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng, mục đích sử dụng vốn, làm tốt công tác thẩm tra trong mỗi công đoạn của quá trình cho vay nhằm nâng cao chất lượng cho vay, giảm rủi ro cho ngân hàng, thúc đẩy sản xuất phát triển bởi nếu phương án dự án vay vốn khả thi, khách hàng sử dụng vốn vay có hiệu quả thì khả năng trả nợ cho ngân hàng gần như là chắc chắn. Mức độ trong các khâu thẩm định, kiểm tra, kiểm soát càng cao thì khả năng thu hồi của ngân hàng càng lớn và điều này đảm bảo chất lượng tín dụng của ngân hàng. Do vậy, việc hoàn thiện về nghiệp vụ trong quá trình tín dụng là một việc hết sức cần thiết. 3.2.4. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát đối với các khoản tín dụng. Hoạt động ngân hàng là hoạt động gắn bó hữu cơ với hoạt động sản xuất kinh doanh của các ngành trong nền kinh tế quốc dân. Các ngành kinh tế muốn phát triển, mở rộng quy mô thì phải bổ sung nguồn vốn bằng cách vay vốn ngân hàng. Nếu hoạt động sản xuất kinh doanh cỉa doanh nghiệp kém hiệu quả sẽ dẫn đến rủi ro tín dụng. Vì vậy, các ngân hàng thương mại nói chung, Ngân hàng TMCP Việt á nói riêng cho các doanh nghiệp vay vốn phải giám sát chặt chẽ quá trình sử dụng vốn của các doanh nghiệp. Kiểm tra trước khi vay: Kiếm tra tính hợp lệ, hợp pháp của các khoản vay và mẫu chữ ký những người có liên quan, ngày, tháng số liệu giấy tờ các loại văn bản đã khớp đúng chưa, cán bộ tín dụng và cán bộ lãnh đạo có liên quan thực hiện quy trình cho vay có đúng quy định không, có thiếu xót gì không. Kiểm tra trong khi cho vay: Kiểm tra khi phát tiền vay, chuyển tiền thanh toán cho đối tác của khách hàng vay có đúng và phù hợp với mục đích xin vay hay không, có đủ căn cứ pháp lý hợp lệ hay không. Khi món vay được kí duyệt giải ngân, cán bộ tín dụng phải lưu hồ sơ vay vốn và các văn bản giấy tờ bổ sung khác trong quá trình theo dõi thu nợ cho đến khi thu hết nợ và chuyển lưu trữ hồ sơ theo quy định. Kiểm tra sau khi cho vay và thu hồi nợ: Sau khi cấp vay vốn cho khách hàng, việc ngân hàng kiểm tra, theo dõi chặt chẽ với khách hàng vay vốn sẽ làm giảm ý muốn sử dụng vay vốn sai mục đích của khách hàng. 3.2.5. Xử lí tốt các khoản nợ quá hạn Nợ quá hạn là một vấn đề làm “đau đầu” các nhà quản trị ngân hàng thương mại. Bất cứ ngân hàng thương mại nào, dù quản lí giỏi đến đâu cũng không thể triệt tiêu nợ quá hạn bởi vì nguy cơ rủi ro tiềm ẩn mọi nơi, mọi phía. Do đó quản lí và giảm thiểu rủi ro là nhiệm vụ hàng đầu đối với hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại trong quá trình tồn tại cà phát triển. Nợ quá hạn phát sinh do nhiều nguyên nhân khác nhau. Nếu tỉ lệ nợ quá hạn cao hơn mức cho phép so với tổng dư nợ thì chất lượng tín dụng ở ngân hàng đó không tốt. Ngược lại, tỷ lệ nợ quá hạn thấp hơn so với tồng dư nợ thì chất lượng tín dụng của ngân hàng đó là tốt. Do vậy, việc nâng cao chất lượng cho vay đồng nghĩa với việc duy trì tỉ lệ nợ quá hạn ở mức hợp lí trên tổng dư nợ qua việc ngăn ngừa nợ quá hạn phát sinh và giải quyết dứt điểm nợ quá hạn phát sinh. Ngăn ngừa nợ quá hạn phát sinh : Với phương châm ”phòng cháy hơn chữa cháy” ngân hàng cần có biện pháp theo dõi chặt chẽ tình hình hoạt động của người vay nhằm phát hiện sớm khả năng phát sinh nợ quá hạn để có biện pháp can thiệp hoặc giúp đỡ người vay có thể trả nợ đúng hạn. Một số dấu hiệu cho thấy khả năng phát sinh nợ quá hạn đó là : + Doanh nghiệp trì hoãn nộp báo cáo tài chính + Chậm trễ trong việc dàn xếp các cuộc kiểm tra nhà máy +Sự suy giảm sự tin cậy , hợp tác giữa cán bộ ngân hàng và khách hàng + Số dư tiền gửi giảm sút + Sự gia tăng bất thường số hàng hoá tồn kho và gia tăng các khoản phải thu chứng tỏ chất lượng hàng hoá dịch vụ của doanh nghiệp giảm hoặc do bán cho các khách hàng yếu kém về tài chính. + Sự gia tăng các tài sản cố định, sự bành trướng thông qua việc mua hoặc hợp nhất với một doanh nghiệp khác. + Thiên tai như bão lụt, hoả hoạn . + Hoàn trả nợ vay hoặc quá thời hạn, đây là dấu hiệu rõ ràng nhất về khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Khi có dấu hiệu cho thấy người vay không có khả năng trả được nợ đúng hạn, việc đầu tiên của cán bộ tín dụng cần làm là đánh giá mức độ nghiêm trọng của vấn đề và áp dụng các biện pháp để điều chỉnh tình huống nhằm bảo vệ lợi ích của ngân hàng và khôi phục lại năng lực của người đi vay như: + Cán bộ tín dụng có thể cố vấn cho người vay hoặc mời chuyên gia để cho lời khuyên hoặc tư vấn. + Yêu cầu khách hàng tạm dừng kế hoạch mở rộng dài hạn nếu có. Những kế hoạch như vậy thường chiếm vốn từ hoạt động sản xuất kinh doanh cho đến khi tình hình tài chính của doanh nghiệp được cải thiện. + Đề nghị khách hàng nâng cao hiệu quả công tác quản lý hàng tồn kho, áp dụng các biện pháp hỗ trợ như cấp tín dụng thương mại, chiết khấu, tăng cường hoạt động quảng cáo để tăng doanh số bán. Đồng thời ngân hàng có thể đề nghị khách hàng xem xét lại chiến lược kinh doanh của họ cũng như hệ thống sản xuất kinh doanh khi không có hiệu quả. + Ngân hàng có thể nhận thêm tài sản thế chấp hay chấp nhận bảo lãnh của bên thứ ba cho người vay. + Điều chỉnh thời gian trả nợ cũng như thời gian trả lãi bằng cách gia hạn nợ hoặc rút bớt mức chi trả trong một khoảng thời gian. Tuy nhiên cần phải có những tính toán chính xác về thời hạn trả nợ và tỷ lệ lãi suất phù hợp với quy định và không gây thiệt hại cho cả hai bên. + Nuôi con nợ : ngân hàng có thể xem xét việc cung cấp cho khách hàng một khoản tín dụng mới để có vốn tiếp tục hoạt động sản xuất kinh doanh khắc phục khó khăn. Tuy nhiên, việc tăng thêm vốn cho vay của ngân hàng chịu một tỷ lệ rủi ro cao, nên biện pháp này chỉ được thực hiện khi các biện pháp đảm bảo an toàn vốn vay mà ngân hàng yêu cầu được áp dụng và doanh nghiệp đi vay chắc chắn có thể phục hồi được sản xuất kinh doanh. Sau khi ngân hàng đã áp dụng các biện pháp phòng ngừa nhưng nợ quá hạn vẫn tồn tại thì ngân hàng buộc phải thực hiện các biện pháp xử lý nợ quá hạn để cứu vãn vốn của mình. Trước hết ngân hàng cần tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến nợ qua hạn. Vấn đề này phải được phân tích kỹ lưỡng, chính xác nhằm xác định đúng nguyên nhân đã gây ra nợ quá hạn để có biện pháp xử lý thích đáng. Sau khi đã xác định rõ nguyên nhân dẫn đến nợ quá hạn, phòng kinh doanh lên kế hoạch về số lượng nợ quá hạn và giao cụ thề cho từng cán bộ tín dụng theo từng tháng, kịp thời khen thưởng đối với các cá nhân hoàn thành xuất sắc, khuyên khích những sáng kiến giải quyết nợ qúa hạn, xử lý nghiêm những cán bộ thiếu tinh thần trách nhiệm, ý thức chưa tốt. Nếu nợ quá hạn do các nguyên nhân khách quan thì ngân hàng có thể gia hạn thêm, điều chỉnh hợp đồng tín dụng cho tương ứng với kỳ hạn có thể thu đựoc lợi nhuận của người vay. Ngược lại, nếu khách hàng cố tình dây dưa, chây ỳ, nợ quá hạn kéo dài, ngân hàng cần sử dụng các biện pháp cứng rắn kết hợp với sự hỗ trợ của chính quyền địa phương, các cơ quan chức năng để thu hồi nợ. 3.2.6. Giải pháp về nhân tố con người Con người là nhân tố trung tâm chi phối và có ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động tín dụng ngắn hạn nói riêng của ngân hàng. Để hoạt động tín dụng được hiệu quả thì ngân hàng cần có những cán bộ hội đủ ba điều kiện : trình độ, kinh nghiệm và độ nhạt bén. Một cán bộ tín dụng giỏi phải là một nhà kinh tế giỏi. Công vịêc của họ không chỉ đơn thuần là xem xét tính toán các số liệu mà họ phải có một kiến thức tổng hợp về kinh tế vĩ mô, kinh tế vi mô, hoạt động tài chính, hoạt động kinh tế để đưa ra những quyết định chính xác. Bên cạnh đó, kinh nghiệm và độ nhạy bén cũng không kém phần quan trọng. Một cán bộ thiếu kinh nghiệm và độ nhạy bén có thể không nhìn thấy hết đựoc vấn đề và sẽ đưa ra những quyết định sai lầm, ảnh hưởng đến ngân hàng. Để đáp ứng được yêu cầu này, ngân hàng cần tập trung vào một số giải pháp sau: - Vấn đề tuyển dụng và bồi dưỡng cán bộ tín dụng Ngân hàng cần có chính sách tuyển dụng cán bộ hợp lý để thu hút được những sinh viên xuất sắc, có năng lực trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, đã tốt nghiệp những trường đại học có uy tín. Hơn nữa, việc tuyển chọn phải trên cơ sở yêu cầu của từng loại công việc và có tiêu chuẩn rõ ràng. Những cán bộ ngân hàng, cán bộ quản lý điều hành hoặc trực tiếp tác nghiệp trong lĩnh vực tín dụng cần có tiêu chuẩn chung là: + Lập trường tư tưởng vững vàng, có tinh thần đạo đức, có ý thức kỉ luật cao. + Phải có kiến thức nghiệp vụ chuyên môn giỏi, nắm bắt nhanh nhạy, đầy đủ các chính sách chủ trương của Đảng, Pháp luật của Nhà nước, biết vận dụng sáng tạo trong từng công tác được giao. + Đối với cán bộ trực tiếp giao dịch với khách hàng, thẩm định dự án, đề xuất với lãnh đạo ra các quyết định xử lý thì ngoài yêu cầu chung còn đòi hỏi họ là những ngưòi thực sự khách quan, có hiểu biết nhất định về kinh tế thị trường, có thể đi sâu đi sát thực tế. Công tác đào tạo phải được quan tâm đúng mức. Đối với nhân viên đựoc tuyển chọn vào ngân hàng cần phải được đào tạo, bồi dưỡng thêm về nghiệp vụ. Bên cạnh đó, phải hướng dẫn cho nhân viên nắm rõ những mục tiêu, những quy định của ngân hàng và quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động của ngân hàng. Đối với nhữmg nhân viên đang làm việc cũng cần phải thường xuyên nghiên cứu cập nhật các thông tin và kiến thức mới về chuyên môn, nghiệp vụ. Hàng năm ngân hàng nên tổ chức hoặc cử cán bộ đi tham dự những lớp tập huấn đào tạo ngắn hạn cho cán bộ tín dụng. - Vấn đề sắp xếp, bố trí cán bộ hợp lý Hiện nay hầu hết các ngân hàng thương mại ở nước ta đều gặp phải vướng mắc về vấn đề cơ cấu tổ chức. Bộ máy tổ chức quá cồng kềnh lại chậm cải tổ, đổi mới hoạt động chưa hiệu quả. Cán bộ tín dụng hiện nay vừa làm công tác tiếp nhận hồ sơ, thẩm định, giải ngân, thu nợ, xử lý nợ. Do vậy, nảy sinh nhiều tiêu cực gây rủi ro cho hoạt động tín dụng ngân hàng. Do đó cần phải phân tích, chuyên môn hoá quyền hạn của cán bộ tín dụng theo một số hướng công việc chuyên môn sau ; + Tiếp nhận hồ sơ khách hàng : Người cán bộ này có nhiệm vụ tìm kiếm khách hàng, tiếp nhận hồ sơ của khách hàng, thường xuyên liên lạc với khách hàng để tiếp nhận các báo cáo tài chính, lập hồ sơ về khách hàng một cách đầy đủ. Đi sâu vào các khía cạnh như các nét chính về tổ chức hoạt động của khách hàng, lĩnh vực kinh doanh, thị trường, hình thức tổ chức quản lý kế toán, khoản tín dụng yêu cầu, thời hạn, lãi suất có thể chấp nhận, ngoài ra phải có tóm tắt dự án, đảm bảo tiền vay, quan hệ với khách hàng khác. Sau đó cán bộ tiếp nhận hồ sơ chuyển hồ sơ đến các cán bộ thẩm định. + Cán bộ thẩm định : có nhiệm vụ xem xét lại hồ sơ khách hàng, khai thác các thông tin liên quan trong việc thẩm định tính khả thi của dự án. Cán bộ thẩm định chụi trách nhiệm với lãnh đạo về tính chính xác của thông tin thẩm định, quyết định thẩm định, trình lên lãnh đạo để xem xét sửa đổi từ đó có quyết định cho vay hay không. Báo cáo thẩm định được cán bộ thẩm định lập ra bao gồm các nội dung trong hồ sơ khách hàng, kết quả thẩm định và giải trình kết quả thẩm định. + Cán bộ quản lý giải ngân ; Thực hiện nhiệm vụ quản lý dư nợ cho vay khách hàng, thực hiện tính lãi định kỳ, quản lý hợp đồng bảo lãnh. Thu nhập thông tin về tình hình kinh doanh, sử dụng vốn vay, bảo quản tài sản thế chấp, việc thực hiện kế hoạch trả nợ, lưu hồ sơ về khách hàng, thu nhập thông tin thực tế về giao dịch tín dụng. Định kỳ quý lập ra các báo cáo trinh lên trưởng phòng tín dụng xem xét. Ngoài ra cần có kiểm soát viên nội bộ hoạt động tín dụng để giám sát hoạt động của cán bộ trong phòng, kiểm tra lại hồ sơ khách hàng, việc chấp hành kế hoạch tín dụng, tính tuân thủ và thu hồi nợ, tình hình tài sản đảm bảo. Như vậy với việc phân tách, chuyên môn hoá quyền hạn trách nhiệm của cán bộ tín dụng thì đương nhiên sẽ tạo ra sự gắn kết thống nhất trong hoạt động tín dụng của cán bộ tín dụng, họ luôn phải ràng buộc giám sát giúp đỡ nhau trong quá trình thực hiện công tác. Hơn nữa nếu có thể phân tách chuyên môn hoá quyền hạn các bộ phận theo quyền hạn kết hợp chia theo chức năng quản lý khu vực kinh tế quốc doanh,ngoài quốc doanh, ngắn hạn, trung dài hạn, nội ngoại tệ… - Vấn đề đãi ngộ Ngân hàng nên có chính sách ưu đãi cho cán bộ tín dụng để khuyến khích trách nhiệm, ý thức và tinh thần vương lên hoàn thiện của mỗi cán bộ. Ngoài chế độ hằng năm cho đi nghỉ mát, điều dưỡng ngân hàng cũng cần có chính sách khuyến khích cán bộ tự đào tạo như hỗ trợ tiền mua các tài liệu sách, sách tham khảo, áp dụng khung lương, thưởng hợp lý với các cán bộ có học vị và đóng góp với ngân hàng. 3.3. Một số kiến nghị 3.3.1 Kiến nghị đối với Nhà nước Cải tiến công tác toà án, thi hành án, sớm chỉnh sửa Pháp lệnh thi hành án để nâng cao hiệu lực pháp lý của các bản án đã có hiệu lực thi hành, rút ngắn thời gian tố tụng, thời gian tố tụng, thời gian thi hành án. Nhà nước cần đẩy mạnh hoạt động trên các thị trường như thị trường chứng khoán để doanh nghiệp dễ dàng huy động các nguồn vốn khác, phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhà nước cần có biện pháp kinh tế và hành chính buộc các doanh nghiệp chấp hành đúng các chế độ về kế toán thống kê, thực hiện tốt công tác duyệt, quyết toán đã quy định nhằm đảm bảo tính pháp lý của nguồn số liệu mà doanh nghiệp cung cấp cho ngân hàng. Xoá bỏ và xử phạt nghiêm minh hình thức cho vay nặng lãi, kinh doanh tiền tệ trái phép dưới mọi hình thức… Chính phủ cần có chính sách xử lý rủi ro đối với các ngân hàng cho vay vốn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, bình đẳng như đối với doanh nghiệp nhà nước như; khoanh nợ, xoá nợ, ân hạn, ưu đãi… nhanh chóng đưa quỹ hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ đi vào hoạt động, hình thành quỹ tín dụng hỗ trợ xuất nhập khẩu. Cơ chế pháp lý về việc thu hồi nợ : Một thực trạng hiện nay làm những người thu hồi nợ rất vất vả là cơ chế pháp lý cho thu hồi nợ vừa thiếu, vừa mâu thuẫn vừa không nghiêm trong việc chấp hành, vừa kéo dài trong thi hành án, vướng mắc ngay từ văn bản luật, pháp lệnh … đến các văn bản khác thâp hơn. Do đó, phải thiết lập một cơ chế pháp lý khắc phục những bất cập hiện hành, thể hiện dưới dạng văn bản có hiệu lực cao nhất là luật. 3.2.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước - Tiếp tục xây dựng hoàn chỉnh các văn bản pháp quy Các văn bản pháp quy bao gồm : nghị định của Chính phủ, quyết định và thông tư của thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam để hướng dẫn thi hành Luật ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng. Việc xây dựng và hoàn chỉnh vày phải được thực hiện khẩn trương, chất lượng, vừa đảm bảo tuân thủ pháp luật, vừa đắp ứng được yêu cầu đặt ra của đời sống kinh tế xã hội, thấo gỡ các vướng mắc, giảm bớt các thủ tục phiền hà nhưng vẫn đảm bảo an toàn các doanh nghiệp và nhân dân trong hoạt động tín dụng ngắn hạn nói riêng và hoạt động khác của ngân hàng nói chung. - Tổ chức triển khai các văn bản đã ban hành một cách sâu rộng Việc tổ chức triển khai phải được thực hiện tới tận cơ sở, cán bộ ngân hàng bao gồm các khâu: ra văn bản hướng dẫn cụ thể, chấn chỉnh và sắp xếp cán bộ một cách hợp lý theo phương châm “ đúng người đúng việc”, tổ chức đào tạo lại, tập huấn các văn bản nghiệp vụ đến tận cơ sở, kiểm tra đôn đốc quá trình triển khải thực hiện, phát hiện và phản ánh kịp thời các khó khăn để sửa đổi và điều chỉnh. - Hoàn thiện cơ chế cầm cố, thế chấp tài sản và bảo lãnh vay vốn ngân hàng Cầm cố, thế chấp tài sản hoặc bảo lãnh là những điều kiện dảm bảo cho các khoản và là một nguyên tắc của tín dụng khi khách hàng vay vốn ngân hàng. Quan hệ này được đề cập trong Bộ luật dân sự Việt Nam. Bên cạnh đó là thông tư hướng dẫn số 06/TT- CP của Chính phủ. Mặc dù được cụ thể hoá trong thông tin nhưng những quy chế còn qúa chung chung. Hơn nữa, Luật đất đai chưa rõ ràng. Thủ tục thế chấp qua phòng công chứng cũng phức tạp. Vấn đề phát mại tài sản thế chấp liên quan nhiều cơ quan, quá nhiều thủ tục. Trường hợp xử lý tài sản thế chấp kéo dài. Chính vì vậy để có thể ban hành quy chế cụ thể, cần có sự phối hợp của nhiều cơ quan. - Kiểm tra chặt chẽ hoạt động của các ngân hàng thương mại Về cơ chế chính sách : ban hành hệ thống các cơ chế, quy chế, tạo khung pháp lý đáp ứng được yêu cầu, một mặt vừa nâng cao quyền hạn và trách nhiệm tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức tín dụng đối với các dự án cho vay, hạn chế đi đến xoá bỏ sự can thiệp trái pháp luật đối với quyền quyết định phải chấp hành nghiêm túc các quy định của pháp luật, xử phạt nghiêm minh các trường hợp vi phạm. Tiếp tục có biện pháp kiên quyết giảm tỷ lệ nợ quá hạn. Phối hợp với các cơ quan chức năng tăng cường thu hồi nợ quá hạn, xử lý các tài sản thế chấp, cầm cố . Chương 3 Nâng cao hiệu quả phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động cho vay tại ngân hàng TMCP Việt Á chi nhánh Hà Nội. 3.1. Định hướng phát triển hoạt động tín dụng của ngân hàng TMCP Việt Á chi nhánh Hà Nội. Qua 12 năm thành lập và hoạt động ngân hàng TMCP Việt Á chi nhánh Hà Nội đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Đó là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu không ngừng của tập thể cán bộ lãnh đạo và nhân viên ngân hàng. Để ngày một phát triển vững mạnh, tạo chỗ đứng vững chắc trong thời kỳ hội nhập quốc tế, mục tiêu phấn đấu giữ vững vai trò chi nhánh có chất lượng hoạt động tốt nhất trong hệ thống NASP và luôn là ngân hàng vững mạnh trên địa bàn Hà Nội, cụ thể: Tốt độ tăng vốn huy động là 30% - 35% /năm, đầu tư tín dụng đạt mức tăng 40% / năm, tăng cường các sản phẩm dịch vụ mới, mở rộng mạng lưới chi nhánh tại nhiều tỉnh, thành phố để thu hút khách hàng, tăng trưởng lợi nhuận hàng năm từ 10% - 15% . Riêng hoạt động tín dụng, để phát huy những kết quả đã đạt được mà ngân hàng đã đề ra, nhiệm vụ kinh doanh của chi nhánh Hà Nội trong thời gian tới là lấy mục tiêu ổn định phát triển – an toàn vốn làm tư tưởng chỉ đạo. + Tiếp tục tăng trưởng dư nợ lành mạnh, an toàn hiệu quả, nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư. + Tiếp tục phân loại doanh nghiệp để kịp thời đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh cho hoạt động sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp, mở rộng thị trường và thu hút khách hàng. -+Tiếp tục thu hồi các khoản nợ quá hạn, nợ khó đòi. Gắn với việc sử lý tài sản thế chấp phối hợp với các cơ quan pháp luật và các cơ quan thi hành án, để sớm giải quyết thu hồi nợ. + Tiếp tục tham gia thực hiện dự án hiện đại hóa và đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ ngân hàng. +Tiếp tục đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, nâng cao trình độ nghiệp vụ cán bộ . 3.2.1. Nâng cao chất lượng công tác thu thập thông tin. Nguồn thông tin là một yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động tín dụng. Thông tin đầy đủ, có độ tin cậy cao và cập nhật là cơ sở cần thiết để cán bộ tín dụng có thể phân tích và đưa ra nhận định chính xác về khách hàng từ đó có những quyết định hợp lý trong việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Do đó, cần thiết phải có những biện pháp để nâng cao hơn nữa công tác thu thập thông tin. Một là, thiết lập hệ thống thu thập và sử lý thông tin từ các cơ quan báo chí, thu thập tài liệu về chủ trương chính sách, phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của nhà nước, các văn bản có liên quan. Hai là, hoàn thiện hệ thống thông tin báo cáo nội bộ, đồng thời xây dựng một hệ thống thu thập, xử lý và lưu trữ dữ liệu riêng phục vụ cho việc phân tích tài chính doanh nghiệp. Ba là, tăng cường hợp tác, trao đổi chia sẻ thông tin giữa các NHTM Việt Nam trong việc cung cấp thông tin cho nhau về khách hàng, nhằm giảm thiểu rủi ro. Thực tế cho thấy do thu thập thông tin từ bên ngoài là rất tốn kém và mất nhiều thời gian, công sức nên thường bị bỏ qua và làm hạn chế rất nhiều chất lượng của nguồn thông tin, dẫn tới những rủi ro không đáng có cho các NHTM Việt Nam. 3.2.2. Hoàn thiện nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp. Khi đánh giá tình hình tài chính vay vốn, phân tích các chỉ số tài chính đóng vai trò quan trọng. các hệ số tài chính cho thấy tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc tính toán các hệ số này chưa được thực hiện một cách thống nhất đối với tất cả các doanh nghiệp vay vốn. Ngân hàng yêu cầu tất cả các cán bộ tín dụng tính toán một số hệ số quan trọng: Hệ số khả năng thanh toán, hệ số phản ánh tình hình hoạt động, hệ số cơ cấu vốn, hệ số sinh lời để đánh giá doanh nghiệp khách quan, chính xác. Ngân hàng cũng cần bổ sung các chỉ tiêu về khả năng thanh toán, khả năng sinh lời, khả năng hoạt động tài sản, các chỉ tiêu về phân tích dòng tiền. 3.2.3. Nâng cao trình độ phân tích của cán bộ tín dụng. Để đáp ứng tốt hơn nhu cầu phát triển hoạt động cho vay, ngân hàng cần thực hiện các biện pháp sau trong thời gian tới: Một là, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Ngân hàng nên tổ chức các lớp bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho các cán bộ tín dụng. Ngân hàng cần tổ chức rà soát lại đội ngũ cán bộ để có thể đào tạo bổ sung kịp thời những mặt còn yếu, còn thiếu. Hai là, chú trọng công tác giáo dục chính chị, tư tưởng cho cán bộ tín dụng để chống rủi ro đạo đức trong hoạt động cho vay. Ba là, có chính sách sử dụng cán bộ hợp lý, từng bước tiêu chuẩn hóa cán bộ ngân hàng. Bốn là, tạo điều kiện cho cán bộ tín dụng được đi học để nâng cao kiến thức, có khả năng phân tích đánh giá khách hàng, đánh giá các dự án theo phương pháp hiện đại, thiết lập một bảng lưu chuyển tiền tệ phù hợp với sự vận động khách quan về dòng tiền của khách hàng. Năm là, có chính sách tuyển dụng cán bộ hợp lý. Công tác tuyển dụng cán bộ tín dụng là một trong những vấn đề mà ngân hàng đặc biệt quan tâm, ngân hàng cần đặt ra các điều kiện và yêu cầu tối thiểu về trình độ và kinh nghiệm trong việc tuyển dụng... Nếu thực hiện tốt việc tuyển dụng ngân hàng có thể yên tâm để thực hiện mục tiêu phát triển của mình. 3.2.4. Hoàn thiện và phát triển mối quan hệ với khách hàng doanh nghiệp. Ngân hàng cần phải xây dựng cho mình một chiến lược khách hàng thông qua một số giải pháp sau: Thứ nhất, củng cố và phát triển khách hàng truyền thống.Sở dĩ, ngân hàng cần xây dựng cho mình một chính sách khách hàng lâu dài vì việc thiết lập mối quan hệ lâu dài giữa khách hàng và ngân hàng quyết định đến sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Thông qua mối quan hệ lâu dài với khách hàng, ngân hàng sẽ tư vấn giúp doanh nghiệp phân tích, xem xét về mặt tài chính các cơ hội đầu tư thực hiện sản xuất kinh doanh. Điều đó giúp ngân hàng thực hiện tốt công tác phân tích tài chính doanh nghiệp. Thứ hai, mở rộng có chọn lọc đối với khách hàng mới: Ngân hàng nên tích cực thực hiện mọi biện pháp thu hút khách hàng thuộc mọi khu vực quốc doanh và ngoài quốc doanh để cho vay bởi vì đây là lực lượng khách hàng tiềm năng đang ngày càng lớn mạnh trong nền kinh tế thị trường. Thứ ba, tư vấn giúp khách hàng trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Việc lập phương án hay dự án của doanh nghiệp, khách hàng đều cần có sự tư vấn của ngân hàng giúp khách hàng lựa chọn được những dự án hiệu quả, loại bỏ được những dự án không có tính khả thi, với cách làm này ngân hàng có thể chủ động tìm kiếm và khai thác các dự án có tính khả thi để ra quyết định cho vay. Đây cũng là điều kiện cần thiết để nâng cao chất lượng tín dụng đồng thời là lá chắn tốt nhất với những rủi ro từ phía khách hàng đối với hoạt động cho vay của ngân hàng. 3.2.5. Giải pháp về công nghệ ngân hàng. Công nghệ - Trang thiết bị đối với hoạt động của bất kỳ ngân hàng nào cũng là một vấn đề hết sức quan trọng. Đối với công tác phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động cho vay,công nghệ - trang thiết bị có ý nghĩa rất lớn trong quá trình thu thập, lưu trữ và sử lý thông tin về doanh nghiệp. Để làm được điều này, ngân hàng cần thực hiện các giải pháp sau: Thứ nhất, đầu tư chiều sâu vào các thiết bị thuộc hệ thống thu thập thông tin của ngân hàng. Thứ hai, đầu tư cơ sở vật chất phục vụ công việc như máy vi tính, ô tô... với số lượng phù hợp với điều kiện làm việc của từng cán bộ tín dụng. Thứ ba, tìm hiểu khai thác những công nghệ, phần mềm mới trong lĩnh vực ngân hàng giảm bớt các công đoạn trong quá trình thực hiện phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động cho vay. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện giải pháp đầu tư vào công nghệ - Trang thiết bị cần phải có sự cân nhắc kỹ lưỡng đảm bảo không gây lãng phí và phù hợp với từng giai đoạn phát triển của ngân hàng. 3.3. 3.2.1. Xây dựng chiến lược kinh doanh Chiến lược kinh doanh của một ngân hàng luôn là sự thể hiện các mục tiêu dài hạn cơ bản của một ngân hàng, sự lựa chọn đường lối hoạt động và phân bổ các nguồn lực cần thiết để đạt được các mục tiêu này. Do đó chiến lược kinh doanh là trước hết cần thiết và mang tích chất quyết định đến sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Chiến lược kinh doanh ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng hoạt động của ngân hàng, đặc biệt là chất lượng tín dụng. Do đó, nếu xây dựng một chiến lược không phù hợp với thực lực của ngân hàng và nhu cầu của thị trường thì ngân hàng đó sẽ có những bước đi sai lầm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động ngân hàng. Nhưng nếu không có chiến lược kinh doanh thì ngân hàng đó không thể lường trước được những biến động có thể xảy ra, từ đó không những có những biện pháp để khắc phục. Hơn nữa, trong nền kinh tế thị trường hiện nay thì sự cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng gay gắt. Do đó cần phải có một chiến lược kinh doanh phù hợp với thực tế thị trường và khả năng của ngân hàng. Để theo đuổi mục tiêu này ngân hàng nên thực hiện đồng thời các biện pháp sau: Thứ nhất, củng cố và phát triển khách hàng truyền thống. Ngân hàng TMCP Việt á cần đơn giản hoá thủ tục cho vay các doanh nghiệp là khách hàng truyền thống trên cơ sở đảm bảo an toàn, đáp ứng kịp thời và nhanh chóng những nhu cầu của doanh nghiệp trong khả năng của ngân hàng, tạo tâm lý thoải mái, tin tưởng, yên tâm cho khách hàng. Cung cấp các dịch vụ tối ưu nhất cho những khách hành truyền thống. Đối với các khách hàng có quan hệ tốt từ trước ngân hàng nên giảm bớt thời gian thẩm định cũng như các quy định về đảm bảo tiền vay. Thứ hai, đối với khách hàng là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh như công ty cổ phần, công ty tư nhân… Ngân hàng TMCP Việt á cần có những chính sách cụ thể để phát huy tiềm năng của đối tượng khách hàng này. Trên thực tế, sô lượng khách hàng là doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm tỷ lệ trong tổng số lượng khách hàng của ngân hàng. Mặc dù các doanh nghiệp này tiềm ẩn nhiều rủi ro cao cả từ phía nguyên nhân khách quan và chủ quan, nhưng không phải tất cả các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đều làm ăn như vậy, có rất nhiều doanh nghiệp làm ăn hiệu quả, có lãi hoàn trả đầy đủ các món vay của ngân hàng. Trong thời kì nền kinh tế đang chuyển đổi hiện nay, số lượng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh được thành lập tăng đáng kể. Nếu cứ giữ nguyên tình trạng như hiện nay, ngân hàng sẽ bỏ qua một nguồn lợi lớn, giảm khả năng cạnh tranh trong khu vực Thứ 3, mở rộng có chọn lọc đối với khách hàng mới. Ngân hàng cần tích cực bằng mọi biện pháp để thu hút khách hàng thuộc khu vực Nhà nước để cho vay khép kín với chu trình sản xuất. Đồng thời thiết lập và nâng cao hiệu quả xử lí thông tin tín dụng trên cơ sở ngân hàng phải lựa chọn khách hàng bằng nhiều biện pháp cần thiết để mở rộng thị phần khách hàng đối với các tổng công ty. Thông qua việc xây dựng chiến lược khách hàng, mà ngân hàng có thể tiến hành quản lý khách hàng một cách sát thực hơn. Nhờ đó, mà ngân hàng có thể chủ động trực tiếp tham gia vào những dự án mới của doanh nghiệp từ đầu, không phải đợi đến lúc doanh nghiệp đến xin vay qua đó ngân hàng có thể nắm rõ dự án hơn. 3.2.2. Đa dạng hóa hoạt động tín dụng Đa dạng hoá là một trong những phương châm hoạt động của ngân hàng nhằm giảm thiểu rủi ro, đảm bảo an toàn cho bản thân ngân hàng và người gửi tiền. Đa dạng hoá hoạt động tín dụng bao gồm đa dạng hoá về phương thức cho vay, ngành nghề. Đa dạng hoá phương thức cho vay Ngân hàng nên mở rộng cung ứng cho vay bằng hình thức chiết khấu thương phiếu. Đây là một nghiệp vụ ít rủi ro vì chiết khấu cho phép ngân hàng có quyền được truy đòi khi không thu đựoc nợ của người phát hành. Hơn nữa chiết khấu không làm đóng băng vốn của ngân hàng do thời hạn ngắn lại có thể tái chiết khấu nên khoản vốn của ngân hàng nhanh chóng được giải phóng, nâng cao tính thanh khoản tài sản có của ngân hàng. Ngoài ra, ngân hàng có thể sử dụng thêm các phương thức cho vay khác như : cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, cho vay luân chuyển … Ngân hàng có thể kết hợp cùng một lúc nhiều phương thức cho vay. Đối với những phương thức cho vay mới ngân hàng cần giải thích cặn kẽ cho khách hàng hiểu về cách thức, ưu nhược điểm của từng loại để khách hàng có thể tiến hành vay thuận lợi vào những lần sau. Sau mỗi lần áp dụng phương thức mới, ngân hàng nên rút ra những vấn đề nên và không nên từ ý kiến của khách hàng để phát huy những mặt tích cực, hạn chế mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của mỗi phương thức. - Đa dạng hoá về lĩnh vực cho vay của ngân hàng Trong các ngành kinh tế, Ngân hàng TMCP Việt á cho vay trên nhiều lĩnh vực như: thương mại du lịch, xây dựng cơ bản… Điều này phù hợp với vai trò của ngân hàng. Tuy nhiên, ngân hàng cũng nên quan tâm đến cho vay nhành nghề truyền thống của khách hàng, tập trung cho vay những ngành nghề kinh doanh ít chịu ảnh hưởng của quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế và lộ trình gia nhập WTO của Việt Nam… Bằng cách này ngân hàng có thể phân tán được rủi ro, tăng lợi nhuận. Để làm tốt điều này Ngân hàng TMCP Việt á cần phải tập trung tìm kiếm, khai thác hơn nữa các khách hàng thuộc ngành này, nâng cao công tác thẩm định dự án, nâng cao nghiệp vụ của cán bộ tín dụng về lĩnh vực này. 3.2.3. Thực hiện có hiệu quả quy trình nghiệp vụ tín dụng Quy trình nghiệp vụ tín dụng bao gồm những nội dung kĩ thuật nghiệp vụ cơ bản, các bước tiến hành từ khi bắt đầu đến lúc kết thúc một món vay mà những điểm chính là khâu thẩm định mặt hiệu quả tài chính của món vay, kiếm tra kiểm soát việc sử dụng vốn vay trong quá trình vay của khách hàng, nhắc nhở khách hàng về thời gian trả nợ và lãi để khách hàng có kế hoạch trả nợ… đây là những công việc cần thiết đối với cán bộ tín dụng khi tiến hành cho vay để hạn chế khả năng mất vốn, hạn chế rủi ro đến mức thấp nhất. Để cho vay đạt hiệu quả cao khi cho vay, cần thực hiện đầy đủ và chặt chẽ quy trình cho vay, đặc biệt làm tốt công tác thẩm định dự án vay vốn, nắm bắt được các thông tin về khách hàng, tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng, mục đích sử dụng vốn, làm tốt công tác thẩm tra trong mỗi công đoạn của quá trình cho vay nhằm nâng cao chất lượng cho vay, giảm rủi ro cho ngân hàng, thúc đẩy sản xuất phát triển bởi nếu phương án dự án vay vốn khả thi, khách hàng sử dụng vốn vay có hiệu quả thì khả năng trả nợ cho ngân hàng gần như là chắc chắn. Mức độ trong các khâu thẩm định, kiểm tra, kiểm soát càng cao thì khả năng thu hồi của ngân hàng càng lớn và điều này đảm bảo chất lượng tín dụng của ngân hàng. Do vậy, việc hoàn thiện về nghiệp vụ trong quá trình tín dụng là một việc hết sức cần thiết. 3.2.4. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát đối với các khoản tín dụng. Hoạt động ngân hàng là hoạt động gắn bó hữu cơ với hoạt động sản xuất kinh doanh của các ngành trong nền kinh tế quốc dân. Các ngành kinh tế muốn phát triển, mở rộng quy mô thì phải bổ sung nguồn vốn bằng cách vay vốn ngân hàng. Nếu hoạt động sản xuất kinh doanh cỉa doanh nghiệp kém hiệu quả sẽ dẫn đến rủi ro tín dụng. Vì vậy, các ngân hàng thương mại nói chung, Ngân hàng TMCP Việt á nói riêng cho các doanh nghiệp vay vốn phải giám sát chặt chẽ quá trình sử dụng vốn của các doanh nghiệp. Kiểm tra trước khi vay: Kiếm tra tính hợp lệ, hợp pháp của các khoản vay và mẫu chữ ký những người có liên quan, ngày, tháng số liệu giấy tờ các loại văn bản đã khớp đúng chưa, cán bộ tín dụng và cán bộ lãnh đạo có liên quan thực hiện quy trình cho vay có đúng quy định không, có thiếu xót gì không. Kiểm tra trong khi cho vay: Kiểm tra khi phát tiền vay, chuyển tiền thanh toán cho đối tác của khách hàng vay có đúng và phù hợp với mục đích xin vay hay không, có đủ căn cứ pháp lý hợp lệ hay không. Khi món vay được kí duyệt giải ngân, cán bộ tín dụng phải lưu hồ sơ vay vốn và các văn bản giấy tờ bổ sung khác trong quá trình theo dõi thu nợ cho đến khi thu hết nợ và chuyển lưu trữ hồ sơ theo quy định. Kiểm tra sau khi cho vay và thu hồi nợ: Sau khi cấp vay vốn cho khách hàng, việc ngân hàng kiểm tra, theo dõi chặt chẽ với khách hàng vay vốn sẽ làm giảm ý muốn sử dụng vay vốn sai mục đích của khách hàng. 3.2.5. Xử lí tốt các khoản nợ quá hạn Nợ quá hạn là một vấn đề làm “đau đầu” các nhà quản trị ngân hàng thương mại. Bất cứ ngân hàng thương mại nào, dù quản lí giỏi đến đâu cũng không thể triệt tiêu nợ quá hạn bởi vì nguy cơ rủi ro tiềm ẩn mọi nơi, mọi phía. Do đó quản lí và giảm thiểu rủi ro là nhiệm vụ hàng đầu đối với hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại trong quá trình tồn tại cà phát triển. Nợ quá hạn phát sinh do nhiều nguyên nhân khác nhau. Nếu tỉ lệ nợ quá hạn cao hơn mức cho phép so với tổng dư nợ thì chất lượng tín dụng ở ngân hàng đó không tốt. Ngược lại, tỷ lệ nợ quá hạn thấp hơn so với tồng dư nợ thì chất lượng tín dụng của ngân hàng đó là tốt. Do vậy, việc nâng cao chất lượng cho vay đồng nghĩa với việc duy trì tỉ lệ nợ quá hạn ở mức hợp lí trên tổng dư nợ qua việc ngăn ngừa nợ quá hạn phát sinh và giải quyết dứt điểm nợ quá hạn phát sinh. Ngăn ngừa nợ quá hạn phát sinh : Với phương châm ”phòng cháy hơn chữa cháy” ngân hàng cần có biện pháp theo dõi chặt chẽ tình hình hoạt động của người vay nhằm phát hiện sớm khả năng phát sinh nợ quá hạn để có biện pháp can thiệp hoặc giúp đỡ người vay có thể trả nợ đúng hạn. Một số dấu hiệu cho thấy khả năng phát sinh nợ quá hạn đó là : + Doanh nghiệp trì hoãn nộp báo cáo tài chính + Chậm trễ trong việc dàn xếp các cuộc kiểm tra nhà máy +Sự suy giảm sự tin cậy , hợp tác giữa cán bộ ngân hàng và khách hàng + Số dư tiền gửi giảm sút + Sự gia tăng bất thường số hàng hoá tồn kho và gia tăng các khoản phải thu chứng tỏ chất lượng hàng hoá dịch vụ của doanh nghiệp giảm hoặc do bán cho các khách hàng yếu kém về tài chính. + Sự gia tăng các tài sản cố định, sự bành trướng thông qua việc mua hoặc hợp nhất với một doanh nghiệp khác. + Thiên tai như bão lụt, hoả hoạn . + Hoàn trả nợ vay hoặc quá thời hạn, đây là dấu hiệu rõ ràng nhất về khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Khi có dấu hiệu cho thấy người vay không có khả năng trả được nợ đúng hạn, việc đầu tiên của cán bộ tín dụng cần làm là đánh giá mức độ nghiêm trọng của vấn đề và áp dụng các biện pháp để điều chỉnh tình huống nhằm bảo vệ lợi ích của ngân hàng và khôi phục lại năng lực của người đi vay như: + Cán bộ tín dụng có thể cố vấn cho người vay hoặc mời chuyên gia để cho lời khuyên hoặc tư vấn. + Yêu cầu khách hàng tạm dừng kế hoạch mở rộng dài hạn nếu có. Những kế hoạch như vậy thường chiếm vốn từ hoạt động sản xuất kinh doanh cho đến khi tình hình tài chính của doanh nghiệp được cải thiện. + Đề nghị khách hàng nâng cao hiệu quả công tác quản lý hàng tồn kho, áp dụng các biện pháp hỗ trợ như cấp tín dụng thương mại, chiết khấu, tăng cường hoạt động quảng cáo để tăng doanh số bán. Đồng thời ngân hàng có thể đề nghị khách hàng xem xét lại chiến lược kinh doanh của họ cũng như hệ thống sản xuất kinh doanh khi không có hiệu quả. + Ngân hàng có thể nhận thêm tài sản thế chấp hay chấp nhận bảo lãnh của bên thứ ba cho người vay. + Điều chỉnh thời gian trả nợ cũng như thời gian trả lãi bằng cách gia hạn nợ hoặc rút bớt mức chi trả trong một khoảng thời gian. Tuy nhiên cần phải có những tính toán chính xác về thời hạn trả nợ và tỷ lệ lãi suất phù hợp với quy định và không gây thiệt hại cho cả hai bên. + Nuôi con nợ : ngân hàng có thể xem xét việc cung cấp cho khách hàng một khoản tín dụng mới để có vốn tiếp tục hoạt động sản xuất kinh doanh khắc phục khó khăn. Tuy nhiên, việc tăng thêm vốn cho vay của ngân hàng chịu một tỷ lệ rủi ro cao, nên biện pháp này chỉ được thực hiện khi các biện pháp đảm bảo an toàn vốn vay mà ngân hàng yêu cầu được áp dụng và doanh nghiệp đi vay chắc chắn có thể phục hồi được sản xuất kinh doanh. Sau khi ngân hàng đã áp dụng các biện pháp phòng ngừa nhưng nợ quá hạn vẫn tồn tại thì ngân hàng buộc phải thực hiện các biện pháp xử lý nợ quá hạn để cứu vãn vốn của mình. Trước hết ngân hàng cần tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến nợ qua hạn. Vấn đề này phải được phân tích kỹ lưỡng, chính xác nhằm xác định đúng nguyên nhân đã gây ra nợ quá hạn để có biện pháp xử lý thích đáng. Sau khi đã xác định rõ nguyên nhân dẫn đến nợ quá hạn, phòng kinh doanh lên kế hoạch về số lượng nợ quá hạn và giao cụ thề cho từng cán bộ tín dụng theo từng tháng, kịp thời khen thưởng đối với các cá nhân hoàn thành xuất sắc, khuyên khích những sáng kiến giải quyết nợ qúa hạn, xử lý nghiêm những cán bộ thiếu tinh thần trách nhiệm, ý thức chưa tốt. Nếu nợ quá hạn do các nguyên nhân khách quan thì ngân hàng có thể gia hạn thêm, điều chỉnh hợp đồng tín dụng cho tương ứng với kỳ hạn có thể thu đựoc lợi nhuận của người vay. Ngược lại, nếu khách hàng cố tình dây dưa, chây ỳ, nợ quá hạn kéo dài, ngân hàng cần sử dụng các biện pháp cứng rắn kết hợp với sự hỗ trợ của chính quyền địa phương, các cơ quan chức năng để thu hồi nợ. 3.2.6. Giải pháp về nhân tố con người Con người là nhân tố trung tâm chi phối và có ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động tín dụng ngắn hạn nói riêng của ngân hàng. Để hoạt động tín dụng được hiệu quả thì ngân hàng cần có những cán bộ hội đủ ba điều kiện : trình độ, kinh nghiệm và độ nhạt bén. Một cán bộ tín dụng giỏi phải là một nhà kinh tế giỏi. Công vịêc của họ không chỉ đơn thuần là xem xét tính toán các số liệu mà họ phải có một kiến thức tổng hợp về kinh tế vĩ mô, kinh tế vi mô, hoạt động tài chính, hoạt động kinh tế để đưa ra những quyết định chính xác. Bên cạnh đó, kinh nghiệm và độ nhạy bén cũng không kém phần quan trọng. Một cán bộ thiếu kinh nghiệm và độ nhạy bén có thể không nhìn thấy hết đựoc vấn đề và sẽ đưa ra những quyết định sai lầm, ảnh hưởng đến ngân hàng. Để đáp ứng được yêu cầu này, ngân hàng cần tập trung vào một số giải pháp sau: - Vấn đề tuyển dụng và bồi dưỡng cán bộ tín dụng Ngân hàng cần có chính sách tuyển dụng cán bộ hợp lý để thu hút được những sinh viên xuất sắc, có năng lực trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, đã tốt nghiệp những trường đại học có uy tín. Hơn nữa, việc tuyển chọn phải trên cơ sở yêu cầu của từng loại công việc và có tiêu chuẩn rõ ràng. Những cán bộ ngân hàng, cán bộ quản lý điều hành hoặc trực tiếp tác nghiệp trong lĩnh vực tín dụng cần có tiêu chuẩn chung là: + Lập trường tư tưởng vững vàng, có tinh thần đạo đức, có ý thức kỉ luật cao. + Phải có kiến thức nghiệp vụ chuyên môn giỏi, nắm bắt nhanh nhạy, đầy đủ các chính sách chủ trương của Đảng, Pháp luật của Nhà nước, biết vận dụng sáng tạo trong từng công tác được giao. + Đối với cán bộ trực tiếp giao dịch với khách hàng, thẩm định dự án, đề xuất với lãnh đạo ra các quyết định xử lý thì ngoài yêu cầu chung còn đòi hỏi họ là những ngưòi thực sự khách quan, có hiểu biết nhất định về kinh tế thị trường, có thể đi sâu đi sát thực tế. Công tác đào tạo phải được quan tâm đúng mức. Đối với nhân viên đựoc tuyển chọn vào ngân hàng cần phải được đào tạo, bồi dưỡng thêm về nghiệp vụ. Bên cạnh đó, phải hướng dẫn cho nhân viên nắm rõ những mục tiêu, những quy định của ngân hàng và quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động của ngân hàng. Đối với nhữmg nhân viên đang làm việc cũng cần phải thường xuyên nghiên cứu cập nhật các thông tin và kiến thức mới về chuyên môn, nghiệp vụ. Hàng năm ngân hàng nên tổ chức hoặc cử cán bộ đi tham dự những lớp tập huấn đào tạo ngắn hạn cho cán bộ tín dụng. - Vấn đề sắp xếp, bố trí cán bộ hợp lý Hiện nay hầu hết các ngân hàng thương mại ở nước ta đều gặp phải vướng mắc về vấn đề cơ cấu tổ chức. Bộ máy tổ chức quá cồng kềnh lại chậm cải tổ, đổi mới hoạt động chưa hiệu quả. Cán bộ tín dụng hiện nay vừa làm công tác tiếp nhận hồ sơ, thẩm định, giải ngân, thu nợ, xử lý nợ. Do vậy, nảy sinh nhiều tiêu cực gây rủi ro cho hoạt động tín dụng ngân hàng. Do đó cần phải phân tích, chuyên môn hoá quyền hạn của cán bộ tín dụng theo một số hướng công việc chuyên môn sau ; + Tiếp nhận hồ sơ khách hàng : Người cán bộ này có nhiệm vụ tìm kiếm khách hàng, tiếp nhận hồ sơ của khách hàng, thường xuyên liên lạc với khách hàng để tiếp nhận các báo cáo tài chính, lập hồ sơ về khách hàng một cách đầy đủ. Đi sâu vào các khía cạnh như các nét chính về tổ chức hoạt động của khách hàng, lĩnh vực kinh doanh, thị trường, hình thức tổ chức quản lý kế toán, khoản tín dụng yêu cầu, thời hạn, lãi suất có thể chấp nhận, ngoài ra phải có tóm tắt dự án, đảm bảo tiền vay, quan hệ với khách hàng khác. Sau đó cán bộ tiếp nhận hồ sơ chuyển hồ sơ đến các cán bộ thẩm định. + Cán bộ thẩm định : có nhiệm vụ xem xét lại hồ sơ khách hàng, khai thác các thông tin liên quan trong việc thẩm định tính khả thi của dự án. Cán bộ thẩm định chụi trách nhiệm với lãnh đạo về tính chính xác của thông tin thẩm định, quyết định thẩm định, trình lên lãnh đạo để xem xét sửa đổi từ đó có quyết định cho vay hay không. Báo cáo thẩm định được cán bộ thẩm định lập ra bao gồm các nội dung trong hồ sơ khách hàng, kết quả thẩm định và giải trình kết quả thẩm định. + Cán bộ quản lý giải ngân ; Thực hiện nhiệm vụ quản lý dư nợ cho vay khách hàng, thực hiện tính lãi định kỳ, quản lý hợp đồng bảo lãnh. Thu nhập thông tin về tình hình kinh doanh, sử dụng vốn vay, bảo quản tài sản thế chấp, việc thực hiện kế hoạch trả nợ, lưu hồ sơ về khách hàng, thu nhập thông tin thực tế về giao dịch tín dụng. Định kỳ quý lập ra các báo cáo trinh lên trưởng phòng tín dụng xem xét. Ngoài ra cần có kiểm soát viên nội bộ hoạt động tín dụng để giám sát hoạt động của cán bộ trong phòng, kiểm tra lại hồ sơ khách hàng, việc chấp hành kế hoạch tín dụng, tính tuân thủ và thu hồi nợ, tình hình tài sản đảm bảo. Như vậy với việc phân tách, chuyên môn hoá quyền hạn trách nhiệm của cán bộ tín dụng thì đương nhiên sẽ tạo ra sự gắn kết thống nhất trong hoạt động tín dụng của cán bộ tín dụng, họ luôn phải ràng buộc giám sát giúp đỡ nhau trong quá trình thực hiện công tác. Hơn nữa nếu có thể phân tách chuyên môn hoá quyền hạn các bộ phận theo quyền hạn kết hợp chia theo chức năng quản lý khu vực kinh tế quốc doanh,ngoài quốc doanh, ngắn hạn, trung dài hạn, nội ngoại tệ… - Vấn đề đãi ngộ Ngân hàng nên có chính sách ưu đãi cho cán bộ tín dụng để khuyến khích trách nhiệm, ý thức và tinh thần vương lên hoàn thiện của mỗi cán bộ. Ngoài chế độ hằng năm cho đi nghỉ mát, điều dưỡng ngân hàng cũng cần có chính sách khuyến khích cán bộ tự đào tạo như hỗ trợ tiền mua các tài liệu sách, sách tham khảo, áp dụng khung lương, thưởng hợp lý với các cán bộ có học vị và đóng góp với ngân hàng. 3.3 Kiến nghị. 3.3.1. Kiến nghị với chính phủ. Hệ thống chính sách nhà nước có ảnh hưởng và chi phối tất cả các lĩnh vực như: Kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội...Một sự thay đổi dù nhỏ hay lớn trong chính sách của nhà nước ngay lập tức ảnh hưởng tới toàn bộ xã hội. Về lĩnh vực ngân hàng, các hoạt động luôn bị ảnh hưởng bởi các chính sách kinh tế - tài chính – ngân hàng nhà nước. Chính vì vậy để nâng cao chất lượng tài chính doanh nghiệp phục vụ cho hoạt động cho vay không chỉ cần nỗ lực của riêng ngân hàng mà còn cần có sự giúp đỡ, phối hợp của các cơ quan hữu quan khác. 3.3.1.1. Xây dựng, củng cố và hoàn thiện các cơ quan tư vấn và cơ quan thu thập cung cấp tín dụng: Thông tin tin cậy về các doanh nghiệp và tình hình kinh doanh là điều kiện quan trọng nhằm nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng. Theo đà phát triển chung của nền kinh tế, chính phủ cũng cần tính đến việc chỉ đạo các bộ, nghành nghiên cứu thành lập các tổ chức, công ty chuyên thu thập, tư vấn, đánh giá, mua bán thông tin về doanh nghiệp, xếp hạng doanh nghiệp ... Tổ chức này có thể thành lập dưới dạng một cơ quan nhà nước trực tiếp quản lý hoặc có thể là cơ quan kinh doanh chuyên thu thập và bán các sản phẩm thông tin về doanh nghiệp và nghành kinh tế. Tuy nhiên, nhà nước cần phải quy định các cơ sở pháp lý cho việc mua bán thông tin do các tổ chức này cung cấp. Trước mắt các bộ, nghành, các tổ chức nên thành lập thêm các công ty hay các trung tâm thông tin về tình hình kinh tế doanh nghiệp theo kiểu trung tâm thông tin thương mại hiện có. Bởi vì, với lợi thế về chuyên môn, các công ty hay trung tâm thương mại không chỉ giúp đỡ các doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh mà còn góp phần vào việc cung cấp thông tin hoạt động của ngân hàng. Để tạo nguồn thông tin cho công tác tín dụng của ngân hàng các bộ chủ quản cần tiến hành thu thập, trao đổi, sử lý và chuẩn hóa các thông tin về tình hình hoạt động của nghành mình, từ đó có những thông tin có liên quan một cách hệ thống, sau đó ban hành một cách thường xuyên định kỳ các thông tin này. Có như vậy, chất lượng của công tác tín dụng của ngân hàng được nâng cao hơn và hoạt động cho vay của ngân hàng sẽ đạt kết quả cao hơn. 3.3.1.2 Tăng cường vai trò quản lý của nhà nước đối với hoạt động cho vay. Đây là một chính sách hết sức quan trọng trong lĩnh vực quản lý ngân hàng của Nhà nước, nó có tác động đến hoạt động tín dụng. Nhà nước cần bổ sung hoàn thiện các văn bản, cơ chế chính sách nhằm quản lý tốt hơn đối với hoạt động cho vay để hoạt động này thực sự lành mạnh và hiệu quả. Đồng thời, với việc ban hành các văn bản, cơ chế về hoạt động tín dụng, nhà nước cũng cần tăng cường các biện pháp thanh tra, giám sát đối với hoạt động này của ngân hàng. Nhà nước có trách nhiệm trong việc lập các tổ chức thanh tra thường xuyên kiểm tra định kỳ các tổ chức tín dụng để theo dõi và sử lý các vi phạm trong lĩnh vực tín dụng. 3.3.1.3 Quy định một hệ thống kế toán thống nhất và đồng bộ, thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc. Hiện nay, công tác quản lý nhà nước về pháp lệnh kế toán thống kê đối với các doanh nghiệp chưa được chú ý đúng mức, nhất là đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Trong khi đó, công ty kiểm toán nhà nước còn non trẻ, đội ngũ cán bộ chưa nhiều kinh nghiệm, vì vậy nhà nước cần ban hành những sắc lệnh đi kèm với các chế tài bắt buộc để mọi doanh nghiệp phải áp dụng một cách thống nhất, đồng bộ chế độ kế toán, thống kê và thông tin báo cáo chế độ kế toán phải trung thực, đầy đủ. Bên cạnh đó, nhà nước cần ban hành quy chế bắt buộc kiểm toán và công khai quyết toán của doanh nghiệp. Việc thực hiện kiểm toán phải tiến hành thường xuyên, những tài liệu cân đối kế toán và kết quả tài chính của doanh nghiệp phải được kiểm toán trước, và sau quá trình cho vay của ngân hàng. Nhà nước cần quy định rõ các biện pháp chế tài, sử lý nghiêm trọng các trường hợp doanh nghiệp cung cấp thông tin giả, sử dụng đồng thời hai loại cân đối ... Để nhằm mục đích các doanh nghiệp này vào khuôn khổ hoạt động và phát triển lành mạnh. Như vậy, cán bộ tín dụng mới có được những thông tin trung thực, cần thiết cho quá trình cho vay, qua đó nâng cao hiệu quả của hoạt động tín dụng tại ngân hàng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26727.doc
Tài liệu liên quan