Hoạt động cho vay của Ngân hàng hay tín dụng Ngân hàng nói chung chính là hoạt động tài trợ của Ngân hàng cho khách hàng trong đó ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải trả cả gốc và lãi trong một khoảng thời gian thỏa thuận.
Với nội dung như trên, cho vay Ngân hàng tạo ra một kênh cung cấp vốn cho nền kinh tế nói chung và các khách hàng cụ thể nói riêng. Hoạt động cho vay của ngân hàng chính là việc đưa vốn đến với nhũng người cần vốn trong nền kinh tế, giúp hoạt động sản xuất hinh doanh diễn ra trôi chảy, thuận lợi. Vai trò cụ thể của ngân hàng được thể hiện như sau :
- Cho vay của Ngân hàng khuyến khích người lao động làm việc có kế hoạch và nâng cao ý thức sản xuất kinh doanh.
- Cho vay của Ngân hàng giúp người lao động tiếp cận được với khoa học công nghệ và phương pháp làm ăn có hiệu quả.
- Cho vay của Ngân hàng giúp cho người lao động tự chủ hơn trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
80 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1187 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay giải quyết việc làm của ngân hàng chính sách xã hội chi nhánh Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hẩm định lại (khi cần thiết), tổng hợp, sau đó trình Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định.
Thời gian kể từ ngày nhận được hồ sơ dự án đến khi thẩm định xong ở cấp quận (huyện) tối đa không quá 15 ngày.
* ở các cơ quan tổ chức đoàn thể cấp tỉnh:
- Cơ quan tổ chức đoàn thể cấp tỉnh chủ trì, phối hợp với NHCSXH tiến hành thẩm định dự án để trình thủ trưởng cơ quan Trung ương các Hội đoàn thể ra quyết định cho vay. Kết quả thẩm định gửi về Sở LĐTB&XH để tổng hợp chung.
Thời gian kể từ ngày nhận được hồ sơ dự án đến khi thẩm định xong ở cấp quận (huyện) tối đa không quá 15 ngày.
- Cơ quan Trung ương các tổ chức đoàn thể xem xét và quyết định cho vay tối đa không quá 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ dự án.
* NHCSXH tham gia thẩm dịnh dự án theo nguyên tắc phân định trách nhiệm giữa các cơ quan trong khâu thẩm định về mục tiêu, đối tượng cho vay, điều kiện cho vay, mức vay và mục đích sử dụng tiền vay. Trường hợp NHCSXH không nhất trí với cơ quan LĐTB&XH hoặc tổ chức hội đoàn thể thì bảo lưu ý kiến, trình cấp có thẩm quyền quyết định.
Sau khi dự án được quyết định, NHCSXH tiến hành giải ngân kịp thời đến người vay, không phải thẩm dịnh lại dự án.
* NHCSXH không được cho vay đối với các dự án không đươc cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, hoặc cơ quan thẩm quyền phê duyệt dự án trái với quy định.
c. Thủ tục cho vay
* Khi nhận được quyết định cho vay của cấp có thẩm quyền, NHCSXH có trách nhiệm hướng dẫn khách hàng làm thủ tục thế chấp, cầm cố tài sản hoặc bảo lãnh vốn vay, sau đó làm thủ tục phát tiền vay.
* Việc cho vay phải được lập thành Hợp đồng tín dụng giữa NHCSXH và khách hàng (hoặc ký Hợp đồng uỷ thác cho vay thông qua chủ dự án đối với các dự án nhóm hộ gia đình) theo quy định của ngân hàng.
* Đối với các dự án đã được duyệt nhưng không cho vay được, NHCSXH phải có văn bản báo cáo ngay với cơ quan ra quyết định cho vay để xem xét, giải quyết.
2.3.3 Thực trạng hiệu quả cho vay giải quyết việc làm của Chi nhánh NHCSXH TP Hà Nội từ năm 2006 – 2008.
2.3.3.1. Phân tích thực trạng cho vay giải quyết việc làm của Chi nhánh NHCSXH TP Hà Nội từ năm 2006 – 2008 theo các chỉ tiêu định tính.
2.3.3.1.1 Doanh số cho vay và dư nợ trong 3 năm 2006-2008:
Do việc sáp nhập mở rộng địa chính Hà Nội ( bao gồm cả tỉnh Hà tây cũ và huyện Mê Linh- Vĩnh Phúc cùng 1 số xã của tỉnh Hòa Bình) nên Chi nhánh NHCSXH Hà Nội mới sẽ mở rộng hơn về quy mô. Do vậy sẽ thấy có sự tăng đột biến về doanh số và dư nợ các khoản tín dụng từ năm 2007- 2008. Cụ thể: dư nợ cho vay giải quyết việc làm năm 2008 đã tăng so với năm 2007 là 108,778 tỷ đồng( tương đương với 45,65 %); doanh số cho vay GQVL năm 2008 là 132 tỷ đồng đã tăng so với năm 2007 là 37 tỷ đồng (tương đương với 38,95%) điều này thể hiện cụ thể qua bảng sau:
Bảng 2.4. Dư nợ cho vay giải quyết việc làm từ 2006-2008.
Đơn vị: tỷ đồng, phần trăm.
Năm
2006
2007
2008
Dư nợ cho vay GQVL
116,190
129,482
238.260
Tổng dư nợ
411,850
532,180
1184.200
Tỷ trọng
28,30%
24,33%
20,12%
Tỷ lệ tăng trưởng
114,23%
111,44%
184,01%
( Báo cáo tổng hợp 3năm 2006-2008 của NHCSXH TP Hà Nội)
Theo số liệu ở bảng trên ta thấy tỷ lệ dư nợ cho vay giải quyết việc làm trên tổng dư nợ của cả chi nhánh NHCSXH Hà Nội có xu hướng giảm dần,điều này cho thấy rằng dù mức dư nợ vẫn tăng lên nhưng do số bình quân cho vay trên 01 hộ tăng lên nên tỷ lệ trên giảm.
Ngoài việc tăng trưởng nợ vay,tăng số lao động có việc làm và tăng mức cho vay bình quân 1 hộ, chi nhánh Hà Nội đã đề xuất được các Sở ngành và UBND chấp thuận việc tập trung vốn cho vay giải quyết việc làm vào các cơ sở kinh doanh, các làng nghề tạo ra nhiều việc làm và thu nhập ổn định cho người lao động.
Bảng 2.5. Doanh số cho vay GQVL qua 3 năm 2006-2008.
Đơn vị : Triệu đồng
Năm
2006
2007
2008
Thực hiện
Thực hiện
Tỷ lệ tăng trưởng
Thực hiện
Tỷ lệ tăng trưởng
Doanh số cho vay GQVL
70.158
95.000
135,41%
132.000
138,95%
(Nguồn : Báo cáo tổng kết 3 năm 2006-2008 NHCSXH TP Hà Nội)
Trong năm 2006, Chi nhánh NHCSXH TP Hà Nội đạt 100% chỉ tiêu về doanh số cho vay GQVL do TP đặt ra. Điều này càng khẳng định rằng cho vay GQVL trên địa bàn Thủ đô đang báo hiệu những tín hiệu tích cực làm động lực khích lệ cho toàn hệ thống NHCSXH trong công cuộc xóa đói giảm nghèo và một tỷ lệ thất nghiệp thấp.
Giống như đối với dư nợ, doanh số cho vay GQVL của NHCSXH TP Hà Nội qua các năm 2006 -2008 đều tăng với tỷ lệ khá cao ( 35,41% năm 2007 và 38,95 % năm 2008) là do sau hội nghị tổng kết năm 2005 và đề ra phương hướng năm 2006 hoạt động cho vay GQVL được chú trọng, nguồn vốn từ ngân sách và địa phương tăng lên đáng kể. Cho vay GQVL trở thành một chương trình quan trọng trong hoạt đọng của NHCSXH TP Hà Nội.
Để tăng trưởng nguồn vốn,chi nhánh Hà Nội đã tích cực tham mưu,xây dựng phương án và tranh thủ sự giúp đỡ của các Sở ngành đẻ trình UBND thành phố và quận huyện trên cơ sở tăng thu,tiết kiệm chi Ngân sách bổ xung nguồn vốn để cho vay.
Góp phần thực hiện Nghị quyết của Thành Ủy và nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội Hà Nội: mỗi năm giải quyết việc làm từ 75000- 85000 lao động, NHCSXH TP Hà Nội chỉ thực hiện 6/14 chương trình tín dụng ưu đãi, do vậy dư nợ bình quân còn thấp so với mặt bằng chung của hệ thống NHCSXH đã làm hạn chế đến kế hoạch tài chính và các hoạt động khác
Về quy mô cho vay nói trên vẫn cần có sự tăng trưởng tốt hơn nữa vì hầu hết các món vay đều có giá trị nhỏ so với một các chi phí bình quân tạo ra một việc làm mới hoặc là chi phí bình quân để mở rộng quy mô SXKD.Hiện tại chi phí cho vay bình quân /01hộ là 10,05 triệu đồng vào năm 2008 trong khi đó chi phí ước tính để taọ ra một việc làm mới là khoảng 20triệu đồng. Giá trị một món vay GQVL trung bình năm 2008 là 10,5 triệu đồng/món vay/hộ, tăng so với giá trị một món vay GQVL trung bình năm 2007 là 9.33 triệu đồng/món vay/hộ tức là khoảng 12.54% tương đương với 1,17 triệu đồng.
Chương trình cho vay giải quyết việc làm đã tạo điều kiện cho gần 20.000 người có việc làm, góp phần vào mục tiêu, nhiệm vụ chung của thành phố về giải quyết việc làm cho người lao động năm 2008.
2.3.3.1.2. Số lao động được thu hút thêm của các dự án
Số lượng lao động được thu hút thêm nhờ nguồn vốn vay từ NHCSXH TP Hà Nội trong 3 năm 2006-2008 được thể hiện cụ thể trong báng sau:
Bảng 2.7. Số lượng lao động thu hút thêm qua 3 năm 2006-2008.
Đơn vị : lao động
Năm
2006
2007
2008
Thực hiện
Thực hiện
Tỷ lệ tăng trưởng
Thực hiện
Tỷ lệ tăng trưởng
Số lao động thu hút thêm
34.359
46.385
135,05%
64.474
138.95%
(Nguồn: Báo cáo tổng kết 3 năm 2006-2008NHCSXH TP Hà Nội)
Như vậy, trong 3 năm 2006-2008, số lượng lao động thu hút thêm nhờ nguồn vốn của NHCSXH đêu tăng trưởng với tỷ lệ cao ( 35,05% năm 2007 và 38,95% năm 2008), có được điều đó là do doanh số cho vay GQVL của NHCSXH TP Hà Nội tăng lên đáng kể trong 3 năm qua ( đã trình bày cụ thể ở phần doanh số) hơn nữa hiệu quả cho vay cũng được quan tâm và cải thiện rất nhiều.
Tổng nguồn vốn cho vay GQVL trong năm 2006 đã đáp ứng cho vay 1.590 dự án với 25.680 hộ được vay vốn và thu hút được 34.359 việc làm mới có nghĩa là trung bình mỗi dự án vay vốn thu hút thêm được 42,6 lao động/dự án và trung bìnhmột hộ vay thu hút thêm 2,7 lao động/hộ. Những con số trên phản ánh khả năng thu hút thêm lao động của một hộ kinh tế gia đình là không cao. Tuy nhiên, với quy mô vốn vay chỉ khoảng 10,5 triệu đồng/hộ thì khả năng thu hút thêm một lao động và tạo thu nhập thường xuyên cho lao động đó đã là một cố gắng rất lớn của một hộ kinh tế gia đình. Quy mô vốn vay nhỏ xuất phát từ cả hai phía: bên vay vốn kém tự tin vào năng lực của bản thân và thực sự chưa có kế hoạch nghiêm túc vay vốn để làm ăn, mở rộng quy mô SXKD. Nhiều khi, mục đích vay vốn ưu đãi chỉ nhằm thỏa mãn quyền lợi của mình là đối tượng chính sách. Bên bảo lãnh thì e ngại bị liên đới chịu trách nhiệm hoặc mất uy tín với những món vay được tín chấp mà không trả được nợ.
Tình hình cho vay GQVL đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, tập trung vào các DNVVN, trong năm 2006 chưa được triển khai đầy đủ. Trong năm 2006, số lượng các DN ngoài quốc doanh có dự án được duyệt đầu tư là 35 DN với tổng số tiền vay là 1.895 triệu đồng chiếm khoảng 1,8% tổng số vốn cho vay ưu đãi của Chi nhánh NHCSXH TP Hà Nội. Chi nhánh cần có những thay đổi cần thiết trong vấn đề tài sản thế chấp và quy trình thẩm định dự án vay vốn để tạo điều kiện cho các DNVVN được tiếp cận với vốn vay ưu đãi dễ dàng hơn. Cho đến nay, khả năng vốn ưu đãi đến được tay các DNVVN vẫn còn là một bài toán chưa có lời giải mặc dù đây là khu vực kinh tế có nhiều tiềm năng và cơ hội phát triển đặc biệt là khả năng thu hút số lượng lớn người lao động đủ mọi lứa tuổi và không phân biệt giới tính. Như chúng ta đều biết rằng ở những nước có nền kinh tế phát triển như Mỹ thì các doanh nghiệp tư nhân – doanh ngiệp vừa và nhỏ thì đây chính là khu vực tạo ra nguồn việc làm chính cho đất nước ( thường chiếm hơn 70% số việc làm mới được tạo ra hàng năm).
2.3.3.2. Phân tích thực trạng hoạt động cho vay giải quyết việc làm của NHCSXH TP Hà Nội theo các chỉ tiêu định tính.
a) Quy trình cho vay và thẩm định dự án cho vay.
Hiện nay quy trình cho vay của NHCSXH TP Hà Nội được thực hiện theo quy định của Chính phủ và NHCSXH Việt Nam về hoạt động cho vay tài trợ đối với các đối tượng chính sách xã hội. Đây là quy trình được NHCSXH Việt Nam xây dựng dựa trên quy định của NHNN và thực tiễn hoạt động cho vay với các đối tượng chính sách. Quy trình cho vay đang thực hiện có thể nói là khá chặt chẽ và khoa học. Nghiệp vụ cho vay được thực hiện tuần tự theo các bước, từ khâu tiếp nhận và hoàn thiện hồ sơ đến kiểm tra thực hiện dự án đều được quy định cụ thể và đảm bảo tính chặt chẽ cũng như nhanh chóng nhằm tạo thuận lợi cho khách hàng đồng thời hạn chế rủi ro trong tác nghiệp. Có thể đánh giá quy trình nghiệp vụ của NHCSXH TP Hà Nội là khá tốt, đảm bảo tính chặt chẽ, khoa học và giảm thiểu mức rủi ro cho ngân hàng.
b) Khả năng chuyển dịch cơ cấu ngành nghề theo định hướng được khuyến khích của Thành phố Hà Nội.
Chuyển dịch cơ cấu lao động là một trong 3 chỉ tiêu của mục tiêu tỷ lệ thất nghiệp thấp mà Đảng và Nhà nước đã đề ra trong giai đoạn 2001-2010. Đi đôi với chuyển dịch cơ cấu lao động chính là chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu đầu tư trong đó chuyển dịch cơ cấu đầu tư được coi là nền tảng cho các tiến trình kia. Nhận thức được ý nghĩa đó, cho vay GQVL đã góp phần tích cực vào những tiến trình chuyển dịch trên bằng cách chủ động ưu tiên cho các dự án vay vốn phát triển làng nghề truyền thống, các dự án vay vốn đầu tư cho việc chăn nuôi như nuôi lợn, nuôi bò sữa, nuôi. Vốn vay ưu đãi của Chi nhánh NHCSXH TP Hà Nội đã góp phần thay đổi tập quán kinh tế lâu đời của người dân chuyển từ trồng trọt sang chăn nuôi và chế biến sản phẩm đặc biệt là các hộ dân ở khu vực ngoại thành.
c) Nâng cao chất lượng lao động từ việc sử dụng nguồn vốn.
Việc tăng thêm chất lượng lao động từ việc sử dụng nguồn vốn được coi là mục tiêu quan trọng khi đánh giá về hiệu quả cho vay GQVL và được xem xét dựa trên khía cạnh thu nhập, khối lượng công việc đảm nhận và thời gian gắn bó với công việc. Theo thực trạng trên có thể nói NHCSXH TP Hà Nội đã thực hiên khá tốt mục tiêu nâng cao chất lượng lao động. Cụ thể là : 100% số người vay vốn và sử dụng vốn vay GQVL của NHCSXH TP Hà Nội đều có công việc làm ổn định sau đó với thu nhập ổn định, đủ đảm bảo đời sống cá nhân và gia đình. Có thể thấy NHCSXH TP Hà Nội cũng rất quan tâm đến hiệu quả việc sử dụng vốn vay của người lao động, tất cả dự án sau khi cho vay đều được NHCSXH TP Hà Nội quan tâm, theo dõi và có những điều chỉnh linh hoạt.
Ngoài ra các chỉ tiêu định tính khác như thời hạn cho vay cũng được NHCSXH TP Hà Nội thực hiện khá hợp lý. Thời hạn cho vay được xác định tùy thuộc món vay, dự án cụ thể và khả năng trả nợ của người lao động góp phần làm tăng hiệu quả hoạt động cho vay.
2.4 Đánh giá hiệu quả cho vay giải quyết việc làm của Chi nhánh NHCSXH TP Hà Nội.
2.4.1 Những kết quả đạt được
NHCSXH TP Hà Nội là chi nhánh lớn, có nhiều đóng góp quan trọng trong hoạt động của NHCSXH Việt Nam, bản thân chi nhánh có một quá trình hình thành và phát triển cùng với việc thủ đô Hà Nội sáp nhập thêm tỉnh Hà Tây cũ, Ngân hàng ngày càng mở rộng mạng lưới hoạt động và vai trò là Ngân hàng CSXH của Thủ đô. Bên cạnh đó, việc làm vốn đã luôn luôn là mối quan tâm hàng đầu trong chính sách phát triển kinh tế của Thủ đô, trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế như hiện nay lại càng được ưu tiên quan tâm. Chính vì vậy hoạt động cho vay GQVL ngày càng đóng vai trò quan trọng trong các chương trình cho vay của NHCSXH. Trong thời gian qua, NHCSXH TP Hà Nội đã đạt được rất nhiều kết quả đáng kể trong việc mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay GQVL.
Thứ nhất, doanh số cho vay và dư nợ về cho vay GQVL của NHCSXH TP Hà Nội liên tục tăng trưởng trong 3 năm qua với tốc độ tăng trưởng khá cao ( luôn đạt trên 10% - 20 % ). Bên cạnh đó, tỷ trọng hoạt động cho vay GQVL trong 3 năm qua cũng tăng mạnh, chiếm tỷ trọng cao trong các chương trình cho vay của NHCSXH TP Hà Nội. Có được điều này là do hoạt động cho vay GQVL ngày càng đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của ngân hàng .
Thứ hai, trong thời gian qua tại NHCSXH TP Hà Nội không hề phát sinh một khoản dư nợ quá hạn nào về hoạt động cho vay GQVL. Điều này chứng tỏ NHCSXH TP Hà Nội đã thực hiện đúng đắn và có hiệu quả quy định cũng như thẩm định dự án.
Thứ ba, các dự án và đối tượng được vay vốn của NHCSXH TP Hà Nội được xem xét một cách linh động hơn. Cùng với việc thực hiện chặt chẽ các quy định về thẩm định và cho vay, NHCSXH TP Hà Nội đã làm tăng đáng kể số lượng các món cho vay với các đối tượng cần vốn nhưng vẫn đảm bảo khả năng hoàn trả.
Thứ tư, chất lượng phục vụ khách hàng có nhu cầu vay vốn ngày càng được nâng cao. Thái độ phục vụ của nhân viên được đánh giá khá cao, năng lực, trình độ chuyên môn của cán bộ thực hiện nghiệp vụ cũng ngày càng được bổ sung và hoàn thiện.
Với các kết quả đạt được như trên, NHCSXH TP Hà Nội đã bước đầu thực hiện tốt các chức năng của một chi nhánh NHCSXH Thủ đô, cụ thể là:
Tạo ra một kênh dẫn vốn ưu đãi riêng cho thị trường lao động thủ đô.
Thực hiện một chính sách cho vay giải quyết việc làm khá phù hợp với người lao động Thủ đô.
Góp phần nâng cao hệ số sử dụng vốn ưu đãi, giúp vốn ưu đãi nhanh chóng đến được tay người dân.
Góp phần tích cực vào tiến trình chuyển dịch cơ cấu ngành nghề của Thủ đô.
Góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Góp phần cải thiện đời sống cho người dân được vay vốn và giải quyết các vấn đề xã hội.
2.4.2 Hạn chế và nguyên nhân.
2.4.2.1. Hạn chế.
Hạn chế bao trùm toàn bộ hoạt động cho vay GQVL nói riêng và các chương trình khác hiện nay mà hầu hết các ngân hàng trong có NHCSXH – chi nhánh Hà Nội gặp phải đó là hoạt động cho vay chưa tương xứng với tiềm năng và nhu cầu thực tế của người dân. Hạn chế trên được thể hiện bằng số liệu về doanh số cho vay( 3 năm 2006, 2007, 2008 lần lượt là 70.158; 95.000 và 132.000 triệu đồng) , dư nợ tín dụng( 3 năm 2006-2008 lần lượt là : 83.475; 129.500 và 159.600 triệu đồng) thuực sự là những con số chưa phản ánh hết được nhu cầu vay vốn cấp thiết hiện nay của người dân, do đó số lượng lao động thu hút được qua 3 năm 2006- 2008 lần lượt là 34.359; 46.385 và 64.474 người tuy là những con số đáng kể nhưng vẫn còn rất hạn chế nếu so với số người thất nghiệp và số lao động có nhu cầu việc làm hiện nay. Các vấn đề dưới đây phản ánh rõ các mặt cụ thể của vấn đề:
*Quy mô vốn vay GQVL còn dàn trải làm giảm hiệu quả đầu tư vốn vào các dự án có nhu cầu vay lớn và thu hút nhiều lao động xã hội.
Với giá trị các món vay nhỏ, lẻ khoảng 10,5 triệu đồng/món vay/hộ chỉ đủ làm tiền vốn sản xuất, kinh doanh nhỏ với thu nhập ít ỏi, không ổn định hoặc được sử dụng để giải quyết nhu cầu tiêu dùng hàng ngày do thất nghiệp, không có thu nhập. Con số trung bình một hộ vay 10,5 triệu đồng phản ánh tốc độ triển khai các dự án thu hút nhiều lao động xã hội còn chậm. Để đẩy nhanh hơn nữa tốc độ phát triển kinh tế của TP, Chi nhánh NHCSXH TP Hà Nội cần ưu tiên hỗ trợ vốn ưu đãi cho khối các DNVVN - tổ chức kinh tế thu hút người lao động tham gia vào làm việc đông nhất cũng như đóng góp vào NSNN nhiều nhất.
*Mức cho vay tối đa chưa thật sự phù hợp với nhu cầu vay vốn của các đối tượng vay khác nhau.
Hiện nay, mức cho vay tối đa của NHCSXH TP Hà Nội đối với các cơ sở SXKD là 200 triệu đồng/dự án sao cho không quá 10,5 triệu đồng trên một chỗ làm việc thường xuyên được thu hút mới. Công bằng mà nói, NHCSXH đã tính toán được chi phí sơ bộ để tạo ra một chỗ làm việc thường xuyên được thu hút mới trong khu vực kinh tế hộ gia đình là 10,5 triệu đồng và hiện nay, đối tượng phục vụ chủ yếu của NHCSXH TP Hà Nội chính là các hộ kinh tế gia đình. Tuy nhiên, với mục tiêu hướng đến là khu vực kinh tế tư nhân thì quy mô cho vay tối đa trên là chưa tương xứng với nhu cầu vay vốn của nhiều dự án đặc biệt là các dự án công nghiệp, các dự án trồng cây lâu nămNgoài ra, nhu cầu vay của một cơ sở SXKD phụ thuộc vào loại sản phẩm sản xuất ra hoặc loại hàng hóa kinh doanh, số lượng nhân công thuê và yêu cầu về các trang thiết bị dùng trong cơ sở SXKD đó. Thông thường, các DN luôn có nhu cầu vay vốn lớn hơn các cơ sở SXKD nhỏ vì tính chất chuyên nghiệp trong hoạt động của nó. Trong khi đó, các đối tượng vay vốn lớn như các DNVVN bị hạn chế khả năng tiếp cận với vốn ưu đãi vì vấn đề tài sản thế chấp. Với các món vay từ 15 triệu đồng trở xuống của kinh tế hộ gia đình thì người vay vốn chỉ cần có sự bảo lãnh tín chấp của Chính quyền hoặc người đứng đầu các tổ chức hội đoàn thể. Trong khi đó, các dự án vay vốn của cơ sở SXKD thì phải có sự đảm bảo bằng tài sản thế chấp. Dĩ nhiên, tài sản thế chấp là cần thiết vì nó là vật đánh đổi rủi ro nếu thiệt hại xảy ra. Trong trường hợp đó, NHCSXH nhất thiết phải thu hồi vốn bằng tài sản thế chấp của khách hàng để tiếp tục cho vay. Tuy nhiên, NH cần khuyến khích cho vay những dự án kinh doanh có ý tưởng tốt, thu hút nhiều lao động và có lợi cho sự phát triển dài hạn của nền kinh tế Thủ đô. Do e ngại về vấn đề uy tín trước quyết định bảo lãnh vay vốn của mình mà ở một số nơi, các cấp Chính quyền không duyệt dự án lấy lý do là thu nhập của chủ dự án không ổn định, không có khả năng trả gốc và lãi vay cho NHCSXH TP Hà Nội. Tình hình trên khiến cho mục đích cho vay GQVL là nhằm đẩy nhanh tốc độ triển khai các dự án có lợi cho sự phát triển của nền kinh tế không được thực hiện đầy đủ mà vốn còn bị dàn trải không tập trung đầu tư trọng điểm.
* Chính sách lãi suất áp dụng của hệ thống NHCSXH vẫn chưa hợp lý.
Hiện nay, NHCSXH TP Hà Nội đang áp dụng mức lãi suất cho vay chủ yếu là 0,5%/tháng tức là chấp nhận lãi suất thực âm và được cấp bù lỗ từ NSNN. Tất nhiên đây là mức lãi suất đưa ra từ chính sách của chính phủ, tuy nhiên, việc duy trì một mức lãi suất âm trong nền kinh tế thị trường cần phải xem xét lại vì hiệu quả của tín dụng chính sách chỉ có thể đạt được khi NH xây dựng được một chính sách lãi suất ưu đãi linh hoạt, giảm thiểu gánh nặng tài chính lên vai NSNN. Nếu cho vay với lãi suất quá thấp sẽ khiến cho các đối tượng chính sách ỷ lại vào Nhà nước, vay cho nhu cầu tiêu dùng chứ không phải để tạo việc làm. Tuy nhiên, cho vay với lãi suất cao so với khả năng trả nợ của người vay thì khiến cho tình hình tài chính của họ càng lâm vào tình trạng khó khăn hơn, rồi còn liên quan đến các vấn đề xã hội mà Nhà nước cần hỗ trợ thông qua giá của các món vay....Vì vậy, chính sách lãi suất cho vay cần điều chỉnh cho phù hợp hơn nữa với tình hình thực tế. Đó là: đánh giá tình trạng thực tế của các đối tượng chính sách, thu hẹp diện cho vay ưu đãi để tránh lãng phí vốn trên cơ sở làm tương xứng hiệu quả xã hội với hiệu quả kinh tế của mỗi khu vực dân cư.
2.4.2.2. Nguyên nhân.
2.4.2.2.1. Nguyên nhân chủ quan.
- Nguồn vốn cho vay GQVL còn hạn chế.
Một trong những nguyên nhân khiến cho kết quả của công tác tạo việc làm, giải quyết thêm việc làm bị hạn chế chính là quy mô của vốn cho vay GQVL chưa đáp ứng được hết nhu cầu vay vốn của người lao động. Trong năm 2006, dư nợ cho vay từ nguồn NSTW là 64,5 tỷ đồng, cho vay từ nguồn NSTP là 24,6 tỷ đồng. Quy mô cho vay chỉ đạt trung bình 8,5 triệu đồng/ món vay trong khi đó, số lượng người dân cần hỗ trợ vốn ưu đãi còn rất nhiều. Vì vậy, tăng quy mô nguồn vốn cho vay GQVL là điều kiện tiên quyết để nâng cao hiệu quả cho vay GQVL của Chi nhánh NHCSXH TP Hà Nội.
- Thủ tục xét duyệt cho vay còn nhiều phức tạp, rườm rà.
Thủ tục xét duyệt dự án cho vay GQVL phản ánh sự phối hợp chặt chẽ của NHCSXH với các tổ chức xã hội. Song, nó cũng bộc lộ nhiều phức tạp, rườm rà trong quá trình thực hiện. Thời gian từ khi chủ dự án nộp đơn xin vay vốn GQVL cho đến khi nhận được vốn vay kéo dài gần một tháng. Nguyên nhân là do: Một là, hồ sơ xin vay phải trải qua nhiều cấp trung gian xét duyệt, rồi sau đó mới kết hợp thẩm định. Hai là, quy định về các loại giấy tờ trong hồ sơ còn phức tạp và chưa phù hợp với thực tế. Dẫu biết rằng: vốn vay ưu đãi có tính rủi ro cao nhưng với mục đích của tín dụng chính sách GQVL là giúp cho người lao động có việc làm ổn định và thu nhập thường xuyên thì NHCSXH VN cần kết hợp với Bộ LĐTB&XH xây dựng một quy trình cho vay GQVL đơn giản và nhanh gọn hơn trong khi vẫn phải đảm bảo hiệu quả của tín dụng GQVL.
- Sự thiếu thốn về cơ sở vật chất và đội ngũ nhân sự đặc biệt ở các Phòng giao dịch quận, huyện. Toàn Chi nhánh NHCSXH TP Hà Nội đã và đang vấp phải những khó khăn về trụ sở làm việc, trang thiết bị và công cụ làm việc, quan trọng hơn là khó khăn trong công tác tổ chức, bố trí đội ngũ cán bộ. đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động nghiệp vụ của NH. Trong năm 2008, Chi nhánh tổ chức được 13 Phòng giao dịch quận, huyện. Tuy nhiên, sự thiếu thốn về cơ sở vật chất, trình độ chuyên môn của đội ngũ nhân sự đặc biệt ở các Phòng giao dịch đã phần nào hạn chế hiệu quả của công tác cho vay GQVL trong việc giải ngân, thu nợ vốn vay và quá trình theo dõi các món nợ đó.
- Chi nhánh NHCSXH TP Hà Nội mới đi vào hoạt động nên những khó khăn về cơ sở vật chất và đội ngũ nhân sự là điều không thể tránh khỏi. Mặc dù, NHCSXH có tiền thân là NH phục vụ Người nghèo nhưng trước kia, nó lại phụ thuộc quá nhiều vào NHNo&PTNT về vấn đề tổ chức nhân sự và cơ sở vật chất. Sau khi tách hoàn toàn ra khỏi NHTM quốc doanh này, NHCSXH bắt đầu chính thức đi vào hoạt động xây dựng một màng lưới các Chi nhánh của mình. Trên thực tế, Chi nhánh NHCSXH TP Hà Nội vẫn phải đi thuê trụ sở làm việc, nhiều trang thiết bị văn phòng cũng như các máy móc phục vụ cho nhu cầu làm việc của cán bộ NH như máy vi tính, máy fax, máy in,Ban lãnh đạo thì được điều động từ một số nơi chuyển sang như NHNo&PTNT, KBNN Hà Nội.nhưng đối với hầu hết đội ngũ nhân viên còn lại thì Chi nhánh NHCSXH TP Hà Nội phải đào tạo từ đầu.
2.4.2.2.2. Nguyên nhân khách quan.
- Hoạt động của cho vay GQVL trên địa bàn Thủ đô trong những ngay đầu đi vào thực hiện đã phải đối mặt với những khó khăn của việc nhận bàn giao Nguồn vốn - Dư nợ cho vay GQVL từ KBNN Hà Nội và một số các TCTD khác . Nét đặc biệt này khiến cho công tác quản lý, sử dụng nguồn vốn - dư nợ cho vay GQVL trở nên phức tạp hơn bình thường vì phải quản lý và theo dõi dư nợ nhận bàn giao và tìm biện pháp xử lý các khoản nợ xấu trong đó.
- Các chế độ chính sách hướng dẫn nghiệp vụ của cho vay vốn ưu đãi GQVL chưa thật sự phù hợp với các đối tượng chính sách vay vốn khác nhau. Văn bản hướng dẫn nghiệp vụ cho vay vốn GQVL đã ghi rõ: Các đối tượng được vay 15 triệu đồng trở xuống không phải thế chấp tài sản nhưng phải có bảo lãnh bằng tín chấp của Chủ tịch UBND xã (đối với dự án cấp xã), Chủ tịch UBND cấp huyện (đối với dự án cấp huyện), hoặc người đứng đầu tổ chức đoàn thể, hội quần chúng đối với dự án do tổ chức đoàn thể, hội quần chúng quản lý. Các đối tượng vay trên 15 triệu đồng phải thế chấp, cầm cố tài sản theo chế độ quy định. Quy định trên làm nảy sinh 2 câu hỏi: Thứ nhất, đâu là tiêu chuẩn thực sự xác định hiệu quả của những món vay không cần thế chấp? Thứ hai, mức cho vay tối đa 200 triệu theo quy định hiện nay áp dụng cho các cơ sở SXKD có phù hợp không? vì ngành nghề khác nhau thì khả năng thu hút lao động và quy mô vay vốn GQVL sẽ khác nhau. Điều này cho thấy, quy định mức tối đa cho vay đối hộ gia đình và các cơ sở SXKD đặc biệt là các DNVVN chưa chặt chẽ và hiệu quả.
Nói tóm lại, thực trạng hiệu quả cho vay GQVL của Chi nhánh NHCSXH TP Hà Nội đã phản ánh đúng tình hình việc làm, chất lượng cuộc sống của người dân Thủ đô trước và sau khi có sự giúp đỡ của Chi nhánh NHCSXH TP Hà Nội. Bên cạnh, những kết quả rất đáng khích lệ đối với một Ngân hàng non trẻ, Chi nhánh NHCSXH TP Hà Nội cũng vấp phải một số khó khăn xuất phát từ cả những nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan nhưng điều đáng nói ở đây là: hạn chế còn tồn tại không phải là thất bại mà là bài học kinh nghiệm làm hành trang trong sự nghiệp phát triển của Chi nhánh. Nhận thức được hạn chế và nguyên nhân của nó là điều kiện cần cho quá trình đi tìm những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cho vay GQVL của Chi nhánh NHCSXH TP Hà Nội.
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHO VAY GIẢI QUYẾT
VIỆC LÀM CỦA NHCSXH – CHI NHÁNH HÀ NỘI
3.1 Định hướng đối với công tác cho vay GQVL.
Định hướng đối với công tác cho vay GQVL của NHCSXH chi nhánh Hà Nội:
Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tín dụng và các hoạt động nghiệp vụ; hoàn thành tốt nhiệm vụ kế hoạch được NHCSXH Việt Nam và UBND TP giao, tỷ lệ tăng trưởng bình quân đạt 28 – 30 % /năm.
( Nguồn : Báo cáo tổng kết 3năm 2006-2009 và mục tiêu hoạt động 2010-2012 của NHCSXH TP Hà Nội).
* Về công tác tổ chức cán bộ và mạng lưới: Chi nhánh sẽ thành lập và khai trương đi vào hoạt động 2 Phòng giao dịch tại 2 quận mới là Hai bà Trưng và Đống Đa. NHCSXH TP Hà Nội tiếp tục ổn định nhân sự, cơ sở vật chất, trụ sở làm việc, nơi giao dịch và các phương tiện làm việc tại TP và các phòng giao dịch để hoàn thành tốt hơn nữa mọi nhiệm vụ được giao. Bên cạnh đó, NH cũng hết sức chăm lo đến công tác bồi dưỡng cho cán bộ nhân viên của mình thông qua các lớp tập huấn về chuyên đề tin học, kế toán, tín dụng...cũng như có kế hoạch cử cán bộ tham gia các lớp đào tạo do cấp trên tổ chức.
* Công tác tín dụng:
Đơn vị tính: triệu đồng
Stt
chØ tiªu
Cho vay
Thu nî
D nî
% t¨ng
d nî so víi n¨m 2008
1
Cho vay hộ nghèo
Cho vay hộ nghèo
76.440
475.000
22.5%
2
Cho vay giải quyết việc làm
Cho vay giải quyết việc làm
75.100
194.855
22,8%
- Nguồn trung ương
- Nguồn trung ương
54.200
136.298
8,1%
- Nguồn địa phương
- Nguồn địa phương
20.900
5.556
33,3%
3
Cho vay Học sinh – sinh viên
Cho vay Học sinh – sinh viên
12.500
30.370
15,3%
4
Cho vay xuất khẩu lao động
Cho vay xuất khẩu lao động
85
1020
5.5%
Tổng cộng
Tổng cộng
Tổng cộng
701.245
25,9%
* Nguồn vốn.
- Tổng nguồn vốn đạt 1.400 – 1.450 tỷ đồng.
Trong đó:
+ Nguồn vốn tự huy động: đạt 100% kế hoạch NHCSXH giao, phấn đấu ổn dịnh và tăng trưởng 10 – 15% so với năm 2009.
+ Nguồn vốn nhận uỷ thác tại địa phương: 40 tỷ đồng
(tăng 10 tỷ đồng, tăng 33% so với năm 2009)
* Tăng cường công tác kiểm tra- kiểm toán nội bộ các hoạt động của Chi nhánh TP và các Phòng giao dịch quận, huyện trực thuộc trong công tác giải ngân, thu nợ và huy động vốn.
* Tranh thủ sự chỉ đạo, giúp đỡ của Đảng ủy, HĐND, UBND và Ban đại diện hội đồng quản trị TP và các quận, huyện trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho Chi nhánh NHCSXH TP Hà Nội hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.
* Phối hợp tốt hơn nữa với các Hội, ban ngành đoàn thể và Chính quyền các cấp trong việc triển khai cho vay vốn đối với hộ nghèo và các đối tượng chính sách bằng cách tổ chức các lớp đào tạo cho cán bộ quận, huyện, phường, xã làm công tác xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm và nhận thức được vai trò quan trọng của nhiệm vụ phối hợp để thực hiện tín dụng chính sách với chương trình mục tiêu “Xóa đói giảm nghèo” của quốc gia.
3.2. Giải pháp
Những giải pháp sau đây được đưa ra nhằm khắc phục dần dần những thiếu sót từ phía bản thân ngân hàng.
3.2.1. Tiếp tục, củng cố hoàn thiện công tác xây dựng, tổ chức các Phòng giao dịch, cơ sở vật chất và đội ngũ nhân sự của toàn Chi nhánh NHCSXH TP Hà Nội.
Điều kiện tiên quyết đảm bảo hiệu quả cho vay GQVL chính là khả năng tiếp cận của vốn vay ưu đãi đối với người lao động những người cần vốn để có thể tạo việc làm cho mình và cho người khác. Trong năm 2005, Chi nhánh Hà Nội sẽ cho đi vào hoạt động 2 Phòng giao dịch tại 2 quận mới, nâng số lượng Phòng giao dịch trên địa bàn thủ đô lên 13 phòng giao dịch quận, huyện trực thuộc. Để tạo điều kiện cho nhân dân tiếp xúc với NHCSXH TP Hà Nội thì NH một mặt yêu cầu sự giúp đỡ của Chính quyền các cấp, hội đoàn thể tạo điều kiện về cơ sở vật chất, trụ sở làm việc cho các Phòng giao dịch trực thuộc và các Quỹ tiết kiệm. Mặt khác, đội ngũ cán bộ các Phòng giao dịch thường xuyên kiểm tra và đánh giá về các dự án vay vốn GQVL để tổng hợp báo cáo lên Chi nhánh, giúp Chi nhánh nắm bắt được tình hình của các dự án và đột xuất kiểm tra tiến độ thực hiện. Các cuộc kiểm tra, thanh tra này cũng nhằm mục đích kiểm tra năng lực và đạo đức của nhân viên các Phòng giao dịch và Quỹ tiết kiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao. NHCSXH TP Hà Nội nên bố trí các điểm giao dịch dựa trên nguyên tắc: các Phòng giao dịch nên được đặt tại trung tâm của những khu vực có mật độ các đối tượng chính sách. Trong điều kiện địa bàn hoạt động quá rộng và dân cư dàn trải thì nhất thiết phải tổ chức cho được các điểm giao dịch chịu sự quản lý của Phòng giao dịch trung tâm làm công tác nắm bắt tình hình của địa phương trên cơ sở phối kết hợp với Chính quyền địa phương nơi đó. Về vấn đề nhân sự trong các phòng giao dịch thì NHCSXH TP Hà Nội nên tranh thủ đội ngũ nhân viên trẻ có trình độ về nghiệp vụ NH từ cao đẳng trở lên được làm việc dưới hình thức thử việc và đội ngũ cán bộ đã lớn tuổi nhưng có kinh nghiệm và còn khả năng làm việc, những người này nên được làm việc theo hợp đồng và có vai trò kèm cặp đội ngũ nhân viên mới nói trên và coi như là một hình thức học nghề. Sau khi đội ngũ nhân sự đã ổn định thì sẽ quyết định lựa chọn những nhân viên có năng lực nhất để làm việc lâu dài cho các Phòng giao dịch.
3.2.2. Tăng cường công tác bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn của các cán bộ tín dụng và mở lớp hướng dẫn chủ dự án lập kế hoạch sản xuất kinh doanh hiệu quả.
Hầu hết các cán bộ tín dụng của NHCSXH TP Hà Nội đều trẻ tuổi nên kinh nghiệm làm việc còn thiếu. Hơn nữa, công tác cho vay GQVL là một hoạt động có tính chất đặc thù của tín dụng chính sách với đối tượng phục vụ là những cá nhân, tổ chức kinh doanh nhỏ và các DNNVV có nguồn tài chính không dồi dào. Vì thế, quá trình thẩm định sẽ gặp những khó khăn xuất phát từ phía chủ dự án như không có khả năng lập một dự án với các chỉ tiêu tài chính cơ bản, giấy tờ sổ sách kế toán không đầy đủ, lý do vay vốn thiếu thuyết phục. Để giảm thiểu khó khăn cho các bên trong quá trình thẩm định trước khi lập hồ sơ xin vay vốn, chủ dự án và cán bộ thẩm định của NH nên có những buổi tập huấn về các vấn đề liên quan đến việc lập một dự án hiệu quả. Trong lớp tập huấn ấy, cán bộ tập huấn cũng nên làm công tác tư tưởng, hướng ý tưởng của chủ dự án đến việc lập dự án phát triển các ngành nghề được khuyến khích, các làng nghề truyền thống, chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi. Trên thực tế, các dự án vay vốn GQVL được lập rất đơn giản và sơ sài cho nên NH nên cần có sự phối kết hợp với các ban ngành, hội đoàn thể các cấp làm công tác tư vấn lập dự án và phát triển ý tưởng kinh doanh cho chủ dự án. Các lớp bồi dưỡng cho cán bộ tín dụng nên được tổ chức định kỳ để trao đổi thông tin về những khó khăn, thuận lợi của công việc tín dụng GQVL và học cách giải quyết những khó khăn đó.
3.2.3. Đa dạng hoá các phương thức tạo lập nguồn vốn
3.2.3.1 Tranh thủ sự đầu tư, tài trợ của các tổ chức quốc tế.
Hiện nay, nguồn vốn hỗ trợ của các tổ chức quốc tế có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong công tác huy động vốn từ bên ngoài hạn chế tối đa phụ thuộc vào NSNN vì nó cũng quyết định quy mô vốn giải quyết việc làm. Hoạt động cho vay GQVL là một hình thức tín dụng vừa có tác dụng tạo ra sự phát triển lành mạnh của ngành kinh tế, vừa có tác dụng cải tạo xã hội, ổn định đời sống nhân dân. Tính hiệu quả cả về mặt lợi ích kinh tế lẫn lợi ích xã hội của cho vay GQVL cần được tuyên truyền, quảng bá sâu rộng cho đông đảo các tổ chức trong và ngoài nước biết đến.
3.2.3.2 Huy động trên thị trường vốn.
Lí do cho việc đưa ra giải pháp phát triển thị trường vốn của Chi nhánh NHCSXH TP Hà Nội: một là, NH do Chính phủ thành lập; hai là, thông qua thị trường vốn, NH mới có thể thu hút được một khối lượng vốn đủ lớn để đáp ứng nhu cầu giải quyết việc làm của thị trường lao động Thủ đô; ba là, tốc độ phát triển kinh tế của Thủ đô đang ở mức khá cao, quy mô của các ngành kinh tế ngày càng mở rộng và tăng trưởng. Tất cả đang tạo điều kiện cho Chi nhánh thu hút vốn thông qua việc phát hành các công cụ nợ dài hạn và có sự bảo lãnh của Chính phủ. Nếu trái phiếu của NHCSXH có được những đặc tính như trên giống như trái phiếu Chính phủ thì khả năng huy động được nguồn vốn có giá trị lớn trên thị trường vốn là hoàn toàn nằm trong tầm tay.
3.2.4. Tập trung cho vay có trọng điểm , khuyến khích các dự án có nhu cầu vay lớn và thu hút nhiều lao động xã hội.
Trong số 1.595 dự án được duyệt cho vay GQVL thì số dự án có các hộ gia đình vay các món vay nhỏ, lẻ chiếm một tỷ trọng lớn. Mặc dù, nhiều món vay nhỏ lẻ 2-3 triệu đó cũng đem lại thu nhập nhất định cho người vay nhưng xét trên góc độ lợi ích của nền kinh tế thì việc cho vay các món vay nhỏ lẻ như vậy nên hạn chế. Nên chăng, các Hội đoàn thể quản lý trực tiếp các món vay nên phân loại các món vay và đối tượng vay vốn, ưu tiên cho vay các món vay nhỏ lẻ dành cho các đối tượng kinh doanh nhỏ đặc biệt là người có tuổi, sức khoẻ yếu, thương bệnh binh, người tàn tật. Ngoài ra, việc xét duyệt vay vốn cần xem xét, kiểm tra tính đúng đắn và hiệu quả của dự án. Đối với các dự án không nhận được sự tín chấp của Cấp chính quyền cơ sở hoặc Hội đoàn thể quản lý thì kết quả thẩm định dự án trước đó sẽ được trình lên Sở LĐTB&XH hoặc Chủ tịch UBND cấp tỉnh để có đánh giá chung và ra quyết định. Ngoài ra, NHCSXH TP Hà Nội nên thiết lập một ban chuyên môn, thẩm định riêng cho các dự án của cơ sở SXKD. Hồ sơ của các dự án này sẽ được ban thẩm định nghiên cứu và ưu tiên phối kết hợp thẩm định với các tổ chức xã hội. Ngoài ra, một quy trình thẩm định mới sẽ được kiến nghị lên NHCSXH xem xét để thông qua.
3.2.5. Thông qua các văn bản liên tịch ủy thác cho vay GQVL xây dựng mối quan hệ mật thiết hơn nữa với các cấp Chính quyền địa phương, các Hội, Ban ngành đoàn thể đặc biệt ở những khu vực có tỷ lệ đối tượng chính sách cao
Mối quan hệ giữa các cấp Chính quyền địa phương và các Hội, ban ngành đoàn thể có tốt đẹp thì Chi nhánh NHCSXH TP Hà Nội mới được tạo điều kiện tốt nhất về trụ sở làm việc, phương tiện làm việc và khả năng thu nhận các thông tin về người lao động cư trú trên địa bàn Hà Nội cho đến việc phối kết hợp làm công tác thẩm định dự án vay vốn và ủy thác cho vay GQVL. Hơn nữa, Hà Nội là một TP đông dân cư, nhiều địa bàn phức tạp và khoảng cách chênh lệch giàu nghèo đang ngày càng gia tăng nhanh chóng so với các TP khác. Do đó, để nắm bắt được tình hình tài chính và chất lượng cuộc sống của dân cư, NHCSXH TP Hà Nội cần xây dựng được một quan hệ đoàn kết và hợp tác với các cấp Chính quyền, các hội đoàn thể địa phương đặc biệt ở những khu vực có tỷ lệ thất nghiệp cao thông qua việc ký kết các văn bản liên tịch ràng buộc trách nhiệm
3.2.6. Nâng cao sự hiểu biết của người dân và các tổ chức kinh tế về Chi nhánh NHCSXH TP Hà Nội.
Tiếp tục quảng bá hình ảnh của NHCSXH TP Hà Nội để nhân dân thủ đô ủng hộ hoạt động của NH nói riêng và hoạt động cho vay GQVL nói riêng thông với mục đích thu hút họ trở thành khách hàng của mình trên cả phương diện huy động vốn và sử dụng vốn. NH nên làm những phóng sự ngắn về hoạt động của NH và giới thiệu các ví dụ điển hình về các dự án làm ăn có lãi nhờ vay vốn NHCSXH bằng những phóng sự người thật việc thật trình chiếu trên báo đài, báo viết và đặc biệt trên phương tiện truyền hình.
3.3 Một số kiến nghị.
3.3.1 Kiến nghị đối với NHCSXH VN.
3.3.1.1. Kiến nghị đối với NHCSXH chi nhánh TP Hà Nội.
a) Tăng quy mô cho vay đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh kết hợp với một chính sách lãi suất linh hoạt.
Trên thực tế, nhu cầu về vốn của các cơ sở SXKD với mục đích kinh doanh khác nhau là khác nhau. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh được đánh giá là khu vực năng động nhất trong nền kinh tế không chỉ bởi sự đa dạng của mặt hàng, mẫu mã sản phẩm cung ứng mà nó còn dễ dàng thay đổi cấu trúc hoạt động để cho phù hợp với thị trường. Quy mô cho vay tối đa 200 triệu đối với một cơ sở SXKD đã hạn chế năng lực hoạt động của các cơ sở này. Đối với các dự án có nhu cầu vay lớn hơn mức cho vay tối đa nói trên thì phần vượt mức nên cho vay theo lãi suất cho vay thương mại còn phần trong giới hạn cho vay theo lãi suất ưu đãi để giảm cấp bù NSNN và tăng tính cạnh tranh lành mạnh trên thị trường đối với sản phẩm của dự án vay vốn ưu đãi. Sự linh hoạt trong những tình huống trên sẽ giúp cho NHCSXH TP Hà Nội có thể tăng thu đáng kể, giảm gánh nặng cho NSNN.
b) Hoàn thiện quy trình thẩm định dự án cho vay giải quyết việc làm.
Để vốn vay ưu đãi đươc tiếp cận với người dân dễ dàng hơn thì NHCSXH VN nên có những điều chỉnh đối với quy trình thẩm định vay vốn GQVL. Sự điều chỉnh này nên khác nhau đối với các dự án vay vốn có quy mô khác nhau và cần tăng quyền chủ động của Chi nhánh NHCSXH TP Hà Nội.
Đối với hộ gia đình vay vốn: Một là, nên đặt ra quy mô vốn vay tối thiểu để hạn chế các món vay nhỏ lẻ không hiệu quả theo hai tiêu chuẩn: ngành nghề gia nhập thị trường và số lượng lao động tham gia. Hai là, giá trị của món vay sẽ phụ thuộc vào chi phí bình quân của hoạt động SXKD được trình bày trong đơn xin vay vốn. Quy trình thẩm định các dự án vay vốn hộ gia đình cũng nên tiết giảm thời gian chờ đợi của chủ dự án bằng cách tiếp nhận dự án vay vốn đồng thời ở hai nơi: Phòng LĐTB&XH hoặc hội đoàn thể TP và Chi nhánh NHCSXH. Sau khi nghiên cứu sơ bộ hồ sơ dự án, tiến hành phối kết hợp thẩm định dự án. Tránh tình trạng hồ sơ bị đọng lại cấp trung gian quá lâu mới được chuyển sang Chi nhánh NHCSXH TP Hà Nội để nghiên cứu trên góc độ tài chính của dự án.
Đối với các dự án vay của cơ sở SXKD thì nên thiết lập một quy trình thẩm định mới đơn giản hơn nhưng vẫn phải chặt chẽ để đảm bảo không bị mất cơ hội kinh doanh của chủ dự án và lường trước được rủi ro xảy ra cho NH. Cụ thể là: Dự án vay vốn sẽ được chủ dự án chuyển trực tiếp đến 2 cơ quan là: NHCSXH TP Hà Nội và Phòng LĐTB&XH để tránh tình trạng hồ sơ đọng lại ở cấp cơ sở. Sau khi nhận được hồ sơ, tiến hành thẩm định dự án. Kết luận cho vay sẽ dựa trên các điều kiện sau:
- Ngành nghề phù hợp với cơ cấu ngành nghề khuyến khích của Thủ đô.
- Giá trị tài sản thế chấp ít nhất bằng 50% số tiền xin vay.
- Dự án vay vốn có khả năng thu hút số lao động tăng thêm càng lớn càng tốt.
- Lấy thu nhập thường xuyên của số lao động cũ làm cơ sở ban đầu đánh giá cho khả năng tạo ra thu nhập của dự án.
Thời gian kể từ khi nhận hồ sơ dự án cho đến khi nhận được quyết định cho vay ưu đãi GQVL nên tối đa trong vòng 15 ngày. Trong trường hợp kết luận cho vay của Chi nhánh NHCSXH khác với kết luận cho vay của cán bộ Sở LĐTB&XH thì giành quyền chủ động và tự chịu trách nhiệm của NH trước quyết định cho vay của mình trên cơ sở: Cơ sở sản xuất kinh doanh vay vốn phải làm ăn có lãi trong năm gần nhất và dự án vay vốn có khả năng thu hút số lao động tăng thêm càng lớn càng tốt.
c) Hoàn thiện chính sách lãi suất.
Nếu cho vay GQVL với mức lãi suất ưu đãi quá thấp thì gắng nặng tài chính sẽ đè lên vai NSNN ngày càng tăng vì giá trị dư nợ cho vay cũng gia tăng theo quy mô hoạt động của NH. Hơn nữa, nó còn làm nảy sinh tâm lý ỷ lại, không cố gắng lao động của người vay vốn. Theo lẽ thường, khi sức ép của việc trả nợ quá nhỏ thì nỗ lực lao động của người vay vốn ưu đãi cũng bị giảm đi không nhiều thì ít cũng tương tự như trên thị trường, kết quả kinh doanh không thể cao nếu nó không bị đặt dưới sức ép của cạnh tranh. Mặt khác, vốn để GQVL thì việc làm được tạo ra phải đem lại thu nhập chính đáng và ổn định cho người lao động. Do tính hiệu quả lâu dài của vốn cho vay HGQVL đối với các dự án được duyệt vay mà nên coi hình thức cho vay này vẫn phải đảm bảo tính hiệu quả của thị trường tức là không nên cho vay với mức ưu đãi quá mức. Tuy nhiên, lãi suất ưu đãi cho người lao động bắt đầu khởi nghiệp cũng không thể lớn như mức lãi suất cho vay trên thị trường vì nó làm cho các đối tượng chính sách đó sẽ vấp phải nhiều khó khăn trong cạnh tranh nếu không muốn nói là sẽ bị chìm trong một thị trường mà mình là lính mới, bên cạnh đó là còn các vấn đề về kích thích đầu tư, tạo cơ hội cạnh tranh lành mạnh trên thị trường, tránh tình trạng “cá lớn nuốt cá bé. Nên chăng lãi suất cho vay nên có sự linh hoạt đối với các đối tượng khác nhau. Hiện nay, NHCSXH đang chủ yếu áp dụng mức lãi suất 0,5%/tháng, thấp hơn nhiều so với mức lãi suất cho vay phổ biến trên thị trường. NH nên cân nhắc quy định mức lãi suất cho vay ưu đãi theo một trong hai cách sau: Một là, đề nghị NHCSXH VN áp dụng mức lãi suất mới cao hơn trên nguyên tắc bằng hoặc cao hơn so với lãi suất huy động nhưng nhất thiết phải thấp hơn mức cho vay trên thị trường. Hai là, tùy theo sự biến động của thị trường mà quy định lãi suất cho vay ưu đãi bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định so với lãi suất cho vay thương mại bình quân cùng thời điểm.
3.3.1.2. . Kiến nghị đối với NHCSXH trung ương.
Tăng nguồn vốn cho vay việc giải quyếtlàm từ nguồn Ngân sách Trung ương. Vốn hoạt động của các Chi nhánh NHCSXH phần lớn vẫn được điều động từ NHCSXH VN và doanh số cho vay kế hoạch là do NHCSXH VN hoạch định dưới sự đề nghị của Chi nhánh NHCSXH. Do quy mô vốn cho vay là một yếu tố quan trọng quyết định hiệu quả của hoạt động cho vay GQVL cho nên, trong năm 2008 vừa qua mặc dù Chi nhánh Hà Nội đạt hơn 100% kế hoạch cho vay GQVL đặt ra nhưng vẫn còn rất nhiều người có nhu cầu vay vốn SXKD, tỷ lệ thất nghiệp của TP chưa thuyên giảm được nhiều. Do đó, đề nghị NHCSXH VN tăng chỉ tiêu nguồn vốn cho vay GQVL để đáp ứng nhu cầu vay vốn GQVL trên địa bàn Thủ đô, góp phần thực hiện tốt kế hoạch đặt ra trong năm 2009 về số người lao động được giải quyết việc làm tăng thêm là 75.000 người. Nhất là trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế như hiện nay khi má số lượng người mất việc làm đang gia tăng rất nhanh và trở thành vấn đề bức thiết. Cụ thể là, đề nghị NHCSXH VN tăng nguốn vốn từ NSTW cấp cho Chi nhánh vì Chi nhánh NHCSXH TP Hà Nội phụ trách một khu vực có tỷ lệ thất nghiệp cao thứ 2 trong cả nước và sau khi sát nhập chi nhánh phải đảm nhiệm khu vực rộng lớn bao gồm cả Hà Nội và Hà Tây cũ. Hơn nữa, trong năm 2008, NH đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao không để xảy ra một tình trạng nợ xấu nào và thực hiện tốt kế hoạch tự huy động vốn mà NHCSXH VN giao cho.
3.3.2 Kiến nghị đối với UBND TP Hà Nội.
3.3.2.1. Xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của thủ đô
Một chiến lược cho vay GQVL hiệu quả trước hết phải phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô và nhất thiết phải dựa vào nội lực là chủ yếu. Chiến lược cho vay GQVL nên tập trung vào các vấn đề sau:
- Xác định phân đoạn thị trường mục tiêu tức là đối tượng khách hàng mục tiêu từ đó mới có kế hoạch sử dụng vốn hợp lý. Đối tượng khách hàng mục tiêu của NHCSXH TP Hà Nội là khối các DNVVN. Trên cơ sở đó nghiên cứu một chiến lược cho vay GQVL tập trung cho đối tượng này.
- Xác định nguồn huy động lớn mà chi phí giao dịch thấp trong đó tập trung vào các thị trường vốn, tiền gửi thanh toán của các cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế, nguồn vốn ủy thác và thu hút được các nguồn vốn tài trợ của các tổ chức hố trợ phát triển kinh tế quốc gia. Để làm được điều này NH nên tăng cường hoạt động đối ngoại và đào tạo đội ngũ nhân viên làm công tác đối ngoại.
- Sử dụng vốn vay GQVL đúng mực trên cơ sở chỉ tiêu cấp trên giao cho, tránh tình trạng đến cuối năm tài chính vẫn còn tình trạng lạm vốn sang nhau giữa các Quỹ cho vay.
- Làm tốt công tác chăm sóc khách hàng cả trên lĩnh vực huy động lẫn hoạt động tín dụng thông qua mạng lưới các điểm giao dịch và các công tác viên là cán bộ các Hội đoàn thể; Chính quyền địa phương.
3.3.2.2 Tăng nguồn vốn cho vay giải quyết việc làm từ nguồn ngân sách Thành phố Hà Nội.
Nguồn vốn cho vay GQVL xuất phát từ: nguồn vốn NSTW và nguồn vốn NSTP cấp. Trong khi đó, nguồn vốn TW lại hạn hẹp vì phải chi tiêu cho rất nhiều chương trình, hoạt động khác của quốc gia cho nên để tăng hiệu quả cho vay GQVL thì UBND TP Hà Nội nhất thiết phải tăng chỉ tiêu nguồn vốn NSTP. Theo đó, UBND TP Hà Nội phải trích NSTP từ việc tăng thu giảm chi để bổ sung vào nguồn vốn cho vay GQVL. Do đó, tăng cường nguồn vốn ủy thác cho NHCSXH Hà Nội cho vay GQVL từ nguồn NSTP là một giải pháp hiệu quả của UBND TP trong việc thực hiện mục tiêu giảm tỷ lệ thất ngiệp, cải thiện đời sống cho nhân dân Thủ đô.
3.3.2.3 Tạo điều kiện cho Chi nhánh NHCSXH TP Hà Nội hoạt động tốt hơn nữa.
Đề nghị UBND TP Hà Nội và các quận, huyện quan tâm giúp đỡ Chi nhánh NHCSXH Hà Nội về trụ sở làm việc, phương tiện và công cụ lao động cụ thể là tài trợ kinh phí xây dựng trụ sở làm việc, xây dựng hệ thống các điểm giao dịch trên cơ sở xác định được mật độ dân cư và tỷ lệ thất nghiệp của mỗi quận huyện; giúp Chi nhánh trang bị các phương tiện làm việc đặc biệt là các phương tiện như máy tính nối mạng, máy fax, máy in, đòi hỏi mức chí phí cao.
3.3.3 Kiến nghị đối với các Hội đoàn thể, Chính quyền các phường xã.
Đề nghị các Hội đoàn thể, Chính quyền các xã phường tăng cường kiểm tra, giám sát các chủ dự án chấp hành đúng quy định của Nhà nước và của ngành NH trong xét duyệt cho vay, phát tiền vay và thu lãi cho vay, không để tình trạng thu thêm phí của người vay, phát tiền vay không đúng đối tượng được vay hoặc thu nợ gốc, lãi không nộp vào NH hoặc sử dụng vốn vay sai mục đích, chây ỳ không trả nợ vay NH.
KẾT LUẬN
Cho vay GQVL là một hình thức tín dụng được thực hiện với sự phối hợp của nhiều ban ngành, đoàn thể. Vì thế, hiệu quả mong muốn đạt được của hoạt động này không chỉ đơn thuần là hiệu quả của tín dụng mà hiệu quả của nó là khả năng thu hút lao động, tạo ra nguồn thu nhập ổn định cho lao động tham gia dự án, góp phần ổn định kinh tế - xã hội. Hơn nữa, Chi nhánh NHCSXH TP Hà Nội đảm trách nhiệm vụ ở một khu vực tương đối phức tạp, tốc độ phát triển kinh tế khá cao nhưng tỷ lệ thất nghiệp cũng không hề nhỏ. Yêu cầu để thực hiện tốt công tác cho vay GQVL thì có nhiều song trong điều kiện còn khó khăn chung của cả hệ thống NHCSXH thì Chi nhánh NHCSXH TP Hà Nội cần phát huy không ngừng truyền thống của một NH phục vụ Người nghèo tận tâm, tận sức vì các đối tượng khách hàng chính sách. Đây là trách nhiệm không chỉ riêng của Chính phủ, riêng bản thân NHCSXH VN và các Chi nhánh NHCSXH mà là của tất cả những ai luôn quan tâm đến sự nghiệp xây dựng và phát triển Thủ đô nói riêng và của đất nước nói chung.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc nâng cao hiệu quả cho vay GQVL đối với Chi nhánh NHCSXH TP Hà Nội, em đã hoàn thành bài viết này không nằm ngoài mong muốn được góp một phần nào đó, dù nhỏ bé, chung sức cùng NHCSXH TP Hà Nội hoàn thành xuất sắc công tác cho vay GQVL để hiệu quả của nó không chỉ gói gọn trong vấn đề tạo việc làm, giải quyết thêm việc làm cho lực lượng lao động Thủ đô mà còn góp phần thực hiện quyết tâm đưa Thủ đô đi lên trở thành một trung tâm kinh tế - văn hóa - chính trị - xã hội phát triển nhất đất nước.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn cô giáo TS.Lê Thanh Tâm vì sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của cô; cảm ơn ban lãnh đạo NHCSXH – Chi nhánh Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi để em được tiếp xúc thực tế và hoàn thành bài viết này.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Frederic S.Mishkin - Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính
PGS.TS Phan.T.Thu Hà, TS Nguyễn.T.Thu Thảo - NHTM - Quản trị và nghiệp vụ NXB Thống kê 2003.
PGS.TS Phan Thị Thu Hà, Giáo trình Ngân hàng Thương Mại, NXB Đại học Kinh tế Quốc Dân, Hà Nội (2007).
Peter S.Rose - Quản trị Ngân hàng thương mại.
5. Một số tài liệu khác do Phòng Kế hoạch- Nghiệp vụ NHCSXH TP Hà Nội cung cấp:
- Báo cáo tổng kết 3 năm 2006 – 2008.
- Báo cáo tổng kết hoạt động năm 2008, triển khai kế hoạch, nhiệm vụ năm 2009.
- Bảng biểu phụ lục các chương trình cho vay, dư nợ, tổng hợp nguồn vốn 3 năm 2006- 2008.
6. Luật các tổ chức tín dụng được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 12 tháng 12 năm 2007.
7. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X.
8. Một số Website:
- www.vbsp.org.vn : trang chủ - giới thiệu về NHCSXH .
- www.vbsp.org.vn/viewbaibantin.php?id_bai=169&nam=2007
- www.vietbao.vn : Việc làm – giải quyết việc làm cho gần 30000 lao động.
- vneconomy.vn/20090107064732911P0C11/giai-quyet-viec-lam-va-do-tin-cay-cua-nhung-con-so.htm
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DN : Doanh nghiệp
DNVVN : Doanh nghiệp vừa và nhỏ
KBNN : Kho bạc Nhà nước
GQVL : Giải quyết việc làm
HS - SV : Học sinh – Sinh viên
NH : Ngân hàng
NHCSXH : Ngân hàng chính sách xã hội
NHNN : Ngân hàng Nhà nước
NHTM : Ngân hàng thương mại
NSTW : Ngân sách Trung ương
NSTP : Ngân sách Thành Phố
SXKD : Sản xuất kinh doanh
TCTD : Tổ chức tín dụng
TDNH : Tín dụng ngân hàng
LĐTB&XH : Lao động thương binh và xã hội
UBND : Uỷ ban nhân dân
TW : Trung ương
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
Biểu đồ 2.1. Dư nợ tín dụng cho vay hộ nghèo qua 3 năm 2006-2008. 42
Biểu đồ 2.2. Dư nợ tín dụng cho vay GQVL qua 3 năm 2006-2008. 43
Biểu đồ 2.3. Dư nợ cho vay HSSV qua 3 năm 2006-2008. 44
Bảng 1.1. Các chương trình tín dụng chủ yếu NHCSXH đang thực hiện 6
Bảng 2.2: Kết quả huy động vốn. 39
Bảng 2.3: Kết quả cho vay, dư nợ tín dụng theo các chương trình. 41
Bảng 2.4. Dư nợ cho vay giải quyết việc làm từ 2006-2008. 50
Bảng 2.5. Doanh số cho vay GQVL qua 3 năm 2006-2008. 51
Bảng 2.7. Số lượng lao động thu hút thêm qua 3 năm 2006-2008. 52
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TH2691.doc