- Công nghiệp: Tỉ lệ ngành công nghiệp chế tác sẽ tăng lên. Bên cạnh đó xu hướng dịch vụ ngoại biên chuyển công nghệ ra ngoài cũng tác động tích cực đến công nghệ Việt Nam, biến Việt Nam thành cơ sở sản xuất, lắp ráp cho các nước phát triển.
Do đó việc chọn lựa và ưu tiên phát triển những ngành công nghiệp trọng điểm là rất cần thiết: Việt Nam cần tập trung nguồn lực phát triển một số ngành, lĩnh vực trọng điểm để có thể tạo ra bước phát triển nhảy vọt, phát huy tối đa lợi thế của Việt Nam trong phát triển kinh tế. Các ngành trọng điểm cần là những ngành có thế mạnh, có điều kiện phát triển ở Việt Nam, có khả năng thu hút nhiều lao động, tạo ra giá trị gia tăng cao, áp dụng quy trình công nghệ tiên tiến, hướng ra xuất khẩu. Ngoài ra, việc đánh giá, lựa chọn những ngành, lĩnh vực ưu tiên, mũi nhọn cần tiến hành trên cơ sở áp dụng các phương pháp định lượng, mang tính đo lường cụ thể
- Dịch vụ: Sẽ có thêm nhiều loại hình dịch vụ mới trong các lĩnh vực ngân hàng, tài chính, bảo hiểm. Các nhà đầu tư nước ngoài sẽ tham gia rất nhiều vào các lĩnh vực này, do đó, ngành dịch vụ Việt Nam sẽ phát triển rất mạnh, đa dạng về sản phẩm, góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 2011-2020.
Đặc biệt VIệt Nam đang tích cực nỗ lực cho một nền kinh tế tri thức: Cùng với xu thế chung của thế giới, Việt Nam đang hướng tới việc phát triển kinh tế tri thức. Nhiều nước phát triển trên thế giới hiện nay đã đạt đến trình độ phát triển cao, trong đó tri thức, công nghệ trở thành động lực phát triển kinh tế chính, tạo ra sức sản xuất, năng suất lao động vượt trội. Để có thể phát triển nhanh, bền vững và bắt kịp với những nước đó, Việt Nam tất yếu phải phát triển những ngành, lĩnh vực dựa trên tri thức, khoa học và công nghệ cao.
78 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1546 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư và xu hướng đầu tư, tăng trưởng phát triển kinh tế Việt Nam hiện nay đến năm 2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủa khu vực doanh nghiệp đã vượt tỷ trọng của hai loại hình doanh nghiệp còn lại. Xem bảng:
Tỷ trọng đầu tư của DNNN, DN FDI và DNTN
trong tổng đầu tư của khu vực DN
Nguồn: Đề tài, Tiết kiệm - đầu tư và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam
Nguyễn Ngọc Sơn
Giảng viên, Trường Đại học Kinh tế quốc dân (NEU)
Nghiên cứu viên, Diễn đàn Phát triển Việt Nam (VDF
3.2.5. Tác động của đầu tư đến chuyển dịch cơ cấu theo vùng lãnh thổ
Những năm gần đây, đầu tư tương đối tập trung cho các vùng kinh tế trọng điểm (năm 2000 là 52.51% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội và đến năm 2003 là 54,12% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Bảng: Tỷ trọng vốn đầu tư của 3 vùng kinh tế trọng điểm trong
tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội
Đơn vị (%)
Vùng kinh tế
1995
2000
2001
2002
2003
Cả nước
100
100
100
100
100
Ba vùng kinh tế trọng điểm
58.57
52.51
53.62
53.83
54.12
Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ
22.39
20.16
20.08
19.95
19.40
Vùng kinh tế trọng điểm Miền Trung
3.82
5.18
5.31
5.20
5.22
Vùng kinh tế trọng điểm Miền Nam
32.36
27.17
28.23
28.68
29.50
Nguồn : Từ Quang Phương và tập thể tác giả Khoa Kinh tế đầu tư. Đề tài khoa học cấp Bộ ‘‘ Tác động của việc sử dụng vốn đầu tư đến chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam, Thực trạng và giải pháp’’ 2005
Các vùng kinh tế trọng điểm đã bước đầu phát huy được thế mạnh và tiềm năng của vùng. Với tốc độ tăng trưởng gấp 1,2 – 1,3 lần mức tăng trưởng bình quân của cả nước, các vùng kinh tế trọng điểm tiếp tục gia tăng mức đóng góp của mình vào GDP cả nước. So với cả nước, tỷ trọng GDP của 3 vùng kinh tế trọng điểm tăng từ 42.5% năm 1990 lên 53.9% năm 1995 và 60.5% năm 2003.Tỷ trọng giá trị gia tăng công nghiệo tăng từ 62.8% năm 1990 len 68.9% năm 1995 và 72.3% năm 2003. Ba vùng kinh tế trọng điểm đã đóng góp 60% cho tăng trưởng GDP cả nước, 71.8% cho tăng trưởng công nghiệp và 59% cho tăng trưởng khu vực dịch vụ trên 70% giá trị hàng xuất khẩu và khoảng 73% thu ngân sách của cả nước.
4. SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ LÃNG PHÍ, THẤT THOÁT ẢNH HƯỞNG XẤU ĐẾN CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
Trong sơ đồ dưới đây, thể hiện mối quan hệ và nguyên nhân của dàn trải, kéo dài, kém hiệu quả, thất thoát, lãng phí và tổn thất vốn nhà nước đầu tư cho xây dựng cơ bản
Thất thoát lãng phí trong khâu quyết toán vốn đầu tư dự án hoàn thành.Ví dụ về đầu tư lãng phí thất thoát trong xây dựng cơ bản:
Sai phạm về tài chính (Tỷ đồng)
Năm
Số DA đã thanh tra
Tổng vốn ĐT (tỷ đồng)
Tỷ lệ (%)
871
2002
17
9.385
13.6
1235
2003
14
8.193
19
1134
2004
64
6.000
18.9
402
2005
84
2054.2
19.6
(Báo cáo của Chính phủ về đầu tư xây dựng cơ bản trước QH 06/11/2005)
5. TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC SỬ DỤNG VỐN ĐẾN TRÌNH ĐỘ KHOA HỌC – CÔNG NGHỆ VÀ KHẢ NĂNG NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NỀN KINH TẾ
5.1 Về đầu tư đổi mới công nghệ
Trình độ KHCN của ta nói chung thấp hơn hẳn so với đa số các nền kinh tế khác trong khu vực và trên thế giới. Trong khi đó chúng ta lại khá lúng túng trong việc hình thành, triển khai chiến lược đầu tư thích hợp để nâng cao trình độ KHCN
Đầu tư cho phát triển khoa học và công nghệ còn hạn hẹp
Mức đầu tư cho đổi mới công nghệ của doanh nghiệp Việt Nam chỉ đạt khoảng 3% doanh thu/ năm trong khi tỷ lệ này ở các nước tiên tiến là gần 30%/năm
Đầu tư xây dựng tiềm lực KH&CN trong thời gian dài còn chưa được chú trọng đúng mức, thiếu tập trung vào lĩnh vực trọng điểm, ưu tiên, dẫn đến cơ sở hạ tầng KH&CN lạc hậu, hiệu quả đầu tư thấp.
TS Lê Xuân Bá, phó viện trưởng Viện Quản lý kinh tế trung ương, dẫn chứng: doanh nghiệp trong nước mới chỉ đầu tư 0,2-0,3% doanh thu cho đổi mới công nghệ, trong khi ở Ấn Độ là 5%, Hàn Quốc 10%.... Ông nêu ra thống kê khác: có đến 76% máy móc, thiết bị và dây chuyền sản xuất của các doanh nghiệp trong nước thuộc thế hệ những năm 50-60 của thế kỷ trước; 75% thiết bị đã hết khấu hao và 50% là đồ tân trang. “Thiết bị hiện đại chỉ ở mức 10%, trung bình chiếm 38%, còn loại lạc hậu và rất lạc hậu chiếm 52%”
Một số cuộc khảo sát gần đây cho thấy, 80% doanh nghiệp Việt Nam sử dụng công nghệ lạc hậu từ 3-4 thế hệ so với thế giới. Đa số doanh nghiệp sử dụng công nghệ của những năm 80 của thế kỷ trước và năng lực để đầu tư đổi mới công nghệ rất hạn chế.
Việc đầu tư công nghệ tại các doanh nghiệp nhỏ còn hạn chế, nên công nhân làm việc theo kiểu thủ công. Ảnh: Bá Hoạt
Mức độ đầu tư cho nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ (R&D):
Đầu tư cho nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ của các doanh nghiệp còn rất khiêm tốn, chỉ vào khoảng 3% doanh thu mỗi năm, bằng 22,22% so với các chi phí khác. Các doanh nghiệp đầu tư cho R&D chủ yếu là các DN cổ phần, DN nhà nước và các tổ chức KH&CN chuyển đổi thành DN KH&CN. Các DN ngoài quốc doanh hầu như không chi cho R&D. Trong chi phí cho R&D, chi phí tiếp nhận công nghệ và bí quyết không hàm chứa (thiết kế công nghiệp và mỹ thuật) chiếm 28,57%; mua bằng sáng chế và giấy phép khai thác chiếm 11,11%; các hoạt động khác như mua máy móc, thiết bị với tính năng cải tiến chiếm 38,1%.
5.2 Tác động của việc đầu tư chất lượng chưa cao, chưa hiệu quả dẫn đến năng lực cạnh tranh của Việt Nam ngày càng xấu
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng doanh nghiệp tạo ra được lợi thế cạnh tranh, có khả năng tạo ra năng suất và chất lượng cao hơn đối thủ cạnh tranh, chiếm lĩnh thị phần lớn, tạo ra thu nhập cao và phát triển bền vững.
Bảng: Xếp hạng năng lực cạnh tranh của VN
Năm xếp hạng
Thứ hạng cạnh tranh trong ngắn hạn
Thứ hạng cạnh tranh trong dài hạn
Năm 1998 với 53 quốc gia
43/53
Năm 1999 với 58 quốc gia
50/58
52/58
Năm 2000 với 58 quốc gia
53/58
52/58
Năm 2002 với 75 quốc gia
60/75
Nguồn: Tạp chí nghiên cứu kinh tế
Bảng: Xếp hạng năng lực cạnh tranh của VN
Năm
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
Xếp hạng
60/102
77/104
74/111
77/122
68/131
70/134
75/133
Nguồn Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF)
Theo số liệu bảng trên, chỉ số cạnh tranh quốc tế của Việt nam cả trong ngắn hạn và dài hạn ngày càng lùi xa vị trí xếp hạng đầu tiên trong bảng. Từ đó cho thấy, trong thời gian gần đây, năng lực cạnh tranh của Việt Nam vẫn rất yếu kém so với nhiều nước khác, thậm chí còn có sự thụt lùi. Điều này cũng gián tiếp phản ánh chất lượng tặng trưởng còn hạn chế và cần phải được cải thiện mạnh nhằm mục tiêu chủ động hội nhập kinh tế toàn cầu.
Trên góc độ doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh cũng có sự suy giảm, nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng trên là do: nhận thức về đầu tư đổi mới công nghệ còn hạn chế, cơ chế chính sách cho đầu tư đổi mới công nghệ chưa hoàn thiện và đồng bộ
6. ĐẦU TƯ GÓP PHẦN XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO VÀ THỰC HIỆN CÔNG BĂNG XÃ HỘI.
Với chính sách đổi mới, mở cửa và kiên trì theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam đã đạt được thành tựu nhất định về tăng trưởng kinh tế gắn với mục tiêu xoá đói giảm nghèo. Việt nam được Ngân hàng thế giới đánh giá là một trong những điển hình về xoá đói giảm nghèo trên thế giới. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển Việt Nam vẫn không thể tránh khỏi một thực tế mà nhiều nước công nghiệp hoá mắc phải đó là phân hoá giàu nghèo đang trở thành một vấn đề xã hội và ngày càng trở nên sâu sắc. Hiện tại, ở Việt nam vẫn còn một tỷ lệ lớn trong dân cư có mức sống cận giới hạn nghèo.
6.1 Đầu tư tác động đến mức sống của người dân
6.1.1 Tăng thu nhập
Cùng với việc tăng quy mô đầu tư và mở rộng sản xuất, vấn đề việc làm đã được giải quyết cho một bộ phận lớn dân cư. Từ năm 2001 đến nay , số người có việc làm tăng thêm 5,55 triệu người , bình quân mỗi năm tăng thêm từ 900 nghìn đến 1.3 triệu việc làm mới.Thu nhập bình quân đầu người đạt gần 820 USD /năm xếp thứ 122 trên 177 quốc gia (2007), thu nhập bình quân đầu người năm 2008 đạt 960 USD/năm và như thế chúng ta không bị xếp vào nước có thu nhập thấp, nói cách khác là nước nghèo" và đến năm 2009 thì đã tăng lên 1023 USD/năm. “Như vậy, so với kế hoạch 5 năm là 1.050 - 1.100 USD/người vào 2010 thì chúng ta hoàn thành kế hoạch trước một năm”, Thủ tướng phát biểu
Đời sống của bộ phận những người làm công ăn lương cũng tiếp tục được cải thiện. Thu nhập bình quân tháng của lao động khu vực Nhà nước năm 2009 đạt 3084,8 nghìn đồng, tăng 14,2% so với năm 2008, trong đó thu nhập của lao động trung ương đạt 3979,1 nghìn đồng, tăng 16,1%; địa phương đạt 2532,9 nghìn đồng, tăng 13%
6.1.2 Tỷ lệ nghèo đói có xu hướng giảm
Trên cơ sở kinh tế tăng trưởng nhanh, mức độ nghèo đói của dân cư giảm mạnh. Số hộ giàu tăng lên và đến nay đã đạt trên 10% ,số hộ nghèo giảm xuống từ 55% (1989)xuống còn 11.4(2000 ). Và đến năm 2006, tỷ lệ hộ nghèo ở Việt Nam là 18,1% (tính theo chuẩn nghèo quốc tế) và được thế giới đánh giá là quốc gia thành công nhất trong “sự nghiệp” chống nghèo đói.
Theo Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, đến hết năm 2008, tỷ lệ hộ nghèo cả nước sẽ còn khoảng 13% (tương đương 2,4 triệu hộ), giảm gần 2% so với năm 2007.Và đến năm 2009 tỷ lệ hộ nghèo là ước dưới 11%
Theo chuẩn nghèo được đề xuất tăng gấp 1,5 lần hiện hành này, hộ nghèo là những hộ có thu nhập 300.000 đồng/người/tháng đối với khu vực nông thôn và 390.000 đồng đối với khu vực thành thị.
Theo báo cáo của các địa phương, năm 2009 trên địa bàn cả nước có 676,5 nghìn lượt hộ với 2973,3 nghìn lượt nhân khẩu bị thiếu đói, giảm 29,4% số lượt hộ và giảm 26,2% số lượt nhân khẩu thiếu đói so với năm trước. Để khắc phục tình trạng thiếu đói, các cấp, các ngành và địa phương đã hỗ trợ các hộ thiếu đói 43 nghìn tấn lương thực và 65,2 tỷ đồng, riêng tháng 12/2009 hỗ trợ 5,3 nghìn tấn lương thực và 23,9 tỷ đồng.
6.1.3 Đời sống kinh tế, sinh hoạt của người dân ngày càng được cải thiện và từng bước nâng cao hơn
Đến nay ở Việt Nam có 89,4% xã có điện, 94,6% xã có đường trải nhựa, 98,8% xã có trường tiểu học và 99% xã có trạm y tế. Số người đi học bình quân tính trên 1 vạn dân đã tăng từ 1834 người năm 1990 lên 2171 năm 1995. Tỷ lệ người biết đọc, biết viết tăng từ 88% năm 1989 lên 93% năm 2000. Ngoài ra nhiều mục tiêu được đề ra trong những năm trước đó thì nay chúng ta đều đạt được hoặc đạt vượt mức như tỷ lệ chết ở trẻ em dưới 1 tuổi chỉ còn 2,1% (2007), tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi còn 25% (2007). Tuổi thọ của người dân (năm 2006) đạt 71,3 tuổi.Phần lớn người dân Việt Nam đã có những tiện nghi tối thiểu cho sinh hoạt như điện, nước sạch...Tỷ lệ hộ dân có phương tiện đi lại bằng xe máy, ô tô ...và các phương tiện sinh hoạt cao cấp khác ngày càng có xu hướng tăng nhanh.
Cơ sở vật chất của các trường phổ thông đã được quan tâm đầu tư nhiều hơn nên năm học 2008-2009 cả nước có 444 nghìn phòng học cho cả ba cấp, tăng 5,4 nghìn phòng so với năm học trước. Sau một năm triển khai thực hiện Quyết định số 20/2008/QĐ-TTg ngày 01/2/2008 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án Kiên cố hoá trường lớp học và nhà công vụ cho giáo viên giai đoạn 2008-2012, đã xây dựng được 9,5 nghìn phòng học và 16,6 nghìn phòng học khác đang xây dựng, đạt 88,1% kế hoạch; 4,2 nghìn nhà công vụ đã xây dựng hoàn thành và 4,9 nghìn nhà công vụ khác đang xây dựng, đạt 93,1%.
6.1.4 Chỉ số phát triển con người
Chỉ số HDI phản ánh mức sống lâu và khỏe mạnh (đo tuổi thọ trung bình); được học hành (đo tỉ lệ biết chữ ở người lớn và tỉ lệ nhập học chung trong giáo dục) và mức sống (đo bằng thu nhập GDP theo sức mua tương đương PPP). Tuy nhiên, chỉ số này chưa phản ánh một số chỉ số lên quan khá quan trọng khác như bình đẳng giới, mức độ tôn trọng quyền con người. Như vậy, trong giai đoạn 1985-2007, mỗi năm HDI của VN tăng thêm 1,16% (từ 0,561 lên 0,725), tuy rằng có lúc nền kinh tế tăng trưởng chậm, do tác động của khủng hoảng.
Nhờ chú trọng vào giáo dục đào tạo, chăm sóc sức khoẻ, hạn chế tỷ lệ sinh ... nên chỉ số phát triển con người HDI của Việt Nam đã được cải thiện đáng kể. Chỉ số này đã tăng từ 0,464 năm 1992 lên 0,773 năm 2007 , xếp thứ 105 trong 177 nước đang xếp hạng, tăng 4 bậc so với năm 2006 .Ngoài ra so với nhiều nước có thu nhập thấp khác, Việt Nam đi đầu về các chỉ số tuổi thọ, tỉ lệ biết chữ ở người lớn. Xếp hạng tương ứng của Việt Nam ở hai chỉ số này là 56 và 57. Sáng 5/10/2009, Liệp Hợp Quốc (LHQ) đã công bố đồng loạt trên toàn cầu báo cáo Phát triển con người 2009 với số liệu lấy từ năm 2007. Theo đó, về chỉ số phát triển con người (HDI), Việt Nam xếp thứ 116/182 nước.
6.1.5 Ảnh hưởng tiêu cực của đầu tư tới các vấn đề xã hội và môi trường
Khi các dự án đầu tư được triển khai thì vấn đề giải toả và đền bù cho người dân trên những vùng đất bị quy hoạch để xây dựng nhà xưởng, văn phòng....đã được triển khai trước đó. Nếu các hoạt động trong quá trình quy hoạch không được thực hiện thoả đáng, nhiều người dân sau khi bị mất đất canh tác lại không có việc làm ...thì tất yếu những tiêu cực xã hội sẽ xảy ra.
Một số dự án đầu tư có mức độ nguy hại cao đối với mối trường tự nhiên, khi thực hiện không chỉ gây nguy hại cho môi trường sinh thái mà có thể còn gây nguy hại cao đến sức khoẻ của người dân xung quanh.
6.2 Tác động của đầu tư đến công bằng xã hội, bình đẳng giới:
Ở hầu hết các quốc gia đang phát triển, trẻ em gái được học hành ít hơn trẻ em trai. Như vậy tức là đầu tư nhiều vào giáo dục đối với nam giới đồng nghĩa với đầu tư nhiều hơn vào các ngành sử dụng nhiều lao động nam. Tuy nhiên với việc bùng nổ đầu tư, các dự án đầu tư len lỏi vào tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế thì đồng nghĩa với nó là việc mở ra nhiều cơ hội hơn đối với phụ nữ. Trình độ, nhận thức và vị thế của người phụ nữ trong gia đình, ngoài xã hội ngày càng được nâng cao.
Bất bình đẳng giới về phát triển con người càng lớn thì GDI của nước đó càng thấp so với HDI. Đối với Việt Nam, giá trị GDI là 0,732 so với HDI là 0,733, tương đương 99,9%. Trong số 156 nước có hai giá trị này, chỉ có 8 nước có tỉ số cao hơn Việt Nam.
Trong số 93 nước, Việt Nam đứng thứ 52 về chỉ số GEM, với giá trị là 0,561,đó là một thành tích lớn mà Việt Nam cần tiếp tục phát huy
7. ĐÁNH GIÁ CHUNG HIỆU QUẢ VIỆC HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ, NHẬN ĐỊNH NHỮNG MẶT CÒN HẠN CHẾ Ở VIỆT NAM
Như đã nêu ở trên đầu tư và tăng trưởng có một mối quan hệ biện chứng rất chặt chẽ với nhau. Đầu tư giúp cho nền kinh tế tăng trưởng, tăng trưởng lại là một yếu tố tạo sức hấp dẫn ngày càng lớn đối với đầu tư cả trong nước và nước ngòai. Vốn đầu tư sử dụng càng hiệu quả thì khả năng thu hút càng lớn. Thực chất đây là mối quan hệ nhân quả của các sự vật.
Thực tiễn Việt Nam trong những năm qua ở chừng mực nhất định đã chứng minh cho mối quan hệ này. Từ khi thực hiện chính sách đổi mới và mở cửa, bên cạnh thoát khỏi khủng hoảng kinh tế Việt Nam còn đạt được thành tích tăng trưởng kinh tế cao và liên tục (bình quân GDP hàng năm trong giai đoạn 1991-2005 đạt 7.5%). Điều đó làm cho khả năng huy động và khai thác sử dụng các nguồn vốn đầu tư được mở rộng về quy mô. Tốc độ gia tăng quy mô vốn đầu tư phát triển gia tăng đáng kể trung bình tăng hơn 20% 1 năm, tỷ trọng vốn đầu tư phát triển gia tăng mạnh mẽ (năm 1991 khoảng 17.6% GDP ,năm 2005 là 38.7% GDP). Trong đó cả nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngòai đều có sự chuyển biến về quy mô và tốc độ tăng trưởng – Thời Báo Kinh Tế Việt Nam, Kinh Tế 2005-2006 : Việt Nam và Thế Giới,Hà Nội,2006. Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước thực hiện tăng 88,9%. Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2009 theo giá thực tế ước tính tăng 15,3% so với năm 2008 và bằng 42,8% GDP, trong đó khu vực Nhà nước tăng 40,5%; khu vực ngoài Nhà nước tăng 13,9%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm 5,8%. Trong vốn đầu tư của khu vực Nhà nước, vốn từ ngân sách Nhà nước chiếm 21,8% tổng vốn đầu tư cả nước, đạt 106,8% kế hoạch năm.
CHƯƠNG 3.GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ VÀ XU HƯỚNG ĐẦUTƯ,TĂNG TRƯỞNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM HIỆN NAY ĐẾN NĂM 2020 .
I. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư,thúc đẩy tăng trưởng phát triển kinh tế Việt Nam .
1. Các giải pháp huy động và sử dụng nguồn vốn đầu tư có hiệu quả
1.1Tạo lập và duy trì năng lực tăng trưởng nhanh và bền vững cho nền kinh tế
Tăng trưởng kinh tế bền vững là khái niệm hiện đại để xác định mục tiêu và các nhân tố tốt cho một nền kinh tế nhờ tăng trưởng bền vững. Theo đó, tăng trưởng không chỉ hiểu đơn thuần là tăng thu nhập bình quân đầu người, mà phải gắn với phát triển bền vững, chú trọng tới cả ba nhân tố : kinh tế, xã hội và môi trường. Để duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong dài hạn, tăng thu nhập cần phải gắn với tăng chất lượng cuộc sống hay tăng phúc lợi và xóa đói nghèo. Tăng trưởng không nhất thiết phải đạt tốc độ quá cao, mà chỉ cần cao ở mức hợp lý nhưng bền vững.
1.2. Xây dựng các chính sách huy động các nguồn vốn có hiệu quả.
Để có thể huy động có hiệu quả các nguồn vốn cho đầu tư cần phải có các chính sách và giải pháp hợp lý và đồng bộ. Các chính sách và giải pháp này phải đáp ứng được các yêu cầu có tính nguyên tắc như sau:
Các chính sách và giải pháp huy động vốn cho đầu tư phải gắn liền với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn và phải thực hiện được các nhiệm vụ của chính sách tài chính quốc gia. Việc thực hiện các chính sách và giải pháp khai thác và huy động vốn phải có sự tính toán tổng hợp về khả năng cung ứng vốn và khả năng tăng trưởng của nguồn vốn trên cơ sở giải quyết hợp lý các mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dung. Các chính sách về đầu tư phải đảm bảo khuyến khích, định hướng các hoạt động thu hút cung ứng vốn nhằm huy động tổng lực của nền kinh tế cho công nghiệp hoá đất nước.
Cần phải đa dạng hoá và hiện đại hoá các hình thức và phương tiện huy động vốn. Tiếp tục mở rộng các hình thức huy động tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước từ khu vực dân cư qua hình thức phát hành trái phiếu với lãi suất và thời gian hấp dẫn. Thành lập và phát triển hệ thống quỹ đầu tư dưới nhiều hình thức khác nhau. Từng bước tiến tới gia nhập thị trường vốn trong và ngoài nước để huy động vốn cho đầu tư phát triển.
Các chính sách huy động vốn phải được tiến hành đồng bộ cả về nguồn vốn và biện pháp thực hiện. Đảm bảo sự bình đẳng, gắn bó và tạo điều kiện lẫn nhau cùng phát triển giữa các nguồn vốn. Cần tiếp tục đổi mới các chính sách động viên các nguồn tài chính cho ngân sách nhằm đảm bảo tằn cường huy động vốn một cách vững chắc, ổn định và bền vững nhưng vẫn khuyến khích các doanh nghiệp và dân cư bỏ vốn ra đầu tư. Cần quán triệt quan điểm chiến lược là thu nhưng không làm suy yếu các nguồn thu quan trọng mà phải bồi dưỡng, phát triển và mở rộng các nguồn thu một cách vững chắc, lâu bền.
1.3. Đảm bảo ổn định môi trường kinh tế vĩ mô
Sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô luôn được coi là điều kiện tiên quyết của mọi ý định và hành vi đầu tư. Về nguyên tắc, để thu hút được các nguồn vốn đầu nhằm ngày càng đáp ứng tốt hơn các yêu cầu phát triển của đất nước, phải đảm bảo được nền kinh tế đó trước hết là nơi an toàn cho sự vận động của nó và sau nữa là nơi có năng lực sinh lợi cao.
Sự ổn định kinh tế vĩ mô ở đây phải thỏa mãn yếu cầu gắn liền với năng lực tăng trưởng của nền kinh tế, hay ổn định trong tăng trưởng. Có thể đưa ra một số điều kiện cụ thể có tính nguyên tắc liên quan đến ổn định kinh tế vĩ mô và là yếu tố đảm bảo thu hút có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư:
Ổn định giá trị tiền tệ: Đây là một vấn đề quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng huy động các nguồn vốn cho đầu tư. ổn định giá trị tiền tệ ở đây bao hàm cả việc kiềm chế lạm phát và khắc phục hậu quả của tình trạng giảm phát nếu xảy ra với nền kinh tế. Trong cả hai trường hợp, nó đều có tác động tiêu cực đến nhu cầu đầu tư và đến sự tăng trưởng kinh tế.
Để đạt yêu cầu ổn định giá trị tiền tệ,cần phải tạo ra sựu vận động đồng bộ các yếu tô của nền kinh tế thị trường bao gồm cả lĩnh vực sản xuất vật chất,hệ thống tài chính và cơ chế phân phối, lưu thông tương ứng.
Bên cạnh đó, hoạt động của ngân sách nhà nước cũng có ý nghĩa quan trọng. Kiểm soát được mức thâm hụt ngân sách có thể coi là một mục tiêu tài chính trung tâm hướng tới sự ổn định kinh tế vĩ mô.
Lãi suất và tỷ giá hối đoái: Lãi suất và tỷ giá hối đoấi không chỉ ảnh hưởng đến họat động thu hút vốn đầu từ thông qua việc tạo lập ổn định kinh tế vĩ mô mà còn tác động đến dòng chảy của các nguồn vốn đầu tư và mức lợi nhuận thu được tại một thị trường xác định.
Đối với lãi suất, về mặt lý thuyết lãi suất càng cao thì xu hướng tiết kiệm càng lớn và từ đó tiềm năng của các nguồn vốn đầu tư càng cao. Bên cạnh đó, nếu mức lãi suất trên thị trường nội địa mà cao hơn tương đối so với lãi suất quốc tế thì đồng nghĩa với việc hấp dẫn trong thu hút vốn đầu tư nước ngòai.
Khi sử dụng công cụ lãi suất phải hết sức cẩn trọng để xác định mức lãi suất phù hợp, có tác động tích đến hiệu quả huy động vốn.
Đối với tỷ giá hối đoái, thực tế cho thấy rằng giá trị của đồng nội tệ càng giảm thì khả năng thu lợi từ nội tệ càng lớn. Điều này sẽ khuyến khích các nhà sản xuất đầu tư vào hàng xuất khẩu và khi đó sức hấp dẫn vốn nước ngoài cũng sẽ càng lớn. Một nước có khả năng xuất khẩu cao , khả năng trả nợ của nó cũng được đảm bảo hơn , mức độ rủi ro trong đầu tư giảm xuống và từ đó sẽ khuyến khích các nhà đầu tư bỏ vốn vào đầu tư và kinh doanh. Một tỷ giá phú hợp với tình hình phát triền của đất nược sẽ có vai trò to lớn đối với việc thu hút vốn đầu tư đặc biệt là nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
2.Các giải pháp nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng vốn đầu tư nhằm nâng cao vai trò của đầu tư với tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam.
2.1 Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thu hút, thúc đẩy giải ngân, sử dụng nguồn vốn đầu tư nước ngoài
2.1.1 Nhóm giải pháp về luật pháp, chính sách:
Chính phủ, mà trực tiếp là Bộ KH-ĐT tiếp tục rà soát pháp luật, chính sách về đầu tư, kinh doanh để sửa đổi các nội dung không đồng bộ, thiếu nhất quán, bổ sung các nội dung còn thiếu và loại bỏ các điều kiện áp dụng ưu đãi đầu tư không phù hợp với cam kết của Việt Nam với WTO.
Sửa đổi các quy định còn bất cập, chưa rõ ràng liên quan đến thủ tục đầu tư và kinh doanh. Các Bộ, ngành chủ động sửa đổi, bổ sung các nội dung thuộc thẩm quyền (Quy định về mã ngành, yêu cầu về hợp pháp hóa lãnh sự, hệ thống biểu mẫu báo cáo, cơ chế hậu kiểm, giám sát đầu tư.....); và kiến nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung các quy định thuộc thẩm quyền của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
Các Bộ, Ban, Ngành và các địa phương khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn các luật mới, nhất là các luật mới được Quốc hội thông qua trong thời gan gần đây có liên quan đến đầu tư, kinh doanh.
Các địa phương đẩy mạnh việc giám sát tình hình thi hành pháp luật về đầu tư và doanh nghiệp để kịp thời phát hiện và xử lý các vướng mắc phát sinh.
Nhà nước cần có các ưu đãi khuyến khích đầu tư đối với các dự án xây dựng các công trình phúc lợi (nhà ở, bệnh viện, trường học, văn hoá, thể thao) cho người lao động làm việc trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế.
Thực hiện các biện pháp thúc đẩy giải ngân; không cấp phép cho các dự án công nghệ lạc hậu; dự án tác động xấu đến môi trường; thẩm tra kỹ các dự án sử dụng nhiều đất, giao đất có điều kiện theo tiến độ dự án, tránh lập dự án lớn để giữ đất, không triển khai; cân nhắc về tỷ suất đầu tư/diện tích đất, kể cả đất KCN.
2.1.2. Nhóm giải pháp về quy hoạch:
Từng địa phương cần đẩy nhanh tiến độ xây dựng và phê duyệt các quy hoạch còn thiếu; rà soát để định kỳ bổ sung, điều chỉnh các quy hoạch đã lạc hậu nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư trong việc xác định và xây dựng dự án.
Quán triệt và thực hiện thống nhất các quy định mới của Luật Đầu tư trong công tác quy hoạch, đảm bảo việc xây dựng các quy hoạch ngành, lĩnh vực, sản phẩm phù hợp với các cam kết quốc tế.
Từng cấp quản lý cần hoàn chỉnh quy hoạch sử dụng đất, công bố rộng rãi quy hoạch, tạo điều kiện để đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng cho các dự án đầu tư; rà soát, kiểm tra, điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất một cách hiệu quả, nhất là đối với các địa phương ven biển nhằm đảm bảo phát triển kinh tế và môi trường bền vững.
2.1.3. Nhóm giải pháp về cải thiện cơ sở hạ tầng:
Tiến hành tổng rà soát, điểu chỉnh, phê duyệt và công bố các quy hoạch về kết cấu hạ tầng đến năm 2020 làm cơ sở thu hút đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng. Tranh thủ tối đa các nguồn lực để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, đặc biệt là nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước; ưu tiên các lĩnh vực cấp, thoát nước, vệ sinh môi trường (xử lý chất thải rắn, nước thải.v.v.); hệ thống đường bộ cao tốc, trước hết là tuyến Bắc-Nam, hai hành lang kinh tế Việt Nam-Trung Quốc; nâng cao chất lượng dịch vụ đường sắt, trước hết là đường sắt cao tốc Bắc-Nam, đường sắt hai hành lang kinh tế Việt Nam-Trung Quốc, đường sắt nối các cụm cảng biển lớn, các mỏ khoáng sản lớn với hệ thống đường sắt quốc gia, đường sắt nội đô thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh; sản xuất và sử dụng điện từ các loại năng lượng mới như sức gió, thủy triều, nhiệt năng từ mặt trời; các dự án lĩnh vực bưu chính viễn thông, công nghệ thông tin.
Mở rộng hình thức cho thuê cảng biển, mở rộng đối tượng cho phép đầu tư dịch vụ cảng biển, đặc biệt dịch vụ hậu cần (logistic) để tăng cường năng lực cạnh tranh của hệ thống cảng biển Việt Nam; kêu gọi vốn đầu tư các cảng lớn của các khu vực kinh tế như hệ thống cảng Hiệp Phước-Thị Vải, Lạch Huyện...
Chính phủ xem xét việc ban hành một số giải pháp mở cửa sớm hơn mức độ cam kết WTO đối với một số lĩnh vực dịch vụ mà nước ta có nhu cầu về văn hóa-y tế-giáo dục, bưu chính-viễn thông, hàng hải, hàng không.
2.1.4. Nhóm giải pháp về giải phóng mặt bằng:
Chính quyền địa phương cần tăng cường sự chỉ đạo các cơ quan chức năng tiến hành ngay các thủ tục thu hồi đất và thu hồi giấy chứng nhận đầu tư đối với các dự án ĐTNN không có khả năng triển khai hoặc chưa có kế hoạch sử dụng hết diện tích đất đã được giao để chuyển cho các dự án đầu tư mới có hiệu quả hơn.
Đồng thời, trong phạm vi thẩm quyền của mình, chủ động tổ chức việc đền bù giải tỏa và giao đất cho chủ đầu tư theo đúng cam kết, đặc biệt là các dự án quy mô lớn mà chủ đầu tư sẵn sàng giải ngân thực hiện dự án. Nghiên cứu đề xuất với Bộ Kế hoạch và Đầu tư phương án xử lý những vấn đề phát sinh trong quá trình triển khai dự án, vượt quá thẩm quyền của mình, để tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
2.1.5. Nhóm giải pháp về phân cấp quản lý trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài:
Qua thực tế thực hiện việc phân cấp vừa qua đã bộc lộ một số vấn đề bất cập, không phù hợp, ảnh hưởng đến quy hoạch phát triển kinh tế xã hội chung. Cần nghiên cứu để xem xét lại chủ trương phân cấp toàn diện như quy định hiện nay: việc thẩm định cấp phép và quản lý các dự án có vốn đầu tư nước ngoài được hoàn toàn nằm trong thẩm quyền của các địa phương. Vì vậy, Nhà nước cần có các biện pháp để tăng cường sự phối hợp giữa Trung ương và địa phương trong việc cấp phép và quản lý các dự án đầu tư nước ngoài.
2.1.6. Nhóm giải pháp để thu hút nguồn kiều hối.
Tạo điều kiện cho các Việt kiều về sinh sống, và làm ăn thuận lợi tại quê nhà. Đồng thời thông qua Việt kiều, thu hút thêm nhiều nguồn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam hơn nữa. Trong những năm qua nguồn kiều hối không ngừng gia tăng đã làm giảm đáng kể thâm hụt giữa tiết kiệm và đầu tư ở Việt Nam.
2.1.7. Nhóm giải pháp về xúc tiến đầu tư
Thu hút đầu tư đối với các tập đoàn đa quốc gia cũng như có chính sách riêng đối với từng tập đoàn và các đối tác trọng điểm như các quốc gia thành viên EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản...
Các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh tiếp tục rà soát, cập nhật bổ sung danh mục kêu gọi đầu tư phù hợp với nhu cầu đầu tư và quy hoạch phát triển địa phương, ngành, lĩnh vực, sản phẩm.
Nghiên cứu việc xây dựng Văn bản pháp quy về công tác Xúc tiến đầu tư nhằm tạo cơ sở pháp lý thống nhất cho công tác quản lý nhà nước, cơ chế phối hợp và tổ chức thực hiện các hoạt động Xúc tiến đầu tư.
Tổ chức khảo sát, nghiên cứu về mô hình cơ quan Xúc tiến đầu tư ở các địa phương để có cơ sở trong việc hướng dẫn các địa phương tổ chức cơ quan Xúc tiến đầu tư hiệu quả hơn.
Thực hiện tốt Chương trình xúc tiến đầu tư quốc gia giai đoạn tới. Triển khai nhanh việc thành lập bộ phận XTĐT tại một số địa bàn trọng điểm.
Tăng cường công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư nói riêng và quản lý đầu tư nói chung. Vận động và phối hợp với các tổ chức quốc tế hỗ trợ mở các lớp đào tạo về xúc tiến và quản lý ĐTNN; tiếp tục kết hợp các hoạt động xúc tiến đầu tư kết hợp các chuyến thăm và làm việc tại các nước của lãnh đạo cấp cao Đảng, Quốc hội, Chính phủ nhằm quảng bá môi trường đầu tư Việt Nam.
Phối hợp chặt chẽ và nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến đầu tư- thương mại - du lịch; khẩn trương triển khai việc thành lập các bộ phận xúc tiến đầu tư tại các địa bàn trọng điểm theo kế hoạch.
2.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn đầu tư trong nước
2.2.1 Đầu tư trọng tâm, trọng điểm tránh tình trạng đầu tư dàn trải, kéo dài gây thất thoát lãng phí các nguồn lực kinh tế đối với đầu tư sử dụng vốn nhà nước
Nhà nước cần tập trung đầu tư có trọng tâm, trọng điểm; kết hợp đồng bộ giữa đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, trang thiết bị kỹ thuật với đầu tư đào tạo nhân lực KH&CN, thực hiện dứt điểm các công trình để sớm phát huy hiệu quả đầu tư.
Đầu tư của Nhà nước tiếp tục tăng nhưng phải quản lý nghiêm ngặt, chống lãng phí, tham nhũng để nâng cao hiệu quả. Hết sức hạn chế hình thức ưu đãi trước đầu tư thường gắn với qui chế “xin - cho”, chuyển sang áp dụng rộng rãi các chính sách ưu đãi sau đầu tư, khi công trình hoàn thành đi vào hoạt động. Nhà nước thực hiện chính sách ưu đãi đầu tư theo mục tiêu, công bố rõ từng mục tiêu với các điều kiện ưu đãi cụ thể, như về sử dụng đất, vốn cho vay, thuế khi đi vào hoạt động..., đưa ra cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đấu thầu, kể cả doanh nghiệp nhà nước.
Việc cho doanh nghiệp nhà nước vay đầu tư ưu đãi không qua đấu thầu chỉ áp dụng đối với các trường hợp cần thiết như đầu tư vào công trình công ích thuộc lĩnh vực độc quyền của Nhà nước và các dự án phải tính hiệu quả tổng hợp mà doanh nghiệp nhà nước phải làm.
Các doanh nghiệp nhà nước được chủ động sử dụng nguồn vốn tự có và đi vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, nhất là đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ để nâng cao sức cạnh tranh, đồng thời phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về hiệu quả đầu tư, bảo đảm thu hồi vốn và hoàn trả nợ vay.
Chính phủ cần phải tổ chức chương trình nợ theo các tiêu chuẩn quốc tế để quản lý nợ nước ngoài một cách hiệu quả nhất và tạo ra khuôn khổ để quản lý tiền tệ một cách rõ ràng và minh bạch hơn.
2.2.2 Khuyến khích thúc đẩy tiềm năng đầu tư của thành phần kinh tế ngoài nhà nước
Việt Nam cần phải cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư, đặc biệt là khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân. Hiện tại đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân vẫn chỉ ở mức khoảng 30% trong tổng mức đầu tư toàn xã hội, thấp hơn rất nhiều so với đầu tư của nhà nước.
Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tư nhân, kể cả hộ gia đình, đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh. Kinh tế tư nhân được phát triển không hạn chế về qui mô và địa bàn hoạt động trong những ngành, lĩnh vực mà luật pháp không cấm. Chú trọng hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp ở nông thôn.
Tuy kinh tế tư nhân hoạt động theo qui mô nhỏ và vừa là chính, song gần đây đã có tư nhân trong nước có khả năng đầu tư qui mô khá lớn, kể cả xây dựng kết cấu hạ tầng; đầu tư của tư nhân ít bị thất thoát và thường đạt hiệu quả cao.
Khuyến khích kinh tế tư nhân đầu tư phát triển, đưa nguồn vốn nhàn rỗi còn lớn trong dân vào sản xuất, kinh doanh thay cho cất giữ hoặc dồn vào kinh doanh đất đai mà còn tạo được nhiều việc làm, nâng cao được hiệu quả đầu tư trong xã hội.
2.2.3 Các chiến lược đầu tư phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao, góp phần giữ vững tốc độ tăng trưởng và phát triển bền vững.
Để đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cần tạo chuyển biến cơ bản, toàn diện về giáo dục và đào tạo. Vì vậy cần thực hiện những công việc sau:
Đẩy nhanh việc triển khai kế hoạch tổng thể về đào tạo nhằm nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 40% vào năm 2010.
Tổ chức, đầu tư mạnh vào các trường đại học chất lượng, trọng điểm, nhằm đào tạo những lao động có trình độ cao. Đáp ứng cho nhu cầu ngày càng tăng của các ngành nghề và sự thay đổi như vũ bão của khoa học công nghệ.
Xây dựng đội ngũ công nhân lành nghề, các chuyên gia và nhà khoa học, nhà văn hóa, nhà kinh doanh, nhà quản lý. Tăng cường quản lý và giúp đỡ người đi học tập, nghiên cứu ở nước ngoài. Điều chỉnh chuyển dịch cơ cấu lao động theo tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Có chính sách sử dụng nhân lực KH-CN cụ thể, thiết thực:
Trẻ hoá đội ngũ cán bộ KH-CN, xoá bỏ quan niệm phải có thâm niên công tác mới được đề bạt các chức danh quan trọng. Đây đang là tư duy cản trở sự phát triển nhân lực KH-CN chất lượng cao.
Có chính sách thu hút nhân lực KH-CN chất lượng cao từ nước ngoài
Trong thời điểm hiện nay, trước sức ép về nguồn nhân lực KH-CN chất lượng cao, để đáp ứng yêu cầu phát triển, Việt Nam rất cần tận dụng tiềm năng to lớn của hơn 300.000 trí thức Việt kiều đang sinh sống ở nước ngoài. Thời gian vừa qua, chính sách thu hút nhân tài là Việt kiều đã được thực thi, song chưa đủ mạnh. Ngoài việc kêu gọi vận động, cần có những chính sách cụ thể hơn như xoá bỏ định kiến, nguồn gốc xuất thân; chế độ lương và thu nhập, chế độ mua nhà hợp pháp, chế độ học tập và làm việc cho con cái… Ngoài ra, cũng cần mạnh dạn liên kết trong nghiên cứu, hợp tác đào tạo với các viện, các trường có tên tuổi của nước ngoài để từng bước nâng tầm KH-CN nước ta …
2.2.4 Tiếp tục đầu tư phát triển khoa học công nghệ, cải tiến kỹ thuật giúp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.
Tập trung đầu tư của Nhà nước vào các lĩnh vực trọng điểm, ưu tiên, đồng thời đẩy mạnh xã hội hoá hoạt động khoa học và công nghệ.
Xây dựng và phát triển có trọng điểm một số ngành công nghiệp công nghệ cao; phát triển công nghiệp công nghệ thông tin - truyền thông, công nghiệp công nghệ sinh học trở thành các ngành kinh tế có tốc độ tăng trưởng nhanh, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu trong nước, góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu.
Tăng cường năng lực nghiên cứu phát triển công nghệ trong nước, làm chủ công nghệ hiện đại, nhanh chóng nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm chủ lực, tốc độ và chất lượng tăng trưởng của các doanh nghiệp và cả nền kinh tế.
Ứng dụng rộng rãi các tiến bộ kỹ thuật và công nghệ thích hợp cho khu vực nông thôn và miền núi, chú trọng các vùng đặc biệt khó khăn nhằm phát huy thế mạnh vùng miền, tạo việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống nhân dân.
Khuyến khích các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài tham gia nghiên cứu, ứng dụng và đầu tư phát triển KH&CN. Đẩy mạnh đa dạng hoá các nguồn đầu tư ngoài ngân sách nhà nước cho KH&CN.
2.2.5 Nâng cao năng lực quản lý, tăng cường công tác giám sát, kiểm tra cuả Chính phủ, các Bộ, các cấp các ngành trong lĩnh vực đầu tư.
Nhà nước cần hoàn thiện cơ chế, chính sách trong quản lý đầu tư, cải cách thủ tục, các quy định pháp lý. Tránh tình trạng “tuổi thọ” của các văn bản quá ngắn, cấp thực hiện không thể điều chỉnh kịp, ảnh hưởng tiến độ dự án, bị động trong kế hoạch vốn. Khắc phục sớm những ách tắc trong giải ngân vốn đầu tư, trong việc mở mang doanh nghiệp; giảm bớt các gánh nặng chi phí bất hợp lý trong kinh doanh, tạo môi trường làm ăn thông thoáng, minh bạch cho mọi thành phần kinh tế.
Cần giảm bớt những dự án đầu tư lớn không hiệu quả và chuyển dần từ đầu tư nhà nước sang đầu tư tư nhân. Việc chuyển từ đầu tư nhà nước sang đầu tư tư nhân không chỉ làm gia tăng hiệu quả vốn đầu tư mà còn làm giảm nợ của chính phủ…
2.2.6 Xây dựng các chính sách đầu tư xóa đói giảm nghèo, quỹ phúc lợi ,cải thiện môi trường, làm giảm tính bất công xã hội.
Nghèo đói,quỹ phúc lợi,môi trường là một trong những vấn đề nan giải mà mọi quốc gia trên thế giới đặc biệt là những quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam đều phải quan tâm và tìm cách giải quyết.
Việc giảm nghèo đói và tăng quỹ phúc lợi là một nhiệm vụ không kém phần quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của nước ta. Đại Hội VII của Đảng đã xác định xoá đói giảm nghèo là một trong những chương trình kinh tế xã hội vừa cấp bách trước mắt vừa cơ bản lâu dài. Đồng thời việc xoá đói giảm nghèo đòi hỏi cũng phải có những chính sách thích hợp. Một trong những chính sách giải quyết có hiệu quả nhất vấn đề xoá đói giảm nghèo đó là chính sách đầu tư xoá đói giảm nghèo.
Đầu tư xoá đói giảm nghèo là việc chi dùng vốn đầu tư để đầu tư phát triển các ngành kinh tế, đầu tư vào cơ sở hạ tầng và kết cấu hạ tầng xã hội, từng bước nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho người nghèo để giúp họ thoát khỏi cảnh nghèo đói.
Đảng ta đã khẳng định một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới là huy động mọi nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước để thực hiện tốt chương trình xoá đói giảm nghèo, nhất là đối với các vùng căn cứ địa cách mạng, vùng đồng bào dân tộc, vì đây là vùng có tỷ lệ hộ nghèo đói lớn nhất so với cả nước.
Đầu tư xoá đói giảm nghèo không chỉ là sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa cao quí, là một chính sách xã hội cơ bản của quốc gia mà nó còn có ý nghĩa to lớn cả về kinh tế chính trị và an ninh quốc phòng.
II.Xu hướng đầu tư,tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam hiện nay đến năm 2020
1.Xu hướng đầu tư Việt Nam hiện nay đến năm 2020
1.1.Đầu tư theo cơ cấu ngành kinh tế
Từ đầu thập kỉ 90 cho đến những năm 2005-2006, nhờ đẩy mạnh công nghiệp hóa, Việt Nam đã tập trung tương đối thỏa đáng cho công nghiệp(35 - 41% tổng đầu tư toàn xã hội), dịch vụ (48 - 50%), nông nghiệp(8,5 - 15%).
Cùng với những xu hướng chung của toàn thế giới và những điều kiện riêng, cụ thể của nước ta, các lĩnh vực đầu tư đang có những thay đổi theo chiều hướng tốt. Các nhà đầu tư đã đầu tư vào các ngành dịch vụ, đặc biệt là các khu vui chơi giải trí, các công trình bất động sản đã tăng mạnh. Có thể lí giải điều này là do tốc đọ tăng trưởng kinh tế Việt Nam đạt mức cao và ổn định trong thời gian qua, vì vậy các nhà đầu tư sau khi điều tra thực tế đã thấy một hướng đầu tư đầy hứa hẹn nên đã cam kết đưa vốn đầu tư vào khu vực này.
Bên cạnh đó việc đầu tư vào khu vực công nghiệp cũng có những kết quả khả quan, do vậy xu hướng đầu tư vào các ngành công nghiệp vẫn là ưu tiên của các nhà đầu tư trong tương lai, mà chủ yếu là đầu tư vào các ngành công nghiệp sử dụng lao động có hàm lượng kĩ thuật cao,như điện tử viễn thông, các phần mềm…
Nhiều dự án có quy mô lớn được các địa phương cấp phép, đặc biệt là các dự án bất động sản ngày càng nhiều như xây dựng khu nghỉ dưỡng, căn hộ bán và cho thuê, xây dựng khách sạn cao cấp…
Tuy nhiên đầu tư vào lĩnh vực nông-lâm-ngư nghiệp lại giảm, công nghiệp chế biến tăng nhưng không đáng kể.
1.2. Đầu tư theo vùng lãnh thổ
Các vùng, khu vực đều phát huy lợi thế để phát triển, tạo nên thế mạnh của mình theo cơ cấu kinh tế mở, gắn với nhu cầu thị trường trong và ngoài nước. Nhà nước tiếp tục thúc đẩy các vùng kinh tế trọng điểm phát huy vai trò đầu tàu tăng trưởng nhanh, đồng thời tạo điều kiện và đầu tư thích đáng hơn cho vùng nhiều khó khăn. Thống nhất quy hoạch phát triển trong cả nước, giữa các vùng, tỉnh, thàh phố, tạo sự liên kết trực tiếp về sản xuất, thương mại, đầu tư, giúp đỡ kỹ thuật vè nguồn nhân lực, Nâng cao trình độ dân trí và đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của vùng và khu vực, gắn chặt phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ, cải thiện môi trường và quốc phòng an ninh.
Khu vực đô thị: Phát huy vai trò của các trung tâm hành chính, kinh tế, văn hoá trên từng vùng và địa phương, đi nhanh trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ, đi đầu trong việc phát triển kinh tế tri thức. Tạo vành đai nông nghiệp hiện đại ở các thành phố lớn. Quy hoạch mạng lưới đô thị với một số ít thành phố lớn, nhiều thành phố vừâ và hệ thống đô thị nhỏ phân bố hợp lý trên các vùng, chú trọng phát triển đô thị miền núi. Xây dựng và nâng cấp kết cấu hạ tầng đồng bộ theo quy hoạch. Đưa việc quy hoạch và quản lý đô thị vào nền nếp, ngày càng xanh sạch văn minh. Hoàn thiện quy hoạch giao thông lâu dài hợp lý ở tất cả các đô thị, khắc phục tình trạng ách tắc giao thông ở các đô thị lớn. Cung cấp đủ nước sạch thoát nước và xử lý hệ thống nước thải, xoá nhà tạm bợ. Đẩy lùi các tệ nạn xã hội, xây dựng đời sống văn hoá, tinh thần lành mạnh.
Khu vực nông thôn đồng bằng: Phát triển nông nghiệp sinh thái đa dạng trên nền cây lúa, cây rau, quả, chăn nuôi, thuỷ sản và ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ trong sản xuất, chế biến, bảo quản, tiêu thụ sản phẩm. Hoàn thành điện khí hoá và thực hiện cơ giới hoá ở những khâu cần thiết. Nâng cao nhanh thu nhập trên một đơn vị diện tích nông nghiệp. Chuyển nhiều lao động sang khu vực công nghiệp và dịch vụ. Phát triển mạnh tiểu thủ công nghiệp, các làng nghề, mạng lưới công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản và các địch vụ.
Khu vực nông thôn trung du miền núi: Phát triển mạnh cây dài ngày, chăn nuôi đại gia súc và công nghiệp chế biến. Bảo vệ và phát triển vốn rừng. Hoàn thành và ổn định vững chắc định canh, định cư. Bố trí lại dân cư, lao động theo quy hoạch đi đôi với xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội để khai thác có hiệu quả các nguồn tài nguyên. Phát triển kinh tế trang trại. Giảm bớt khoảng cách phát triển với nông thôn đồng bằng. Có chính sách đặc biệt phát triển kinh tế - xã hội ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, cửa khẩu.
Khu vực biển và hải đảo: Xây dựng chiến lược phát triển kinh tế biển và hải đảo, phát huy thế mạnh đặc thù của hơn 1 triệu km2 thềm lục địa. Tăng cường điều tra cơ bản làm cơ sở cho các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế biển. Đẩy mạnh nuôi trồng và khai thác, chế biến hải sản, thăm dò khai thác chế biến dầu khí, phát triển đóng tàu thuyền và vận tải biển , mở mang du lịch, bảo vệ môi trường, tiến mạnh ra biển và làm chủ vùng biển. Phát triển tổng hợp kinh tế biển và ven biển, khai thác lợi thế của các khu vực cửa biển để tạo thành vùng phát triển cao, thúc đẩy các vùng khác. Xây dựng căn cứ hậu cần ở một số đảo để tiến ra biển khơi. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh trên biển.
1.3. Đầu tư theo các thành phần kinh tế
Trước cải cách kinh tế, khi nói đến đầu tư thì đó là đầu tư của Nhà Nước nhưng sau đổi mới đã xuất hiện các thành phần kinh tế khác như: Tư nhân, nước ngoài… Mặc dù kinh tế Nhà Nước vẫn đóng vai trò chủ đạo tuy nhiên đóng góp của tư nhân ngày càng rõ nét hơn và đầu tư của nước ngoài cũng ngày càng có nhiều đóng góp hơn vào GDP.
Trong những năm gần đây, cùng với sự tăng trưởng kinh tế nói chung quy mô tổng ngân sách nhà Nước không ngừng tăng thêm nhờ mở rộng nhiều nguồn thu khác nhau. Đi cùng sự mở rộng NSNN mức chi cho đầu tư phát triển từ NSNN cũng tăng đáng kể. Tuy nhiên trong những năm tiếp theo, vốn đầu tư từ NSNN có chiều hướng tăng về giá trị tuyệt đối nhưng lại có xu hướng giảm tỉ trọng trrong vốn đầu tư toàn xã hội.nguồn vốn tín dụng của Nhà Nước cũng ngày càng đóng vai trò quan trọng trong chính sách đầu tư của chính phủ, trong những năm tiếp, nguồn vốn này sẽ có xu hướng cải thiện về mặt chất lượng và sẽ có nhiều phương thức tài trợ hơn nhưng tỉ trọng sẽ không có sự gia tăng đáng kể, sẽ tập trung vào nững ngành nghề có hiệu quả về kinh tế hay xã hội. Nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp Nhà Nước chủ yếu là đầu tư chiều sâu,mở rộng sản xuất, đỏi mới công nghệ hóa thiết bị dây chuyền công nghệ hiện đại của doanh nghiệp.
Vốn ODA chuyển vào Việt Nam ngày càng nhiều, trong đó khoản viện trợ không hoàn lại chiếm khoảng 15 - 20% . Việc sử dụng nguồn vốn này một cách hiệu quả đang là yêu cầu cấp bách của Nhà Nước ta sau những vụ bê bối gần đây. Tuy nhiên cùng với sự nỗ lực của Chính phủ và với sự đôn đốc kiểm tra chặt chẽ của nhân dân thì nguồn vốn này ngày càng được sử dụng một cách hiệu quả, chủ yếu được sử dụng vào các ngành nghề như thủy lợi, thủy sản, nông lâm nghiệp, xóa đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường, GD - ĐT, y tế…Cùng với sự kiện gia nhập WTO của Việt Nam thì sự gia tăng của FDI là một điều rất dễ thấy, càng có nhiều ngành nghề mà FDI đổ vào hơn.Tuy nhiên việc FDI đổ vào Việt Nam một cách dàn trải đang là bài toán nan giải cho các nhà lãnh đạo, việc cho phép những dự án nào hay phải từ bỏ những dự án nào cũng là những thử thách của nền kinh tế Việt Nam hiện nay và trong tương lai.
2.Xu hướng tăng trưởng và phát triển kinh tế Viêt Nam hiện nay đến năm 2020
2.1. Đối với tăng trưởng kinh tế
Theo dự báo của cơ quan tình báo kinh tế Anh(EUI), tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2006 - 2010 đạt 7% so với mức bình quân thế giới là 4%. Tuy nhiên, trong giai đoạn 2011 - 2020 nếu không có những chính sách kinh tế mang tính đột phá thì tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình Việt Nam được dự báo sẽ sụt giảm đáng kể, chỉ đạt 4,6%.Do đó tốc độ tăng trưởng trung bình giai đoạn 2006-2020 chỉ đạt mức 5,4 % mặc dù cao hơn mức trung bình của Châu Á nhưng vẫn thấp hơn Ấn Độ, Pakixtan, Trung Quốc. Trong giai đoạn 2008-2020, mặc dù còn nhiều khó khăn cho cả nền kinh tế thế giới cũng như nền kinh tế Việt Nam nhưng với những chính sách phát triển nền kinh tế nội tại, đạt được những kết quả đáng kể và có được vị thế quan trọng nhất định trong tương lai gần.
Cũng theo EUI, tốc độ tăng GDP, GDP bình quân đầu người giai đoạn 2006-2020 của một số nước trên thế giới như sau:
Dự báo tốc độ tăng GDP, GDP bình quân đầu người giai đoạn 2006-2020
Đơn vị: %
Nước/Khu vực
Tốc độ tăng GDP
Tốc độ tăng GDP
bình quân đầu người
2006-2010
2011-2020
2006-2020
2006-2010
2011-2020
2006-2020
Thế giới
4,0
3,3
3,5
2,7
2,4
2,5
EU25
2,2
2,0
2,1
2,0
2,0
2,0
EU15
2,0
2,0
2,0
1,7
1,9
1,8
Châu Á
5,5
4,5
4,9
4,5
3,6
3,9
Châu Mỹ Latinh
3,6
3,0
3,2
2,4
2,1
2,2
Trung Đông và Bắc Phi
4,4
3,8
4,0
2,7
2,4
2,5
Cận Xahara
3,5
2,5
2,8
2,0
1,2
1,4
Mỹ
3,0
2,8
2,9
2,0
1,8
1,9
Pháp
2,0
1,8
1,9
1,6
1,6
1,6
Đức
1,8
1,9
1,9
1,7
2,0
1,9
Italia
1,5
0,8
1,0
1,5
1,0
1,2
Thổ Nhĩ Kỳ
4,9
4,1
4,4
3,6
3,3
3,4
Anh
2,1
2,4
2,3
1,7
2,0
1,9
Cộng hoà Séc
4,1
2,4
3,0
4,2
2,6
3,1
Hungary
3,3
3,1
3,2
3,6
3,4
3,5
Ba Lan
4,1
3,0
3,3
4,2
3,0
3,4
Rumani
4,5
3,3
3,7
4,7
3,5
3,9
Nga
4,7
2,6
3,3
5,1
3,0
3,7
Xlôvakia
5,3
3,5
4,1
5,1
3,4
4,0
Ucraina
5,7
3,5
4,2
6,3
3,9
4,7
Nhật Bản
1,1
0,5
0,7
1,2
0,8
0,9
Trung Quốc
7,8
5,1
6,0
7,2
4,5
5,4
Ấn Độ
6,6
5,5
5,9
5,2
4,3
4,6
Inđônêxia
5,6
5,0
5,2
4,2
3,9
4,0
Malaixia
5,3
4,8
5,0
3,4
3,1
3,2
Pakixtan
5,9
5,3
5,5
4,0
3,6
3,7
Philipin
5,2
4,7
4,9
3,4
3,1
3,2
Xingapo
4,5
4,0
4,1
3,6
3,4
3,5
Hàn Quốc
4,0
3,9
4,0
3,6
3,6
3,6
Đài Loan (TQ)
4,5
3,4
3,8
4,2
3,0
3,4
Thái Lan
4,5
4,7
4,7
3,8
4,2
4,1
Việt Nam
7,0
4,6
5,4
5,7
3,4
4,2
Áchentina
3,8
3,4
3,6
2,7
2,7
2,7
Braxin
3,9
2,9
3,2
2,6
2,1
2,3
Côlômbia
3,7
2,8
3,1
2,1
1,6
1,8
Chilê
5,2
4,3
4,6
4,0
3,5
3,7
Mêhicô
2,8
3,0
2,9
1,6
1,9
1,8
Nguồn: Cơ quan tình báo kinh tế Anh (EIU).
2.2. Đối với thương mại
Trong giai đoạn 2011 - 2020, nền kinh tế thế giới nói chung và nền kinh tế từng quốc gia phát triển nói riêng là cơ hội tốt cho xuất khẩu Việt Nam do cầu đối với hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam ngày càng cao. Bên cạnh đó, thị trường tiềm năng hàng xuất khẩu Việt Nam sẽ rất lớn.Tuy nhiên xuất khẩu Việt Nam sẽ gặp sức ép cạnh tranh không nhỏ từ các nước ASEAN và các nước láng giềng Châu Á. Trong điều kiện năng lực cạnh tranh còn thấp, việc mất thị trường sân nhà là hoàn toàn có thể xảy ra, đặc biệt là đối với những hàng hóa có hàm lượng kĩ thuật công nghệ cao, Việt Nam là nước đi sau nên sẽ có nhiều khó khăn thách thức. Trong khuôn khổ WTO, là nước bị coi là có nền kinh tế phi thị trường sau 12 năm gia nhập (2007-2019),Việt Nam chắc chắn sẽ gặp những khó khăn hơn các nước trong cạnh tranh thương mại giải quyết theo luật định của WTO. Do vậy trong tương lai Việt Nam cần chú ý kết hợp hài hòa giữa hợp tác song phương, đa phương, và hợp tác quốc tế, cần chọn những giải pháp, những đối sách cụ thể đúng đắn thích hợp với sự phát triển của các đối tác.
2.3. Đối với các ngành kinh tế
- Công nghiệp: Tỉ lệ ngành công nghiệp chế tác sẽ tăng lên. Bên cạnh đó xu hướng dịch vụ ngoại biên chuyển công nghệ ra ngoài cũng tác động tích cực đến công nghệ Việt Nam, biến Việt Nam thành cơ sở sản xuất, lắp ráp cho các nước phát triển.
Do đó việc chọn lựa và ưu tiên phát triển những ngành công nghiệp trọng điểm là rất cần thiết: Việt Nam cần tập trung nguồn lực phát triển một số ngành, lĩnh vực trọng điểm để có thể tạo ra bước phát triển nhảy vọt, phát huy tối đa lợi thế của Việt Nam trong phát triển kinh tế. Các ngành trọng điểm cần là những ngành có thế mạnh, có điều kiện phát triển ở Việt Nam, có khả năng thu hút nhiều lao động, tạo ra giá trị gia tăng cao, áp dụng quy trình công nghệ tiên tiến, hướng ra xuất khẩu. Ngoài ra, việc đánh giá, lựa chọn những ngành, lĩnh vực ưu tiên, mũi nhọn cần tiến hành trên cơ sở áp dụng các phương pháp định lượng, mang tính đo lường cụ thể
- Dịch vụ: Sẽ có thêm nhiều loại hình dịch vụ mới trong các lĩnh vực ngân hàng, tài chính, bảo hiểm. Các nhà đầu tư nước ngoài sẽ tham gia rất nhiều vào các lĩnh vực này, do đó, ngành dịch vụ Việt Nam sẽ phát triển rất mạnh, đa dạng về sản phẩm, góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 2011-2020.
Đặc biệt VIệt Nam đang tích cực nỗ lực cho một nền kinh tế tri thức: Cùng với xu thế chung của thế giới, Việt Nam đang hướng tới việc phát triển kinh tế tri thức. Nhiều nước phát triển trên thế giới hiện nay đã đạt đến trình độ phát triển cao, trong đó tri thức, công nghệ trở thành động lực phát triển kinh tế chính, tạo ra sức sản xuất, năng suất lao động vượt trội. Để có thể phát triển nhanh, bền vững và bắt kịp với những nước đó, Việt Nam tất yếu phải phát triển những ngành, lĩnh vực dựa trên tri thức, khoa học và công nghệ cao.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 26043.doc