Đề tài Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm toán nội bộ hoạt động tín dụng tại ngân hàng công thương Đống Đa

Với sự giúp đỡ của cô Lê Thị Xuân, cùng những cô chú, anh chị tại đơn vị thực tập và sự nỗ lực của bản thân, em đã hoàn thành đợc klhoá luận này. Do hạn chế về thời gian, trình độ, tài liệu nghiên cứu. nên khoá luận còn nhiều khiếm khuyết. Rất mong nhận được sự nhận xét, góp ý của các thầy cô và các bạn để khoá luận đựơc hoàn thiện và có giá trị cao hơn!

doc81 trang | Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1222 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm toán nội bộ hoạt động tín dụng tại ngân hàng công thương Đống Đa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sau đây là kết quả kiểm toán hoạt động tín dụng cụ thể qua 2 năm gần đây: Bảng2.6: Kết quả kiểm toán hoạt động tín dụng của NHCT Đống Đa. Năm HSTD được kiểm tra (bộ) HSTD sai sót (bộ) Tỷ lệ sai sót (%) Tổng số tiền kiểm tra (tỷ đồng) Số tiền sai sót (tỷ đồng) Số khách hàng được kiểm tra đối chiếu Số tiền được đối chiếu (tỷ đồng) 2003 325 10 3,1 876 3,7 85 524 2004 362 12 3,3 1330 3,9 109 793 Nguồn:Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 2003, 2004 - NHCT Đống Đa. Số liệu trên đây thực sự chưa thể hiện nhiều về công tác KTNB hoạt động tín dụng tại ngân hàng nhưng đã phần nào khái quát được những kết quả cơ bản của công tác này.Nhìn vào bảng số liệu, chúng ta có thể thấy rằng công tác KTNB đã có sự mở rộng nhiều về số lượng hồ sơ kiểm tra cũng như số khách hàng được đối chiếu. Tỷ lệ sai sót qua 2 năm không cao nhưng vẫn cần có sự xem xét để vấn đề chuyển biến tích cực hơn. Trong quá trình kiểm toán từng món vay, các món vay đựơc phân chia theo đối tượng khách hàng: khách hàng là doanh nghiệp và khách hàng cá nhân. * Kiểm toán cho vay doanh nghiệp Với các khách hàng vay là doanh nghiệp( bao gồm doanh nghiệp quốc doanh và ngoài quốc doanh), đối tượng của kiểm toán tín dụng sẽ là: + Kiểm tra về hồ sơ pháp lý và hồ sơ kinh tế của đợn vị vay + Kiểm tra tài sản đảm bảo + Kiểm tra đối chiếu tình hình sử dụng vốn vay. Kiểm tra hồ sơ pháp lý và hồ sơ kinh tế: KTV nội bộ tiến hành xem xét lại hồ sơ kinh tế và hồ sơ pháp lý mà doanh nghiệp đã gửi lên, đối chiếu chúng với các mẫu, biểu quy định, xem hồ sơ pháp lý có đúng và phù hợp với luật định không, xem xét cả tính trung thực của các thông tin trong hồ sơ kinh tế đơn vị vay trình lên. Đặc biệt cần xét tính khả thi của các dự án. Thông thường công tác thẩm định hồ sơ được tiến hành bởi các cán bộ tín dụng dưới sự giám sát và quản lý chặt chẽ, vì thế kết quả thẩm định đạt độ tin cậy cao. Kiểm tra tài sản đảm bảo: bao gồm các giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu tài sản của người vay, định gía tài sản,.... Trong quá trình kiểm toán, KTV nội bộ đã từng phát hiện thấy trường hợp tài sản bảm bảo là một bất động sản đang có sự tranh chấp nhưng vẫn được cán bộ tín dụng chấp nhận làm tài sản thế chấp. Hoặc trường hợp tài sản đảm bảo là chiếc ôtô Tôyota đã sử dụng 2 năm, cán bộ thẩm định đánh giá trị giá của nó là 200 triệu đồng nhưng trên thực tế chiếc xe này chỉ có thể bán được tối đa là 180 triệu. Các vấn đề về tài sản thế chấp là rất nhiều và phức tạp, trong các báo cáo thẩm định của cán bộ tín dụng, KTV đều cần phải xem xét kỹ các ý kiến của kiểm soát cấp trên như trưởng phòng kinh doanh, giám đốc.... các trường hợp cho vay vượt mức thẩm quyền phán quyết cũng hay mắc phải. Tất cả đều được lập thành văn bản để xử lý thích đáng. Đặc biệt chú ý các trường hợp câu kết giữa nhân viên ngân hàng với khách hàng để cho vay vượt mức giá trị tài sản bảo đảm là không phải không có, do đó , cần kiểm tra lại các chốt kiểm soát tín dụng đã cài đặt trong quy trình. Kiểm tra đối chiếu tình hình sử dụng vốn vay tại doanh nghiệp: các KTV căn cứ vào hồ sơ tín dụng đã kí, hồ sơ xin vay với dự án kinh doanh của doanh nghiệp và các phiếu kiểm tra tình hình sử dụng vốn vay của cán bộ tín dụng để từ đó kiểm tra tính khớp đúng của hó sơ so với thực tế cũng như tình hình kinh doanh cụ thể của doanh ngiệp. Do số lượng các doanh nghiệp vay vốn của NHCT Đống Đa là rất lớn, nên công tác kiểm toán tín dụng chỉ tiến hành xác nhận nợ vay, đối chiếu với doanh nghiệp về số lượng tiền vay, thời hạn vay. Với khoảng 20 thư xác nhận gửi tới các doanh nghiệp thì các KTV nội bộ của chi nhánh đều nhận được xác nhận những gì trong hợp đồng là đúng. Tuy nhiên, KTV cũng đã phát hiện đựợc có trường hợp cán bộ tín dụng không kiểm tra tình hình sử dụng vốn vay của khách hàng trong thời gian 3 tháng, không hề có biên bản kiểm tra, KTV đã thông báo ngay với cán bộ tín dụng chịu trách nhiệm để nhanh chóng tiến hành kiểm tra tình hình thực tế của đơn vị vay. * Kiểm toán cho vay khách hàng cá nhân, hộ sản xuất Các khách hàng cá nhân đang là khách hàng mục tiêu mà các ngân hàng cạnh tranh gay gắt để dành lấy, bởi xu hướng thu nhập của các cá nhân trong xã hội ngày càng tăng, nhu cầu tiêu dung dặc biệt là tiêu dùng các sản phẩm có giá trị cao tăng mạnh, thêm vào đó, nhu cầu vay để mua nhà, du học.. cung có sự gia tăng đột biến trong thời gian qua. Vì thế, chiếm lĩnh được khu vực khách hàng này sẽ là thành công lớn của các ngân hàng. Do đối tượng các khách hàng là cá nhân, hộ sản xuất, kinh doanh cá thể nên hồ sơ vay vốn không quá phức tạp như các doanh nghiệp, tuy nhiên các KTV cũng phải lưu ý kiểm toán cụ thể, sâu sát tất cả các mặt của đối tượng khách hàng đặc biệt này, về tiểu sử bản thân, khả năng tài chính, mục đích vay tiêu dùng của họ... Khối lượng hồ sơ tín dụng của các khách hàng này trong năm là rất lớn, khoảng 11000 hồ sơ, nên các KTV chọn phuơng pháp chọn mẫu để kiểm tra. Dựa trên số lượng hồ sơ này, các KTV sẽ tiến hành chọn mẫu với số lượng tối thiểu theo quy định của NHCT Việt Nam, kết hợp với các yếu tố về thực trạng tình hình vay vốn của các hộ sản xuất kinh doanh nói chung, vào cách phân loại khách hàng của ngân hàng, vào nhu cầu vay của họ...., từ đó sẽ chọn ra những mẫu phù hợp. Với các khách hàng cá nhân vay tiêu dùng và kinh doanh cá thể, bộ hồ sơ phải đảm bảo tính đầy đủ theo quy định của NHCT Việt Nam ở quy định cho vay số 049/QĐ/NHCT. Theo đó, với hộ kinh doanh cá thể, trong bộ hồ sơ phải có giấy phép kinh doanh, giấy đề nghị vay vốn, dự án kinh doanh, có tài sản thế chấp. Còn các cá nhân vay tiêu dùng cần có văn băn chứng minh năng lực pháp luật dân sự, tài sản đảm bảo hoặc chứng nhận của cơ quan làm việc về tình hình tài chính, nguồn thu nhập có thể làm đảm bảo. Trong năm 2004,bộ phận KTNB của chi nhánh đã kiểm tra được 548 hồ sơ cho vay tiêu dùng cá nhân, chủ yếu là vay để mua nhà, mua ôtô, đi du học; 121 hồ sơ cho vay hộ sản xuất, kinh doanh cá thể, vay tiền để mở rộng kinh doanh, buôn bán, chiếm khoảng 9,7% trong tổng số các bộ hồ sơ của đối tượng này. Trong đó đã phát hiện một số sai phạm về thiếu giấy phép kinh doanh của 2 hộ kinh doanh quần áo trên phố Khâm Thiên, không có giấy chứng nhận tình trạng tài chính và thu nhập của một đối tượng bảo lãnh xin vay du học. Ngoài ra còn một số lỗi nhỏ khác như thiếu chữ kí trên một vài văn bản, số tiền xin vay và cho vay không thống nhất về cách viết băng chữ và bằng số.... những lỗi nhỏ này khi được phát hiện KTV đều nhắc nhở và yêu cầu cán bộ tín dụng hoàn thiện lại trong bộ hồ sơ. Bên cạnh đó, các KTV còn kiểm tra các nội dung về việc lưu trữ, quản lý hồ sơ tín dụng; quy trình, thủ tục phát tiền vay cho khách hàng; tình trạng của tài sản thế chấp; việc quản lý, giám sát nợ, thu lãi, đánh giá nguy cơ rủi ro, xem xét nợ quá hạn... Trong thời gian qua, công tác thu nợ của chi nhánh được thực hiện khá tốt, đều đạt chỉ tiêu đạt ra.Việc lưu trữ, quản lý hồ sơ còn một số vấn đề bất cập như kho lưu trữ, các dữ liệu trong máy đôi khi vẫn thất thoát do phần mềm quản lý trước đây có độ bảo mật không thật cao... Các thủ tục phát tiền vay cho khách hàng vẫn chưa thực sự thuận tiện, nhiều khách hàng phàn nàn vì phải chờ đợi lâu, các nhân viên giải ngân làm việc không nhanh nhẹn, đôi khi còn có thái độ không tích cực đối với khách hàng. Vấn đề bảo quản, kiểm tra các tài sản cầm cố, thế chấp vẫn gặp những khó khăn nhất định, chi phí theo dõi cũng không nhỏ. VIệc gia hạn nợ cho khách hàng đều được thực hiện theo quy định của NHCT Việt Nam thể hiện ở các văn bản quyết định và hướng dẫn thực hiện. c. Kiểm toán quy trình tín dụng Quy trình tín dụng mà chi nhánh áp dụng là quy trình phổ biến được áp dụng tại các NHTM Việt Nam hiện nay. Khi khách hàng có nhu cầu vay, họ sẽ phải lập giấy đề nghị vay vốn, gửi kèm với các hồ sơ về pháp lý và hồ sơ kinh tế, các cán bộ tín dụng phải tư vấn cho khách hàng các thủ tục lập hồ sơ cần thiết, đặc biệt là các khách hàng lần đầu đến với ngân hàng thì càng cần được hướng dẫn cụ thể. Sau giai đoạn lập hồ sơ là thẩm định tín dụng, dựa trên hồ sơ do khách hàng lập, cán bộ tín dụng sẽ kiểm tra, đối chiếu các số liệu với các tiêu chuẩn cho vay và nhu cầu xin vay của khách hàng, rồi lập báo cáo thẩm định gửi lên cấp trên, trong đó nêu rõ kết quả thẩm định của mình, đưa ra ý kiến về khả năng có cho vay hay không và cho vay bao nhiêu. Trưởng phòng kinh doanh được uỷ quyền hoặc giám đốc chi nhánh sẽ kiểm soát lại kết quả thẩm định trực tiếp hoặc gián tiếp, sau đó ra phán quyết tín dụng. Thẩm quyền phán quyết được Tổng Giám đốc NHCT Việt Nam uỷ quyền cho Giám đốc chi nhánh NHCT Đống Đa, theo đó, Giám đốc chi nhánh là người có quyền ra các phán quyết tín dụng và chịu trách nhiệm trước những phán quyết của mình. Do khối lượng công việc quá lớn, rất cần có sự hỗ trợ, Giám đốc chi nhánh đã cho phép trưởng phòng kinh doanh được quyết định và chịu trách nhiệm về quyết định với các khoản vay có giá trị dưới 100 triệu đồng, quyết định này có trong văn bản uỷ quyền phán quyết Giám đốc đã kí. Hợp đồng tín dụng sẽ được kí sau khi cả hai bên thoả thuận và đồng ý về các khoản mục trong hợp đồng. Tiếp đó, khoản tín dụng sẽ được giải ngân cho khách hàng, thời gian và khối lượng giải ngân tuỳ thuộc điều kiện trong hợp đồng tín dụng đã kí. Sau giai đoạn giải ngân, công tác giám sát sau khi cho vay có ý nghĩa quan trọng, đảm bảo việc khách hàng sử dụng vốn đúng mục đích, khoản vốn vay phát huy được hiệu quả. Tại NHCT Đống Đa, công tác giám sát sau vay vẫn được thực hiện thường xuyên, nhưng cũng do một số điều kiện còn hạn chế nên việc giám sát vẫn gặp nhiều khó khăn. Kiểm toán đã phát hiện một số trường hợp khách hàng sử dụng vốn sai mục đích, có hành vi che giấu và tạo môi trường sai khác để cán bộ tín dụng giám sát khoản tín dụng không được chính xác. Giám sát tín dụng để đảm bảo khoản tín dụng mà ngân hàng cấp thực sự được đi vào cuộc sống và các nghĩa vụ của người đi vay được thực hiện như thế nào trong quá trình này, sau giai đoạn giám sát, khi đáo hạn, khoản tín dụng sẽ đựơc thanh lý, hợp đồng tín dụng chấm dứt. KTV theo dõi chung cả quy trình này và tìm ra những điểm còn thiếu sót trong quy trình cũng như các chốt kiểm soát chưa chặt chẽ để có ý kiến với các cấp lãnh đạo. Qua theo dõi quy trình và viịec tuân thủ trình tự thực hiện tín dụng, cá KTV đã nhận thấy ở khâu thẩm định và giám sát- 2 khâu rất quan trọng trong toàn bộ quy trình, đã có một số cán bộ tín dụng làm chưa tốt, làm qua loa hoặc giám sát chưa hết trách nhiệm. Với các trường hợp vi phạm cụ thể đều được ghi rõ trong báo cáo kiểm toán trình cấp chức năng giải quyết. Nhưng nhìn chung, quy trình tín dụng đều được tôn trọng, thực hiện đúng trình tự và đảm bảo các khâu kiểm soát chung. Trong khi kiểm toán quy trình tín dụng tại chi nhánh, các KTV thưòng tập trung vào giai đoạn từ sau khi kí hợp đồng đến khi thanh lý, bởi các giai đoạn trước công tác kiểm soát đã được thực hiện nghiêm túc và mang tính chuyên môn cao. 2.2.5 Đánh giá kết quả của công tác Kiểm toán nội bộ đối với hoạt động tín dụng tại chi nhánh NHCT Đống Đa 2.2.5.1 Những đóng góp của KTNB hoạt động tín dụng đối với ngân hàng Trong thời gian qua, công tác KTNB hoạt động tín dụng tại chi nhánh NHCT Đống Đa đã được thực hiện với tinh thần trách nhiệm cao, nghiêm túc và đã có những kết quả đáng ghi nhận. Với biên chế 4 nhân viên kiểm toán phụ trách mảng tín dụng, khối lượng công việc rất lớn, các hoạt động tín dụng đa dạng, việc hoàn thành công việc và đạt được những kết qủa như vậy thể hiện sự nỗ lực rất cao của các KTV. Sau đây là các đóng góp của KTNB trong việc nâng cao hiệu quả cho công tác tín dụng tại chi nhánh. Thứ nhất, KTNB đã góp phần đảm bảo an toàn tài sản cho ngân hàng, giảm thất thoát từ rủi ro, nâng cao hiệu quả kinh doanh chung của toàn chi nhánh. Thứ hai, thông qua nghiệp vụ đặc thù, kiểm tra, kiểm soát lại các công tác tín dụng thực hiện trong ngân hàng, KTNB hoạt động tín dụng giúp đưa hoạt động tín dụng của chi nhánh vào trật tự chung, có nề nếp, kỷ cương và có những nguyên tắc nhất định phải tuân thủ. Từ đó góp phần hạn chế những sai sót, gian lận trong công việc, giảm rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng bắt nguồn từ nguyên nhân nội bộ. Thứ ba, trong qúa trình kiểm toán, khi phát hiện ra các sai phạm, sơ xuất, KTV nội bộ đều đề xuất các biện pháp xử lý phù hợp với mức độ sai phạm lên cấp trên để giải quyết các trường hợp sai phạm. Từ đó, nâng cao đựơc hơn nữa ý thức trách nhiệm với công việc của mỗi cán bộ tín dụng. Thứ tư, KTNB hoạt động tín dụng là công cụ hỗ trợ đắc lực giúp Ban giám đốc điều hành thông suốt, hiệu quả và chính xác hoạt động tín dụng của chi nhánh-hoạt động chủ đạo và có ý nghĩa quyết định đối với hoạt động kinh doanh chung. Thứ năm, KTNB hoạt động tín dụng chính là cơ sở ban đầu cung cấp những đánh giá chung, nững tài liệu tổng quát cho các đoàn thanh tra, kiểm tra, các cơ quan quản lý nhà nước , kiểm toán độc lập khi về kiểm tra hoạt động của chi nhánh, đặc biệt là hoạt động của mảng tín dụng. Nhờ vậy, công tác thanh tra, kiểm toán đó sẽ được thực hiện nhanh chóng và hiệu quả hơn. Tóm lại, KTNB hoạt động tín dụng tại chi nhánh NHCT Đống Đa đã có những đóng góp không nhỏ vào kết quả hoạt động chung của toàn chi nhánh nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng giúp chi nhánh có những tiến bộ trong hoạt động và đạt được những thành tích trong công tác. Tuy vậy, hoạt động tín dụng của chi nhánh vẫn còn những tồn tại phải khắc phục trong thời gian tới để thực sự đạt hiệu quả như mong đợi của ngân hàng. 2.2.5.2 Những tồn tại của KTNB hoạt động tín dụng tại NHCT Đống Đa Mặc dù đã đạt được những thành tích nhất định trong quá trình thực hiện nhiệm vụ kiểm toán tín dụng tại đơn vị, công tác KTNB hoạt động tín dụng tại chi nhánh NHCT Đống Đa vẫn còn những hạn chế cần khắc phục trong thời gian tới. Những bất cập có thể kể đến là: Một là, tất cả hoạt động kiểm tra, KTNB của đơn vị đều do kế hoạch của Ban kiểm tra NHCT Việt Nam chỉ đạo, tức là hoạt động kiểm tra không mang tính bất ngờ, các bộ phận được kiểm toán đều có sự chuẩn bị trước, hoạt động của bộ phận KTNB không có sự linh hoạt và chủ động. Do vậy, nhiều vấn đề mà các bộ phận có thể cố tình che đậy thì các KTV không thể phát hiện ra. Hai là, trong quá trình lập kế hoạch kiểm toán, các KTV nội bộ vẫn chưa thể thoát khỏi sự xét đoán cá nhân để khách quan định hướng theo rủi ro, đều này sẽ tạo ra tính chủ quan trong xem xét vấn đề và hạn chế khả năng phán đoán diễn biến sự việc khi có những phát sinh bất ngờ. Ba là, về các kỹ thuật kiểm toán mà các KTV nội bộ áp dụng rất thủ công và mang nặng tính truyền thống. Đó chủ yếu là kỹ thuật kiểm toán tuân thủ, tốn nhiều thời gian vào việc kiểm tra, đối chiếu các tài liệu, cố gắng phát hiện các sai phạm cụ thể, khó tìm ra các sai phạm tổng quát do không định hướng chung được các sai phạm này. Phương pháp KTNB thường được sử dụng vẫn là chọn mẫu phi xác suất, chọn mẫu thống kê đơn giản, chưa có phương tiện hiện đại để thực hiện kiểm toán. Đặc biệt, với khối lượng công việc rất lớn, kỹ thuật thực hiện lại thô sơ nên nhất định sẽ có những sai sót bị bỏ qua và những lỗi không đựơc tìm ra. Bốn là, KTNB hoạt động tín dụng vẫn dừng lại ở chức năng kiểm tra, đánh giá mà vẫn chưa thể hiện được chức năng tư vấn cho lãnh đạo trong công tác kiểm soát rủi ro, điều hành hiệu quả hơn đối với hoạt động tín dụng. KTV chỉ tập trung vào việc tìm những sai sót của cán bộ tín dụng trong quá trình thực hiện nghiệp vụ mà không nhìn nhân đựơc bản chất các sai phạm là gì để có biện pháp hạn chế ngay từ khi bắt đầu. Năm là, vấn đề nhân sự cũng có những hạn chế nhất định, số lượng nhân viên chưa tương xứng với khối lượng công việc, trình độ bị giới hạn, không có KTV được đào tạo chuyên ngành, sự bồi dưỡng nghiệp vụ không thường xuyên và có nhiều khó khăn khác về chế độ, công nghệ đào tạo... Hiện vẫn có cán bộ kiểm toán đi học tại chức, chưa chuyên tâm hết sức cho công việc, thao tác nghiệp vụ còn chậm và không chuyên nghiệp. Sáu là, vấn đề tổ chức của phòng kiểm tra nội bộ vân chịu sự chi phối quá nhiều của Ban lãnh đạo chi nhánh, tính độc lập bị vi phạm. Tất cả các vấn đề về giao việc, lương thưởng, đề bạt... của các KTV nội bộ vẫn do giám đốc chi nhánh quyết định, phòng kiểm tra vẫn chịu sự lãnh đạo của ban giám đốc chi nhánh cùng với ban kiểm tra trung ương của NHCT Việt Nam. Vì thế, các KTV thường có tâm lý phụ thuộc, dè chừng, khi Ban giám đốc không muốn kiểm toán sâu vào một số vấn đề thì KTV cũng không làm. Bảy là, bộ phận kiểm tra nội bộ còn phải kiêm nghiệm cả chức năng giải quyết các vấn đề về khiếu nại, tố cáo, tranh chấp... trong ngân hàng và của khách hàng đối với ngân hàng nên hoạt động kiểm toán luôn bị ảnh hưởng và chi phối. Như vậy còn rất nhiều vấn đề trước mắt cần giải quyết để nâng cao vai trò và hiệu quả của công tác KTNB hoạt động tín dụng tại chi nhánh NHCT Đống Đa lên đúng tầm của nó. 2.2.5.3 Nguyên nhân của những tồn tại Khi xem xét những nguyên nhân gây ra những bất cập cho công tác kiểm toán tín dụng tại chi nhánh có thể kể đến hai nhóm nguyên nhân chính là nguyên nhân khác quan và nguyên nhân chủ quan. a. Nguyên nhân khách quan Nhìn tổng quan về hoạt động kiểm toán tại Việt Nam, chúng ta đều nhận thấy đây là hoạt động còn rất mới mẻ và chưa thực sự dành được vị trí đúng với vai trò và giá trị của nó.Với hơn 10 năm ra đời và phát triển của kiểm toán độc lập, vị thế của ngành kiểm toán nói chung vẫn còn rất nhỏ bé. Đó là hoạt động kiểm toán độc lập, còn kiểm toán nội bộ thì còn kém phát triển hơn nhiều, đa số các đơn vị có bộ phận KTNB thì vẫn mang tính hình thức là nhiều và hoạt động này vẫn hay bị nhầm lẫn, đánh đồng với kiểm tra, kiểm soát. Do đó, ngay từ khâu tư tưởng chung vẫn chưa thực sự thông suốt. Hơn nữa, nền kinh tế nước ta hiện nay vẫn còn ở mức phát triển không cao, hội nhập kinh tế mới đang trong giai đoạn bắt đầu, điều kiện cho kiểm toán nói chung và KTNB nói riêng phát triển không thực sự thuận lợi. Thêm vào đó, hệ thống tài chính của chúng ta vẫn chịu sự chi phối rất lớn của Nhà nước, các NHTM quốc doanh nói chung và NHCT Việt Nam nói riêng mới chỉ tiếp cận với Kinh tế thị trường trên giác độ tư tưởng, thực tế vẫn có những hạn chế rất nhiều về quy chế, nguyên tắc làm việc, chế độ kiểm tra... Trình độ công nghệ chung của Việt Nam trong đa số các lĩnh vực vẫn còn rất lạc hậu, các phần mềm ứng dụng về quản lý, cụ thể trong hoạt động tài chính ngân hàng còn lạc hậu xa so với thế giới, nhờ chương trình tài trợ của World Bank, các NHTM quốc doanh của chúng ta đã và đang thực hiện hiện đại hoá ngân hàng, tuy nhiên vẫn chưa thể theo kịp tốc độ phát triển của nhiều ngành khác, đây cũng là vấn đề lớn, vì tài chính ngân hàng được coi là các lĩnh vực cơ sở, nền tảng của phát triển kinh tế mà chưa đáp ứng được yêu cầu chung, không đi trước một bước thì sẽ rất khó khăn. Hiện ở nước ta, công tác KTNB mới đang được chú ý và thiết lập chủ yếu trong các Tổng công ty Nhà nước như Tổng 90, 91, Tông công ty viễn thông, Dầu khí...., các chức năng và nhiệm vụ còn rất đơn giản, chưa sâu và chưa rộng. Vì thế, KTNB trong các NHTM cũng chưa thực sự được chú ý. b. Nguyên nhân chủ quan * Các văn bản pháp luật điều chỉnh: hiện nay công tác KTNB chưa có văn bản pháp luật nào điều chỉnh riêng biệt, KTNB chịu sự chi phối bởi nhiều loại văn bản pháp luật, đôi khi còn chồng chéo lên nhau, mâu thuẫn và phủ nhận lẫn nhau, không có cơ sơ pháp lý nào nhất quán cho hoạt dộng KTNB. Các văn bản pháp luật chung có đề cập đến công tác KTNB có thể kể đến như: Luật các TCTD, Nghị định 49 CP của chính phủ, Luật Kiểm toán... Về phía NHCT Việt Nam cũng có các quyết định về vấn đề này và các văn bản hướng dẫn chi tiết khác nhưng thực tế công tác này vẫn chưa được phân định rõ ràng chức năng và quyền hạn của bộ phận KTNB. * Về nhân sự: với NHCT nói riêng và các NHTM Nhà nước nói chung, đây là một trong số các vấn đề thường trực và đôi khi rất nan giải. Số luợng công chức qúa nhiều, bộ máy hoạt động cồng kềnh, kém hiệu qủa chính là gánh nặng của cả hệ thống.Với số lượng cán bộ nhân viên nhiều nhưng số có trình độ cao không lớn, đặc biệt là những nhân viên được đào tạo chuyên ngành kiểm toán là rất hiếm. Do vậy khả năng hoàn thành công việc một cách có hiệu quả thực sự không cao. Với biên chế 4 nhân viên kiểm toán nội bộ hiện nay, khối lượng công việc kiểm toán tín dụng rất đồ sộ, với hàng trăm nghìn hợp đồng tín dụng mỗi năm, các tài liệu, văn bản liên quan rất nhiều, số sai phạm cần xử lý không nhỏ...hiện tại tình trạng quá tải là không thể tránh khỏi. * Về Ban lãnh đạo của chi nhánh: vẫn chưa thực sự chú trọng đến công tác KTNB hoạt động tín dụng một cách đúng mức, vẫn có sự chi phối một cách tương đối đến công tác này. Đôi khi ban lãnh đạo chi nhánh còn hạn chế phạm vị và quyền hạn kiểm toán của các KTV, một số vấn đề khi KTV phát hiện được không được xử lý theo những đề xuất hợp lý họ nêu ra. Hơn nữa, hoạt động tín dụng tại chi nhánh hiện tại không thực sự ẩn chứa rủi ro cao, các đối tượng khách hàng đa phần là các Doanh nghiệp Nhà nước hoạt động có hiệu quả, có tài sản đảm bảo... Bên cạnh đó, NHCT Đống Đa là chi nhánh trực thuộc NHCT Việt Nam- một trong 5 NHTM quốc doanh của Việt Nam, vẫn chịu sự bảo hộ rất lớn của Nhà nước, tư tưởng của ban lãnh đạo ngân hàng vẫn mang nặng tính hành chính Nhà nước và đặc biệt chưa thấy cần thiết phải chú trọng tới công tác quản lý rủi ro tín dụng tại đơn vị. Kết luận chương 2: Trong chương 2, em đã trình bày về thực trạng công tác KTNB hoạt động tín dụng tại chi nhánh NHCT Đống Đa- ngân hàng em đã thực tập. Qua thực tế tại đơn vị, cùng với kiến thức được học tại trường và quá trình nghiên cứu các tài liệu liên quan, em đã đưa ra thực trạng, phân tích và thấy được những kết quả đóng góp của công tác KTNB hoạt động tín dụng tại NHCT Đống Đa, tìm được một số hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong công tác KTNB tại ngân hàng. Tại chương 3 của khoá luận, em xin được trình bày một số giải pháp và xin mạnh dạn đề xuất kiến nghị với các cơ quan chức năng để công tác KTNB hoạt động tín dụng sẽ phát huy hơn nữa vai trò của mình trong việc phòng ngừa và giảm thiểu rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Chương 3 Những giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác kiểm toán nội bộ đối với hoạt động tín dụng tại chi nhánh NHCT Đống Đa 3.1 Định hướng hoạt động kinh doanh của ngân hàng Cùng với xu thế phát triển chung của đất nước cũng như của ngành ngân hàng, NHCT Việt Nam đã xây dựng kế hoạch phát triển dài hạn cho toàn hệ thống, phấn đấu đến năm 2010 phát trển thành một ngân hàng uy tín, hiện đại mang tầm cỡ khu vực và dần khẳng định chỗ đứng trên những tầm địa lý xa hơn. NHCT đều đặt ra những chỉ tiêu, nhiệm vụ cụ thể cho các chi nhánh trực thuộc trong quá trình hoạt động kinh doanh của chúng nhằm đạt được mục tiêu chung. Căn cứ vào những chỉ tiêu công tác NHCT giao, chi nhánh NHCT Đống Đa đã đề ra một số nhiệm vụ, chỉ tiêu kinh doanh cụ thể trong năm 2005 để toàn bộ tập thể các cán bộ nhân viên trong chi nhánh nỗ lực và cố gắng hoàn thành xuất sắc những chỉ tiêu này. Với sự hoàn thiện về công nghệ, thường xuyên đào tạo, nâng cao nghiệp vụ chuyên môn cũng như tác phong làm việc cho các nhân viên, chi nhánh NHCT Đống Đa hi vọng sẽ đáp ứng tốt nhất những đòi hỏi ngày càng cao của khách hàng. Về mặt dài hạn, chi nhánh phấn đấu giữ vững và ngày càng nâng cao vị trí của mình trong hệ thống NHCT, luôn là lá cờ đầu trong mọi hoạt động của cả hệ thống. Tổng nguồn vốn huy động luôn đảm bảo nhu cầu sử dụng cho trong kinh doanh của chi nhánh, dư nợ tín dụng đạt mức cao, đảm bảo an toàn vốn, tất cả các hoạt động khác đều đảm bảo an toàn và hiệu quả. Trong năm 2005 , chi nhánh đặt ra các chỉ tiêu cụ thể như sau: Về nguồn vốn huy động: tính đến hết ngày 31/12/2005 đạt 3400 tỷ đồng tăng11,7% so với năm 2004, Trong đó: Tiền gửi tiết kiệm là 1587 tỷ đồng Tiền gửi của các tổ chức kinh tế là 1613 tỷ Huy động từ kì phiếu là 200 tỷ, Tổng dư nợ: đạt 2600 tỷ đồng, tăng 15,9% so với năm trước. Trong đó: Dư nợ trung dài hạn đạt 40% Tỷ lệ nợ quá hạn : không quá 1% Lợi nhuận hạch toán : đạt 66 tỷ đồng, tăng 10% so với năm 2004 Để đạt được mục tiêu đặt ra, toàn thể cán bộ nhân viên Chi nhánh cần thực hiện các biện pháp cụ thể mà Ban giám đốc đã đề ra như sau: + Nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng, chất lượng them định dự án đầu tư, tăng cướng công tác huy động vốn của các tổ chức và dân cư. + Làm tốt công tác tiếp thị, tiếp cận khách hàng, rà soát, phân loại doanh nghiệp, đối với các doanh nghiệp kinh doanh yếu kém, thua lỗ thì phải giảm dần mức độ đầu tư để đảm bảo an toàn tín dụng. + Phát triển tốt hoạt động kinh doanh đối ngoại, kinh doanh ngoại tệ, tăng số lượng khách hàng xuất khẩu. + Tích cực tìm biện pháp thu hồi các khoản nợ quá hạn và nợ tồn đọng. + Đào tạo, bồi dưõng cán bộ về nghiệp vụ, chuyên môn, công nghệ, ngoại ngữ, vi tính. + Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ + Xây dựng và chỉnh đốn Đảng, tăng cường hoạt động của Đảng, Đoàn thanh niên, Phụ nữ... trong chi nhánh. Với những thành tích đã đạt được, toàn thể cán bộ nhân viên trong chi nhánh NHCT Đống Đa quyết tâm thực hiện tốt các chỉ tiêu, kế hoạch mà NHCT giao, với mục tiêu “ Chất lượng- An toàn- Hiệu quả”, xứng đáng là đơn vị Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới, đóng góp vào sự lớn mạnh của NHCT Việt Nam. Riêng với hoạt động tín dụng, đây là hoạt động kinh doanh quan trọng của ngân hàng, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng mục chung, luôn đựơc quan tâm hàng đầu. Trong thời gian tới, chi nhánh sẽ tiếp tục nâng cao công tác chỉ đạo, điều hành nghiệp vụ này, theo sát những định hướng kinh doanh chung, chủ động duy trì mối quan hệ tốt với các khách hàng truyền thống, tiếp cận những khách hàng tiềm năng, mở rông các đối tượng khách hàng doanh nghiệp khác, chú trọng hơn nữa cho vay tiêu dùng, hộ sản xuất kinh doanh cá thể cũng như các đối tượng khác. Về công tác KTNB hoạt động tín dụng cần củng cố hoàn thiện hơn, bố trí thêm và nâng cao chất lượng nhân sự, tiến hành kiểm toán đột xuất, chuẩn bị tốt các chương trình kiểm tra, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. 3.2 Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác KTNB hoạt động tín dụng 3.2.1 Hoàn thiện cấu tổ chức hệ thống KTNB trong ngân hàng Với cơ cấu tổ chức hệ thống KTNB trong ngân hàng hiện nay, nguyên tắc độc lập trong KTNB không được tôn trọng, thậm chí bị vi phạm nghiêm trọng, biến hoạt động kiểm toán này chỉ mang tính hình thức, không mang lại hiệu quả xứng đáng. Để tạo ra tính độc lập cũng như nâng cao hiệu quả của công tác KTNB nói chung và KTNB hoạt động tín dụng nói riêng, cần có sự thay đổi lại cơ cấu sắp xếp hệ thống kiểm tra, kiểm toán nội bộ trong cả ngân hàng. Tức là thay đổi cơ cấu chung của bộ máy kiểm tra từ trên xuống, cần có sự nhìn nhận của Hội đồng quản trị cũng như Ban giám đốc NHCT Việt Nam trong việc áp dụng mô hình tổ chức mới cho bộ phận này. Sau đây là mô hình được cho là phù hợp và đã từng được áp dụng thành công tại các ngân hàng khác trên thế giới. Sơ đồ 3: Mô hình hệ thống tổ chức của bộ phận KTNB trong ngân hàng Hội đồng quản trị Ban kiểm tra, kiểm toán tại hộ sở chính Ban giám đốc Ban giám đốc các chi nhánh Phòng kiểm tra kiểm toán nội bộ tại các chi nhánh Theo mô hình này, hệ thống KTNB đã tách ra, độc lập hoàn toàn với Ban giám đốc cấp chi nhánh, nó trực thuộc cấp quản lý cao nhất trong ngân hàng là Hội đồng quản trị, các bộ phận khác đều có sự độc lập tương đối, ít có khả năng chi phối hay tạo tác động gì đến bộ phận này. Ban KTNB tại hội sở chính trực thuộc sự quản lý duy nhất của Hội đồng quản trị ngân hàng, sẽ chịu trách nhiệm chỉ đạo công tác KTNB trong toàn hệ thống. Thường xuyên chỉ đạo về mặt kỹ thuật nghiệp vụ, lập và triển khai các kế hoạch KTNB cho Hội sở chính cũng như tất cả các chi nhánh, trực tiếp thực hiện và theo dõi quản lý các cuộc kiểm toán diễn ra trong toàn hệ thống NHCT. Các phòng KTNB tại các chi nhánh thực hiện kiểm toán tại chính các cơ sở, phụ trách kiểm tra mọi mặt hoạt động của chi nhánh đó. Phòng KTNB chịu sự quản lý của Ban KTNB trên hội sở chính và chỉ chịu trách nhiệm báo cáo công tác cho cơ quan này. Ban giám đốc cũng như tất cả các phòng ban khác trong chi nhánh phụ trách đều không có quan hệ gì khác ngoài quan hệ kiểm tra, kiểm soát với phòng KTNB của chi nhánh. Tất cả các công việc KTNB, kế hoạch thực hiện, kết quả kiểm toán, các sai phạm tìm thấy, các kiến nghị, đề xuất, các sáng kiến đóng góp...tất cả đều được gửi trực tiếp lên Ban KTNB của Hội sở. Tất nhiên, trứơc và sau mỗi cuộc kiểm toán tại đơn vị cơ sở, các KTV nội bộ đều thông báo với Ban Giám đốc chi nhánh, kể cả kết quả KTNB cũng công khai cho Ban lãnh đạo chi nhánh biết, nhưng quan trọng hơn là việc xử lý sẽ được trình bày trên Ban KTNB để tổng hợp và báo cáo Hội đồng quản trị. Các cuộc kiểm toán có thể tiến hành bất ngờ, không báo trước nhằm chứng kiến hiện trạng thực của các mặt hoạt động tại các đơn vị. Kết quả phản ánh có độ trung thực cao, mang tính khách quan và là tài liệu rất đáng tin cậy cho lãnh đạo ngân hàng biết được chính xác tình hình của ngân hàng để có nhứng xử trí phù hợp. Ngoài ra, Ban KTNB có thể chỉ đạo kiểm toán chéo giữa các chi nhánh với nhau, vừa tăng tính khách quan, vừ tránh đựơc các vấn đề tế nhị trong quan hệ tại đơn vị. Với mô hình độc lập trên đây của bộ phận KTNB trong các NHTM đã không những giúp tôn trọng tính độc lập khách quan trong kiểm toán mà còn đưa ra một lời giải thích hợp cho những bất cập về chất lượng, số lượng và hiệu quả của KTV. Bởi, với sự tập trung về phòng KTNB, các KTV có điều kiện chuyên tâm với công việc, những khoá học bồi dưỡng nghiệp vụ tổ chức dễ dàng hơn, đồng thời cũng tận dụng được năng lực cho bộ phận nhân sự này. Tóm lại, thực hiện mô hình KTNB độc lập với tất cả các phòng ban nghiệp vụ khác là rất cần thiết để tăng tính hiệu quả và đặc biệt là tính hiệu lực của công tác KTNB nói chung. Riêng với KTNB hoạt động tín dụng thì mô hình này càng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các KTV nội bộ trong việc tiếp cận các hồ sơ và các vấn đề liên quan đến hoạt động tín dụng tại các chi nhánh ngân hàng. 3.2.2 Tăng cường trách nhiệm và sự nhận thức về vai trò KTNB của các cán bộ lãnh đạo ngân hàng Nhận thức về sự cần thiết và tầm quan trọng của công tác KTNB nói riêng và KSNB nói chung là vấn đề luôn cần phải thấy rõ của ban lãnh đạo ngân hàng. Từ nhận thức đó, ban lãnh đạo sẽ có biện pháp xây dựng môi trường kiểm soát lành mạnh, hiệu quả. Ban giám đốc có thể thường xuyên có chính sách động viên, khen thưởng, cổ vũ tinh thần trách nhiệm của các KTV nội bộ nói riêng và tập thể cán bộ nhân viên toàn ngân hàng nói chung;luôn đề cao các chuẩn mực đạo dức nghề nghiệp của các nhân viên; luôn quán triệt ý thức tôn trọng kỷ luật và nguyên tắc trong công việc ở tất cả các bọ phận trong ngn hàng; xử lý các hành vi vi phạm thật thoả đáng, vừa có tính răn đe, vừa nâng cao tính hiệu lực cho công tác KTNB... 3.2.3 Đào tạo, bồi dưõng, nâng cao trình độ cho KTV nội bộ Hệ thống KTNB trong các NHTM nếu được xây dựng độc lập với các phòng ban khác thì nhất định hiệu quả hoạt động sẽ tăng, tuy nhiên đó chỉ là điều kiện cần, còn rất nhiều yếu tố khác tác động và ảnh hưởng mạnh tới tính hiệu quả của công tác này, trong số đó có trình độ của các KTV. Đây là những nhân viên trực tiếp tiến hành công việc kiểm tra, kiểm toán các hoạt động tại các đơn vị, là người đưa ra những nhận xét, đánh giá cuối cùng về các vấn đề kiểm toán, đó là những căn cứ để lãnh đạo đưa ra quyết định. KTV phải hội tụ những phẩm chất về đạo đức, kỹ năng, kỹ thuật nghiệp vụ, những yếu tố về giao tiếp, nhạy cảm nghề nghiệp...Vì thế, vấn đề đào tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên môn, phẩm chất người kiểm toán cho các KTV nội bộ cũng là công việc đòi hỏi sự lưu tâm rất nhiều của các bộ phận quản lý về hoạt động KTNB của các NHTM nói chung và NHCT Việt Nam nói riêng. Từ thực trạng chất lượng KTV tại chi nhánh NHCT Đống Đa, chúng ta có thể nhận thấy một cách khái quát về tình trạng chung của vấn đề này trong cả hệ thống NHCT cũng như các NHTM Việt Nam hiện nay. Do vậy vấn đề rất cần làm ngay là tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, tuyển chọn và nâng cao trình độ của các KTV phục vụ cho công tác KTNB tại ngân hàng. Trước hết, nếu KTV không có kiến thức chuyên môn thì sẽ không thể tiến hành công việc một cách chính xác được. Kiểm toán lại là công việc càng đỏi hỏi trình độ nhân viên phải cao, nắm bắt các vấn đề thật nhanh và phát hiện đựơc ra những chỗ mấu chốt. Các KTV nội bộ có kiến thức chuyên môn sâu, thao tác nghiệp vụ tốt thì nhất định hiệu quả công việc sẽ cao, thời gian thực hiện ngắn. Sau đó, ý thức nghề nghiệp, đạo đức công việc của mỗi người cũng góp phần không nhỏ vào kết quả công việc cuối cùng. Về phẩm chất thì phải rèn luyện theo thời gian và môi trường công tác cũng như kinh nghiệm trong công việc. Tại chi nhánh NHCT Đống Đa, các KTV đều chưa được đào tạo chính quy về chuyên ngành kiểm toán nhưng về kiến thức tài chính- ngân hàng thì đều vững, và họ cũng thưỡng xuyên học tập, tìm hiểu kiến thức chuyên môn để làm tốt hơn công việc của mình. Các KTV tín dụng hầu hết được chuyển từ công tác tín dụng sang, kinh nghiệm làm tín dụng đều đã có, vì thế tiếp cận công tác kiểm toán tín dụng cũng không quá bỡ ngỡ. Nếu lãnh đạo tạo điều kiện cho họ bồi dưỡng nghiệp vụ, theo học các lớp chuyên ngành, tham gia các hội thảo khoa học về kiểm toán thì nhất định trình độ chuyên môn sẽ được nâng cao nhanh chóng. Một số giải pháp cụ thể có thể tham khảo là: Phòng KTNB chủ động tìm các cơ sở đào tạo uy tín để gửi các KTV đi học nâng cao nghiệp vụ, cùng với đó sẽ đào tạo thêm chuyên môn cần thiết khác như vi tính, tiếng Anh... Tìm thông tin về các cuộc hội thảo khoa học chuyên ngành, tạo điều kiên về thời gian cho các nhân viên tham gia. Phòng Kiểm tra, KTNB tại đơn vị có thể trực tiếp tổ chức, mời các chuyên gia về đàm đạo về các chủ đề gần gũi với công tác kiểm toán, hoặc đơn giản là đề cập về các vấn đề tâm lý công việc, tất cả đều có tác dụng tốt phuc vụ công tác chung. Phối hợp với các cơ quan cấp trên, với Ban Kiểm tra của NHCT, tổ chức các Hội nghị chuyên đề hoặc phát động các phong trào thi đua, các buổi trao đổi kinh nghiệm giữa các KTV trong toàn hệ thống. Xa hơn, khi Hiệp hội kiểm toán phát triển, vai trò của KTNB được nâng lên, sự chuẩn hoá trình độ nghiệp vụ của các KTV sẽ có các tiêu chí nhất định và có các tổ chức chuyên nghiệp đứng ra đào tạo, các chứng chỉ Kiểm toán cũng dần phải đựơc phổ cập đối với các KTV nội bộ. 3.2.4 Tăng cường ứng dụng công nghệ tin học vào hoạt động kiểm toán Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin nói chung và công nghệ ngân hàng nói riêng tạo ra những tiện ích mà chỉ cách đây vài thập kỉ, loài người cũng không thể hình dung đựơc là có thể trở thành hiện thực. Khi ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động ngân hàng, tất cả các công việc đều trở nên dễ dàng và hiệu quả tăng lên nhanh chóng. Khi các hoạt động nghiệp vụ cụ thể như huy động, cho vay, bảo lãnh, thanh toán…. đều ứng dụng công nghệ thông tin thì công tác kiểm tra, kiểm soát cũng trở nên dễ dàng, các tài liệu liên quan được tìm kiếm thuận lợi, vì thế, thời gian cũng như hiệu quả công tác kiểm toán cũng tăng cao. Các thông tin kiểm toán được cung cấp từ các bộ phận nghiệp vụ càng có độ chính xác cao thì tính trung thực từ kết quả kiểm toán càng được đảm bảo. Do đó, khi hệ thống thông tin trong ngân hàng được ứng dụng công nghệ hiện đại, khả năng truyền tải thông tin cho công tác kiểm tra, kiểm toán cũng thực hiện nhanh chóng và đảm bảo cung cấp thông tin kịp thời nhất cho các nhà quản trị ngân hàng. NHCT Đống Đa vừa hoàn thành chuyển đổi toàn bộ hệ thống công nghệ sang chương trình INCASH, tất cả các bộ phận đều chạy thống nhất một chương trình sẽ tạo ra sự đồng bộ và dễ dàng cho xử lý thông tin. Tuy nhiên cần quan tâm nhiều đến công tác bảo mật thông tin, và nghiên cứu để tận dụng được hết các ứng dụng của phần mềm này. Với các KTV, khả năng và trình độ tin học phải đảm bảo đủ để làm chủ công nghệ, xử lý được các dữ liệu trên máy. Đồng thời cần có chương trình riêng dành cho KTNB bởi các thông tin kiểm toán cần độ bảo mật cao, không thể để nhiều người có khả năng truy cập vào. Tóm lại, nếu có thể ứng dụng hệ thống công nghệ hiện đại sẽ vừa giúp ích cho tất cả mọi mặt hoạt động của ngân hàng vừa tạo điều kiện dễ dàng cho công tác KTNB thực hiện tại đơn vị. 3.2.5 Tăng cường ứng dụng và hoàn thiện kỹ thuật, phương pháp kiểm toán Thực trạng tại chi nhánh NHCT Đống Đa nói riêng và các chi nhánh khác trong hệ thống NHCT về công tác KTNB đều cho thấy các kỹ thuật mà KTV sử dụng trong tất cả hoạt động kiểm toán và đặc biệt trong kiểm toán tín dụng đều còn ở mức độ rất đơn giản, không có sự linh hoạt, thiếu tính chủ động. Vẫn tiến hành công tác kiểm toán hệ thống, lập kế hoạch, đề cương kiểm toán chi tiết và tiến hành thụ động theo những gì vạch sẵn, khi có tình huống bất ngờ xảy ra thì KTV không thể xử lý. Trong qúa trình kiểm toán, các KTV cần kết hợp sử dụng các mẫu bảng tường thuật, bảng hỏi, mô tả về quy trình tín dụng, tiếp cận các cán bộ tín dụng, tìm hiểu phương cách làm việc của họ, từ đó nhanh chóng xác định được những điểm mạnh, điểm yếu của hệ thống KSNB trong hoạt động tín dụng. Các KTV cũng cần kết hợp các thử nghiệm kiểm soát như : kiểm tra hệ thống, kiểm tra mẫu chứng từ, kết hợp với việc đánh giá về hoạt động kiểm soát hệ thống quản lý, kiểm soát bảo vệ tài sản... Và quan trọng nữa là xác định đựơc tính trọng yếu các nội dung kiểm toán , mức độ rủi ro trong hoạt động tín dụng, phân loại rủi ro tín dụng của ngân hàng...Tiếp đó, KTV xây dựng kế hoạch một cách cụ thể, sát với tình hình thực tế của ngân hàng, đặc biệt là phải lập kế hoạch có tính đến yếu tố định hướng theo rủi ro trong hoạt động tín dụng tại ngân hàng. Trong quy trình KTNB hoạt động tín dụng, trình tự các bước vẫn được tôn trọng. Đầu tiên vẫn là đánh giá độ tin cậy của thông tin từ hệ thống KSNB để lựa chọn phương pháp kiểm toán phù hợp nhất. Tiếp đó là tìm các văn bản pháp lý, các quyết định của ngân hàng cấp trên để làm căn cứ cho hoạt động kiểm toán. Công việc kiểm toán chi tiết vào các khoản mục, đánh giá tình hình hoạt động tín dụng nói chung và các vấn đề cụ thể của các khoản tín dụng được lựa chọn kiểm toán. Sau khi xem xét, KTV sẽ đánh giá, nhận xét về chất lượng tín dụng của ngân hàng, sau đó là nhận xét về cách phân loại tín dụng, cơ cấu rủi ro và cách trích lập dự phòng rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Các kỹ thuật kiểm toán mà KTV nội bộ thường áp dụng là chọn mẫu phi thống kê, kỹ thuật này đơn giản, dễ thực hiện nhưng không thể đảm bảo kết quả hoạt động kiểm toán là cao. Bởi không có sự chọn lọc các đối tượng kiểm toán tín dụng cụ thể. Vì vậy, các KTV cần phân tích tổng thể hoạt động tín dụng, lựa chọn các phương pháp chọn mẫu thích hợp cho từng đối tượng cụ thể. Với các khoản tín dụng lớn, KTV có thể phải kiểm toán 100%, tức là kiểm tra tất cả các khoản tín dụng này, cũng có những trường hợp tỷ lệ chọn mẫu không cao do tính chất khoản vay có độ an toàn cao và khối lượng vay không lớn. Cần chú ý rủi ro chọn mẫu trong khi kiểm toán, bởi chọn mẫu không mang tính khái quát, đại diện thì không thể đánh giá chung cho cả khoản mục được, và như vậy thì kết quả kiểm toán không tốt. Trong khi đánh giá các mẫu, nếu sai sót vượt quá xa so với mức cho phép ban đầu thì KTV cần xem xét lại, hoặc là chọn mẫu bổ sung hoặc tiến hành kiểm toán lại. Về các phần mềm kiểm toán áp dụng tại ngân hàng hiện nay vẫn là phân mềm cũ: MISAC, tính tích hợp không cao, thiếu linh hoạt. Vì thế, bộ phận quản lý phần mềm trong ngân hàng, trung tâm công nghệ của NHCT cần tìm hiểu và ứng dụng chương trình kiểm toán mới phù hợp và mang tính thích ứng cao hơn. Việc áp dụng hệ thống chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng của kiểm toán tín dụng cũng cần luôn cập nhật với những thay đổi trong loại hình và tính chất của hoạt động tín dụng. Trong công tác đánh giá khách hàng vay, KTV phải dùng kỹ thuật xem xét cách đánh giá, cho điểm các khách hàng vay của cán bộ tín dụng. Tiếp đó, các khoản tín dụng cũng được phân chia, phân loại thành các mức để tiện theo dõi: mức độ bình thường, cần chú ý, chú ý đặc biệt, khó đòi và thất thoát hoàn toàn. Dựa vào đó, KTV sẽ có định hướng áp dụng phương pháp kiểm toán hợp lý nhất. 3.2.6 KTV nội bộ cần mở rộng mối quan hệ, phối hợp hoạt động với các phòng ban để nâng cao hiêụ quả chung Hợp tác trong công việc luôn có tác dụng tích cực trong mọi trường hợp. Với KTV thì tạo được mối quan hệ tốt với các nhân viên phòng ban khác càng có tác dụng hỗ trợ tốt công tác kiểm toán. Với kiểm toán tín dụng, quan hệ giữa KTV với các cán bộ tín dụng vừa có tác dụng hỗ tợ, vừa có tác dụng bổ sung lẫn nhau, giúp cả hai cùng hoạt động tốt hơn. Thông qua hiểu biết về nghiệp vụ tín dụng, KTV tín dụng càng dễ dàng trong việc tìm ra những mặt chưa thoả đáng, những chốt còn yếu trong công tác tín dụng tại cỏ sở, đề xuất và rút kinh nghiệm cho nhau để cùng tiến bộ. 3.2.7 Bộ phận KTNB hoạt động tín dụng cần thực hiện đầy đủ các chức năng của KTNB trong ngân hàng Mới chỉ thực hiện các chức năng đơn giản của KTNB như kiểm tra, kiểm soát, đưa giải pháp... KTNB chưa thực hiện được các chức năng quan trọng khác như tư vấn quản trị, giải quyết các thắc mắc nội bộ cũng như khiếu nại, tố cáo... thì bộ phận này chưa thực sự thực hiện.Kiểm toán tín dụng chưa thể hiện chức năng hỗ trợ thật nhiều cho cấp lãnh đạo tìm giải pháp xử lý các vấn đề tồn đọng trong công tác tín dụng và nâng cao hiệu quả trong công tác này. Việc đánh giá các nghiệp vụ cụ thể mà chưa đưa ra bản chất cũng như chưa khái quát đựơc đặc thù của chúng cũng phải khắc phục ngay. Các biện pháp xử lý, tư vấn xử lý và các biện pháp xử lý các trường hợp vi phạm trong hoạt động tín dụng cũng cần được KTV đưa ra chính xác, kịp thời và được thực hiện nghiêm túc với thái độ tôn trọng. Ngoài ra, các giải pháp lâu dài, mang tính hệ thống với chi phí không nhỏ cũng cần tham khảo, xem xét để thực hiện trong tương lại nhằm nâng cao hơn nữa vai trò và hiệu quả của công tác KTNB nói chung và KTNB hoạt động tín dụng nói riêng. 3.3 Những kiến nghị 3.3.1 Với NHNN và các cơ quan quản lý Nhà nước Đ ây là các cơ quan quản lý về mặt luật pháp, có trách nhiệm đảm bảo cho hoạt động tài chính - ngân hàng diễn ra có trật tự và có kiểm soát, không để rủi ro hệ thống xảy ra. Để thực hiện tốt chức năng quản lý, điều tiết của mình, NHNN và các cơ quan quản lý Nhà nước cần: * Nghiên cứu và hoàn chỉnh hệ thống các văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động ngân hàng Để tăng tính hiệu qủa của hoạt động kiểm tra, KTNB trong các NHTM hiện nay, điều kiện tiên quyết phải thực hiện là có hệ thống các văn bản pháp quy liên quan, điều chỉnh và quy định chính xác các điều khoản, các quy lợi và nghiã vụ của các bên trong quan hệ tài chính, tín dụng, ngân hàng. Vì thế, NHNN và các cơ quan quản lý Nhà nước cần có sự chỉnh sửa, bổ sung, thêm mới hoặc loại bỏ các văn bản pháp luật về lĩnh vực này, đảm bảo: Sự thống nhất, không mâu thuẫn nhau về mặt nội dung của các văn bản về hoạt động Kiểm tra, kiểm toán trong nội bộ các ngân hàng. Các văn bản phải có tính ổn định tương đối, phù hợp trong thời gian dài, không nên thay đổi liên tục, gây trở ngại cho công tác Kiểm tra KTNB vì căn cứ pháp luật thay đổi dễ kéo theo sự sai lệch trong nhận định kiểm toán của các nhân viên thực hiện. Tính mở của các văn bản cao, có thể bổ sung khi thiết để đảm bảo theo kịp sự thay đổi của thực tế trong hoạt động kiểm tra, KTNB tại các ngân hàng. Có sự quy định cụ thể về quyền và trách nhiệm của các bên tham gia quan hệ kiểm tra, KTNB. Đối với các văn bản của các cơ quan chuyên ngành ban hành như Bộ tài chính, NHNN, Thanh tra Nhà nước... cũng cần quy định rõ về chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của bộ phận KTNB trong các đơn vị kinh tế và đặc biệt trong lĩnh vực tài chính ngân hàng. Đồng thời, các văn bản cần nêu rõ về chức năng kiểm toán của các KTV nội bộ, chỉ rõ phạm vi hoạt động kiểm toán của họ, chức năng kiểm toán, và quyền hạn của các KTV trong và sau mỗi cuộc kiểm toán tại nội bộ cơ sở. Với các văn bản đã ban hành mà có những điểm chưa phù hợp hoặc không còn đúng với điều kiện mới( bị lạc hậu) thì cần kịp thời bổ sung, thay thế. Các cơ quan chức năng cũng cần ban hành thêm các văn bản quy định mới, các thông tư hướng dẫn để tăng cường hơn nữa vai trò, vị trí của công tác KTNB và các cá nhân thực hiện cũng dễ dàng trong triển khai công việc và có căn cứ pháp luật rõ ràng. * Các cơ quan giám sát, thanh tra ngân hàng cần phối hợp hoạt động với bộ phận KTNB khi tiến hành các cuộc thanh tra Các bộ phận thanh tra, giám sát, kiểm toán độc lập và KTNB cùng hoạt động có sự định hướng chung, hỗ trợ lẫn nhau thì nhất định mang lại hiệu quả cao trong tất cả các công tác. Cần có sự quy định cụ thể về sự phối hợp này bởi trong thực tế, nhiều khi các hoạt động trên đây không phối hợp với nhau, hoạt động chồng chéo, lãng phí mà không hiệu quả. Nêu có sự quy định cụ thể thì khi tiến hành bất kì nghiệp vụ nào thì đều cần tinh đến các công tác kia, xem xem có thể sử dụng được kết quả nào không, vừa giảm đựơc thời gian mà vẫn hoàn thành tốt công việc. 3.3.2 Kiến nghị đối với Ngân hàng Công thương Việt Nam * Về các văn bản hướng dẫn: trên cơ sở các văn bản quy định của cấp trên về hoạt động KTNB, ban lãnh đạo NHCT cần xem xét cụ thể thực trạng và điều kiện ngân hàng mình để ban hành các văn bản hướng dẫn thật chi tiết và cụ thể, quán triệt tư tưởng kinh doanh và quản lý chung của ngân hàng. Với hoạt động KTNB còn rất mới so với các công tác khác thì càng cần sự hướng dẫn cụ thể hơn. Hiện NHCT đã có những văn bản hướng dẫn công tác này nhưng mức độ chi tiết thì chưa cao, cho nên trong thời gian tới, ngân hàng cần nghiên cứu và chú trọng hơn về chi tiết trong các văn bản hướng dẫn gửi xuống các phòng KTNB trong hệ thống. * Công tác cán bộ kiểm toán NHCT cần thường xuyên tổ chức các khoá học để đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm toán cho các KTV của ngân hàng, trang bị cho họ những kiến thức cập nhật và sát thực nhất cho công tác kiểm toán tại cơ sở. Ngoài ra, các chế độ công tác, lương, thưởng... cũng cần xem xét cho phù hợp với tính chất công việc và mức độ đóng góp của các KTV trong quá trình kiểm toán nội bộ tại các đơn vị. Đồng thời, cũng cần tăng cường giám sát quá trình thực hiện công việc của các KTV để tránh tình trạng làm việc qua loa, không hết trách nhiệm, hoặc tìm ra những dấu hiệu chịu sự chi phối của các KTV... NHCT có thể tổ chức những cuộc thi tay nghề, các cuộc giao lưu, trao đổi kinh nghiệm giữa các KTV... vừa có tác dụng tăng cường giao lưu, học hỏi lẫn nhau, vừa tăng tình đoàn kết trong nội bộ. * Về công nghệ NHCT cần tích cực hơn nữa trong công tác đầu tư, đồng bộ hoá công nghệ trong toàn ngân hàng, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho công tác KTNB nói riêng và tất cả các hoạt động khác trong ngân hàng. Phòng công nghệ của ngân hàng cũng cần cập nhật các phần mềm ứng dụng trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng để có thể tìm thấy những chương trình phù hợp, có thể ứng dụng vào ngân hàng mình, nâng cao hơn nữa hiệu quả của ứng dụng công nghệ thông tin trong xử lý các nghiệp vụ. Kết luận chương 3: Trong chương 3, em đã mạnh dạn đề xuất một số giải pháp và kiến nghị lên các cơ quan chức năng nhằm nâng cao vai trò, hiệu quả công tác KTNB hoạt động tín dụng tại chi nhánh NHCT Đống Đa nói riêng và các NHTM nói chung. Với kiến thức còn hạn chế, thời gian, tài liệu, phương pháp nghiên cứu còn chưa nhiều, em rất mong nhận được những lời nhận xét, góp ý của các thầy cô. Kết luận Ngân hàng- định chế tài chính có vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế, có khả năng ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển chung của tất cả các ngành kinh tế khác. Nếu hệ thống ngân hàng hoạt động lành mạnh và có hiệu quả thì sẽ có khả năng thúc đẩy toàn nền kinh tế phát triển. Do đó, các ngân hàng luôn đựơc các cơ quan quản lý Nhà nước quan tâm, giám sát chặt chẽ. Trong giai đoạn phát triển hiện nay của nền kinh tế nước ta, cơ hội để các ngân hàng vươn lên, khẳng định vị thế của mình là rất lớn. Để kinh doanh đạt hiệu quả cao mà vẫn đảm bảo an toàn, các NHTM đều cần phải chú ý đến việc áp dụng các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn rủi ro, đặc biệt là rủi ro tín dụng. Vì đây là loại rủi ro có nguy cơ cao và thường gây hậu quả nghiêm trọng. Một trong những biện pháp thiết thực và hiệu quả chính là KTNB hoạt động tín dụng tại các ngân hàng. Với những kiến thức được trang bị tại trường, cùng quá trình thực tập tại chi nhánh NHCT Đống Đa, em đã chọn đề tài : giải pháp nâng cao hiệu quả công tác Kiểm toán nội bộ hoạt động tín dụng tại chi nhánh NHCT Đống Đa. Nội dung của đề tài này được trình bày trong khoá luận chủ yếu đi vào nghiên cứu trên phương diện lý luận của vấn đề Kiểm toán, Kiểm toán nội bộ hoạt động tín dụng tại các NHTM; phân tích thực tếcông tác KTNB tín dụng tại ngân hàng. Từ đó, phân tích, đánh giá những kết quả đạt được và những tồn tại cảu công tác này tại ngân hàng, đồng thời, em cũng mạnh dạn nêu ra một số giải pháp, kiến nghị nằm nâng cao hiệu quả công tác KTNB hoạt động tín dụng tại NHCT Đống Đa nói riêng và các NHTM nói chung. Với sự giúp đỡ của cô Lê Thị Xuân, cùng những cô chú, anh chị tại đơn vị thực tập và sự nỗ lực của bản thân, em đã hoàn thành đợc klhoá luận này. Do hạn chế về thời gian, trình độ, tài liệu nghiên cứu... nên khoá luận còn nhiều khiếm khuyết. Rất mong nhận được sự nhận xét, góp ý của các thầy cô và các bạn để khoá luận đựơc hoàn thiện và có giá trị cao hơn! Lời cảm ơn Em xin chân thành cảm ơn cô giáo- Tiến sỹ Lê Thị Xuân đã quan tâm, giúp đỡ và chỉ bảo tận tình cho em trong quá trình làm khoá luận và nhờ vậy em đã hoàn thành được khoá luận này. Em cũng xin gửi lời cảm ơn đến các cô chú, anh chị trong phòng Tín dụng- NHCT Đống Đa đã giúp đỡ em trong quá trình thực tập tại ngân hàng. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 10 tháng 5 năm 2005 Sinh viên thực hiện lÊ THị THANH Tài liệu tham khảo Kiểm toán ngân hàng- Học viện Ngân hàng Kiểm toán nội bộ hiện đại Kiểm toán căn bản Kế toán- Kiểm toán và phân tích tài chính doanh nghiệp Ngân hàng thương mại Tạp chí Ngân hàng Tạp chí Kiểm toán Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docK0717.doc
Tài liệu liên quan