Tín dụng trung và dài hạn là một trong những nghiệp vụ đang được quan tâm trong hoạt động kinh doanh của NH. Ngày nay, trong điều kiện hoạt động của nền kinh tế thị trường, trình độ khoa học kỹ thuật không ngừng được nâng cao, do đó nghiệp vụ tín dụng trung và dài hạn đòi hỏi phát triển theo, góp phần quan trọng trong việc đổi mới, hiện đại hoá trang thiết bị cũng như công nghệ sản xuất cho các thành phần kinh tế của đất nước. Nghiệp vụ tín dụng trung và dài hạn của các NH được triển khai theo các hình thức sau:
78 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1044 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại sở giao dịch 1 Ngân Hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ới phát huy truyền thống xây dựng và trưởng thành đã góp phần đáng kể vào việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của nước nhà. Hoạt động cho vay của ngân hàng không ngừng tăng qua các năm. Trong năm 2005 ngân hàng đã thực hiện cho vay với nền kinh tế là 4813816 triệu đồng, đến 2006 là 5000752 triệu đồng, đến 2007 là 5185044 triệu đồng. SGD I NHĐT&PTVN đã cho vay hoặc làm đại lý thanh toán khối lượng xây dựng cơ bản hoàn thành cho hàng nghìn dự án đầu tư phát triển như: 14 nhà máy dệt, 58 nhà máy xi măng, 34 mỏ than, 62 nhà máy gạch (trong đó 47 nhà máy gạch Tuynen). . . . Từ chỗ phần lớn cho vay các dự án Nhà nước hàng năm đã chuyển sang phục vụ đầu tư các dự án tự tìm kiếm theo các chương trình, mục tiêu, chuyển đổi cơ cấu kinh tế của Nhà nước, của các Bộ, các Ngành, các địa phương. Bám sát các mục tiêu, triển khai kịp thời có kết quả chương trình, giải pháp phục vụ nền kinh tế trọng điểm, chương trình kích cầu qua đầu tư theo nghị quyết 07/CP của Chính Phủ, nhất là chương trình phát triển cơ sở hạ tầng, giao thông, chương trình phục vụ phát triển miền núi Tây Nguyên, các biện pháp phục vụ kịp thời các tỉnh bị thiên tai bão lụt.
NHĐT&PTVN liên tục tăng trưởng với mức bình quân cao (28%/năm). Các chỉ tiêu cơ bản đều tăng trưởng như: tổng tài sản, huy động vốn tín dụng... thị phần, kinh doanh có hiệu quả, có lãi an toàn trong hoạt động NH, chất lượng sản phẩm dịch vụ ngày một nâng cao theo đòi hỏi của cơ chế thị trường.
Sự nghiệp đổi mới của NHĐT&PTVN bắt đầu từ những năm 1986 và thực sự đổi mới từ khi có hai Pháp lệnh về NH ra đời. Đặc biệt là giai đoạn 1995 đến nay, hoạt động SGD I NHĐT&PTVN được đổi mới về cơ bản và tăng trưởng liên tục. Đến năm 2007 những chỉ tiêu chủ yếu đạt được đó là:
- Tổng tài sản đạt 17461602 triệu đồng, 23.48% so với năm 2006
- Huy động vốn đạt 13620606 triệu đồng, gần gấp 2 lần nguồn vốn huy động năm 2005.
- Nợ quá hạn từ mức 0.81% năm 2006 đến 2007 giảm xuống còn 0.0003% trên tổng dư nợ.
- Lợi nhuận trước thuế năm 2007 đạt 271730 triệu đồng tăng 46.99% so với năm 2006, tăng gấp 3 lần so với năm 2005.
Bảng 9: Kết quả đạt được của SGD I trong năm 2005-2007
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Tuyệt đối
% TT
Tuyệt đối
% TT
Tuyệt đối
% TT
1. thu dịch vụ ròng
25600
4.48
49512
93.41
58397
17.93
2. lợi nhuận trước thuế
93659
11.69
184858
97.37
271730
46.99
3. tổng tài sản
11180720
2.10
14141538
26.48
17461602
23.48
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh SGD I năm 2005-2007)
Biểu 6: Tổng tài sản của SGD I qua các năm 2005-2007
Kết quả kinh doanh có lãi, thực hiện nghĩa vụ với Ngân sách Nhà nước đầy đủ, thu nhập và phúc lợi cho người lao động từng bước được cải thiện. Với phương châm “hiệu quả sản xuất kinh doanh của khách hàng là mục tiêu hoạt động của NHĐT&PTVN”, SGD I NHĐT&PTVN luôn bám sát mục tiêu và lãnh đạo theo hướng cẩn trọng, bền vững thể hiện trong mọi chủ trương, chính sách, chương trình, quy chế, quyết định xử lý nghiệp vụ của các cấp quản trị, điều hành của mọi cán bộ chủ chốt. Vừa tăng trưởng, vừa chăm lo nâng cao hiệu quả tín dụng, vừa đảm bảo kế hoạch lợi nhuận, vừa thực hiện dự chi đầy đủ theo nguyên tắc cẩn trọng. Vừa thực hiện kế hoạch kinh doanh hàng năm, vừa tạo ra tiền đề cho năm sau. Từ những kết quả trên, NH đã giữ vững và nâng cao vị trí, vai trò của mình, đáp ứng niềm tin yêu và vai trò của Đảng, Nhà nước và nhân dân trao cho hệ thống NHĐT&PTVN nói chung và trao cho SGD I nói riêng.
b. Những hạn chế và nguyên nhân.
* Về phía nền kinh tế.
- Hạn chế:
Sự ra đời ồ ạt của các doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH nhưng chưa hội đủ các điều kiện (đặc biệt là vốn tự có) nên dẫn đến hậu quả tất yếu là hoạt động kém hiệu quả, mất khả năng trả nợ Ngân hàng. Theo điều tra của Bộ Tài chính có tới 40% doanh nghiệp ngoài quốc doanh làm ăn thua lỗ và đang có khong 3% số doanh nghiệp không có khả năng trả nợ. Đặc biệt, một số doanh nghiệp khả năng quản lý yếu kém, kiến thức pháp luật của người đứng đầu doanh nghiệp rất hạn chế, có biểu hiện lừa đảo, chụp giật trong quan hệ vay mượn. Không những các doanh ngiệp ngoài quốc doanh hoạt động kém hiệu quả mà các doanh nghiệp nhà nước cũng có nhiều doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả gây hậu quả xấu tới nền kinh tế nói chung và hoạt động ngân hàng nói riêng.
- Nguyên nhân:
Việc thực hiện chế độ báo cáo kế toán, thống kê của doanh nghiệp không tuân thủ đầy đủ theo pháp lệnh, dẫn đến sự phản ánh lệch lạc kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh khiến cán bộ Ngân hàng thẩm định rất khó khăn.
* Về phía Ngân hàng
Hoạt động kinh doanh tiền tệ của SGD ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Những yếu kém sau đây trong thời gian vừa qua của SGD đã là những cản trở đối với mối quan hệ kinh tế giữa khu vực này và SGD.
- Chính sách cho vay
+ Hạn chế:
Trong thời gian vừa qua chính sách tín dụng tại SGD chưa thực sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Sự phân biệt khá rõ giữa DNNN và kinh tế ngoài quốc doanh thể hiện trong các điều kiện để được vay vốn. Các DNNN hầu hết được vay bằng tín chấp và được vay với khối lượng lớn. Còn kinh tế ngoài quốc doanh khi vay vốn phải có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ ba.
Hơn nữa, cơ cấu cho vay theo kỳ hạn cũng chưa hợp lý, SGD chủ yếu cho vay ngắn hạn, tín dụng trung và dài hạn chỉ chiếm một tỷ lệ thấp trong khi SGD hoàn toàn có khả năng mở rộng theo hướng này. Đành rằng, đặc điểm của kinh tế ngoài quốc doanh là quy mô vốn nhỏ, chủ yếu chỉ vay bổ sung vốn lưu động, nhưng để phát triển mạnh và bền vững thì cần phải có sự đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, đầu tư cho lâu dài. Bởi vậy, nếu SGD mở rộng được công tác cho vay trung và dài hạn cho những dự án khả thi thì sẽ đem lại hiệu quả cho cả Ngân hàng, doanh nghiệp và nền kinh tế.
+ Nguyên nhân:
Xét về việc cung cấp tín dụng theo ngành nghề: như đã phân tích ở trên, hoạt động này của SGD còn nhiều hạn chế. Tổng số khách hàng ngoài quốc doanh ở SGD mới chỉ dừng lại 152 doanh nghiệp và 256 cá nhân, tổ hợp tác chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực Công nghiệp, Thương nghiệp, kinh doanh những mặt hàng đang được thị trường ưa chuộng. Đối với các ngành nghề khác như xây dựng, trang trí nội thất, dịch vụ vui chi giải tríMặc dù, khả năng phát triển là rất lớn nhưng chưa được quan tâm đúng mức. Do đó, doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì vẫn ở trong tình trạng thiếu vốn, trong khi Ngân hàng lại chưa thực sự kinh doanh hiệu quả nguồn vốn của mình.
Mặt khác, lãi suất cho vay cũng là một trở ngại không nhỏ đối với kinh tế ngoài quốc doanh, trong khi kinh tế Nhà nước được vay với lãi suất thấp hơn thì kinh tế ngoài quốc doanh phải vay với mức lãi cao hơn vì được xem có độ rủi ro lớn hơn. Nhưng thực tế, các doanh nghiệp Nhà nước được vay bằng tín chấp lại có độ rủi ro cao hơn, bởi lẽ khi họ không hoàn trả được nợ thì SGD chỉ còn cứu cánh duy nhất là chờ đợi giải quyết từ phía Chính phủ. Do đó, với mức lãi suất như trên sẽ hạn chế việc vay vốn.
- Về thông tin tín dụng
+ Hạn chế:
Thông tin tín dụng là điều kiện không thể thiếu khi muốn nâng cao chất lượng tín dụng. Một thực tế cho đến nay, khả năng nắm bắt thông tin của trung tâm phòng ngừa rủi ro TPR-NHNN (mà hiện nay có tên gọi mới là CIC) rất giới hạn do nhiều nguồn cung cấp của các tổ chức tín dụng cho TPR rất khác nhau. Điều không thể phủ nhận là thông tin mà các tổ chức cung cấp cho TPR đều không đầy đủ và thiếu tính thời sự. Rõ ràng, với nhiều kênh, nhiều nguồn cung cấp thì thông tin nhận được sẽ bị nhiễu, nhiều khi mâu thuẫn với nhau do không chính xác, vấn đề là Ngân hàng và cán bộ tín dụng phải đủ năng lực để chọn lọc để xử lý thông tin có hiệu quả trong việc thẩm định dự án cho vay.
+ Nguyên nhân:
Nhiều doanh nghiệp và cá nhân nghĩ rằng, được vay vốn Ngân hàng là rất khó khăn. Phần lớn, họ không nắm được các giấy tờ, hồ sơ cần thiết để vay vốn Ngân hàng dẫn đến việc phải đi lại nhiều lần, mất thời gian và chi phí cho cả hai bên. Điều này đã làm cho khách hàng thực sự chưa thoải mái khi đến vay vốn Ngân hàng.
Xét về quy trình tín dụng, tuy các cán bộ Ngân hàng đều được phổ biến một cách cụ thể quy trình tín dụng nhưng trong quá trình thực hiện vẫn còn một số hạn chế nhất định. Đối với những dự án được vay vốn, sau khi giải ngân, SGD phải tiến hành công tác kiểm tra, giám sát vốn vay. Trên thực tế, công tác này chưa đạt hiệu quả cao. Phương pháp kiểm tra, kiểm soát không sâu, chỉ mang hình thức, không phát hiện kịp thời những sai phạm hoặc có phát hiện nhưng lại chưa có biện pháp xử lý hữu hiệu.
Bên cạnh đó, trình độ cán bộ còn nhiều bất cập. Tuy SGD đã đẩy mạnh công tác đào tạo và đào tạo lại cán bộ nhưng kết quả vẫn chưa thực sự như mong muốn. Các kiến thức về một thị trường kinh tế đầy sôi động và phức tạp chi phối đến hoạt động của từng doanh nghiệp trong khi khả năng nắm bắt thực tế của các cán bộ chưa sâu. Điều này dẫn đến những sai sót trong việc điều tra, nghiên cứu, thẩm định các dự án, phương án vay vốn và dẫn đến những hiệu quả gây thiệt hại cho Ngân hàng sau này.
Trước hết, về công tác thẩm định: hiện nay, SGD thường dựa vào số liệu do khách hàng cung cấp và cũng có tham khảo thêm một số thông tin thu thập từ bên ngoài. Nhưng nhiều khi công tác này chưa tốt, dẫn đến việc đánh giá không đúng hiệu quả của dự án cũng như khả năng thực tế của khách hàng. Do đó, công tác mở rộng tín dụng bị hạn chế, hiệu quả cho vay chưa cao.
- Về tài sản thế chấp
+ Hạn chế:
Hầu hết tất cả các khách hàng vay vốn đều phải có tài sản thế chấp (TSTC). Trong công tác định giá, hiện nay SGD thường định giá TSTC theo quy định chung, tuy có tham khảo thêm giá tài sản đó trên thị trường tại thời điểm định giá, xong vẫn không tránh khỏi những sai sót. Trong số các TSTC mà các doanh nghiệp sử dụng để bảo đảm tiền vay của SGD, chủ yếu là đất đai, nhà ở và các bất động sản khác.
+ Nguyên nhân:
Mức giá của các loại tài sản này thường không ổn định nên việc định giá đúng là rất khó khăn. Đối với những TSTC là các loại hình máy móc, thiết bị thì theo quy định, Ngân hàng yêu cầu khách hàng phải có giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản. Nhưng trên thực tế, các loại máy móc thường được mua đi bán lại nhiều lần nên các đơn vị kinh tế thường không có được giấy tờ sử dụng tài sản đó. Việc cho vay không có bảo đảm chưa được áp dụng rộng rãi, cộng với những khó khăn trong việc định giá TSTC đã ảnh hưởng đến việc mở rộng cho vay của Ngân hàng.
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN TẠI SGD I NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
3.1. Định hướng về hoạt động tín dụng trung và dài hạn của sở giao dịch I – NHĐT & PTVN.
3.1.1. Chuyển dịch cơ cấu cho vay - một chiến lược quan trọng của các Ngân hàng thưng mại.
Cùng với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước, các Ngân hàng thương mại cũng đang xây dựng chiến lược kinh doanh cho phù hợp. Sự thu hẹp của kinh tế Nhà nước cùng với sự mở rộng của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã mở ra một thị trường mới cho hoạt động Ngân hàng. Hệ thống ngân hàng Việt Nam với 4 Ngân hàng thương mại quốc doanh là chủ chốt, từ trước đến nay vẫn tập trung cho vay vào các doanh nghiệp Nhà nước, đặc biệt là các tổng Công ty 90 - 91. Chủ trương sắp xếp, cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước đã làm cho số lượng các doanh nghiệp này bị thu hẹp lại. Do vậy, các Ngân hàng thương mại không thể chỉ mãi chú trọng tới nhóm khách hàng này. Trong khi đó, các Ngân hàng thương mại cổ phần, Ngân hàng liên doanh với chiến lược khách hàng của mình đã nhanh chóng chuyển hướng sang thị trường khách hàng ngoài quốc doanh. Trên thực tế, tỷ trọng cơ cấu cho vay của các Ngân hàng này khá cao (thường từ 60 - 70%), trong khi tỷ trọng này ở các Ngân hàng quốc doanh mới chỉ vài phần trăm. Do đó, trước hết vì lợi ích chính bản thân mình, các Ngân hàng thương mại cần có sự chuyển dịch cơ cấu cho vay chú trọng sang thị trường kinh tế ngoài quốc doanh.
Để có thể chuyển dịch cở cấu cho vay của mình, các Ngân hàng cần xây dựng được kế hoạch, chiến lược kinh doanh phù hợp, trong đó chính sách tín dụng phù hợp là vấn đề hết sức quan trọng. Muốn vậy, các ngân hàng cần xem xét tất cả các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động chung của ngành Ngân hàng và đặc biệt là những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến việc mở rộng tín dụng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
Phương hướng mở rộng tín dụng của Ngân hàng có thể được xâydựng theo nhiều hướng khác nhau, căn cứ vào nhiều yếu tố. Nhìn chung Ngân hàng có thể mở rộng tín dụng theo những hướng sau.
3.1.2. Mở rộng về đối tượng cho vay.
Như đã phân tích ở trên, ngoài việc cho vay đối với các thành phần kinh tế nhà nước thì kinh tế ngoài quốc doanh phát triển với nhiều loại hình kinh tế khác nhau: kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản tư nhân và các hình thức liên kết khác. Căn cứ vào từng loại hình mà Ngân hàng sẽ có chính sách phù hợp.
Đối với kinh tế cá thể, tiểu chủ: nhu cầu vốn vay của loại hình này thường không nhiều, chủ yếu vay ngắn hạn để bổ sung lượng tiền mặt thiếu hụt tạm thời. Đứng trên giác độ quản lý ngân hàng, khoản chi phí mà ngân hàng bỏ ra để thực hiện trên mỗi món vay là lớn hơn so với việc cho các doanh nghiệp vay. Do đó, bên cạnh việc trực tiếp cho từng cá nhân vay vốn, đối với những khách hàng có cùng hoạt động sản xuất kinh doanh, Ngân hàng có thể hướng dẫn họ tập hợp lại nhóm khoảng từ 5 đến 6 người để thực hiện việc cho vay. Cán bộ tín dụng chỉ cần làm việc với 1 hoặc 2 người đại diện của nhóm. Người này trực tiếp chịu trách nhiệm trước ngân hàng về việc sử dụng vốn vay của tất cả các thành viên trong nhóm cũng như chuyển khoản vay từ ngân hàng tới các thành viên khác. Bằng cách này, Ngân hàng giảm được chi phí vay, khách hàng bớt được các thủ tục rườm rà.
Đối với kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản tư nhân: đây là những đơn vị kinh tế được tổ chức theo Luật doanh nghiệp. Ngân hàng sẽ căn cứ vào đặc trưng của từng loại hình mà áp dụng các chính sách tín dụng khác nhau. Ví dụ, bên cạnh việc cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động, Ngân hàng có thể cho các doanh nghiệp vay để thực hiện dự án trung và dài hạn. Dựa trên giấy yêu cầu vay vốn của khách hàng, Ngân hàng có thể cho vay để mua vật tư, hàng hóa các nhu cầu tài chính khác theo quy định của NHNN. Việc cho vay có bảo đảm hay không bảo đảm đến mức độ nào cũng căn cứ vào tính pháp lý của từng loại hình doanh nghiệp.
Tóm lại, việc mở rộng đối tượng cho vay không những giúp Ngân hàng có thể thiết lập quan hệ với nhiều khách hàng mà còn giúp Ngân hàng đa dạng hoá được các khoản đầu tư của mình. Nhờ vậy, Ngân hàng hạn chế được rủi ro đồng thời vẫn thực hiện được nhịêm vụ cung ứng vốn cho nền kinh tế.
3.1.3. Mở rộng về quy mô khoản vay
Các đơn vị kinh tế thường có nhu cầu không giống nhau do đặc điểm sản xuất kinh doanh khác nhau. Bởi vậy, để đáp ứng nhu cầu khách hàng, Ngân hàng có thể mở rộng việc cho vay theo số lượng và kỳ hạn khác nhau.
Trước hết, để thực hiện việc mở rộng theo hướng này, Ngân hàng phải căn cứ vào tiềm lực về vốn của mình. Nguồn vốn mà Ngân hàng huy động được có thể theo nhiều nguồn khác nhau: từ các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhânvà gắn liền với kỳ hạn khác nhau: 3 tháng, 6 tháng, 9 thángThông thường, quy mô của các nguồn này không giống nhau. Có người chỉ gửi vài ba trăm nghìn, có người lại gửi đến hàng trăm triệu. Trong khi đó, khách hàng vay vốn cũng có yêu cầu khác nhau về số lượng, thời hạn cũng như quy mô của c khon cho vay và huy động không phải lúc nào cũng phù hợp với nhau. Do đó, có thể mở rộng theo hướng này, Ngân hàng phải kế hoạch hoá được nguồn vốn của mình để có sự chủ động, linh hoạt khi cho vay.
3.1.4. Mở rộng theo phương thức cho vay.
Trên cỏ sở nhu cầu sử dụng từng khoản vốn của khách hàng, mối quan hệ giữa khách hàng và Ngân hàng, Ngân hàng và khách hàng thoả thuận để lựa chọn phương thức cho vay phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của khách hàng. Xuất phát từ điều này, Ngân hàng có thể tiến hành cho vay theo các phưng thức như:
- Cho vay từng lần: mỗi lần vay vốn khách hàng và ngân hàng thực hiện thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng: Ngân hàng và khách hàng xác định thoả thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng thời gian nhất định.
- Cho vay theo dự án đầu tư: Ngân hàng cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sn xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư phục vụ đời sống.
- Cho vay hợp vốn: một nhóm tổ chức tín dụng cùng cho vay đối với một dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn của khách hàng; trong đó, có một tổ chức tín dụng làm đầu mối dàn xếp, phối hợp với các tổ chức tín dụng khác.
- Cho vay trả góp: khi vay vốn, Ngân hàng và khách hàng xác định và thoả thuận số lãi vay vốn phí trả cộng với số nợ gốc được chia để trả nợ theo nhiều kỳ hạn trong thời hạn cho vay.
- Cho vạy theo hạn mức tín dụng dự phòng: Ngân hàng cam kết đảm bảo sẵn sang cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định. Ngân hàng và khách hàng tho thuận thời hạn hiệu lực của hạn mức tín dụng dự phòng, mức phí trả cho hạn mức tín dụng dự phòng.
- Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: ngân hàng chấp nhận cho khách hàng sử dụng vốn vay trọng phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lý của Ngân hàng.
- Cho vay theo hạn mức thấu chi: là việc cho vay mà Ngân hàng thoả thuận bằng văn bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài khoản thanh toán của khách hàng.
Việc mở rộng, cung ứng các phưng thức cho vay phù hợp với đặc điểm, tính chất kinh doanh của khách hàng sẽ giúp Ngân hàng dễ dàng, thuận tiện hơn trong việc kiểm tra, giám sát và thu hồi vốn vay. Qua đó, giúp cho hiệu quả kinh doanh của khách hàng cũng như Ngân hàng được tốt hơn, mối quan hệ giữa hai bên được củng cố, tạo điều kiện để mở rộng phạm vi hoạt động của Ngân hàng.
3.1.5. Mở rộng theo hình thức cho vay.
Theo hình thức cho vay, Ngân hàng có thể cho khách hàng vay có bảo đảm hoặc không bảo đảm. Thông thường khi vay Ngân hàng, khách hàng thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh phải có tài sản thế chấp đảm bảo. Mặc dù vậy, Ngân hàng có bảo đảm hay không có bảo đảm. Việc cho vay có thể được đảm bảo bằng tài sản của người vay, bằng bảo lãnh của bên thứ ba hoặc bằng tài sản hình thành từ chính vốn vay. Đối với những khách hàng mới hoặc có độ tin cậy không cao, việc bắt buộc phải có biện pháp bảo đảm là cần thiết cho hoạt động ngân hàng được an toàn.
Bên cạnh đó, ngân hàng có thể cho vay không cần các biện pháp đảm bảo. Hình thức cho vay này được áp dụng đối với những khách hàng truyền thống, có hoạt động kinh doanh tốt, có uy tín với ngân hàng. Ngoài ra, ngân hàng cũng có thể tài trợ cho khách hàng thông qua việc mở L/C trả chậm cho hoạt động xuất nhập khẩu hoặc cho khách hàng vay thông qua việc mua lại các chứng từ có giá trong thời hạn thanh toán, bao gồm việc chiết khấu các loại thương phiếu và mua lại các khoản nợ của doanh nghiệp.
3.1.6. Đảm bảo an toàn vốn - một yêu cầu trong công tác mở rộng tín dụng trung và dài hạn.
Dù mở rộng cho vay theo hướng nào, yêu cầu đảm bảo an toàn vốn của ngân hàng luôn đặt lên hàng đầu, bởi lẽ nguồn vốn mà ngân hàng cho khách hàng vay, là khoản tiền gửi mà ngân hàng huy động được. Do đó, ngân hàng có trách nhiệm bảo toàn và hoàn trả lại cho người gửi. Đặc biệt, khi cho kinh tế ngoài quốc doanh vay độ rủi ro của khoản vốn là cao hơn so với khu vực kinh tế Nhà nước.
Thực tế, mỗi ngân hàng có những biện pháp riêng để bảo toàn những nguồn vốn của mình. Có ngân hàng chú trọng khâu thẩm định dự án, có ngân hàng lại thực hiện tốt khâu giám sát sau khi cho vay. Nhưng nhìn chung, việc tuân thủ quy trình tín dụng một cách chặt chẽ, thực hiện tốt chính sách tín dụng sẽ giúp ngân hàng vừa mở rộng hoạt động cho vay đồng thời vẫn đảm bảo chất lượng của khoản vay. Do vậy, lợi ích của chính khách hàng, ngân hàng và xã hội đều được đảm bảo.
3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại SGD I – NHĐT & PTVN.
3.2.1. Nâng cao năng lực tài chính, huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu quả.
Nguồn vốn điều lệ hiện nay của SGDI là quá nhỏ so với yêu cầu đòi hỏi.để đảm bảo có đủ khả năng tài chính đứng vững trong cạnh tranh,SGD cần nâng cao năng lực tài chính bằng việc nâng cao nguồn vốn tự có bằng nguồn vốn hỗ trợ của Chính phủ và NHNN. Cụ thể là đề nghị Nhà nước, Chính phủ, NHNN, BTC cấp bổ xung vốn điều lệ.
Vì phục vụ chủ yếu cho quá trình CNH - HĐH đất nước nên phải luôn coi tạo vốn là khâu mở đường, tạo mặt bằng vốn vững chắc ngày càng tăng trưởng, việc đa dạng hoá các hình thức, các biện pháp, các kênh huy động vốn từ mọi nguồn trong và ngoài nước. Vì vậy cần phát huy lợi thế hoạt động ngân hàng để huy động vốn.
3.2.2. Nâng cao chất lượng thẩm định khi cho vay trung và dài hạn.
Việc nâng cao chất lượng tín dụng là cần thiết để phát triển hoạt động kinh doanh của SGD bởi vấn đề chất lượng tín dụng mới có ý nghĩa quyết định sự tồn tại và phát triển của SGD. Nếu SGD gia tăng khối lượng tín dụng mà không quan tâm đến chất lượng tín dụng thì chẳng khác nào cho vay mà không thu hồi nợ. Chất lượng tín dụng là kết quả các khoản tín dụng được thực hiện trọn vẹn, người vay thực hiện đúng các cam kết vay tiền, SGD thu được gốc và lãi đúng hạn. Trên thực tế trong quan hệ tín dụng thì quyền cho vay thực tế là ở SGD, quyền trả nợ thực tế là ở người vay. Do đó, khi SGD đã quyết định và khoản vay đã được thực hiện thì việc thu hồi vốn lại phụ thuộc vào người vay hay nói đúng hơn là phụ thuộc vào chính kết quả sử dụng vốn vay. Như vậy, trong quan hệ tín dụng, việc cho vay hoàn toàn đơn giản vì nó phụ thuộc vào quyền quyết định của SGD còn việc thu hồi nợ sẽ là khó khăn vì nó phụ thuộc vào thái độ và khả năng thực hiện các cam kết nghĩa vụ trả nợ của người vay. Vì vậy, thẩm định khi cho vay là rất quan trọng, đòi hỏi cán bộ SGD phải tuân thủ các nguyên tắc, nội dung cơ bản của việc phân tích thẩm định khi cho vay.
- Thẩm định tư cách pháp lý và khả năng tài chính của khách hàng
- Thẩm định dự án, phương án sản xuất kinh doanh của khách hàng
- Phân tích tính cách và uy tín của khách hàng
3.2.3. Đổi mới chính sách tín dụng
* Đa dạng hoá các hình thức về lãi suất
SGD cũng như các NHTM khác, cho vay dựa vào huy động vốn, do đó không thể tăng quy mô tín dụng cho nền kinh tế nếu công tác huy động vốn của Ngân hàng không được cải thiện. Với cơ chế lãi suất hợp lý sẽ là một cơ hội để huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, kích thích sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển. Sử dụng tốt công cụ lãi suất trên cơ sở SGD hạn chế tối đa các chi phí không cần thiết để hạ thấp lãi suất đầu vào nhằm tăng trưởng tín dụng. Bên cạnh đó, cần có các công cụ huy động vốn hiệu quả hơn như tăng lãi suất đầu vào, nghiệp vụ hoán đổi lãi suất SWAP
- Chính sách lãi suất phải linh hoạt theo đối tượng vay vốn. Trên thực tế, lãi suất mà SGD áp dụng cho doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường cao hơn các Doanh nghiệp Nhà nước. Do đó, tạo sự không bình đẳng giữa các thành phần kinh tế . Vì vậy, với các khách hàng quen thuộc, có uy tín vay trả sòng phẳng thì có thể được hưởng một mức lãi suất ưu đãi thấp hơn, điều đó sẽ góp phần củng cố mối quan hệ lâu dài với khách hàng, vừa khuyến khích khách hàng tăng cường mối quan hệ với SGD, vừa tích cực làm ăn có hiệu quả, trả nợ gốc và lãi đúng hạn cho Ngân hàng.
- Đa dạng hoá các hình thức lãi suất để tạo điều kiện phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của khách hàng. Dựa vào từng loại lãi suất và từng kỳ hạn, khách hàng có nhiều cơ hội lựa chọn những khoản vay thích hợp đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của họ đạt hiệu quả cao, đảm bảo trả nợ cho Ngân hàng đúng hạn.
* Đa dạng hoá hình thức bảo đảm tiền vay.
Tài sản bảo đảm nợ vay là một biện pháp quan trọng trong quá trình cho vay của NH. Nó tạo cơ sở pháp lý giúp cho NH có khả năng thu hồi nợ vay một khi khách hàng không có khả năng trả nợ, giúp giảm tối đa sự thiệt hại khi có rủi ro xẩy ra.
Chúng ta không phủ nhận vai trò tích cực của NH nhưng không vì thế mà chúng ta lại tuyệt đối hoá vai trò của nó trong cơ chế tín dụng hiện nay. Mục đích của cho vay trước tiên phải giúp khách hàng có vốn để duy trì hoặc mở rộng sản xuất kinh doanh, mang lại hiệu quả kinh tế cho khách hàng, cho xã hội nhưng phải đảm bảo cho vay thu được nợ cả gốc và lãi vay chính là đảm bảo an toàn và hiệu quả cho chính bản thân NH. Đặc biệt, đối với NHĐT&PTVN – NH chủ yếu phục vụ trong lĩnh vực đầu tư và phát triển, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Khi phải mang tài sản cầm cố thế chấp ra phát mại thì mọi chuyện đã rõ ràng: sản xuất khách hàng thua lỗ, vốn đã mất và quan hệ giữa khách hàng với NH đã chấm dứt. Mặt khác, không phải tài sản thế chấp nào cũng có thể bán ra một cách dễ dàng để NH thu nợ kịp thời, đặc biệt đó là tài sản cầm cố, thế chấp cùa DN Nhà nước, thực tế hiện nay việc phát mại tài sản là rất khó thực hiện.
Hiện nay, theo nghị định về bảo đảm tiền vay 178/1999/NĐ - CP ngày 29/12/1999 của Chính Phủ, có đưa ra nhiều hình thưc bảo đảm khác nhau như: cầm cố, thế chấp tài sản của khách hàng vay vốn, bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba, bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay, cho vay không có bảo đảm bằng tài sản, bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức đoàn thể chính trị xã hội cho cá nhân vay vốn. Việc thu nợ bằng tài sản cầm cố, thế chấp không phải là biện pháp tốt nhất nhưng nó cũng giúp NH phần nào giải quyết được những thiệt hại khi có rủi ro xẩy ra. Vì vậy, tôi thiết nghĩ:
- Tài sản bảo đảm là biện pháp cuối cùng và cơ sở pháp lý của NH trong việc thu hồi khoản nợ vay khi gặp rủi ro bất khả kháng, do đó NH cần thực hiện nghiêm túc về thủ tục thế chấp trong quá trình cho vay. Giải pháp này gắn liền với việc nâng cao năng lực công tác và phẩm chất đạo đức của người cán bộ tín dụng. Việc nâng cao năng lực cán bộ tín dụng trong việc thẩm định dự án, đánh giá lại tài sản thế chấp... cũng là một biện pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng NH, tránh tình trạng đánh giá quá cao hoặc không đúng thực tế giá trị tài sản thế chấp khiến cho việc phát mại tài sản khi có rủi ro xẩy ra sẽ không thể bù đắp nổi thiệt hại của NH hoặc tài sản không có khả năng phát mại.
- Hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh hoặc dự án đầu tư và khả năng vay trả được nợ của NH mới là điều kiện kiên quyết để NH quyết định cho vay vốn, vì vậy không phải khách hàng nào cũng đòi hỏi tài sản thế chấp thì NH mới cho vay, vì vậy cần phải “Trông mặt mà bắt hình dong”. Tất nhiên việc “trông mặt” phải bao gồm việc xem xét thẩm định kỹ lưỡng của NH đối với hiệu quả kinh tế của dự án, khả năng quản lý, khả năng tài chính mối quan hệ tín nhiệm trong vay trả nợ...Tất cả những điều ấy sẽ cho NH nhìn thấy bao quát và xây dựng được một chân dung khách hàng hoàn chỉnh để đưa ra quyết định đúng đắn với mức độ rủi ro thấp nhất.
Vì vậy, vấn đề chính trong việc NH quyết định cho vay đối với một khách hàng không phải ở chỗ khách hàng có tài sản cầm cố, thế chấp hay không.
3.2.4. Đổi mới chính sách khách hàng.
Một thực tế cho thấy hiện nay các NHTM nói chung và SGD nói riêng mới bắt đầu chú trọng tới công tác Marketing, hoạt động của phòng quản lý khách hàng chưa mang tính nghiệp vụ cao và hiệu quả rõ nét. Vì vậy cần tăng cường hoạt động trên các phương tiện thông tin đại chúng để SGD tự giới thiệu mình với khách hàng cụ thể:
- Tăng cường công tác tìm kiếm khách hàng, chủ động đặt qua hệ với khác hàng, dùng các chính sách ưu đãi thu hút khách hàng.
- SGD cần tăng cường công tác tuyên truyền quảng cáo các chính sách chế, thể lệ cho vay tới tới kinh tế ngoài quốc doanh.
- SGD cũng cần tiến hành phân loại khách hàng để cho vay. SGD cần phải phân loại khách hàng theo những tiêu thức nhất định nhằm chọn ra những khách hàng tốt nhất để có chính sách riêng đối với họ. Có thể phân loại đơn vị kinh tế theo các mức sau:
Đơn vị xếp loại A: là những đơn vị sản xuất kinh doanh ổn định có lãi trong hai năm liên tiếp gần nhất, đang kinh doanh những mặt hàng được thị trường ưa chuộng hoặc trong tưng lai được thị trưng ưa chuộng, thực hiện tốt các nghĩa vụ đối với Nhà nước, không có nợ quá hạn đối với Sở giao dịch. Nếu doanh nghiệp loại này có phưng án khả thi thì có thể cho vay ưu tiên về thủ tục, lãi suất, trong chừng mực nào đó thì có thể cho vay bằng tín chấp.
Đơn vị xếp loại B: là những đơn vị sản xuất kinh doanh ổn định, uy tín trên thị trường chưa cao, lãnh đạo doanh nghiệp là những người có năng lực, coi trọng chữ tín. Đối với đn vị này thì cho vay trên trên cơ sở tài sản thế chấp, cầm cố và bảo lãnh của bên thứ ba.
Đơn vị xếp loại C: là những đơn vị kinh doanh thua lỗ không có biện pháp khắc phục, quan hệ với Ngân hàng và bạn hàng không sòng phẳng, thường xuyên có nợ quá hạn thì SGD phải tìm cách từ chối hợp lý, nhanh chóng thu hồi vốn.
Tuy nhiên đây chỉ là cách phân loại tạm thời, không phi là khuôn mẫu để quyết định cho vay đối với khách hàng mà điều cốt yếu là phương án sản xuất kinh doanh nếu tỏ ra thực sự có hiệu quả thì Sở giao dịch có thể nới rộng ở mức độ nào đó nhưng trong điều kiện cho phép. Khi môi trường kinh doanh ngày càng thông thoáng và cơ hội phát triển cho các thành phần kinh tế thì vấn đề đặt ra là SGD cần phải nắm bắt được thông tin khách hàng một cách chính xác, nhanh chóng, kịp thời, tư vấn, chăm sóc khách hàng và phát hiện những biểu hiện không bình thường của khách hàng để kịp thời xử lý.
3.2.5. Kiểm tra, giám sát chặt chẽ vốn vay và quá trình trả nợ vay, xử lí nợ quá hạn, nợ khó đòi đối với hoạt động tín dụng trung và dài hạn.
Cán bộ tín dụng của SGD phi có trách nhiệm kiểm tra, giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn vay và trả nợ của khách hàng. Trong quá trình luân chuyển của đồng vốn sẽ có rất nhiều yếu tố tác động gây ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng của SGD. Nó bao hàm các nhân tố khách quan và các nhân tố chủ quan. Vì vậy, để SGD có biện pháp xử lý kịp thời khi gặp những nhân tố bất lợi đối với hoạt động tín dụng thì công việc kiểm tra, giám sát khách hàng cần tập trung vào những yếu tố sau:
- Hồ sơ vay vốn và kế hoạch tr nợ của khách hàng.
- Tìm hiểu các thông tin về khách hàng để từ đó đánh giá mức độ tín nhiệm của khách hàng.
- Mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng.
- Mức độ chiếm lĩnh sản phẩm của khách hàng trên thị trường.
- Khả năng quản trị kinh doanh của khách hàng vay vốn.
Để kiểm tra, giám sát các khoản vay đạt kết quả cao thì tuỳ thuộc vào đặc thù sản xuất kinh doanh, mức độ quan hệ, sự tín nhiệm của khách hàng với SGD mà có thể áp dụng các hình thức kiểm tra, giám sát khác nhau. Đặc điểm riêng của SGD là khách hàng vay vốn chủ yếu trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh những mặt hàng phục vụ cho sản xuất, tiêu dùng hàng ngày.Vì vậy, cần phải kiểm tra, giám sát thường xuyên thường tiền vay theo từng mặt hàng cũng như sự biến động của thị trường đối với những mặt hàng đó. Đây là biện pháp quan trọng giúp cho cán bộ tín dụng nắm bắt được thông tin về các đối tác liên quan, tính thực tế của sản phẩm, xác định thời gian phát tiền vay, thời hạn cho vay, mức tiền cho vay đối với sản phẩm, khả năng thu hồi vốn để trả nợ cho SGD của từng mặt hàng. Đặc biệt phát hiện ra những khoản vay vốn của Ngân hàng mà khách hàng sử dụng lãng phí hoặc không đúng mục đích từ đó đưa ra biện pháp xử lý thích hợp.
Nợ quá hạn, nợ khó đòi là một vấn đề bức xúc đối với một ngân hàng. Nó có thể bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, nhưng dù bắt nguồn từ bất cứ nguyên nhân nào thì vấn đề quan trọng là tìm mọi cách thu hồi và xử lí nó. Với khoản nợ có vấn đề mới phát sinh: Ngân hàng cần phải xem xét nguyên nhân, nếu có sai lệch về chu kì kinh doanh hoặc về vấn đề các khoản phải thu chưa thu thì ngân hàng cần có các biện pháp nhã nhặn nhắc nhở khách hàng nhanh chóng trả nợ cho ngân hàng. Ngân hàng cần đánh giá chính xác nguyên nhân từ phía khách hàng hay từ phía các đối tượng khác để có biện pháp xử lí thích hợp. Trong trường hợp khách hàng chỉ rơi vào tình trạng khó khăn tạm thời thì nên gia hạn cho khách hàng để tìm cách khắc phục, không nên quá nguyên tắc trong trường hợp này.
Với những khoản nợ đã gia hạn mà vẫn tiếp tục nợ quá hạn, trở thành nợ khó đòi thì ngân hàng nên tiến hành thu hồi tạm thời những khoản thanh toán có thể của khách hàng, đồng thời xem xét tình hình thực tế của khách hàng để đưa ra quyết định xiết nợ kịp thời trước khi khách hàng hoàn toàn không có khả năng hoàn trả. Trong tình huống xấu, ngân hàng cần kiên quyết xử lí, không để khách hàng lợi dụng sự quen biết làm ảnh hưởng. Trong trường hợp cần thiết, nên kết hợp với cơ quan pháp luật để xử lí tiến hành thuận lợi hơn.
Trong trường hợp nguồn thu nợ thứ nhất không đủ để trả nợ, ngân hàng buộc phải sử dụng đến nguồn thu nợ thứ hai, đó là tài sản bảo đảm tiền vay. Tài sản bảo đảm tiền vay phải dược xử lí trên cơ sở giá tri thị trường của nó.
3.2.6. Tăng cường đội ngũ cán bộ có tay nghề và trình độ nghiệp vụ cao.
Thực tế có thể đưa món nợ vay thành nợ khó đòi ngay từ khâu xét duyệt và thẩm định dự án sản xuất kinh doanh. Do cán bộ xử lý thẩm định dự án chỉ hiểu một cách mơ hồ về nghành nghề dự định đầu tư, điều này tất yếu có sự sai lệch trong việc thẩm định hồ sơ vay vốn đối với khách hàng. Một vai trò của rất quan trọng đó là Sở giao dịch không chỉ đơn thuần là nhà đầu tư mà còn là nhà tư vấn cho doanh nghiệp. Do đó không thể đưa mục tiêu mở rộng tín dụng nếu không bổ sung nâng cao trình độ tay nghề của đội ngũ cán bộ tín dụng của Sở giao dịch về năng lực thẩm định và am hiểu về lĩnh vực đầu tư, trau dồi, rèn luyện để có thái độ phục vụ tốt, nêu cao tinh thần trách nhiệm" Dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm", đồng thời cần hợp lý hoá quy trình nghiệp vụ khách hàng qua một đầu mối chính (1 cửa), đơn giản hoá thủ tục, giải quyết nhanh gọn, phục vụ thông suốt.
Ngoài ra, Sở giao dịch nên phối hợp với trung tâm điều hành, các NHTM khác và các cơ quan thuộc Chính phủ tổ chức các cuộc hội thảo về phương pháp đánh giá tài sản thế chấp vay vốn Ngân hàng, các thông số thẩm định kết quả tài chính, kết quả hoạt động của doanh nghiệp, vấn đề về thông tin phòng chống rủi ro và cán bộ tín dụng phải đủ năng lực để chọn lọc xử lý thông tin có hiệu quả trong việc thẩm định dự án cho vay. Thường xuyên tổ chức cuộc thi cán bộ tín dụng giỏi nhằm khuyến khích cán bộ tín dụng học hỏi kinh nghiệm từ các Ngân hàng bạn đồng thời cập nhật những thông tin mới từ phía Chính phủ.
Bên cạnh đó, Sở giao dịch cũng cần có chế độ khen thưởng thích đáng cùng với chế lý nghiêm minh trong việc khoán công tác tín dụng cho từng cán bộ. Với những cán bộ vượt kế hoạch trong công tác tín dụng, cho vay an toàn cần có khen thưởng cơ về vật chất cũng như tinh thần nhằm khuyến khích động viên sự nhiệt tình trong công tác, đồng thời nâng cao trách nhiệm cá nhân của mỗi cán bộ.
Mặt khác, Sở giao dịch cần tiếp tục hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật nhằm phục vụ tốt hơn nữa nghiệp vụ kinh doanh như đầu tư thêm máy tính, các phần mềm ứng dụng cũng như máy móc chuyên dụng khác để tăng chất lượng các dịch vụ chuyển tiền, gửi tiền và rút tiền tự động.
3.2.7. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát nội bộ
Kiểm tra, kiểm soát nội bộ là công việc đóng vai trò rất quan trọng trong việc mở rộng tín dụng và nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn cho các khu vực kinh tế của SGD. Nó là một trong những yếu tố đem lại sự an toàn, hiệu quả cho hoạt động tín dụng của SGD. Vì vậy, SGD cần tăng cường kiểm tra, kiểm soát nhằm phát hiện những vi phạm, sai sót để có biện pháp xử lý kịp thời. Nhưng SGD cần phải xây dựng chính sách kiểm tra, giám sát hoạt động tín dụng phù hợp với thực tế hoạt động của SGD và sự thay đổi của thị trường.
- Củng cố kiện toàn hệ thống kiểm tra, kiểm toán nội bộ tại SGD và các đơn vị thành viên. Hệ thống kiểm tra nội bộ chuyên trách và các cán bộ kiểm tra hoạt động độc lập với các bộ phận nghiệp vụ và được độc lập đánh giá, kết luận, kiến nghị trong hoạt động kiểm tra kiểm toán.
- Xây dựng hoàn chỉnh các quy chế, quy trình kiểm tra. Xây dựng chương trình kiểm tra định kỳ (kể cả hệ thống giám sát từ xa) để giám sát phòng ngừa ngăn chặn mọi sai sót, mọi hành vi vi phạm pháp luật để bảo đảm an toàn hoạt động kinh doanh toàn hệ thống và từng đơn vị thành viên. Chủ động kiểm tra kiến nghị xử lý các trường hợp sai phạm. Đảm bảo mọi hoạt động của SGD được kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ.
- Hệ thống kiểm tra phải chịu trách nhiệm trước Giám đốc về việc kiểm tra giám sát bảo đảm thông suốt, an toàn và đúng luật pháp mọi hoạt động của SGD.
- Thực hiện việc kiểm tra, giám sát bằng các biện pháp xây dựng chương trình tin học về quản lý khai thác thông tin giữa Ban kiểm tra, kiểm toán nội bộ với các phòng, ban tại SGD và các đơn vị, chi nhánh trực thuộc trong toàn hệ thống. Coi trọng việc kiểm tra giám sát từ xa nhằm thu thập các thông tin cảnh báo để ngăn chặn các sai sót có thể ảnh hưởng xấu đến hoạt động của Sở giao dịch.
- Trên cơ sở xây dựng các hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả chung của SGD; xây dựng và phát triển hệ thống thu thập, quản lý và cung cấp thông tin qua quản lý rủi ro trên tất cả các mặt hoạt động phục vụ cho việc kiểm tra, kiểm soát đạt hiệu quả hơn.
Công tác thanh tra, kiểm soát được đề cập ở đây không chỉ nằm vào phía đơn thuần là kiểm tra khách hàng mà còn quan trọng ở chỗ phải kiểm tra thanh lọc những cán bộ tín dụng mất phẩm chất, tiêu cực, gây thất thoát tài sản xã hội chủ nghĩa và làm mất uy tín Sở giao dịch.
3.2.8. Củng cố mô hình mạng lưới tiếp cận khách hàng công tác tiếp thị
Công tác khách hàng là một bộ phận quan trọng trong chiến lược kinh doanh. Để dành được và duy trì chữ tín, hạn chế rủi ro và đạt hiệu quả cao trong hoạt động kinh doanh cho cả ngân hàng và khách hàng, SGD cần thường xuyên thực hiện và liên tục đổi mới công tác khách hàng trên cơ sở những định hướng chung của Ngân hàng ĐT & PT Việt Nam.
Chính sách khách hàng phải bao gồm hai phần cơ bản:
Một là: Tạo mọi điều kiện để giúp đỡ khách hàng bằng công nghệ hiện đại và các tiện ích nhằm giúp cho khách hàng có điều kiện cạnh tranh lành mạnh, đem lại hiệu quả trong các lĩnh vực kinh doanh.
Hai là: Có chính sách ưu đãi về vật chất cụ thể cho từng nhóm khách hàng. Biện pháp của công tác khách hàng là chủ động tìm khách hàng bàn bạc các dự án kinh tế, tìm hiểu mặt mạnh, yếu của doanh nghiệp, đặc biệt là tình hình vốn và từ đó giúp khách hàng hiểu biết thêm về khả năng vốn, nghiệp vụ, công nghệ ngân hàng, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tránh được rủi ro trong kinh doanh.
Trong bối cnh nền kinh tế hiện nay, dựa trên tình hình thực tế của SGD I, Ngân hàng ĐT & PT Việt Nam, một chiến lược cụ thể trong những năm tới là:
Quan tâm hơn đến đối tượng doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Trong đó tập trung vào các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu, các doanh nghiệp tạo ra những sản phẩm đón đầu và xuất khẩu nhiều vào thị trường Mỹ sau khi hiệp định Thương mại Việt - Mỹ được Quốc hội hai nước phê chuẩn. SGDI cũng cần thực hiện tốt chính sách chăm sóc khách hàng, một cử chỉ đẹp, một hình ảnh đẹp, một lá thư cảm ơn, một lẵng hoa sinh nhật doanh nghiệp... là những món quà vô giá thể hiện sự tôn trọng khách hàng, những hội nghị khách hàng được tổ chức chu đáo sẽ là những cơ hội tốt để doanh nghiệp và khách hàng hiểu nhau hơn.
Trong những năm tới, SGD cũng cần mở rộng mạng lưới quỹ tiết kiệm, phòng giao dịch trên địa bàn tạo cơ hội tiếp xúc với khách hàng nhiều hơn. Với phương châm “Thành công của doanh nghiệp là thành công của ngân hàng”, cùng với công tác khách hàng tốt sẽ đặt nền tảng cho một quan hệ tín dụng tốt đẹp, lâu dài giữa SGD và khách hàng thuộc các khu vực kinh tế.
Tóm lại: Trên đây là những giải pháp cơ bản nhằm tiến tới đích là mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn đối với các khu vực kinh tế áp dụng tại SGDI - Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam. Các biện pháp này chỉ phát huy hiệu quả khi nó được thực hiện một cách đồng bộ, với sự đồng tâm nhất trí của toàn thể cán bộ nhân dân của SGD. Song nỗ lực của riêng SGD chưa đủ, cần phải có sự trợ giúp, quan tâm chỉ đạo của Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam và của Ngân hàng Nhà nước Việt nam, trong một môi trường kinh tế, pháp luật ổn định, hoàn chỉnh, cùng với nỗ lực và sự hợp tác của phía các chủ thể kinh tế mới được thực hiện một cách tối ưu.
3.3. Một số kiến nghị.
3.3.1. Kiến nghị với cơ quan quản lý Nhà nước
Nhà nước cần hoàn thiện môi trường pháp lý và môi trường hoạt động cho các NH và các DN. Trong quan hệ tín dụng NH với các tổ chức kinh tế phải chịu sự tác động của rất nhiều yếu tố. Bên cạnh Luật NH, Nhà nước cần có những văn bản luật rõ ràng như; Luật đầu tư trong nước, Luật bảo hiểm, Luật thế chấp... việc ban hành các luật nói trên đảm bảo cho quan hệ tín dụng được dựa trên một nền tảng vững chắc, đảm bảo an toàn cho hoạt động của NH.
Nhà nước cần xây dựng các chính sách kinh tế ổn định tránh gây ra những đột biến trong nền kinh tế gây ra những rủi ro kinh doanh của DN và của NH. Nhà nước cần tăng cường biện pháp quản lý nhà nước đối với các DN, mạnh dạn giải thể các DN làm ăn không có hiệu quả, không còn khả năng thanh toán nợ đến hạn. Đặc biệt Nhà nước tăng cường trách nhiệm trong việc cấp giấy phếp thành lập các công ty tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, tránh thành lập tràn lan gây hậu quả xấu cho đối tác cũng như cho xã hội. Nhà nước cũng cần buộc các DN phải chấp hành đúng pháp lệnh kế toán, có chế độ kiểm toán hàng năm đối với các DN, để tránh tình trạng cung cấp sai số liệu đối với phía đối tác.
Nhà nước cũng cần sớm hoàn thiện hơn nữa thị trường chứng khoán. Nếu thị trường chứng khoán hoạt động có hiệu quả, việc tạo vốn qua thị trường này của các DN sẽ tăng cường, tạo sự phát triển chung cho nền kinh tế. Các NH có thể tham gia vào thị trường chứng khoán bằng cách phát hành trái phiếu nhằm huy động vốn trung và dài hạn phục vụ nhu cầu cho vay đối với các DN trong nền kinh tế. Ngoài ra NH còn có thể tạo ra nhiều nghiệp vụ đa dạng phong phú hơn như đại lý phát hành, tư vấn về các vấn đề tài chính NH, lưu trữ và quản lý chứng khoán, thanh toán chứng khoán.
Nhà nước nên hoàn thiện hơn nữa cơ quan bảo hiểm tín dụng. Bảo hiểm tín dụng là một trong những biện pháp hết sức quan trọng nhằm giảm bớt rủi ro. Quỹ bảo hiểm tín dụng có tác dụng hạn chế thiệt hại về vốn khi NH cho vay gặp rủi ro và còn hạn chế rủi ro phá sản NH. Ở Việt Nam, thị trường, bảo hiểm tín dụng còn bỏ ngỏ, chưa có nhiều công ty bảo hiểm tín dụng trong khi đó tình hình rủi ro tín dụng tại các NHTM vẫn thường xuyên xẩy ra, với mức độ thiệt hại khá lớn. Vì vậy, một yêu cầu cấp bách đặt ra là Nhà nước cần sớm nghiên cứu và thành lập nhiều hơn nữa các công ty bảo hiểm tín dụng.
3.3.2. Kiến nghị đối với ngân hàng nhà nước
Ngân hàng Nhà nước cần thực hiện nhanh, có hiệu quả chương trình cải tổ, cơ cấu lại ngành ngân hàng Việt Nam tạo uy tín cho các ngân hàng thương mại Việt Nam. Thu hút các dự án chương trình quốc tế, hỗ trợ ngành ngân hàng Việt Nam về đào tạo cán bộ quản lý, nâng cao trình độ quản trị, điều hành hoạt động ngân hàng theo tiêu chuẩn trình độ quốc tê; đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ, thẩm định dự án, đánh giá dự án, phân tích rủi ro cho cán bộ ngân hàng; trang bị công nghệ ngân hàng hiện đại. Sửa đổi cơ chế chính sách về cho vay, bảo lãnh theo hướng nâng cao trình độ tự chủ tự chịu trách nhiệm cho các NHTM, tăng thu nhập cho cán bộ ngân hàng. Hỗ trợ việc nâng cấp hệ thống thông tin quản lý cho các NHTM quốc doanh. Có thể nói toàn bộ hệ thống thông tin quản lý hiện tại của các NHTM chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi về cung cấp thông tin kế toán, tài chính của Ban quản lý điều hành của NHTM và Ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên, việc nâng cấp hệ thống thông tin quản lý đòi hỏi chi phí rất lớn và vượt quá khả năng tài chính của các NHTM quốc doanh. Bởi vậy Ngân hàng Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ về tài chính cho các NHTM quốc doanh để đầu tư đồng bộ hệ thống công nghệ thông tin và đào tạo cán bộ khai thác và xử lý theo yêu cầu quản lý. Tổ chức tốt việc cung cấp thông tin cho các NHTM, mà trước hết là đưa ra một số thông số tài chính của các chỉ tiêu chủ yếu phản ánh tình hình thực tế của ngành ngân hàng nói chung. Điều này không chỉ giúp các NHTM tự nhìn nhận, đánh giá bản thân mình so với hệ thống ngân hàng cũng như so với các đối thủ cạnh tranh, mà còn giúp cho Ngân hàng Nhà nước kiểm soát từng hoạt động của các ngân hàng, nhằm phục vụ tốt cho công tác dự báo, xu hướng phát triển của các NHTM, điều chỉnh kịp thời các quy định và biện pháp giám sát, đặc biệt là công tác hoạch định chiến lược phát triển toàn ngành trong bối cảnh hội nhập và cạnh tranh quốc tế.
Thực hiện đúng lộ trình mở của hoạt động ngân hàng với nước ngoài, bãi bỏ các quy định hạn chế hoạt động của ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam, theo cam kết tại hiệp định thương mại Việt Mỹ, AFTA, cho phép thêm một số ngân hàng của Nhật, Mỹ, EU mở chi nhánh hoạt động tại Việt Nam, tạo môi trường cạnh tranh thông thoáng cho hoạt động ngân hàng, thúc đẩy thị trường vốn phát triển. Sớm ban hành nghị định và thông tư hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh thương phiếu thúc đẩy hoạt động tín dụng thương mại phát triển.
3.3.3. Kiến nghị đối với Ngân hàng ĐT &PT Việt Nam
Ngân hàng DDT &PTVN là cơ quan quản lí trực tiếp mọi hoạt động của SGD.Vì vậy, cần có những sự quan tâm, hướng dẫn cụ thể mọi hoạt động của SGD:
- Hoàn thiện cơ chế, chính sách tín dụng, tạo hành lang pháp lí thuận lợi đối với các thành phần kinh tế thông qua việc chỉ đạo hướng dẫn cụ thể, kịp thời các chủ trương, chính sách của ngành và của Chính phủ.
- Cần xây dựng chiến lược phát triển kinh doanh cụ thể cho từng giai đoạn.
- Quan tâm giải quyết các khoản nợ làm trong sạch hệ thống.
KẾT LUẬN
Qua một thời gian thực tập và nghiên cứu về hoạt động tín dụng trung và dài hạn tại SGD I NHĐT&PTVN đã giúp tôi nhận thức được phần nào vai trò quan trọng của tín dụng trung và dài hạn đối với nền kinh tế nói chung và NH nói riêng, đồng thời tôi cũng thấy được những bước tiến triển mạnh mẽ của SGD I NHĐT&PTVN trong hoạt động tín dụng. Qua bài viết này, em mong muốn đóng góp một phần ý kiến nhỏ bé của mình trong vấn đề nâng cao hiệu quả tín dụng trung và dài hạn tại NHĐT&PTVN, để NH ngày một phát triển bền vững, đóng góp vào sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Trong những năm vừa qua, vượt lên trên tất cả nhưng khó khăn thử thách của nền kinh tế, SGD I NHĐT&PTVN đã có những tăng trưởng đáng kể. Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được NHĐT&PTVN còn một số hạn chế nhất định. Để vững bước phát triển thành một NH chủ lực trong lĩnh vực đầu tư phát triển của đất nước, NH cần khắc phục những khiếm khuyết của mình bằng cách phát huy những điểm mạnh của mình, tìm tòi, sáng tạo những điều mới, Đồng thời NH phải luôn chú trọng đến vấn đề hiệu quả tín dụng, coi đó như mục tiêu quan trọng hàng đầu trong chiến lược phát triển bền vững của NH. Bên cạnh đó cũng cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành, các cấp có liên quan để tạo ra một hành lang vững chắc cho NH phát huy chất lượng, hiệu quả.
Như đã đề cập, tín dụng trung và dài hạn có ảnh hưởng đến nhiều vấn đề kinh tế, xã hội khác nhau, đồng thời bản thân loại tín dụng này cũng chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố. Tuy vậy với tốc độ phát triển kinh tế, xã hội như hiện nay, cùng với sự nỗ lực của cán bộ công nhân viên trong NH, đặc biệt là với truyền thống và thế mạnh trong phục vụ tín dụng trung và dài hạn em tin chắc rằng trong một tương lai không xa, SGD I NHĐT&PTVN sẽ đạt được mục tiêu nâng cao hiệu quả tín dụng trung và dài hạn như mong muốn.
Với trình độ hiểu biết và thời gian thực tập có hạn, nên em không thể tránh khỏi những thiếu sót trong quá trình hoàn thành bản luận văn. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô cũng như ý kiến đóng góp của ban giám đốc, các anh chị trong phòng tín dụng 1 tại SGD I NHĐT&PTVN và các bạn đồng nghiệp để có thể hoàn thiện hơn chuyên đề tốt nghiệp.
Em xin chân thành cám ơn !
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo tổng kết kinh doanh năm, 2005, 2006, 2007 của Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam.
2. Tạp chí Ngân hàng các số năm 2005, 2006, 2007.
3. Tạp chí Thi trường Tài chính Tiền tệ các số năm 2007.
4. Tạp chí Kinh tế phát triển các số năm 2006, 2007.
5. Các văn bản hướng dẫn của NHĐT&PTVN về thẩm định, quy trình tín dụng.
6. Kinh tế chính trị cao cấp tập 1 (Nhà xuất bản chính trị quốc gia)
7. Ngân hàng thương mại (Edward W.reed& Edward K.gill). (Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh 1995).
8. Tiền tệ, Ngân hàng và thị trường tài chính (Frederic S Mishkin).
9. Niêm giám thống kê 2007 (Tổng cục thống kê).
10. Niên giám thống kê Hà nội 2007 (Cục thống kê thành phố Hà nội)
11. Các Website ngân hàng và tài chính.
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
* NHĐT&PTVN ........... Ngân hàng Đầu Tư Và Phát Triển Việt Nam.
* NH............................... Ngân Hàng.
* SGDI........................... Sở Giao Dịch I
* NHTM........................ Ngân Hàng Thương Mại.
* DN............................... Doanh Nghiệp.
* CNH - HĐH ............... Công Nghiệp Hóa – Hiện Đại Hóa.
* NHNN......................... Ngân Hàng Nhà Nước.
* NHTW......................... Ngân Hàng Trung Ương.
* BTC ............................ Bộ Tài Chính.
* KHNN. Kế hoạch nhà nước
* TG.... Tiền gửi
* CCTG... Chứng chỉ tiền gửi
* TCKT... Tổ chức kinh tế
* TM&DV... Thương mại và dịch vụ
BẢNG BIỂU
Bảng 1: Huy động vốn của SGD I NHĐT&PTVN trong 3 năm 2005-2007
Bảng 2: Hoạt động cho vay của SGD I năm 2005-2007
Bảng 3: Hoạt động thu phí dịch vụ.
Bảng 4: Hoạt động tín dụng trung và dài hạn SGD I năm 2005-2007
Bảng 5: Tốc độ tăng trưởng cho vay trung và dài hạn trong năm 2005-2007
Bảng 6: Cơ cấu cho vay trung và dài hạn theo thành phần kinh tế năm 2006-2007
Bảng 7: Dư nợ tín dụng trung và dài hạn năm 2006-2007 tại SGD I NHĐT&PTVN
Bảng 8: Tình hình nợ xấu và nợ quá hạn năm 2006-2007 tại SGD I.
Bảng 9: Kết quả đạt được của SGD I trong năm 2005-2007
Biểu 1: Hoạt động huy động tại SGD I năm 2005-2007
Biểu 2: Hoạt động cho vay của SGD I năm 2005-2007
Biểu 3: Hoạt động tín dụng trung và dài hạn tại SGD I năm 2005-2007
Biểu 4: Tình hình dư nợ tại SGD I năm 2006-2007
Biểu 5: Nợ xấu và nợ khó đòi của SGD I năm 2006-2007
Biểu 6: Tổng tài sản của SGD I qua các năm 2005-2007
MỤC LỤC
TRANG
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7578.doc