Hoà chung với công cuộc đổi mới của nền kinh tế, SGD – ngân hàng Chính Sách Xã Hội Nam Định đã không ngừng đổi mới và hoàn thiện trên nhiều mặt hoạt động đặc biệt là đối với hoạt động tín dụng là một hoạt động cơ bản nắm vai trò là hoạt động xương sống tại Sở. Với sự cố gắng hết mình của toàn thể các cán bộ công nhân viên trong sự giúp đỡ tận dùng của các ban ngành trong những năm qua Sở đã đạt được những thành tựu đáng kể, không những mang lại hiệu quả cho bản thân SGD mà còn góp phần giải quyết việc làm cho người lao động, tăng thu nhập cho dân cư, tăng thu cho ngân sách Nhà nước.
Tuy nhiên trong quá trình phát triển và hoàn thiện SGD đã gặp không ít những khó khăn trong hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng như tình trạng nợ quá hạn. Vậy để hoạt động kinh doanh trong thời gian tới được hiệu quả hơn đòi hỏi sự nỗ lực quyết tâm của Sở cũng như sự hỗ trợ của Trung tâm điều hành, và các ban ngành có liên quan. Em hy vọng rằng trong thời gian tới SGD sẽ thực sự là địa chỉ tin cậy đối với các khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế.
Những thành tích trên đây là có sự đóng góp công sức của toàn thể cán bộ công nhân viên toàn ngân hàng. Thành tích trên đã góp phần tạo ra hình ảnh ngân hàng Chính Sách Xã Hội Nam Định. Đồng thời đã góp phần nhỏ công sức xây dựng hệ thống Ngân Hàng Chính Sách Xã Hội Việt Nam hoạt động an toàn hiệu quả.
62 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1503 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Sở Giao Dịch - Ngân Hàng Chính Sách Xã Hội Nam Định, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hoạt động tín dụng là hoạt động cơ bản tại SGD và có vị trí hết sức quan trọng. Và để hoạt động tín dụng đem lại kết quả cao thì cần phải thực hiện tốt đồng thời các nghiệp vụ:
- Các nghiệp vụ bên nợ (huy động vốn)
- Các nghiệp vụ bên có (sử dụng vốn)
- Các nghiệp vụ trung gian (chuyển tiền thanh toán)
Chính vì vậy mà huy động vốn không phải là một hoạt động độc lập riêng rẽ, có huy động được vốn thì mới có vốn cho vay ngược lại cho vay có hiệu quả kinh tế phát triển thì mới có nguồn vốn lớn để huy động đồng thời có làm tốt nghiệp vụ trung gian thì hai nghiệp vụ trên mới được thực hiện tốt. Như vậy cả ba nghiệp vụ này tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau và hỗ trợ nhau cùng phát triển. Nói cách khác ngân hàng phải thực hiện chiến lược kinh doanh tổng hợp mà trong đó nghiệp vụ huy động vốn phải được chú trọng để kết hợp cùng hai nghiệp vụ còn lại tạo nên hiệu quả hoạt động của ngân hàng.
Trong bất kỳ điều kiện nào thì một doanh nghiệp muốn hoạt động kinh doanh đều phải có vốn mà ngân hàng là một doanh nghiệp đặc biệt, hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ nên vốn của ngân hàng cũng mang tính đặc trưng riêng. Vốn của ngân hàng bao gồm có vốn điều lệ, vốn tăng thêm do tích trữ từ lợi nhuận, vốn đi vay và nhận gửi (vốn huy động). Khác so với các doanh nghiệp thông thường, ngân hàng không sử dụng vốn tự có làm vốn chính để tiến hành hoạt động kinh doanh mà nó được sử dụng nhằm mục đích mua sắm, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật ban đầu, gây dựng sự tin tưởng đối với khách hàng và hỗ trợ hoạt động kinh doanh. Nguồn vốn chính và chủ yếu để ngân hàng tiến hành hoạt động kinh doanh là vốn huy động.
Hiện nay trong cơ chế thị trường, các Ngân hàng thương mại đều hoạt động kinh doanh theo hướng “đi vay để cho vay” không sử dụng đến nguồn cấp phát mà huy động vốn theo hướng có lợi trong kinh doanh.
Để tạo được tính chủ động trong hoạt động kinh doanh, đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng đến giao dịch, ngân hàng phải tạo cho mình một nguồn vốn dồi dào dựa trên cơ sở của thị trường đầu ra, lĩnh vực đầu tư, hiệu quả kinh doanh... Vì vậy mà công tác huy động vốn tại SGD ngày càng được chú trọng theo hướng nâng cao cả về chất lượng và số lượng. SGD cũng đã xác định cho mình một chiến lược huy động vốn nhanh, nhiều, ổn định, tập trung khai thác mọi nguồn vốn nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế, cá nhân trên địa bàn theo khung lãi suất Nhà nước qui định để có nguồn vốn lớn đáp ứng đủ nhu cầu vốn cho khách hàng có quan hệ thường xuyên tại SGD.
Sau đây là số liệu cụ thể về tình hình huy động vốn tại SGD – Ngân hàng Chính Sách Xã Hội Nam Định trong thời gian qua.
Bảng 1: Biến động nguồn vốn huy động giai đoạn 2001-2003
Đơn vị :Triệu đồng
Năm
Chỉ tiêu
2001
2002
2003
+/-tuyệt đối
2002-2001
+/-tương đối %
2002-2001
+/-tuyệt đối
2003-2002
+/-tương đối %
2003-2002
Không kỳ hạn
81.309
126.950
123.378
45.641
+56%
-3572
-2,8%
Có kỳ hạn
163.675
365.103
417.520
201.428
+123%
52417
+14,4%
Tổng
244.984
492.053
540.898
(Nguồn: Bảng cân đối kế toán)
Qua số liệu Bảng 1 cho ta thấy nguồn vốn huy động tại SGD tăng nhanh qua các năm đặc biệt là từ năm 2001 đến 2002 thì tiền gửi không kỳ hạn tăng lên 56%, tiền gửi có kỳ hạn tăng 123%. Sang năm 2003 mặc dù nguồn vốn huy động không kỳ hạn có giảm nhưng không đáng kể còn nguồn vốn có kỳ hạn vẫn tiếp tục tăng điều đó chứng tỏ rằng trong những năm qua SGD đã có nhiều cố gắng và đưa ra những biện pháp tích cực năng động, sáng tạo để thu hút khách hàng mở tài khoản tiền gửi cũng như gửi tiền tiết kiệm, phục vụ khách hàng với thái độ văn minh, lịch sự có, trách nhiệm, đơn giản các thủ tục rườm rà không cần thiết. Kết quả cho thấy Sở đã đạt được những thành công nhất định.
Mặt khác ta thấy rằng nguồn vốn huy động có kỳ hạn luôn luôn tăng lên và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn huy động cụ thể là :
- Nguồn vốn kỳ hạn năm 2001 chiếm tỉ lệ là 67%.
- Nguồn vốn kỳ hạn năm 2002 chiếm tỉ lệ là 74%.
- Nguồn vốn kỳ hạn năm 2003 chiếm tỉ lệ là 77%.
Đây là một điều tốt bởi ngân hàng có thể cho vay theo kế hoạch một cách hợp lý nhất, ổn định nhất nguồn vốn đã huy động mà mình biết rõ thời gian đến hạn phải trả của nguồn vốn huy động. Song trong thời gian qua do chỉ số lạm phát liên tục giảm nên Ngân hàng Nhà nước liên tục 5 lần điều chỉnh lãi suất theo xu hướng giảm. Do đó việc huy động nguồn vốn có kỳ hạn sẽ không có lợi. Theo số liệu trên ta thấy nguồn vốn kỳ hạn chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng nguồn huy động của Sở vì vậy trong công tác sử dụng vốn, huy động vốn SGD cần phải xác định cho mình một mức lãi suất phù hợp để vừa đem lại lợi nhuận vừa có thể cạnh tranh được trên thị trường.
2. Tình hình sử dụng vốn huy động
Để đứng vững và phát triển trong nền kinh tế đầy cạnh tranh như hiện nay các ngân hàng buộc phải xây dựng cho mình chiến lược kinh doanh một cách hợp lý và SGD cũng vậy. Với tư cách là một Sở đầu mối của toàn ngành với nhiều hoạt đông đa dạng đặc biệt là hoạt động tín dụng vì vậy Sở luôn luôn quan tâm tới vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng. Trên cơ sở nguồn vốn huy động được Sở tiến hành phân phối sử dụng vốn sao cho có hiệu quả bởi cho vay là khâu tiếp nối của hoạt động tạo vốn và là khâu cuối cùng quyết định chất lượng hiệu quả tín dụng.
Bên cạnh đó chúng ta biết rằng huy động vốn và sử dụng vốn là hai mặt của một quá trình hoạt động tín dụng vì vậy vấn đề cho vay vốn cần phải được chú trọng, quan tâm, làm sao vừa đáp ứng đựoc nhu cầu sản xuất kinh doanh, vừa mang lại hiệu quả kinh tế, không chỉ cho bản thân SGD mà còn cho cả nền kinh tế.
Đối tượng cho vay tại SGD là các doanh nghiệp Nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty tư nhân. Mặc dù Sở chưa thực hiện cho vay đối với hộ gia đình, cá nhân song việc cho vay của Sở đã có tác dụng tích cực giúp cho các doanh nghiệp phát triển được sản xuất kinh doanh, tăng thu ngân sách góp phần đấu tranh hạn chế cho vay nặng lãi.
Sở chủ động trong việc sử dụng vốn vay có tính đến nhu cầu và khả năng thực tế của từng đơn vị, phân loại doanh nghiệp, cho vay có chọn lọc và thường xuyên quan tâm tới công tác thu nợ nhằm tăng nhanh vòng quay vốn tín dụng.
Thực chất vấn đề cho vay vốn của ngân hàng được đánh giá tốt hay xấu không phải căn cứ vào số dư nợ cho vay có tăng hơn không mà phải xem xét chất lượng tín dụng như thế nào có nghĩa là phải xem xét vốn mà Sở cho vay có đúng mục đích hay không, khách hàng có trả được nợ hay không và trả nợ có đúng hạn không. Vì vậy việc đánh giá tình hình sử dụng vốn vay của ngân hàng phải được xem xét trên các chỉ tiêu như : tình hình cho vay, thu nợ, nợ quá hạn...và các biện pháp nhằm mở rộng tín dụng tại Sở.
Sau đây là số liệu cụ thể về tình hình tín dụng tại Sở:
Biểu đồ so sánh các chỉ tiêu sử dụng vốn qua các năm
Đơn vị: Tỷ đồng
183
(Nguồn: báo cáo tổng kết năm 2001, 2002, 2003)
Nhìn vào bảng trên ta thấy:
Số tiền cho vay tại SGD qua các năm 2001, 2002, 2003 có tăng lên đáng kể.
Năm 2002 tăng so với 2001 là 112 tỷ đồng tương đương với 215%
Năm 2003 tăng so với năm 2002 là 59 tỷ đổng tương đương với 35%
Như vậy ta thấy rằng khách hàng đến giao dịch tại Sở ngày càng tăng lên chứng tỏ bằng sự cố gắng của Ban lãnh đạo, cán bộ công nhân viên trong thời gian qua Sở đã thu hút đựoc nhiều khách hàng, bằng phương pháp nghiệp vụ và thái độ làm việc của mình Sở đã tạo được uy tín trên thị trường đầy cạnh tranh như hiện nay.
Về công tác thu nợ :
- Năm 2001 doanh số thu nợ bằng 186% doanh số cho vay.
- Năm 2002 doanh số thu nợ bằng 71% doanh số cho vay
- Năm 2003 doanh số thu nợ bằng 103% doanh số cho vay
Doanh số thu nợ năm 2001 tương đối cao, nhưng sang năm 2002 thì có giảm đi về số tương đối, nguyên nhân ở đây có thể là do sự biến động về tình hình chính trị, xã hội của đất nước và trong khu vực đã ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Sang năm 2003 với sự làm việc hết mình các cán bộ nhân viên trong công tác kiểm tra đôn đốc tình hình thu nợ và sự lãnh đạo sáng suốt của Ban giám đốc doanh số thu nợ đã tăng lên bằng 103% so với doanh số cho vay.
Đối với dư nợ có tăng lên so với các năm nhìn vào bảng trên ta thấy dư nợ năm 2001 là 183 tỷ đồng mà lẽ ra phải là 201 tỷ đồng song cho đến ngày 31/12/2003 Sở đã điều chỉnh sang tài khoản nợ khoanh số tiền là 18 tỷ
Trên cơ sở số liệu về huy động vốn và cho vay chúng ta nhận thấy rằng giữa nguồn vốn huy động và doanh số cho vay có sự chênh lệch lớn, phải chăng Sở đã rơi vào tình trạng ứ đọng vốn.Tình hình thực tế cho thấy hiện nay trong nền kinh tế lượng ngoại tệ đang còn thiếu nhiều bởi tỷ giá giữa đồng USD và đồng VND đang ở mức tương đối cao. Mặt khác vốn huy động được tại SGD chủ yếu là ngoại tệ vì vậy mà huy động được càng nhiều càng tốt.
2.1. Tình hình cho vay thu nợ dư nợ theo chính sách xã hội
(Xem bảng 2 trang sau)
Bảng 2: Bảng sử dụng vốn của Sở Giao Dịch theo chính sách xã hội
qui về VND
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm 2001
Năm 2002
Năm 2003
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
Tổng số cho vay
52
100%
164
100%
223
100%
Những hộ sản xuất nhỏ
36
69%
139
85%
211
95%
Các hộ nghèo và thuộc chính sách.
16
31%
25
15%
12
5%
Doanh số thu nợ
97
100%
116
100%
230
100%
Những hộ sản xuất nhỏ
72
74%
101
87%
213
93%
Các hộ nghèo và thuộc chính sách
25
26%
15
13%
17
7%
Dư nợ
160
100%
208
100%
183
(18)
100%
Những hộ sản xuất nhỏ
138
86%
176
84%
156
(18)
85%
Các hộ nghèo và thuộc chính sách
22
14%
32
15,4%
27
15%
(Nguồn: Số thống kê số liệu lịch sử, báo cáo tín dụng năm 2003)
Nhìn vào số liệu Bảng 2 ta thấy doanh số cho vay đối với những hộ sản xuất nhỏ chiếm tỷ trọng cao trong doanh số cho vay của Sở, bao giờ cũng là 70% hoặc là hơn 70%. Nguyên nhân ở đây là do hầu hết khách hàng của Sở là những hộ sản xuất nhiều người làm ăn có hiệu quả nên có nhu cầu tín dụng cao và có uy tín với ngân hàng. Ngoài ra nguyên nhân làm cho doanh số cho vay các hộ nghèo và thuộc chính sách giảm là do cơ chế cho vay đối với thành phần kinh tế này tương đối chặt chẽ về thủ tục thế chấp bảo lãnh vay vốn, việc phát mại tài sản thế chấp gặp nhiều khó khăn. Tính đến năm 2003 Sở có quan hệ với hơn 1000 hộ nghèo nhưng trong đó là nhưng người chưa có công việc ổn định và là những người thuộc diện ưu đãi .
2.2. Tình hình cho vay dư nợ phân theo ngoại tệ và nội tệ :
Bảng 3 : Bảng doanh số cho vay dư nợ phân theo ngoại tệ và nội tệ
Đơn vị: Tỷ đồng
Năm
2001
2002
2003
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
Tổng cho vay
52
100%
164
100%
223
100%
Nội tệ
0
49
30%
169
76%
Ngoại tệ
52
100%
115
70%
54
24%
Tổng dư nợ
160
100%
208
100%
183
100%
Nội tệ
0
48
23%
66
36%
Ngoại tệ
160
100%
160
77%
117
64%
(Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2001, 2002, 2003)
Nhìn vào Bảng 3 cho ta thấy năm 2001 với tên gọi là Sở Kinh Doanh Hối Đoái, SGD thực hiện cho vay theo chức năng và nhiệm vụ bằng ngoại tệ chủ yếu để tài trợ xuất nhập khẩu. Nhưng sang năm 2002 được sự cho phép của cấp trên cùng với phương châm đáp ứng nhu cầu của khách hàng vì mục tiêu lợi nhuận SGD đã mở rộng tín dụng thực hiện cho vay cả ngoại tệ và nội tệ bắt đầu từ tháng 10/20002.
Sang năm 2003 thì cho vay bằng nội tệ tăng lên rõ rệt từ 30% lên 76% mà cho vay ngoại tệ lại có xu hướng giảm đi từ 70% xuống còn 24%. Điều đó phần nào cho thấy rằng SGD đã thực hiện cho vay theo nhu cầu của khách hàng và do sang năm 2003 một số khách hàng có nhu cầu vay ngoại tệ có tình hình tài chính rất khó khăn
Mặt khác xét về khía cạnh cho vay theo thời gian thì theo con số của bản báo cáo cho vay của SGD tính đến ngày 31/12/2003 thì ta thấy:
- Doanh số cho vay ngắn hạn chiếm tỷ lệ 93% doanh số cho vay.
- Doanh số thu nợ ngắn hạn chiếm tỷ lệ 99% doanh số thu nợ.
Theo số liệu trên thì năm 2003 SGD hầu hết chỉ thực hiện cho vay ngắn hạn để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh như: nguyên vật liệu trong năm... Với doanh số thu nợ ngắn hạn chiếm tỷ lệ cao trong doanh số thu nợ điều đó chứng tỏ công tác cho vay ngắn hạn trong năm 2003 nói riêng và chất lượng tín dụng nói chung là khá hiệu quả, sự thành công này nhờ vào sự cố gắng của cán bộ tín dụng, các phòng ban và sự chỉ đạo của Ban giám đốc.
Tuy nhiên trong quá trình đầu tư tín dụng rủi ro luôn luôn làm các nhà ngân hàng đau đầu và tại SGD cũng vậy mặc dù việc đôn đốc thu lãi, gốc được thực hiện thường xuyên song vẫn còn tồn tại tình trạng nợ quá hạn.
Sau đây là một số phân tích về tình trạng nợ quá hạn trong thời gian qua tại SGD.
3. Tình hình nợ quá hạn tại Sở Giao Dịch Ngân Hàng Chính Sách Xã Hội Nam Định
Bảng 4: Tình hình nợ quá nợ quá hạn qua các năm
Chỉ tiêu
Năm 2001
Năm 2002
Năm 2003
Tổng dư nợ
160
208
183
Tổng nợ quá hạn
49
48
39,7
Tỷ trọng nợ quá hạn/ Tổng dư nợ
31%
23%
21,7%
(Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2001, 2002, 2003)
Số liệu Bảng 4 thể hiện nợ quá hạn tại Sở trong thời gian gần đây có xu hướng giảm xuống. Cụ thể: Năm 2002 nợ quá hạn chiếm tỷ trọng 23% tổng dư nợ giảm 8% so với năm 1999, sang năm 2003 nợ quá hạn chiếm tỷ trọng 21,7% tổng dư nợ giảm 1,3% so với năm 2002.
Tuy nhiên con số này vẫn còn rất cao so với mức cho phép và ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng tín dụng vì vậy Sở cần phải tự kiểm điểm xem xét lại để thấy rõ những thiếu sót của mình trong quá trình cho vay để từ đó có những giải pháp chấn chỉnh trong thời gian tới nhằm đưa hoạt động tín dụng ngày một hiệu quả và an toàn.
Biểu đồ nợ quá hạn phân theo thời gian cho vay
21.6
20
15.7
27.4
28
24
0
5
10
15
20
25
30
2001
2002
2003
Ngắn hạn
Trung hạn, Dài hạn
Đơn vị: tỷ đồng
Nhìn vào Biểu đồ trên cho ta thấy nợ quá hạn năm 2002 gần tương đương với năm 2001 nhưng sang năm 2003 thì số nợ quá hạn giảm đi đáng kể so với 2002 cụ thể là:
- Nợ quá hạn ngắn hạn giảm 4,3 tỷ đồng
- Nợ quá hạn trung, dài hạn giảm 4 tỷ đồng
ở đây nợ quá hạn thu hồi được trong năm 2003 chủ yếu là các khoản dư nợ quá hạn từ năm 2002 trở về trước bởi mặc dù năm 2003 dư nợ quá hạn là 39,7 tỷ đồng nhưng trong đó dư nợ quá hạn của các khoản vay từ năm 2002 trở về trước là 39,4 tỷ còn dư nợ quá hạn của các khoản vay năm 2003 chỉ là 0,3 tỷ đồng. Điều đó chứng tỏ công tác thu hồi nợ quá hạn từ năm 2002 về trước là khá hiệu quả đồng thời theo phân tích trên thì năm 2003 Sở chủ yếu thực hiện cho vay ngắn hạn và dư nợ quá hạn thuộc các khoản vay năm 2003 chỉ là 0,3 tỷ chứng tỏ hoạt động cho vay trong năm đã thực sự có chất lượng.
Ngoài ra công tác thu nợ quá hạn năm 2003 tại SGD đã đạt được một số kết quả như sau : Tổng số thu nợ quá hạn 21.412 triệu đồng
Đơn vị: tỷ đồng
2003
2002
2001
35
30
25
20
15
10
5
0
15
17
21.2
24.7
31
27.8
Kết cấu nợ quá hạn theo thành phần kinh tế
Những hộ sản xuất nhỏ
Các hộ nghèo và chính sách
Nhìn vào biểu trên ta thấy trong thời gian qua nợ quá hạn tại các doanh nghiệp quốc doanh chiếm tỷ lệ cao trong tổng nợ quá hạn :
- Năm 2001 chiếm 56,7 % tổng nợ quá hạn.
- Năm 2002 chiếm 64.6 % tổng nợ quá hạn.
- Năm 2003 chiếm 62,2 % tổng nợ quá hạn.
Mặc dù các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có một tỷ lệ nợ quá hạn thấp hơn so với các doanh nghiệp nhà nước. Song hoạt động của thành phần kinh tế này vẫn chưa thực sự hiệu quả bởi doanh số cho vay thấp hơn rất nhiều so với kinh tế quốc doanh. Mặt khác tỷ lệ nợ quá hạn tại SGD cao song chúng ta cần xét đến khả năng thu hồi của các khoản nợ quá hạn như thế nào.
Bảng 5: Phân loại nợ quá hạn theo khả năng thu hồi vào thời điểm 31/12/2003
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Tổng dư nợ quá hạn
GTTS đã xiết nợ nhưng chưa hạch toán giảm nợ
Dư nợ quá hạn đã xiết nợ bằng tài sản
Theo khả năng thu hồi
Dư nợ quá hạn bình thường
Nợ quá hạn có vấn đề
Nợ quá hạn khó thu hồi
Dư nợ ngắn hạn quá hạn
15.700
1.230
480
13.990
Nợ quá hạn dưới 6 tháng
1.230
1.230
Nợ quá hạn từ 6-12 tháng
480
480
Nợ quá hạn trên 12 tháng
13.990
13.990
Dư nợ dài hạn quá hạn
24.000
9.400
7.810
6.790
Nợ quá hạn dưới 6 tháng
9.400
9.400
Nợ quá hạn từ 6-12 tháng
7.810
7.810
Nợ quá hạn trên 12 tháng
6.790
6.790
Tổng:
39.700
10.630
8.290
20.780
(Nguồn: Số thống kê số liệu lịch sử)
Theo số liệu bảng 5 cho ta thấy hiện nay tại SGD có khoản nợ quá hạn là 39,7 tỷ đồng nhưng trong đó nợ quá hạn khó đòi là 20,78 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 52,3% tổng nợ quá hạn năm 2003. Đây là một kết quả không tốt bởi khi đã trở thành nợ quá hạn khó thu hồi thì khả năng đòi được vốn của ngân hàng là rất khó nó sẽ ảnh đến chất lượng công tác tín dụng của ngân hàng và kết quả kinh doanh trong thời gian tới.
Bên cạnh đó ta thấy rằng khoản nợ quá hạn bình thường và nợ quá hạn có vấn đề là 18,92 tỷ chiếm tỷ trọng 47,7% tổng nợ quá hạn. Để có thể thu hồi được những khoản nợ này cán bộ ngân hàng đặc biệt là cán bộ tín dụng cần phải tích cực trong việc đôn đốc, quản lý tốt quá trình thu nợ bởi các khoản nợ quá hạn có khả năng thu hồi tất dễ trở thành những khoản nợ quá hạn không có khả năng thu hồi.
Ngoài khoản nợ quá hạn 39,7 tỷ đồng thống kê trên SGD còn có một khoản nợ quá hạn cho vay khác là 142,337 tỷ đồng trong đó có 22,296 tỷ đồng đã đựơc xiết nợ bằng tài sản còn lại là 120,041 tỷ đồng đã được khoanh.
Bảng 6: Phân tích nợ quá hạn theo nguyên nhân vào thời điểm 31/12/2003
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Tổng số tiền
Ngắn hạn
Trung, dài hạn
Cho vay khác
I- Nguyên nhân chủ quan
II- Nguyên nhân khách quan
182.037
15.700
24.000
142.337
1- Do bất khả kháng và cơ chế chính sách
+ Do thiên tai địch hoạ
47.660
9.458
17.552
20.650
+ Do sắp xếp lại cá nhân cho vay
11.220
11.220
+ Do thay đổi cơ chế chính sách
36.440
9.458
17.552
9.430
2- Do DN, khách hàng của ngân hàng
+ Do kinh doanh thua lỗ
133.506
5.864
5.955
121.687
+ Do sử dụng vốn không đúng mục đích
130.702
5.864
5.955
118.883
+ Do khách hàng vay có chủ ý lừa đảo
2.804
2.804
3- Nguyên nhân khác
871
378
493
(Nguồn: Sổ tổng kết số liệu lịch sử)
Theo số liệu Bảng 6 ta thấy nợ quá hạn phát sinh chủ yếu là do sự kinh doanh thua lỗ của các doanh nghiệp. Chúng ta sẽ phân tích cụ thể ở phần sau.
Như vậy qua việc xem xét tình hình thực tế về hoạt động tín dụng tại SGD trong thời gian qua chúng ta đã có một cách nhìn về hoạt động tại một Sở đầu mối của ngân hàng Chính Sách Xã Hội Nam Định.
Sau đây là một số đánh giá khái quát về những kết quả đạt đựơc cũng như những tồn tại trong 3 năm qua.
IV- Đánh Giá chất lượng tín dụng tại Sở Giao Dịch Ngân Hàng Chính Sách Xã Hội Nam Định
1. Những thành tựu đạt được
Thực hiện chủ trương của chính phủ là xoá hình thức bao cấp, SGD đã phát huy năng lực của mình vượt qua khó khăn thử thách do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, nhanh chóng hoà nhập với thị trường để tồn tại, đứng vững và ngày càng phát triển phục vụ tốt cho nhu cầu của xã hội góp phần tăng trưởng kinh tế.
Trong điều kiện nước ta hiện nay đang trên đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, từng bước hoà nhập vào nền kinh tế trong khu vực, Nhà nước ta đã và đang có những đổi mới trong cơ chế quản lý điều hành đất nước. SGD cũng đã có những định hướng chiến lược kinh doanh đúng đắn, phù hợp với chính sách của Đảng và Nhà nước về mọi mặt kinh doanh nói chung và công tác tín dụng nói riêng. Trên cơ sở những định hướng đó SGD đã không ngừng đổi mới về mô hình tổ chức pháp lý, qui chế nghiệp vụ... Đáp ứng kịp thời và đầy đủ nhu cầu ngày càng cao của xã hội, nâng cao chất lượng công tác tín dụng. Với chính sách khách hàng ngân hàng xác định mọi hoạt động của ngân hàng khởi đầu từ khách hàng, lấy hiệu quả sản xuất kinh doanh làm mục tiêu hoạt động của mình, tạo thuận lợi cho khách hàng trong việc lập hồ sơ tín dụng theo đúng qui định, tạo điều kiện cho khách hàng sớm hoàn thành thủ tục xin vay, thực hiện phương thức giao dịch đơn giản, nhanh chóng, gọn nhẹ nhằm thu hút khách hàng tránh gây phiền hà trong việc vay vốn...
Bên cạnh đó Sở đã thực hiện công tác phân tích tài chính trước khi cho vay để tìm ra những rủi ro tiềm ẩn nhằm nâng cao chất lượng tín dụng, đảm bảo an toàn vốn vay cho ngân hàng. Ngoài ra trong quá trình cho vay Sở thực hiện công tác kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay, mỗi một khoản vay đều có người chịu trách nhiệm tuy theo từng mức độ khác nhau. Với một đội ngũ cán bộ có năng lực nhiệt tình công tác trong những năm qua SGD đã đạt được những kết quả nhất định:
Nguồn vốn huy động qua các năm tăng trưởng khá cao tạo ra một lượng vốn lớn ổn định cho ngân hàng điều đó cho thấy SGD đang dần từng bước thu hút được khách hàng. Đây là một trong những thành công lớn mà ngân hàng cần phát huy hơn nữa bởi huy động vốn là khâu mở đường cho hoạt động kinh doanh.
Công tác cho vay: Luôn kết hợp yếu tố phát triển kinh tế, an toàn vốn, tôn trọng pháp luật và có lợi nhuận. Trong thời gian qua từ năm 1999 đến năm 2001 doanh số cho vay của Sở tăng lên đáng kể đặc biệt là năm 2003 tăng so với 2002là 59 tỷ đáp ứng kịp thời nhu của khách hàng đem lại lợi nhuận cho ngân hàng, góp phần phát triển kinh tế đất nước.
Công tác thu nợ: Đây là hoạt động quan trọng quyết định đến sự tồn tại của ngân hàng. Thấy được tầm quan trọng của công tác này các bộ tín dụng tại Sở đã tích cực trong việc đôn đốc, kiểm soát quá trình thu nợ. Kết quả cho thấy sang năm 2003 doanh số thu nợ đạt 230 tỷ tăng 107 tỷ bằng 186,9% năm 2002.
Nợ quá hạn có giảm: Năm 2001 tỷ lệ nợ quá hạn/tổng dư nợ là 31% nhưng sang đến năm 2002 chỉ còn 21,7%.
2. Những vấn đề còn tồn tại
Ngoài những thành tựu đạt đựơc hiện nay tại SGD còn có một số tồn tại nhất định:
Nguồn vốn tăng trưởng chậm, chỉ đạt tốc độ tăng trưởng 8,5% so với đầu năm, đạt 48% so với kế hoạch năm 2003. Trong đó nguồn vốn nội tệ chỉ chiếm tỷ lệ 11% tổng nguồn vốn chưa đủ đáp ứng nhu cầu cho vay nội tệ của SGD.
Dư nợ giảm so với đầu năm, số lượng và chất lượng khách hàng chưa tương xứng với nhiệm vụ của Sở. Bởi hiện nay SGD mới chỉ quan hệ với các doanh nghiệp nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty tư nhân. Trong thời gian tới Sở cần phải mở rộng phạm vi tín dụng đối với các thành phần như: hộ gia đình, cá nhân...Để xứng đáng với tư cách là một Sở đầu mối của toàn ngành.
Việc xây dựng quy trình nghiệp vụ chậm, chưa đầy đủ, chất lượng các nghiệp vụ chưa đáp ứng được yêu cầu của khách hàng, quản lý của ngành còn sai sót chậm chễ. Tuy đã tích cực trong việc đôn đốc và thu nợ hàng tháng song tình trạng nợ quá hạn tại Sở còn cao so với kế hoạch đặt ra, một số khoản vay phải chuyển sang nợ khoanh.
Mặc dù Sở đã trang bị hệ thống máy vi tính nhưng chưa thực sự hiệu quả. Vì vậy trong thời gian tới cần thiết phải hiện đại hoá hệ thống thông tin quản lý điều hành, thanh toán nối mạng toàn quốc nhằm đảm bảo thông tin kịp thời, chính xác tăng hiệu quả kinh doanh và giảm bớt rủi ro.
Năm 2003 là năm chuyển trụ sở của SGD vì vậy lao động của Sở còn đang trong thời kỳ củng cố, bổ sung nên thiếu nhiều ...
3. Nguyên nhân của những tồn tại trên
Nguyên nhân chủ quan:
Trong công tác tiếp thị: Mặc dù SGD có một trụ sở ngay tại trung tâm thành phố thuận lợi hơn so với các ngân hàng khác song vẫn chưa thu hút được nhiều khách hàng, phong cách giao tiếp với khách hàng chưa thực sự được tốt nên chưa tạo được uy tín lớn trong lòng khách hàng.
Chưa có biện pháp tích cực và hiệu quả trong quản trị điều hành kinh doanh, chưa phối hợp chặt chẽ giữa các chuyên môn và các đoàn thể để tổ chức phong trào thi đua và nâng cao trách nhiệm của người lao động với nhiệm vụ của mình. Công tác kiểm tra sau khi cho vay của cán bộ tín dụng chủ yếu là xác định vốn vay, chưa thực sự đi sâu phân tích tài chính và biện pháp đảm bảo nợ vay và khả năng trả nợ của khách hàng nên hiệu quả chưa cao.
Nguyên nhân khách quan:
Năm 2003 tình hình kinh tế khó khăn đã ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh
doanh của khách hàng, hơn nữa khách hàng của Sở chủ yếu là các doanh nghiệp kinh doanh hàng nhập khẩu vì vậy khi nhu cầu nhập khẩu giảm dẫn đến dư nợ cho vay giảm.
Mặt khác do trên địa bàn Hà Nội đang có nhiều ngân hàng cùng hoạt động mức độ cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng gay gắt đã làm giảm dư nợ tại Sở.
* Tỉ lệ nợ quá hạn còn ở mức cao - nguyên nhân gây ra là :
Trong những năm qua nền kinh tế có nhiều diễn biến phức tạp. Khi xây dựng sản xuất kinh doanh và đầu tư vốn, các doanh nghiệp chưa lường hết được hậu quả. Thêm vào đó là tình hình khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực đã làm cho nhiều doanh nghiệp sản xuất đình vốn, tài chính thua lỗ nên rất khó khăn, không có khả năng trả nợ .
Một số doanh nghiệp do đầu tư vốn lớn nhưng trình độ quản lý điều hành kinh doanh lại hạn chế, vay vốn ngân hàng lớn, vốn tự có thấp dẫn đến hoạt động kinh doanh không hiệu quả... Có những doanh nghiệp người điều hành vi phạm pháp luật bị khởi tố, doanh nghiệp phải ngừng hẳn hoạt động kinh doanh hoặc bị phá sản, giải thể làm cho nợ ngân hàng không thu hồi được.
Một số đơn vị có dư nợ lớn, vay nhiều ngân hàng công nợ nhiều, khó kiểm soát quá trình chu chuyển hàng hoá và các khoản công nợ phải thu, phải trả vì vậy nếu không có giải pháp quản lý hữu hiệu chất lượng tín dụng sẽ bị ảnh hưởng, dễ xẩy ra rủi ro. Quy trình nghiệp vụ tín dụng ngoại tệ trước đây còn chưa hoàn chỉnh, chưa xác định rõ trách nhiệm trong từng khâu công việc biểu hiện:
Trước đây quy trình tín dụng được tiến hành như sau :
Doanh nghiệp làm đơn xin vay gửi lên chi nhánh, chi nhánh tiến hành thẩm định và xin vay Sở Kinh Doanh Hối Đoái, Sở xem xét hạch toán giải ngân xuống chi nhánh sau đó chi nhánh tiến hành cho doanh nghiệp vay.
Sau này chuyển sang hình thức: Doanh nghiệp làm đơn xin vay gửi lên chi nhánh, chi nhánh tiến hành thẩm định sau đó gửi hồ sơ đã thẩm định lên Sở Kinh Doanh Hối Đoái, Sở tái thẩm định và thực hiện cho vay trực tiếp.
Theo hình thức này do địa bàn xa, các lĩnh vực sản xuất kinh doanh đa dạng nên công tác thu nợ kém, Sở tiến hành bàn giao nợ cho các tổ trưởng đôn đốc xử lý thu hồi nợ không được thường xuyên dẫn đến hiệu quả thu nợ rất thấp. Trước tình hình đó Sở tiến hành rà soát nợ, thực trạng sản xuất kinh doanh của khách hàng sau đó điều chỉnh kỳ hạn nợ. Việc gia hạn nợ vào những năm 2001đã làm cho nợ quá hạn năm 2001 giảm nhưng đến năm 2002, 2003 thì những khoản nợ này lại đến hạn và hiện nay chưa có giải pháp khắc phục vì vậy nợ quá hạn trong những năm qua đang ở mức cao.
Dư nợ cho vay ngoại tệ từ ngày vay đến nay đang chịu ảnh hưởng bởi tỷ giá đồng USD so với đồng VND liên tục tăng (nhiều nơi vay tính từ ngày khách hàng nhận nợ đến nay tỷ giá đã tăng từ 25-30%). Trong khi đó doanh nghiệp không có nguồn thu về ngoại tệ làm cho tình hình tài chính của doanh nghiệp vay vốn càng khó khăn. Ngoài ra lãi suất của các khoản dư nợ này cao hơn lãi suất hiện tại từ 1,5% đến 2,5% / năm đã ảnh hưởng không nhỏ tới khả năng trả nợ của các doanh nghiệp.
Để khắc phục những tồn tại nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn thì có nhiều biện pháp khác nhau, tuỳ thuộc vào điều kiện và tình trạng kinh doanh của từng ngân hàng mà chúng ta có thể đưa ra những giải pháp khả thi. Trên cơ sở những nguyên nhân gây ra tình trạng khó khăn cho Sở. Trong Phần III em xin đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại Sở trong thời gian tới .
Phần III: giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại sở giao dịch ngân hàng Chính Sách Xã Hội Nam Định
I. Phương hướng hoạt động tín dụng của Sở giao dịch Ngân hàng Chính Sách Xã Hội Nam Định
1. Môi trường hoạt động của Sở Giao Dịch :
Là một đơn vị kinh doanh trong nền kinh tế do vậy mọi sự biến động của nền kinh tế đều tác động đến hoạt động kinh doanh đặc biệt là hoạt động tín dụng của SGD.
1.1. Thuận lợi :
Nền kinh tế đã đạt được những kết quả tích cực. Nhịp độ tăng trưởng GDP đạt khoảng 5%.
Nông nghiệp đạt vượt mức chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Tổng sản lượng lương thực đạt 33,8 triệu tấn. Mức cao nhất từ trước đến nay.
Công nghiệp đạt mức tăng trưởng hơn 10%
Kim ngạch xuất khẩu tăng 20% so với năm 2002, vượt hơn 2 lần chỉ tiêu kế hoạch đề ra, hạn chế các tác động bất lợi do hậu quả của khủng hoảng kinh tế khu vực.
SGD nằm tại Số 91 – Trần Hưng Đạo là địa bàn đẹp nằm ngay trung tâm thủ đô có điều kiện để thu hút khách hàng.
1.2. Khó khăn:
Mức tăng trưởng kinh tế ở mức thấp sản xuất cầm chừng, nhiều sản phẩm sản xuất ra khó tiêu thụ, khu vực dịch vụ tăng chậm, đầu tư trực tiếp nước ngoài liên tục giảm mạnh.
Tình hình lũ lụt miền trung để lại nhiều hậu quả nặng nề trong khu vực, có tác động xấu đến nền kinh tế đất nước.
Nhà nước tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật tạo hành lang pháp lý quan trọng cho hoạt động ngân hàng. Bên cạnh đó trong năm 2003 nhà nước liên tục điều chỉnh giảm lãi suất trần cho vay làm ảnh hưởng tới hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động của Sở nói riêng.
Hơn nữa trên địa bàn Nam Định hiện nay có rất nhiều Ngân hàng thương mại quốc doanh và ngoài quốc doanh cùng hoạt động, các ngân hàng kinh doanh đa năng nội tệ, ngoại tệ và tham gia thanh toán quốc tế. Thực trạng một khách hàng vay nhiều ngân hàng đang phổ biến và là yêu cầu tất yếu của sự phát triển. Tuy nhiên các ngân hàng không có sự phối hợp chặt chẽ với nhau, còn thiếu giải pháp có thể kiểm soát an toàn vốn vay. Việc canh tranh giữa các ngân hàng đôi khi gay gắt, thiếu lành mạnh, rất dễ xẩy ra rủi ro mà SGD lại mới được thành lập trên cơ sở Sở Kinh Doanh Hối Đoái số lượng khách hàng còn ít, năng lực sản xuất kinh doanh và tài chính của các doanh nghiệp khách hàng không đồng đều do vậy trong thời gian trước mắt sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng sẽ là một yếu tố không thuận lợi cho hoạt động của Sở.
2. Định hướng và một số chỉ tiêu dự kiến trong thời gian tới
Dưới sự chỉ đạo của Ngân hàng chính sách, Ngân hàng Chính Sách Xã Hội Nam Định, SGD đã phát huy được những thuận lợi cơ bản, nhận thức được những khó khăn trong thời gian tới. Với tinh thần đoàn kết, sáng tạo, làm việc hết mình SGD quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ năm 2004 với phương châm “Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động theo luật Ngân hàng Nhà nước và luật các tổ chức tín dụng, từng bước phát triển bền vững, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ và hiệu quả hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy vai trò là Sở đầu mối của toàn ngành, góp phần thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ phục vụ tăng trưởng kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, tiến nhanh trên con đường công nghiệp hoá hiện đại hoá, từng bước hội nhập vào thị trường các ngân hàng trong khu vực và trên thế giới”
Phát huy những kết quả đã đạt được năm 2003. Năm 2004 SGD phấn đấu thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch về hoạt động tín dụng như sau:
- Nguồn vốn tăng trưởng 35% so với năm 2003
- Nguồn nội tệ chiếm 20% tổng nguồn vốn
- Dư nợ cho vay tăng trưởng 25%
- Tỷ lệ nợ quá hạn nhỏ hơn 20% so với tổng dư nợ
- Tỷ lệ cho vay trung, dài hạn chiếm 50% so với tổng dư nợ
- Tỷ lệ cho vay doanh nghiệp chiếm từ 90-95% tổng dư nợ cho vay
II . giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại sở giao dịch
Hoạt động kinh doanh ngân hàng luôn đứng trước những nguy cơ rủi ro và tín dụng là một trong những lĩnh vực có rủi ro cao nhất. Đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam hoạt động tín dụng đang là lĩnh vực chủ đạo chiếm tỷ trọng từ 85-95% doanh thu nên việc đảm bảo tín dụng sẽ là vấn đề có tính quyết định đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương mại. Chính vì vậy mà việc nghiên cứu tìm ra các giải pháp hữu hiệu để nâng cao chất lượng tín dụng luôn là mục tiêu và là một nhân tố quan trọng nhất để cạnh tranh và phát triển của mỗi ngân hàng thương mại.
Vậy làm thế nào để nâng cao chất lượng tín dụng .
Thông qua việc phân tích thực trạng tín dụng của SGD trong chương II chúng ta thấy rằng tình trạng tín dụng tại Sở đang còn nhiều vấn đề cần khắc phục. Để chất lượng tín dụng tại Sở trong thời gian tới thực sự hiệu quả thì Sở cần phải thực hiện một số giải pháp sau đây:
1. Công tác huy động vốn
Nguồn vốn mà ngân hàng huy động bao gồm có: Tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác như phát hành các giấy tờ có giá... Các loại tiền gửi này có thể được hưởng lãi hoặc không và ngân hàng phải hoàn trả khi khách hàng yêu cầu. Đây là nguồn vốn cơ bản để ngân hàng hoạt động cho vay và các dịch vụ khác mang lại lợi ích cho ngân hàng.
Trong công tác này khách hàng yêu cầu cần phải nhanh chóng dễ dàng, tạo thoải mái khi giao dịch, bí mật... Do đó đòi hỏi sự hướng dẫn của cán bộ nhân viên ngân hàng.
SGD là một đơn vị kinh doanh có nhiều ưu thế trong sự canh tranh giữa các ngân hàng như:
+ Là một Ngân hàng thương mại thuộc sở hữu Nhà nước: Đây là một ưu thế tâm lý bởi khách hàng rất tin tưởng vào các Ngân hàng thương mại quốc doanh, khi gửi vào họ không sợ bị mất nhất là sau khi hàng loạt các trung tâm tín dụng đổ vỡ.
+ Là một Ngân hàng có uy tín, có địa điểm vị trí hoạt động thuận lợi địa bàn hoạt động ngay tại thành phố Nam Định là nơi đông dân cư có đời sống cao.
+ Về công nghệ Ngân hàng: Đã đưa vào sử dụng hệ thống máy vi tính cập nhật thông tin hàng ngày.
+ Về cán bộ nhân viên: Cán bộ làm việc tại Sở hầu hết là những cán bộ có năng lực có trình độ có chuyên môn, nhiệt tình trong công việc, tận tụy với khách hàng.
Như vậy để phát huy được những thuận lợi trên nhằm thu hút tối đa lượng tiền gửi, đáp ứng kịp thời cho nhu cầu vay vốn của các đơn vị kinh tế trên địa bàn thì trong thời gian tới SGD vẫn phải quan tâm hơn nữa đến trình độ cán bộ nhân viên, đặc biệt là đối với các nhân viên giao dịch có quan hệ trực tiếp với khách hàng gửi tiền bởi với sự thông thạo nghiệp vụ, nhanh nhạy trong công tác, thái độ phong cách giao tiếp cư sử và văn hoá, lịch sự văn minh, ưa nhìn sẽ là một trong những nhân tố rất cơ bản quyết định đến sự thành công của Sở trong công tác này. Cần tổ chức ra các kỳ thi tuyển có sự chọn lọc nghiêm minh, chính xác.
Củng cố và trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cho trụ sở giao dịch. Việc nâng cấp, tân trang các phòng tiếp khách, điểm giao dịch sẽ khiến khách hàng cảm thấy thoải mái, tin tưởng hơn.
Thực hiện nhiều hình thức huy động đa dạng phong phú hấp dẫn khách hàng như nhận tiền gửi tiết kiệm của các cá nhân, tiền gửi tổ chức kinh tế, tổ chức các đợt phát hành kỳ phiếu trái phiếu bằng nội tệ, ngoại tệ ...
Tăng cường hoạt động trên các phương tiện thông tin đại chúng để Sở tự giới thiệu về mình với khách hàng. Có thể nói cho đến nay trong phần lớn bộ phận dân cư còn chưa hiểu biết đầy đủ về SGD nên việc làm trên sẽ tạo được ưu thế của SGD trên thị trường có như vậy các nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi trong dân cư mới có thể tập trung về Sở.
Nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá nên lượng vốn để đáp ứng nhu cầu cho nền kinh tế ngày càng lớn. Vì vậy nếu SGD thực hiện tốt những công tác trên sẽ thu hút được một lượng vốn đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của khách hàng góp phần điều hoà vốn tốt nhất cho nền kinh tế.
2. Trong công tác cho vay và thu nợ
Đây là công tác quan trọng nhất quyết định đến chất lượng của các khoản tín dụng và sự tồn tại của ngân hàng do vậy mục tiêu của Sở ở đây không chỉ là mở rộng doanh số cho vay mà phải thực hiện các khoản vay có hiệu quả trong công tác này Sở cần phải áp dụng các biện pháp như :
2.1. Nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng ngân hàng :
Trong hoạt động tín dụng có vô số các rủi ro khác nhau có thể dẫn đến việc không trả được nợ khi đến hạn của khách hàng. Đều có thể đưa ra được quyết định cho vay các nhà lãnh đạo ngân hàng phải cố gắng ước lượng những rủi ro không hoàn trả. Rủi ro này có thể dự đoán được trong quá trình phân tích tín dụng hay thẩm định tín dụng.
Thẩm định tín dụng là xác định khả năng hay ý muốn của người vay trong việc hoàn trả tiền vay. Có rất nhiều yếu tố mà các nhà ngân hàng cần phải xem xét về khả năng và sự sẵn lòng hoàn trả tiền vay phù hợp với các điều khoản trong hợp đồng tín dụng. Trong đó còn chú ý tới 5 nhân tố quan trọng đó là: Năng lực, uy tín, vốn, tài sản thế chấp, điều kiện hoạt động. Trong các nhân tố này uy tín nổi lên là nhân tố quan trọng nhất bởi nhiều khoản tín dụng được cấp với hi vọng sẽ được hoàn trả như thoả thuận.
Nếu như khâu thẩm định được được thực hiện tốt thì các nhà quản trị ngân hàng sẽ đưa ra được những quyết định đúng đắn. Tuy nhiên để làm được việc này các nhà ngân hàng phải.
2.2. Thực hiện thu thập và xử lí thông tin một cách chính xác :
Trong điều kiện SGD hiện nay mới chỉ thực hiện cho vay đối với các Doanh nghiệp Nhà nước, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty tư nhân. Vì vậy việc thu thập, phân tích xử lý kịp thời chính xác các thông tin về tình hình tài chính, quan hệ tín dụng, năng lực kinh doanh của doanh nghiệp, các thông tin về thị trường trước khi đưa ra quyết định cho vay luôn được coi trọng hàng đầu trong công tác thẩm định. Các thông tin thu thập được dùng để đánh giá chi phí tài sản, khả năng kiếm lời của người xin vay. Trong điều tra về đơn xin vay của doanh nghiệp ngân hàng cần phải biết về lịch sử của doanh nghiệp, sổ sách kế toán. Mối quan hệ của người lao động, kinh nghiệm trong việc phát triển và đưa vào thị trường các sản phẩm mới, nguồn gốc của doanh thu và lợi nhuận.
Ngân hàng cũng cần phải biết về bản chất các hoạt động của doanh nghiệp những sản phẩm nào được buôn bán, sản xuất, những loại dịch vụ nào được đưa ra, hàng hoá nào là chính, là phụ, phục vụ tiêu dùng hay sản xuất, xa xỉ hay thiết yếu - đó sẽ là những thông tin có giá trị. Ngoài ra ngân hàng cũng cần thu thập các thông tin về tính ổn định của nguồn nguyên liệu, lao động, thị trường nơi doanh nghiệp cung ứng sản phẩm. Các điều khoản mua bán, phương pháp phân phối lợi nhuận v.v..
Để có được đầy đủ thông tin về tình trạng tài chính của doanh nghiệp, ngân hàng phải xem xét báo cáo tài chính, phỏng vấn người xin vay để có được những thông tin về mục đích vay tiền, thu thập các thông tin về tình hình vay trả của đơn vị vay vốn trong quá khứ để từ đó đưa ra đánh giá về uy tín của đơn vị vay vốn. Bên cạnh đó ngân hàng còn điều tra các thông tin từ bên ngoài như: thông tin điều tra nơi hoạt động sản xuất kinh doanh, điều tra từ các bạn hàng của đơn vị vay vốn, các nguồn thông tin từ Trung tâm thông tin tín dụng Ngân hàng Nhà nước và Trung tâm thông tin phòng ngừa rủi ro của NHNO & PTNTVN... Tuy nhiên hoạt động của các trung tâm này mới chỉ đạt được một số kết quả nhất định, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế của hoạt động tín dụng. Vì vậy ngân hàng cần trang bị các phương tiện thông tin hiện đại, tập huấn nghiệp vụ cho các cán bộ làm công tác thu thập thông tin phòng ngừa rủi ro nhằm trang bị phương pháp tìm kiếm, tra cứu tạo lập thông tin về doanh nghiệp một cách chính xác.
Trong thời gian tới khi Sở thực hiện cho vay đối với hộ sản xuất thì nguồn thông tin thu thập chủ yếu ở đây là: Tên tuổi, địa chỉ của chủ hộ, trình độ học vấn, đạo đức, tính thật thà siêng năng, các tệ nạn như nghiện rượu, nghiện hút...; kinh nghiệm quản lý, tài sản hiện có, tình trạng gia đình (số lao động, số nhân khẩu), đối tượng xin vay vốn, diện tích canh tác, mức thu nhập bình quân/ tháng và một số tình hình khác...
Trên cơ sở thông tin đã thu thập được tiến hành xử lý và phân tích các thông tin đó một cách chính xác và khoa học để từ đó đưa ra những quyết định chính xác.
2.3. Phân tích tài chính đơn vị vay vốn :
Việc thường xuyên phân tích tài chính đơn vị vay vốn, để hiểu rõ về năng lực tài chính của đơn vị đó từ đó làm cơ sở đưa ra những phán quyết tín dụng là việc làm hết sức cần thiết. Mặt khác việc phân tích tài chính là việc phân tích tình hình hoạt động của đơn vị vay vốn từ đó biết được tình hình tài chính, khả năng trả nợ của người xin vay, các khoản thu, chi của đơn vị đó có hợp lý không, biết được các khoản phải trả, các khoản phải thu để có thể tính được các khoản mà đơn vị có thể trả trong tương lai cho ngân hàng... Chính vì vậy các cán bộ tín dụng cần đi sâu phân tích các khoản phải trả, doanh thu, chi phí, lợi nhuận, khả năng tiêu thụ sản phẩm hàng hoá. Đồng thời tính toán được hệ thống các chỉ số, đặc biệt chú trọng các chỉ số đánh giá khả năng thanh toán, hệ thống tài trợ vốn...
Nên duy trì phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh và tài chính của đơn vị vay vốn 6 tháng một lần để kịp thời phân loại khách hàng cho từng thời kỳ, từ đó có định hướng đầu tư và có cơ chế ưu đãi phù hợp.
2.4. Đánh giá tính khả thi của phương án sản xuất kinh doanh và trình độ của người điều hành:
Dựa vào hồ sơ xin vay của khách hàng và các thông tin thu thập được từ các nguồn khác nhau ngân hàng sẽ tiến hành đánh giá phương án sản xuất mà khách hàng sử dụng vốn vay để đầu tư. Bởi phương thức kinh doanh có khả thi, có triển vọng tốt sẽ phần nào đảm bảo vốn vay của ngân hàng chắc chắn được hoàn trả. Hơn nữa sự thành công hay thất bại của phương án sản xuất phụ thuộc rất nhiều vào kỹ năng, trìng độ và kinh nghiệm của người quản lý. Trong bất kỳ tình huống khó khăn nào xẩy ra trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh với một người quản lý năng động, sáng tạo và có kinh nghiệm sẽ có thể giải quyết một cách nhanh chóng, có hiệu quả. Đây có thể coi là một yếu tố quan trọng không thể thiếu được trước khi xem xét có cho vay hay không.
3. Phân loại khách hàng
Để đánh giá các khách hàng ngân hàng phải dựa vào một số tiêu chí nhất định, qua đó phân loại khách hàng ở các mức độ A, B, C khác nhau để từ đó đưa ra các giải pháp như: Tiến hành tập trung cho vay các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh ổn định, tài chính lành mạnh, vay trả sòng phẳng. Các đơn vị hiện nay có khó khăn nếu ổn định được sản xuất kinh doanh có khả năng vượt lên, phản ánh kinh doanh hiệu quả thì nghiên cứu thẩm định kỹ lưỡng để có giải pháp tháo gỡ cho đơn vị vay vốn hoạt động nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh, có điều kiện trả nợ ngân hàng.
Từ chối, hạn chế cho vay khách hàng không có khả năng ổn định và phát triển trong sản xuất kinh doanh, không có các phương án sản xuất kinh doanh khả thi, có hiệu quả và khách hàng mới không hội đủ các nguyên tắc, điều kiện tín dụng, xu hướng phát triển không vững chắc.
Tiếp tục xây dựng và kiên trì thực hiện chiến lược khách hàng, xây dựng các cơ chế ưu đãi, tăng cường tìm kiếm khách hàng có chất lượng tốt, quy mô hoạt động lớn, đặc biệt là tổng công ty 90,91...
4. Thực hiện nghiêm túc các thể lệ, chế độ tín dụng hiện hành và giải quyết cho vay theo đúng qui trình công việc
4.1. Qui chế, thể lệ tín dụng:
Trong những năm gần đây thể lệ, chế độ tín dụng của Ngân hàng Nhà nước luôn luôn được bổ sung, thay đổi để phù hợp với chính sách đổi mới và nền kinh tế thị trường. Vì vậy trong thực tiễn giải quyết công việc cán bộ làm công tác tín dụng khó có thể nắm vững được hết những văn bản pháp qui trong lĩnh vực này đang còn hiệu lực hoặc các văn bản pháp luật của Nhà nước có liên quan đến công tác tín dụng và khó lường trước được những nội dung trong văn bản pháp qui mâu thuẫn hoặc phủ nhận lẫn nhau. Thực trạng này đang là một trong những khó khăn, lúng túng cho cán bộ làm công tác tín dụng.
Chính vì vậy trong điều kiện kinh tế xã hội và pháp luật hiện nay, cần phải coi trọng việc vận dụng các văn bản pháp qui vào thực tiễn cho phù hợp với tình hình từng khách hàng. Ngoài ra cần phải giữ vững qui trình giải quyết công tác tín dụng theo 3 cấp: cán bộ thẩm định, trưởng phó phòng tín dụng tái thẩm định, lãnh đạo quyết định. Giải quyết công việc theo qui trình này sẽ đảm bảo thực hiện được dân chủ, phân định rõ ràng trách nhiệm và kiểm tra, kiểm soát đảm bảo an toàn tín dụng.
Song để thực hiện nghiêm túc các thể lệ chế độ tín dụng thì ngoài việc giáo dục đào tạo ý thức cho cán bộ tín dụng, cần phải nâng cao công tác kiểm tra, kiểm soát việc chấp hành thể lệ, chế độ từ đó qui trách nhiệm thưởng phạt nghiêm minh, rõ ràng.
4.2. Qui chế, thế chấp, cầm cố, bảo lãnh tài sản:
Việc thế chấp, cầm cố, bảo lãnh tài sản, khi vay vốn vẫn là một trong những biện pháp đảm bảo tín dụng. Được hầu hết các nước áp dụng và có hiệu quả bởi nó được thể chế hoá bằng pháp luật ở mức độ cao.
+ Có tín nhiệm với tổ chức tín dụng cho vay trong việc sử dụng vốn vay và trả nợ đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi.
+ Có dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh khả thi, có khả năng hoàn trả nợ.
+ Có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ trả nợ .
+ Cam kết thực hiện biện pháp đảm bảo bằng tài sản theo yêu cầu của tổ chức tín dụng nếu sử dụng vốn vay không đúng cam kết trong hợp đồng tín dụng.
Đối với khách hàng vay vốn phải có tái sản đảm bảo đã ban hành “Quy định thực hiện các biện pháp đảm bảo tiền vay trong hê thốngngân hàng Chính Sách Xã Hội Nam Định ” trong đó quy định về mức cho vay so với giá trị tài bảo đảm tiền vay như sau:
+ Tài sản thế chấp: Mức cho vay tối đa=70% giá trị tài sản.
+ Tài sản cầm cố : Mức cho vay tối đa=70% giá trị tài sản.
+ Cho vay bộ chứng từ xuất khẩu: Mức cho vay tối đa=90% giá tri thanh toán mà khách hàng được thụ hưởng của bộ chứng từ hoàn hảo.
5. Nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng
Bảng 7: Một số chỉ tiêu dự kiến về trình độ CBCNV của Ngân hàng năm 2005
STT
Chỉ tiêu
Đơn vị
Số lượng
1
Trình độ Đại học
Người
120
2
Trình độ nghiệp vụ
Người
105
3
Trình độ ngoại ngữ
Người
90
4
Trình độ tin học
Người
120
5
Đảng viên
Đảng viên
40
(Nguồn: báo cáo tổng kết năm 2003)
Qua bảng trên ta thấy việc đầu tư vào công tác đào tạo và bồi dưỡng nâng cao trình độ của cán bộ công nhân viên trong Ngân hàng là rất cấp thiết và cấp bách.
Trong mọi lĩnh vực con người là yếu tố quyết định. Đó là một chân lý song ở đây xin được cụ thể là việc đảm bảo chất lượng tín dụng trước hết phải do chính những người trực tiếp làm tín dụng - cán bộ tín dụng quyết định. Cán bộ tín dụng hàng ngày phải sử lý nghiệp vụ có tính biến động nhưng liên quan đến nhiều lĩnh vực, ngành nghề kinh tế, gặp gỡ trực tiếp với nhiều loại khách hàng, đối mặt với nhiều cám dỗ, có nhiều cơ hội có thể thực hiện những hành vi vụ lợi... Vì vậy người cán bộ tín dụng cần phải được tuyển chọn cẩn thận, được bố trí hợp lý được quan tâm giáo dục, rèn luyện... và phải đảm bảo một số tiêu chuẩn cơ bản sau:
+ Phải có kiến thức trình độ nghiệp vụ cơ bản: Cán bộ tín dụng cần phải được đào tạo kiến thức nghiệm vụ cơ bản về tín dụng ngân hàng một cách chính qui ở trình độ đại học hoặc cao đẳng. Hiện nay chúng ta có rất nhiều loại hình đào tạo ở các hình thức. Thời gian chương trình khác nhau nên tất yếu sẽ có những loại chất lượng khác nhau. Vì vậy khi tuyển chọn cán bộ tín dụng cần có sự phân biệt rõ ràng và cần chọn những người chính qui dài hạn vì: Một mặt để học được chính qui dài hạn những người đó phải có một chỉ số thông minh nhất định, phương pháp và chất lượng đào tạo ở cấp học chính qui dài hạn sẽ tạo cho người học một lượng kiến thức cơ bản nhiều hơn sâu hơn các loại đào tạo khác. Trong quá trình làm việc Cán bộ tín dụng còn cần phải có tinh thần học hỏi, nghiên cứu học tập, nhằm cập nhật, bổ xung kiến thức để phù hợp và đáp ứng được sự vận động và phát triển của xã hội.
+ Phải có đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp cao: Người cán bộ tín dụng hơn bao giờ hết phải có đạo đức tốt, không thể bị cám dỗ bởi các lợi ích vật chất, phải coi sự nghiệp, danh dự bản thân và lợi ích của ngân hàng lên trên hết. Bên cạnh đó còn phải có trách nhiệm nghề nghiệp rất cao mới có thể xử lý tốt công việc được giao. Thể hiện có trách nhiệm cao trong việc tìm tòi, học hỏi nghiệp vụ, trách nhiệm cao trong từng công việc, dám làm dám chịu trách nhiệm với cách xử lý của mình. Thực tế đã có một số cán bộ tín dụng đã không có đạo đức nghề nghiệp, lợi dụng cương vị quyền hạn để lừa đảo hoặc cấu kết với khách hàng để lừa đảo lấy tiền ngân hàng cũng có một số cán bộ tín dụng mặt dù không vụ lợi nhưng thiếu tinh thần trách nhiệm trong xử lý nghiệp vụ làm theo chỉ đạo của người khác hoặc về cảm tình cá nhân mà bỏ qua các qui trình, tiêu chuẩn tín dụng nên gây thất thoát làm giảm chất lượng tín dụng.
+ Phải có bản lĩnh, kinh nghiệm nghề nghiệp: Để có được kinh nghiệm và xác định được bản lĩnh nghề nghiệp của một cán bộ cần phải có thời gian. Vấn đề này đề cập đến việc cán bộ tín dụng cần phải có tinh thần học hỏi, rèn luyện và ngân hàng phải có chính sách đào tạo trong quá trình hoạt động thực tế. Đồng thời khi phân công giao việc cho cán bộ tín dụng cần chú ý đến kinh nghiệm và bản lĩnh nghề nghiệp tương xứng với tính khó khăn phức tạp của công việc, lĩnh vực mà cán bộ tín dụng phụ trách...
Trên cơ sở những tiêu chuẩn nêu trên SGD với tư cách là một Sở đầu mối của toàn ngành thì tiêu chuẩn của một người cán bộ tín dụng lại càng nên chặt chẽ hơn. Thấy được tầm quan trọng của người cán bộ nên trong năm vừa qua ngân hàng Chính Sách Xã Hội Nam Định đã tổ chức ra cuộc thi tuyển chọn người tài để củng cố cán bộ ngân hàng Chính Sách Xã Hội Nam Định nói chung và SGD nói riêng. Mặc dù vậy nhưng số lượng cán bộ tín dụng tại phòng kinh doanh SGD vẫn còn thiếu. Hy vọng rằng trong năm tới với sự sáng suốt lựa chọn của ban lãnh đạo phòng kinh doanh sẽ có thêm được những cán bộ thực sự có đức, có tài góp phần nâng cao chất lượng công tác tín dụng.
Kết luận
Hoà chung với công cuộc đổi mới của nền kinh tế, SGD – ngân hàng Chính Sách Xã Hội Nam Định đã không ngừng đổi mới và hoàn thiện trên nhiều mặt hoạt động đặc biệt là đối với hoạt động tín dụng là một hoạt động cơ bản nắm vai trò là hoạt động xương sống tại Sở. Với sự cố gắng hết mình của toàn thể các cán bộ công nhân viên trong sự giúp đỡ tận dùng của các ban ngành trong những năm qua Sở đã đạt được những thành tựu đáng kể, không những mang lại hiệu quả cho bản thân SGD mà còn góp phần giải quyết việc làm cho người lao động, tăng thu nhập cho dân cư, tăng thu cho ngân sách Nhà nước...
Tuy nhiên trong quá trình phát triển và hoàn thiện SGD đã gặp không ít những khó khăn trong hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng như tình trạng nợ quá hạn... Vậy để hoạt động kinh doanh trong thời gian tới được hiệu quả hơn đòi hỏi sự nỗ lực quyết tâm của Sở cũng như sự hỗ trợ của Trung tâm điều hành, và các ban ngành có liên quan. Em hy vọng rằng trong thời gian tới SGD sẽ thực sự là địa chỉ tin cậy đối với các khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế.
Những thành tích trên đây là có sự đóng góp công sức của toàn thể cán bộ công nhân viên toàn ngân hàng. Thành tích trên đã góp phần tạo ra hình ảnh ngân hàng Chính Sách Xã Hội Nam Định. Đồng thời đã góp phần nhỏ công sức xây dựng hệ thống Ngân Hàng Chính Sách Xã Hội Việt Nam hoạt động an toàn hiệu quả.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36149.doc