Đề tài Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty TNHH chứng khoán ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam

Tổng quan về công ty chứng khoán và hiệu quả kinh doanh của công ty chứng khoánMỤC LỤC CHƯƠNG 1 1 TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY CHỨNG KHOÁN VÀ HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN 1 I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 1 1.Vai trò của thị trường chứng khoán đối với nền kinh tế thị trường. 1 2. Nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán 3 3. Hàng hoá trên thị trường chứng khoán. 5 4. Chủ thể tham gia thị trường chứng khoán 6 II. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG TY CHỨNG KHOÁN. 7 1. Mô hình tổ chức công ty chứng khoán. 7 Mô hình công ty chuyên doanh chứng khoán: 7 Mô hình công ty đa năng: 8 2. Cơ cấu tổ chức của công ty chứng khoán 8 3. Các loại công ty chứng khoán 11 4. Vai trò của công ty chứng khoán 12 5. Các nghiệp vụ cơ bản của công ty chứng khoán. 14 5.1. Nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán của công ty chứng khoán. 14 5.2. Các nghiệp vụ phụ trợ của công ty chứng khoán 18 5.3. Nguyên tắc hoạt động và đạo đức nghề nghiệp. 19 III. HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG 22 1. Đánh giá hiệu quả kinh doanh của công ty chứng khoán 22 1.1. Chỉ tiêu định lượng 23 Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn: 23 Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng chi phí kinh doanh : 23 Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng của từng loại tài sản: 24 Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu: 24 1.2. Chỉ tiêu định tính. 25 2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh chứng khoán. 25 CHƯƠNG 2 30 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY TNHH CHỨNG KHOÁN NGÂN HÀNG NO&PTNT VIỆT NAM. 30 I. HOẠT ĐỘNG CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM THỜI GIAN QUA. 30 II. CÔNG TY TNHH CHỨNG KHOÁN NGÂN HÀNG NO&PTNT VIỆT NAM. 33 1. Giới thiệu về công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng NO&PTNT Việt Nam. 33 2. Thực trạng hoạt động kinh doanh của AGRISECO. 43 Nghiệp vụ tự doanh: 43 Tự doanh chứng khoán chưa niêm yết: 43 Tự doanh cổ phiếu, trái phiếu niêm yết: 44 Nghiệp vụ môi giới: 44 Nghiệp vụ lưu ký chứng khoán: 46 Nghiệp vụ tư vấn: 46 Các dịch vụ hỗ trợ khác: 48 3. Đánh giá hiệu quả kinh doanh của công ty 48 3.1. Kết quả đạt được. 48 3.2. Những hạn chế 54 3.3. Nguyên nhân. 56 CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÔNG TY TNHH CHỨNG KHOÁN NGÂN HÀNG NO&PTNT VIỆT NAM 59 I. ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG CỦA UBCKNN VÀ CỦA AGRISECO TRONG THỜI GIAN TỚI. 59 1. Định hướng của UBCKNN. 59 2. Định hướng của AGRISECO 61 II. NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN CỦA AGRISECO. 63 III. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH TẠI CÔNG TY CHỨNG KHOÁN NHNo & PTNT VIỆT NAM 67 1. Kế hoạch hoá hoạt động Marketing. 68 2. Hiện đại hoá cơ sở vật chất, phương tiện hoạt động kinh doanh. 73 3. Xây dựng chiến lược về nguồn nhân lực. 73 4. Tăng cường xây dựng các mối quan hệ công ty chứng khoán nước ngoài. 75 5. Nâng cao năng lực phân tích thị trường. 76 6. Sử dụng “Chinese Wall”-Bức tường hồi âm. 77 IV. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ. 78 1. Kiến nghị với Chính phủ. 79 1.1. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý. 79 1.2. Ưu đãi thuế cho hoạt động chứng khoán 81 2. Kiến nghị với Uỷ ban chứng khoán Nhà nước và trung tâm giao dịch chứng khoán. 82 2.1. Giám sát và quản lý vốn khả dụng đối với công ty chứng khoán 82 Tổng nợ điều chỉnh 83 2.2.Quy định về chế độ báo cáo và công khai hoá thông tin 84 2.3. Tuyên truyền và đào tạo kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán 86 2.4. Thành lập Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán 87 III. KIẾN NGHỊ VỚI NGÂN HÀNG NO&PTNT VIỆT NAM. 87 1. Tăng định biên cho công ty. 87 2. Mở chi nhánh ở Đà Nẵng. 87 3. Đào tạo nước ngoài. 88

doc96 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1773 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty TNHH chứng khoán ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
005), trong giai đoạn này, AGRISECO sẽ tích luỹ kinh nghiệm trong kinh doanh chứng khoán, cẩn trọng, bảo toàn vốn, góp phần làm sôi động thị trường chứng khoán và khẳng định uy tín của AGRISECO trên thị trường chứng khoán. Đến giai đoạn 2005-2010 là giai đoạn phát triển công ty. AGRISECO đã đề ra nhiệm vụ khá rõ ràng cho giai đoạn 2001-2010. Đó là ổn định cơ cấu tổ chức, cơ cấu các phòng ban trong công ty với một bộ máy điều hành đảm bảo thích ứng nhạy bén với tình hình thị trường, nội bộ vững mạnh, tạo thành một khối đoàn kết nhất trí. Triển khai và phát triển các hoạt động với phương châm: “An toàn, hiệu quả, bảo toàn vốn”, từng bước nâng cao uy tín của công ty và mở rộng thị phần trên thị trường. Đảm bảo kinh doanh có bài bản và hiệu quả. Tính bài bản thể hiện ở kinh doanh phải có chiến lược cho giai đoạn dài hạn và có kế hoạch cho từng thời kỳ ngắn hạn, kèm theo chiến lược phải có các chính sách mang tính tổng thể, dài hạn và hướng vào các yếu tố chủ chốt của kinh doanh, mọi đề án, phương án kinh doanh phải được định hướng bởi các chính sách và chiến lược kinh doanh. Kinh doanh bài bản còn có nghĩa là phải xét đến tổng thể các yếu tố của quá trình kinh doanh: con người, công nghệ và quy trình quản lý. Kinh doanh hiệu quả thể hiện ở đảm bảo lấy thu bù chi, tạo điều kiện cho việc tăng vốn, nâng cấp công nghệ và tăng cường về cán bộ, đồng thời chú trọng đến công tác kế toán, chi tiêu và kiểm tra kiểm soát. Mọi đề án, phương án kinh doanh đều phải nêu rõ hiệu quả kinh tế. Xúc tiến mạnh công tác đào tạo tuyển dụng để xây dựng một đội ngũ cán bộ vững về chuyên môn nghiệp vụ, có tâm huyết, giúp công ty nắm bắt kịp thời những cơ hội, thời cơ kinh doanh cũng như vượt qua những khó khăn thử thách tiềm ẩn trên thị trường. Hoàn thiện hệ thống văn bản làm khung pháp lý cho mọi hoạt động nghiệp vụ, đảm bảo mọi hoạt động trên đều phù hợp với quy định của pháp luật. Với nhiệm vụ trên, AGRISECO cũng đã đề ra mục tiêu cụ thể cho giai đoạn này như sau: Sau 9 năm xây dựng, AGRISECO sẽ là công ty chứng khoán hàng đầu của Việt Nam, ngang bằng với khu vực. Với các con số cụ thể: Phát triển về quy mô khách hàng: Với kế hoạch phát triển mạng lưới, chính sách khách hàng và chính sách sản phẩm, công nghệ, AGRISECO đặt mục tiêu là chiếm lĩnh 25% thị phần, trong đó, khách hàng ở ngoài khu vực Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh dự định chiếm 30%. Phát triển về địa bàn hoạt động: Dự định kết thúc giai đoạn kiện toàn công ty sẽ có phòng giao dịch và đại lý nhận lệnh ở các thành phố lớn gồm: Hải Phòng, Vinh, Huế, Đà Nẵng và Cần Thơ. Mạng lưới đại lý nhận lệnh sẽ được mở đến hầu hết các thành phố và thị xã. Phát triển về kinh doanh và sản phẩm: Công ty phấn đấu đến cuối giai đoạn kiện toàn sẽ triển khai toàn bộ 5 nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán. Đồng thời, nghiệp vụ cho thuê két sắt sẽ đi vào hoạt động. Phát triển về uy tín và lợi nhuận: AGRISECO sẽ là công ty chứng khoán độc quyền kinh doanh chứng khoán ở địa bàn ngoài Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh với tinh thần trở thành công ty chứng khoán của nông thôn, nông nghiệp và nông dân. Lợi nhuận dự tính tăng với tốc độ 50%/ năm. Nhằm đạt được những mục tiêu chiến lược và các chỉ tiêu kế hoạch nêu trên, trong 3 năm tới công ty sẽ tập trung triển khai các chính sách về khách hàng, chính sách sản phẩm và công nghệ. Chính sách khách hàng được tập trung vào các khâu: quảng cáo, tiện ích và chế độ ưu đãi về phí. Từ chính sách khách hàng, AGRISECO triển khai chính sách sản phẩm và công nghệ, trong đó, tập trung vào các việc: Đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm mà cụ thể là cung cấp các sản phẩm có hàm lượng thông tin cao, thời gian đáp ứng nhanh nhất và với một văn hoá kinh doanh mang đậm tính công nghiệp. Đồng thời công ty chuẩn bị một số cán bộ tinh thông nghiệp vụ để cung cấp các thông tin phân tích, đánh giá chất lượng cao, xây dựng các chương trình phần mềm tiên tiến với các phương pháp dự báo, dự đoán và ra quyết định có sử dụng Toán tài chính ở mức tiên tiến trong việc cung cấp các sản phẩm nói trên. II. NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN CỦA AGRISECO. Quá trình huy động vốn cho nền kinh tế thông qua việc phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công trình và trái phiếu công ty, cũng như việc phát hành cổ phiếu của các công ty cổ phần đòi hỏi phải có nhưng tổ chức kinh tế thực hiện việc phát hành, làm đại lý mua bán nhằm tạo tính thanh khoản cho các công cụ nợ này. Chính vì vậy, các công ty chứng khoán được coi là chủ thể chính trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Các tổ chức kinh tế Việt Nam đã thành lập hay có dự định thành lập đều có những thuận lợi nhất định. Các tổ chức này đều nhận được sự hỗ trợ của các cơ quan hữu quan, đặc biệt là Uỷ ban chứng khoán Nhà Nước. Các văn bản pháp lý cơ bản đã được ban hành. Trong 2 năm hoạt động đầu tiên, các khoản thuế, phí, lệ phí hoạt động kinh doanh đều không phải nộp. Quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước tiếp tục được đẩy mạnh theo hướng gắn chặt quá trình cổ phần hoá với quá trình phát hành cổ phiếu ra công chúng thông qua các công ty chứng khoán. Nhà nước mở thị trường Chứng khoán Bảng II tại Hà Nội dành cho các chứng khoán chưa đủ điều kiện niêm yết tại trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh. Giao dịch trên thị trường chứng khoán tập trung được mở rộng dẫn đến quy mô và phương thức quốc tế như: khớp lệnh nhiều lần, mức ký quỹ giảm, biên độ dao động tăng... Cùng với tất cả điều đó, nền kinh tế Việt Nam bất chấp kinh tế thế giới suy giảm vẫn đang đà phát triển mạnh. Tổng sản phẩm quốc nội năm 2002 ước đạt 541 nghìn tỷ đồng, tăng 7,04% so với năm 2001. Với kết quả đó, Việt Nam đươc xếp vào nhóm nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất (cùng với Trung Quốc và Hàn Quốc). Đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp dân cư được cải thiện. Cho đến nay, thu nhập tăng khoảng 10% so với 10 năm trước. Kinh tế phát triển, thị trường và giá cả ổn định tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội, đồng thời cũng là điều kiện thuận lợi để thị trường chứng khoán phát triển. Một trong những điều kiện hàng đầu của ngân hàng No&PTNT Việt Nam là đa dạng hoá sản phẩm, mở rộng các dịch vụ, nghiệp vụ ngoài tín dụng, trong đó “kinh doanh chứng khoán vừa tập dượt đáp ứng yêu cầu hiện đại, vừa chuẩn bị nguồn lực cho hoạt động lớn hơn và hướng tới xây dựng thành tập đoàn tài chính vào những năm tiếp theo”. AGRISECO được đầu tư 100% vốn từ ngân hàng No&PTNT Việt Nam-một ngân hàng có hoạt động tốt nhất hiện nay, với mạng lưới khách hàng rộng khắp trên toàn quốc. AGRISECO ra đời thừa kế được bề dày hoạt động của ngân hàng mẹ, hiện có tới ? chi nhánh tại các tỉnh, thành phố, quận huyện trong cả nước và có quan hệ đại lý với ? ngân hàng, tổ chức tài chínhvà đang tài trợ cho nhiều dự án lớn trong và ngoài nước. Ngân hàng No& PTNT Việt Nam cũng là một trong những đơn vị hoạt động tích cực trong thị trường chứng khoán. Những dịch vụ của ngân hàng mẹ cũng giúp ích rất nhiều cho AGRISECO trong bước đầu hoạt động của mình. Mặt khác, AGRISECO có đội ngũ cán bộ trẻ, tư cách đạo đức tốt, năng động, sáng tạo, được đào tạo bài bản và có giấy phép hành nghề. Đây cũng là điểm thuận lợi cho công ty trong quá trình kinh doanh của mình. Tuy nhiên, với một thị trường chứng khoán hoạt động còn ở mức “sơ khai”, trình độ hiểu biết của người dân còn hạn chế và cơ chế quản lý còn nhiều bất cập thì cùng với những công ty chứng khoán khác, AGRISECO phải đối mặt với rất nhiều khó khăn. Cho đến nay, trên thị trường đã có 10 công ty chứng khoán được cấp giấy phép hoạt động. Sắp tới, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước còn dự định cấp giấy phép cho 2-3 công ty nữa, vì vậy, AGRISECO sẽ đối mặt với tình hình cạnh tranh rất gay gắt. Thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn chưa hội tụ đủ điều kiện về khung pháp lý, số lượng công ty niêm yết còn ít, do vậy tình hình vẫn chưa được cải thiện căn bản. Hiện nay, giá trị mỗi phiên giao dịch rất thấp, các công ty chứng khoán lại rơi vào tình trạng khó khăn, bởi vì các khoản thu chủ yếu từ nghiệp vụ môi giới, các nghiệp vụ khác lại chưa phát triển. Thêm vào đó sự hiểu biết về chứng khoán và thị trường chứng khoán của các nhà kinh tế và hoạch định chính sách, chủ doanh nghiệp còn rất “khiêm tốn”, các công ty ngại lên sàn giao dịch, vì vậy trong hơn 100 doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn niêm yết thì chỉ có 21 công ty niêm yết. Diễn biến giá trên thị trường rất phức tạp, khó dự đoán. Thời gian đầu giá tăng liên tục nhưng khối lượng bán lại rất ít, ngược lại khi thị trường xuống dốc liên tục giá giảm thì lại bán ra nhiều mà không mua. Điều này làm cho các công ty chứng khoán thực sự khó khăn. Đồng thời, khi thị trường hoạt động tẻ nhạt, kém sôi động cũng tác động không ít đến tâm lý của nhân viên công ty. Cảm giác buồn tẻ trên sàn giao dịch đã phần nào khiến các nhân viên mất đi cảm giác hào hứng và hăng say làm việc. Mặt khác, mặc dù khung pháp lý cho hoạt động của thị trường chứng khoán đã được ban hành nhưng vẫn chưa thực sự hoàn chỉnh, mới chỉ có nghị định là văn bản pháp lý cao nhất điều chỉnh hoạt động về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Một số điểm liên quan đến phát hành chứng khoán chưa được quy định rõ như: việc phát hành và niêm yết chứng khoán của các ngân hàng thương mại cổ phần... Bên cạnh đó, các quy định về công khai sản xuất- kinh doanh, cơ cấu sở hữu, bộ máy quản trị của doanh nghiệp chưa được áp dụng một cách rộng rãi, hoạt động kinh doanh của hầu hết các công ty chứng khoán và các chủ thể khác tham gia cung cấp dịch vụ trên thị trường đều bị thua lỗ mà chưa tìm ra biện pháp khắc phục. Theo đánh giá của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước thì AGRISECO là thứ 8 trong 10 công ty chứng khoán (chỉ ra đời trước công ty chứng khoán ngân hàng Ngoại thương và công ty cổ phần chứng khoán Đệ Nhất), số cán bộ ít song đạt lợi nhuận cao, trong khi các công ty chứng khoán khác đang bị thua lỗ. Với 60 tỷ vốn điều lệ được cấp ban đầu, công ty vẫn chưa triển khai tất cả các nghiệp vụ được phép do thiếu vốn và thiếu người. Công ty cần vốn để thực hiện các kế hoạch và đề án kinh doanh đã đề ra. AGRISECO đã đệ trình 2 đề án lớn là đề án Đưa chứng khoán về nông thôn và Thành lập Quỹ hỗ trợ cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước vừa và nhỏ ở nông thôn. Căn cứ vào phê duyệt của Tổng giám đốc, theo tinh thần đề án, để triển khai bảo lãnh phát hành cho 1.500 doanh nghiệp Nhà nước vừa và nhỏ, công ty cần có số vốn là 300 tỷ đồng. Khi tiến hành nghiệp vụ bảo lãnh phát hành, nếu không đủ vốn, các công ty chứng khoán phải liên kết để thực hiện hợp đồng bảo lãnh, trong đó, công ty nào có vốn điều lệ lớn sẽ đóng vai trò “cầm chịch”. Thực tế cho thấy, vốn càng lớn thì càng có lợi và sức cạnh tranh càng cao. Do vậy, hiện tại, AGRISECO vẫn còn thiếu vốn, đây cũng là một khó khăn của công ty. Mặt khác, AGRISECO vẫn có hệ thống cán bộ công nhân viên còn quá mỏng. Toàn công ty có 30 cán bộ công nhân viên ở cả trụ sở chính tại Hà Nội và chi nhánh ở thành phố Hồ Chí Minh. Khi Nhà nước mở thêm Trung tâm giao dịch chứng khoán tại Hà Nội nghĩa là công việc về đại thể sẽ tăng gấp đôi, trong đó có 3 người phải nhập lệnh hàng ngày tại sàn. Cùng với điều đó, khi mạng lưới chi nhánh mở rộng cần cán bộ làm việc tại chi nhánh và quản lý các đại lý nhận lệnh, khi chuyển giai đoạn cần cán bộ để mở rộng các phòng và bổ sung cán bộ cho các bộ phận hiện mới bắt đầu triển khai. Với số lượng cán bộ công nhân viên như hiên nay, thực sự AGRISECO gặp rất nhiều khó khăn. AGRISECO là công ty chứng khoán trực thuộc Ngân hàng No&PTNT Việt Nam. Nhưng cho đến nay, AGRISECO vẫn chưa được cư xử như đối với chi nhánh cấp I, chưa đáp ứng hết tinh thần là một công ty TNHH một thành viên. Theo công văn 824/NHNO- TCKT ngày 08/4/2002 của Ngân hàng No&PTNT Việt Nam thì AGRISECO vẫn phải chuyển đổi tài khoản để hoà chung vào cân đối của Ngân hàng mẹ. Đây là vấn đề rất khó khăn về cơ chế quản lý mà AGRISECO gặp phải. AGRISECO vẫn phải chịu quy chế riêng của Ngân hàng No&PTNT Việt Nam. III. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH TẠI CÔNG TY CHỨNG KHOÁN NHNo & PTNT VIỆT NAM Sau khi nghiên cứu những điều kiện thuận lợi, những mặt còn hạn chế và nguyên nhân dẫn tới điều đó, chúng ta thấy rằng AGRISECO cần phải có những biện pháp để khắc phục khó khăn nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty. 1. Kế hoạch hoá hoạt động Marketing. Để đáp ứng mục tiêu mở rộng thị phần cũng như nâng cao uy tín của mình trên thị trường, AGRISECO cần phải phát triển mạnh công tác kế hoạch hoá hoạt động Marketing và xây dựng những nội dung cụ thể để có thể thực hiện tốt hoạt động này. Mục tiêu của hoạt động Marketing phục vụ chung cho mục tiêu chung của công ty trong tương lai, cụ thể là nhằm vào khách hàng tiềm năng của công ty, thu hút được càng nhiều khách hàng càng tốt. Khách hàng ở đây không chỉ đơn thuần là các nhà đầu tư cá nhân mà còn là các tổ chức kinh tế có ý định tham gia thị trường chứng khoán. Khi đã xác định được mục tiêu của hoạt động, bước tiếp theo là tiến hành phân đoạn thị trường. Đoạn thị trường được hiểu là một nhóm các nhà đầu tư có phản ứng như nhau đối với cùng một tập hợp kích thích của Marketing và phân đoạn thị trường là quá trình phân chia các khách hàng thành nhóm trên cơ sở những điểm khác biệt về nhu cầu, về tính cách hay về hành vi. Như vậy, về thực chất việc phân đoạn thị trường là phân chia theo những tiêu thức nhất định thị trường tổng thể quy mô lớn, không đồng nhất, muôn hình muôn vẻ về nhu cầu thành các nhóm (đoạn, khúc) nhỏ hơn đồng nhất về nhu cầu. Các tiêu thức có thể dùng để phân đoạn thị trường: Đối với nhà đầu tư cá nhân: Cơ sở phân đoạn Tiêu thức phân đoạn Địa lý Miền (Bắc, Trung, Nam), vùng... Dân số-xã hội Tuổi, giới tính, thu nhập, nghề nghiệp, trình độ học vấn, tính trạng hôn nhân... Tâm lý Thái độ, động cơ, cá tính, lối sống, thói quen, văn hoá Hành vi đầu tư Lý do đầu tư, lợi ích tìm kiếm, số lượng và tỷ lệ đầu tư,... Đối với nhà đầu tư tổ chức: Tiêu thức Các ví dụ về chủng loại Quy mô Nhỏ, vừa, lớn Loại hình sở hữu Tư nhân, Nhà nước, liên doanh... Loại hình tổ chức Sản xuất, kinh doanh, tổ chức phi kinh tế... Địa điểm tổ chức Miền, vùng, tỉnh... Để xác định một đoạn thị trường có hiệu quả thì việc phân đoạn thị trường phải đạt được những yêu cầu về tính đo lường, tính tiếp cận, tính quan trọng và tính khả thi. Tính đo lường được tức là quy mô và hiệu quả của thị trường phải đo lường được. Tính tiếp cận được tức là công ty phải nhận biết và phục vụ được đoạn thị trường đã phân chia theo tiêu thức nhất định. Tính quan trọng tức là đoạn thị trường phải bao gồm các khách hàng có nhu cầu đồng nhất với quy mô lớn để có khả năng sinh lời được. Tính khả thi tức là có thể có đủ nguồn lực để hình thành và phát triển chương trình marketing riêng biệt cho từng đoạn thị trường đã phân chia. Sau đó công ty cần phải lựa chọn thị trường mục tiêu. Dựa trên kết quả phân tích môi trường kinh doanh, nhiệm vụ và mục tiêu mà công ty mong muốn đạt tới, thực chất của việc lựa chọn thị trường mục tiêu là lựa chọn những nhóm khách hàng tiềm năng mà công ty sẽ phục vụ với các dịch vụ nhất định. Những thị trường mục tiêu lựa chọn có thể là một hay một số đoạn thị trường chính hay toàn bộ thị trường. Khi lựa chọn các thị trường mục tiêu, cần làm rõ các vấn đề: Loại hình dịch vụ hay nghiệp vụ nào sẽ mang ra phục vụ nhu cầu của khách hàng Quy mô và khả năng tăng trưởng của thị trường Khả năng thu lợi nhuận Mức độ phù hợp giữa một bên là nhu cầu của khách hàng ở các thị trường được lựa chọn và bên kia là khả năng thoả mãn những nhu cầu đó. Tuỳ thuộc vào việc phân tích, đánh giá những vấn đề nói trên mà công ty sẽ lựa chọn những thị trường tiềm năng tốt nhất cho mình. Cuối cùng, công ty cần phải đề ra chương trình hành động và dự đoán ngân sách. Một chương trình hành động cho toàn bộ kế hoạch Marketing của công ty là cần thiết để đảm bảo rằng kế hoạch này sẽ được thực hiện dưới sự kiểm soát và điều khiển của các nhà quản trị Marketing. Chương trình hành động phải trả lời được các câu hỏi sau: Dịch vụ này sẽ được thực hiện như thế nào? Khi nào được thực hiện? Ai có trách nhiệm thực hiện? Tổng chi phí cho nó là bao nhiêu? Đồng thời cần phải dự đoán ngân sách hay những kết quả tài chính có của kế hoạch Marketing. Những dự đoán này được dựa trên một số chỉ tiêu cụ thể: Doanh số dự kiến = Phí dịch vụ ´ Số lần dự kiến sử dụng dịch vụ Lợi nhuận dự kiến = Doanh số dự kiến - Tổng chi phí dự kiến Việc sử dụng và nghiên cứu đồng bộ các giải pháp và kiến nghị trên sẽ góp phần giúp công ty ngày càng hoàn thiện hơn trong hoạt động kinh doanh cũng như củng cố vị trí của mình trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Xây dựng chiến lược khách hàng toàn diện, hợp lý: Chính sách khách hàng có một vị trí hết sức quan trọng trong toàn bộ hoạt động kinh doanh của một công ty chứng khoán. Với phương châm phục vụ: “Hiệu quả kinh doanh của nhà đầu tư là mục tiêu của AGRISECO” thì một giải pháp về khách hàng đúng đắn sẽ là một yếu tố quyết định vị trí của AGRISECO trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt để giành thị phần với công ty chứng khoán khác. Chính sách khách hàng có thực hiện được hay không phụ thuộc vào kết quả của việc sử dụng nhiều chính sách cụ thể khác nhau, mỗi chính sách đó sẽ đóng vai trò nhất định nhưng có mối quan hệ với nhau. Một chính sách khách hàng hợp lý bao gồm: Chính sách giá cả hấp dẫn: Trong môi trường cạnh tranh quyết liệt như hiện nay, các mức phí của công ty phải được áp dụng một cách linh hoạt, phù hợp trên cơ sở cân đối chi phí, lợi nhuận, thị phần và các mục tiêu khác mà công ty theo đuổi. Mức phí đưa ra phải phù hợp từng đối tượng khách hàng, từng loại dịch vụ, từng thời điểm cụ thể để vừa duy trì được mối quan hệ lâu dài với khách hàng, vừa thu hút thêm khách hàng mới. Để thực hiện điều này, công ty có thể tiến hành phân tổ khách hàng theo những tiêu chí nhất định. Ví dụ, đối với khách hàng có uy tín, thường xuyên có những giao dịch với giá trị lớn sẽ được hưởng mức phí ưu đãi. Đa dạng hoá các loại hình dịch vụ, cải tiến quy trình nghiệp vụ để thoả mãn nhu cầu ngày càng đa dạng và phát triển của khách hàng. Điều này đòi hỏi AGRISECO cần phải nghiên cứu, học hỏi và đưa ra các dịch vụ mới, cung cấp thông tin cập nhật nhất, nhận lệnh và thông báo kết quả khớp lệnh tận nhà... Chủ động tìm khách hàng là một hoạt động không thể thiếu nhằm mở rộng và nâng cao số lượng khách hàng đến với mình. Chính sách này không những nhằm vào các nhà đầu tư trong nước mà còn nhằm vào cả các nhà đầu tư nước ngoài, không những nhằm vào các nhà đầu tư cá nhân mà còn nhằm vào các tổ chức. Thực hiện được chính sách này, tức là tìm được khách hàng mới, công ty sẽ có nhiều lợi nhuận hơn, có cơ hội tốt trong việc thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành cho khách hàng mới, từ đó có cơ sở thực hiện các nghiệp vụ môi giới, quản lý danh mục đầu tư... cho khách hàng để tìm kiếm lợi nhuận và nâng cao uy tín của mình. Bảo đảm phong cách giao tiếp văn minh, lịch sự, tận tình, chu đáo chính là một nghệ thuật giữ khách hàng hiệu quả nhất. Thái độ của nhân viên có thể tạo nên hình ảnh của công ty trong khách hàng. Vì vậy, phong cách giao tiếp và tác phong làm việc của cán bộ sẽ ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của việc thu hút khách hàng. Ngoài ra, các cán bộ nhân viên còn phải làm việc với tinh thần trách nhiệm cao, cẩn thận không để mắc sai sót, nhầm lẫn tạo sự an tâm, tin tưởng tuyệt đối từ phía khách hàng. Tổ chức hội nghị khách hàng: AGRISECO có thể định kỳ tổ chức hội nghị khách hàng bởi vì đây sẽ là nơi gặp gỡ, trao đổi, học tập kinh nghiệm giữa các nhà đầu tư với nhau, giữa các nhà đầu tư với công ty. Và hơn thế nữa, hội nghị khách hàng sẽ có lợi cho cả hai bên, khách hàng và công ty. Về phía khách hàng, trước hết họ sẽ được cung cấp những văn bản pháp lý mới nhất liên quan đến chứng khoán và thị trường chứng khoán, tránh được những sai phạm không đáng có khi tham gia đầu tư trên thị trường chứng khoán. Tiếp đến, họ có thể tham khảo những bài phân tích, đánh giá của các chuyên gia trong công ty về tình hình thị trường chứng khoán, tình hình hoạt động kinh doanh của các công ty niêm yết. Cái lợi mà khách hàng có được chính là ở chổ: dựa trên các thông tin có được, họ tự biết điều gì nên và không nên làm, đầu tư như thế nào trong thời gian tới để có hiệu quả cao nhất. Về phía công ty, hội nghị khách hàng là một dịp tốt để tăng cường mối quan hệ với các nhà đầu tư, là một dịp để các nhà đầu tư hiểu kỹ hơn về công ty ty thông qua các loại hình dịch vụ mà công ty đang cung cấp cho họ. Hội nghị khách hàng sẽ giúp cho công ty tiếp cận, tìm hiểu cặn kẽ hơn nhu cầu và thu thập thông tin phản hồi từ phía các nhà đầu tư và công chúng. Hơn nữa, thông qua hội nghị khách hàng, công ty còn cho thấy khách hàng là tâm điểm của mọi hoạt động kinh doanh của mình, là mối quan tâm hàng đầu của mình để từ đó khách hàng có niềm tin vững chắc vào công ty. 2. Hiện đại hoá cơ sở vật chất, phương tiện hoạt động kinh doanh. Cùng với sự phát triển và sôi động của thị trường chứng khoán, công ty chứng khoán AGRISECO cũng buộc phải có sự phát triển không ngừng và việc hiện đại hoá cơ sở vật chất, phương tiện kinh doanh là một tất yếu đang được quan tâm hiện nay. Với tình hình của công ty như hiện nay, công ty nên tập trung các giải pháp về công nghệ thông tin, đó là: Tiêu chuẩn hóa hệ thống thông tin khách hàng, bao gồm nhiều dữ liệu khác nhau, hình thành ngân hàng dữ liệu phục vụ cho nhiều mục đích sử dụng và khai thác khác nhau. Thiết kế và cài đặt cục bộ cũng như mạng toàn diện để việc trao đổi thông tin được diễn ra nhanh chóng, thuận lợi, an toàn. Có chương trình dự phòng, kế hoạch sẵn sàng ứng phó với tình trạng bị xâm nhập bất hợp pháp, bị mất liên lạc trong khi giao dịch cũng như trong trường hợp khẩn cấp. Trước mắt, AGRISECO cần hoàn thiện trang Web, đồng thời triển khai xây dựng một hệ thống tin học mạnh, đảm bảo vi tính hoá toàn bộ các nghiệp vụ chứng khoán, xây dựng hệ thống cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư, xây dựng trước một bước cơ sở vật chất để tạo điệu kiện cho khách hàng kinh doanh qua mạng. 3. Xây dựng chiến lược về nguồn nhân lực. Phát huy mạnh mẽ năng lực của ban lãnh đạo: Hoạt động kinh doanh chứng khoán là một hoạt động còn nhiều mới mẻ, phức tạp, chứa đựng nhiều rủi ro, thị trường chứng khoán là một trong những thị trường biến động nhiều nhất và chịu sự quản lý chặt chẽ của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước, Trung tâm giao dịch chứng khoán. Các văn bản pháp quy trong lĩnh vực này thường xuyên được điều chỉnh, thậm chí có nhiều thay đổi mang tính bước ngoặt. Do đó, ban lãnh đạo công ty cần thường xuyên theo dõi sát sao các văn bản này cũng như các biến động trên thị trường và những thay đổi của khách hàng. Cán bộ công ty phải có cái nhìn toàn diện, bao quát, kết hợp với đầu óc phân tích tổng hợp, linh hoạt sáng tạo đưa ra các biện pháp nhanh chóng kịp thời phù hợp với từng thời điểm, từng diễn biến để không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh mà vẫn hạn chế tối đa những rủi ro có thể xảy ra. Để có được phẩm chất này cán bộ lãnh đạo cần biết tận dụng và tích luỹ những kinh nghiệm quý báu có được trong quá trình làm việc, đồng thời thường xuyên trau dồi kiến thức, tích luỹ chuyên môn nghề nghiệp vững vàng, có khả năng quản lý và có đầu óc phán đoán nhanh nhạy. Trong quá trình làm việc phải kết hợp trao đổi thông tin chặt chẽ với Uỷ ban chứng khoán Nhà nước, Trung tâm giao dịch chứng khoán và các chi nhánh của công ty. Bên cạnh đó, ban lãnh đạo cũng phải nghiên cứu đưa ra các chính sách khen thưởng và kỷ luật thích hợp cả về vật chất lẫn tinh thần, để khuyến khích động viên kịp thời, tạo động lực phấn đấu lành mạnh cho mọi thành viên trong công ty. Thường xuyên đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ: Để thực hiện định hướng trở thành công ty chứng khoán có tầm cỡ, kinh doanh trên tất cả các nghiệp vụ thì một yếu tố quan trọng không thể thiếu được là nhân tố con người trong việc tổ chức, quản lý và vận hành các nghiệp vụ của công ty. Một công ty chứng khoán có thể trang bị cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại trong một thời gian ngắn nhưng không thể có ngay được một đội ngũ cán bộ có trình độ tương xứng trong một thời gian ngắn được. Vì vậy, công ty cần phải có một kế hoạch (cả ngắn hạn và dài hạn) phù hợp trong việc đào tạo đội ngũ cán bộ cho hiện tại và tương lai. Khách hàng chứng khoán là khách hàng có trình độ hiểu biết pháp luật rất cao, buôn bán chứng khoán diễn ra rất nhanh và phức tạp. Vì vậy để cung cấp dịch vụ cho đối tượng này đòi hỏi người làm chứng khoán phải có trình độ cao về pháp luật, tin học và nghiệp vụ. Cán bộ của công ty chứng khoán phải là những người am hiểu về kỹ thuật, thông tin về nghiệp vụ, kết hợp lý luận và thực tiễn trong mọi tình huống để tạo ra hiệu quả kinh doanh cao. Hiện nay, với xu hướng hội nhập kinh tế, công ty cần có nhiều chuyên gia giỏi để có đủ năng lực bắt kịp và hoà nhập vào nền kinh tế sôi động đó. Chính vì thế, công ty cần có chương trình, kế hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ toàn diện: Yêu cầu cán bộ hoạt động trong lĩnh vực này phải có một trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, tin học nhất định và thường xuyên phải học tập và trau dồi thêm. Định kỳ tổ chức kiểm tra trình độ, có chế độ khen thưởng đối với những người có trình độ vượt mức yêu cầu. Khuyến khích, tạo điều kiện trợ giúp kinh phí cho các cán bộ đi học nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, nhất là các cán bộ trẻ. Đặc biệt ưu tiên những cá nhân phấn đấu đạt các học vị như thạc sĩ, tiến sĩ...Đây là lực lượng đưa công ty tiếp cận, làm chủ các công nghệ hiện đại, bắt kịp với xu hướng phát triển chung. Quy hoạch và đào tạo đội ngũ cán bộ chủ chốt, cán bộ nguồn cho công ty. Bên cạnh những yêu cầu về chuyên môn, cán bộ công ty cũng cần phải có những phẩm chất và tác phong làm việc khoa học. Cụ thể là cán bộ phải có tinh thần trách nhiệm cao, có đạo đức nghề nghiệp, không để xảy ra các vụ việc tiêu cực làm thất thoát tài sản của công ty, gây thiệt hại cho khách hàng, ảnh hưởng xấu tới uy tín của công ty. Con người- nhân tố quyết định tới sự phát triển- là trung tâm của mọi hoạt động. Chuẩn bị tốt nguồn nhân lực sẽ có ý nghĩa nhất định đối với việc thực hiện thành công những nỗ lực phát triển của công ty. 4. Tăng cường xây dựng các mối quan hệ công ty chứng khoán nước ngoài. Để giữ vững và tăng cường uy tín đối ngoại của AGRISECO, cần đẩy mạnh việc xây dựng các quan hệ đối ngoại, mở rộng quan hệ để tranh thủ kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý của các công ty chứng khoán nước ngoài. AGRISECO cần củng cố và mở rộng quan hệ đối ngoại vốn có, chọn các công ty chứng khoán, đối tác nước ngoài phù hợp với từng lĩnh vực đối ngoại của từng khu vực để thiết lập mối quan hệ chặt chẽ với các công ty có uy tín cao. Tăng cường nghiên cứu trao đổi kinh nghiệm, nắm bắt nhanh nhạy các xu thế mới của thị trường để thích ứng và có đối sách kịp thời khi có biến động. Đồng thời, AGRISECO cần mở rộng các quan hệ song phương và đa phương, xây dựng và phát triển mối quan hệ chặt chẽ với công ty chứng khoán các nước ASEAN, đặc biệt với các công ty chứng khoán của các nước láng giềng như: Thái Lan, Trung Quốc... 5. Nâng cao năng lực phân tích thị trường. Phân tích thị trường là một nhiệm vụ rất quan trọng và là một trong những yếu tố quyết định đến sự tồn tại và phát triển của công ty chứng khoán. Khả năng mở rộng và phát triển của công ty phụ thuộc rất nhiều vào uy tín và chất lượng của các dịch vụ cung cấp. Có thể nói, phân tích thị trường là một mũi nhọn cạnh tranh về dịch vụ giữa các công ty chứng khoán. Trong điều kiện hiện nay, khi các công ty chứng khoán mới đi vào hoạt động, các lợi thế cạnh tranh chưa có sự phân biệt rõ rệt thì yếu tố chủ yếu để thu hút chính là chất lượng dịch vụ mà công ty cung cấp, cụ thể hơn, đó là chất lượng của dịch vụ tư vấn của công ty cho khách hàng trong các quyết định đầu tư. Hơn nữa, đối với bản thân công ty, các kết quả phân tích trên thị trường cũng là cơ sở để đưa ra quyết định đầu tư nhằm mang lại lợi ích cao nhất. Với những lý do đó, AGRISECO cần phải hết sức quan tâm đến việc phát triển năng lực phân tích thị trường của mình. Để có thể tiến hành phân tích thị trường, công ty chứng khoán phải dựa trên một số yếu tố chuẩn về hệ thống chính sách kinh tế, hệ thống pháp luật, hệ thống thông tin thị trường, sự phát triển của hệ thống tài chính, hệ thống ngân hàng, hệ thống các thị trường hàng hoá. Đặc biệt, công ty chứng khoán phải chú ý đến môi trường kinh doanh mà ở đây sẽ bao gồm các yếu tố vĩ mô và vi mô. Nếu phân tích kinh tế vĩ mô chỉ ra được các ảnh hưởng của nền kinh tế nói chung đến thị trường chứng khoán thì dự đoán diễn biến trên thị trường sẽ chỉ ra cho công ty chứng khoán thời điểm thích hợp để thực hiện việc mua bán chứng khoán đó. Khả năng dự đoán diễn biến thị trường của công ty chứng khoán phụ thuộc vào khả năng thu thập thông tin, khả năng đánh giá xu hướng thị trường và khả năng đánh giá động thái tâm lý của nhà đầu tư. Hiện nay, khả năng tiếp cận của AGRISECO là tương đối tốt. Tuy nhiên, các thông tin này rất đa dạng, AGRISECO cần phải chú ý tới việc sàng lọc giữa những thông tin thực sự và thông tin giả mạo. Phân tích thị trường là một việc rất phức tạp,vì thế công ty chứng khoán phải có hàm lượng chuyên môn cao, kinh nghiệm phong phú và khả năng nhận định sắc bén. 6. Sử dụng “Chinese Wall”-Bức tường hồi âm. “Chinese Wall” là một thuật ngữ được dùng để đặt tên cho “Quy trình quản lý trong công ty chứng khoán”. Đó là quy trình của công ty trong việc quản lý luồng thông tin mật hoặc những luồng thông tin không được phổ biến rộng rãi trong công ty, và chỉ những người cần cho công việc của họ thì mới nhận được những thông tin này. Quy trình “Chinese Wall” sẽ tránh được các hành vi mua bán nội gián của các cán bộ, nhân viên trong công ty chứng khoán do nắm bắt được những thông tin không phổ biến ra công chúng. Thực hiện quy trình “Chinese Wall” bao gồm hai yếu tố: Thứ nhất: Lập hệ thống tường ngăn cách các bộ phận với nhau để mỗi bộ phận chỉ nhận được thông tin cần thiết từ các bộ phận khác. Điều này đặc biệt quan trọng đối với các công ty có thực hiện nghiệp vụ tự doanh AGRISECO. Thứ hai: Công ty đưa ra những quy định bằng văn bản về những sự hạn chế trong giao dịch được sử dụng nhằm ngăn chặn giao dịch nội gián. Để thực hiện được quy trình quản lý này, AGRISECO phải đảm bảo: Một là: AGRISECO phải quản lý một cách chặt chẽ luồng thông tin ra vào giữa các phòng, bộ phận. Hai là: AGRISECO phải thường xuyên xem xét giao dịch của cán bộ và thực hiện lưu trữ một cách có hệ thống các báo cáo về giao dịch của cán bộ trong công ty. Ba là: AGRISECO áp dụng và phổ biến rộng rãi, thường xuyên để nhân viên của công ty hiểu và làm quen với quy trình “Chinese Wall”. Công ty phải thường xuyên cập nhật những thông tin mới nhất liên quan đến quy trình và những quy định về đạo đức nghề nghiệp phổ biến cho cán bộ công ty, và công ty phải gửi những tài liệu liên quan này một cách định kỳ đến từng cán bộ. Bốn là: AGRISECO phải lưu giữ các văn bản, tài liệu tất cả những hành vi cưỡng chế nào có liên quan đến quy trình: “Chinese Wall”. Bất cứ các vi phạm nào cũng cần được ghi chép lại để nhắc nhở cán bộ tránh mắc phải. Năm là: AGRISECO phải có những kiểm soát chặt chẽ với các giao dịch trong khi công ty đang xử lý các thông tin không phổ biến ra công chúng. Những kiểm soát này áp dụng ngay cả với những giao dịch tự doanh của công ty đối với các chứng khoán đang bị theo dõi. Việc thiếu kiểm soát này có thể gây ra những khoản chi phí lớn hoặc tổn hại tới uy tín của công ty trong việc chứng minh những giao dịch này không dựa vào các thông tin nội gián hoặc những thông tin mật. Theo các nhà phân tích kinh tế, thực hịên tốt công tác giám sát nội bộ và áp dụng hệ thống “Chinese Wall” là chìa khóa để đảm bảo cho quá trình vận hành và quản lý công ty chứng khoán phát triển vững chắc. IV. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ. 1. Kiến nghị với Chính phủ. 1.1. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý. Thị trường chứng khoán là một thể chế đặc biệt bậc cao và là sản phẩm tinh tuý của nền kinh tế thị trường, hoạt động với những thiết chế phức tạp và riêng biệt, với những quy luật chi phối khắc nghiệt, sâu sắc và ảnh hưởng toàn diện đến thực trạng phát triển kinh tế-xã hội của một đất nước khi có những biến động. Với cơ chế vận hành phức tạp, nên các quá trình từ phát hành chứng khoán trên thị trường sơ cấp cho đến các giao dịch trên thị trường thứ cấp đòi hỏi phải tuân thủ các quy định nghiêm ngặt của luật pháp về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Ngoài các quy định nêu trên, hoạt động của thị trường chứng khoán còn chịu sự chi phối của các văn bản luật khác trong các lĩnh vực thương mại, dân sự, đầu tư nước ngoài, phá sản...vv. Hoạt động của thị trường chứng khoán nói chung, bên cạnh những đặc tính ưu việt, thúc đẩy nền kinh tế phát triển, còn chứa đựng những hạn chế, khuyết tật có thể dẫn tới những hậu quả khó lường. Vì vậy, sự điều chỉnh, hoàn thiện hệ thống luật pháp trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán này nhằm tạo ra những đặc tính ưu việt, những thế mạnh của nền kinh tế thị trường và hạn chế tới mức thấp nhất những tác động tiêu cực có thể phát sinh trong quá trình hoạt động thị trường. Giữa các chủ thể của thị trường hình thành những mối quan hệ kinh tế-xã hội đan xen. Công ty chứng khoán là một chủ thể quan trọng của thị trường, hoạt động kinh doanh của công ty có hiệu quả tốt hay không, một mặt phụ thuộc vào tình hình chung của thị trường.Cho đến nay, văn bản pháp luật cao nhất về lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán là nghị định 48/1998/NĐ-CP của Chính phủ (ban hành ngày 11/7/1998). Nhìn tổng thể, tuy chưa có một đạo luật chung về phát hành và kinh doanh chứng khoán như một số nước trên thế giới, nhưng trên thực tế, khung pháp luật về chứng khoán với ba bộ phận cấu thành tối thiểu của nó đã được hình thành, bao gồm: Những quy định về tiêu chuẩn hàng hoá và điều kiện phát hành, điều kiện và thể thức kinh doanh, quản lý Nhà nước và giám sát về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, về mặt nội dung, các quy định hiện có còn bộc lộ nhiều hạn chế cần khắc phục: Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán hầu hết là các văn bản dưới luật, có giá trị thấp. Các văn bản thiếu tính hệ thống, còn chắp vá, thiếu tính đồng bộ và còn chồng chéo giữa các quy định. Còn bỏ ngỏ nhiều vấn đề thuộc về chứng khoán và nhiều quan hệ trong thị trường chứng khoán chưa được luật pháp quy định, điều chỉnh. Hầu hết các quy định được xây dựng trên cơ sở tham khảo, học tập kinh nghiệm tổ chức thị trường chứng khoán của nước ngoài mà chưa được hay còn ít được kiểm nghiệm qua thực tế tại Việt Nam. Do đó, trong thời gian tới, Chính phủ cần xem xét, sửa đổi, bổ sung các luật, pháp lệnh và các văn bản ở các ngành, lĩnh vực liên quan khác nhằm tạo nên sự thống nhất cao và ổn định trong hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho sự vận hành và phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam. Cụ thể, ở Luật doanh nghiệp, cần chú ý tới quy định phát hành chứng khoán, công bố thông tin, báo cáo của doanh nghiệp...; Luật đầu tư nước ngoài: cần chú ý tới quy định về hình thức đầu tư nước ngoài gián tiếp, phát hành cổ phiếu và trái phiếu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài...; Bộ luật hình sự: Chú ý tới chế tài hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán. Việc quy định tội danh có thể thực hiện theo hai hướng: (1) Quy định các chế tài hình sự trong văn bản pháp luật chuyên ngành như Luật kinh tế hay luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán. (2) Bổ sung các tội danh liên quan đến lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán vào Bộ luật hình sự hiện hành (Những tội danh có tính chất đặc biệt nghiêm trọng như giao dịch nội gián và thao túng thị trường...) Chính phủ cần nhanh chóng hoàn thiện những văn bản quy định, hướng dẫn hoạt động của thị trường chứng khoán cũng như các công ty chứng khoán để phù hợp với tình hình phát triển thực tế của thị trường chứng khoán Việt Nam. Mặt khác, với tình hình và xu hướng của thị trường hiện nay, Chính phủ cũng cần có các quy định cụ thể về giao dịch điện tử trong hoạt động kinh doanh chứng khoán. Điều này rất quan trọng vì đó là cơ sở pháp lý cho các giao dịch sẽ rất phổ biến trong tương lai này. Ưu đãi thuế cho hoạt động chứng khoán Ưu đãi thuế cho thị trường chứng khoán là chính sách quan trọng vì nó liên quan trực tiếp đến lợi ích của các công ty chứng khoán. Hiện nay ngoài việc hưởng ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp trong hai năm hoạt động, các công ty chứng khoán còn được giảm 50% số thuế doanh nghiệp trong hai năm tiếp theo. Tuy nhiên, quy định ưu đãi thuế như vậy đối với các công ty chứng khoán vẫn chưa thoả đáng do các công ty này mới đi vào hoạt động, doanh số chưa nhiều, thị trường chứng khoán chưa sôi động, chưa phát triển nên hiệu quả hoạt động còn thấp. Chắc chắn các công ty chứng khoán đều bị lôc trong những năm đầu hoạt động. Do vậy, hết thời hạn được giảm thuế như trên các công ty chứng khoán sẽ gặp nhiều khó khăn khi tính đến hiệu quả kinh doanh. Chính vì thế cần phải có chính sách ưu đãi hơn nữa cho các công ty chứng khoán mới có thể khuyến khích sự tham gia tích cực của các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước vào thị trường chứng khoán. Cụ thể, mức ưu đãi trong thời gian tới nên là miễn thuế cho 5 năm đầu hoạt động và giảm thuế còn 50% trong 3 hoặc 5 năm tiếp theo. Đối với thuế giá trị gia tăng, mặc dù Bộ tài chính đã cam kết sẽ chính thức đưa hoạt động kinh doanh chứng khoán vào diện không chịu thuế VAT được ghi tại điều 4 luật thuế này, nhưng các công ty chứng khoán đã không mấy hứng khởi vì việc đưa vào diện không chịu thuế VAT đồng nghĩa với việc sẽ không được khấu trừ thuế đầu vào đối với các chi phí bỏ ra trong hoạt động kinh doanh chứng khoán. Cho nên, các công ty chứng khoán nên được áp dụng thuế suất VAT đối với hoạt động kinh doanh chứng khoán là 0%. Với thuế suất này, các công ty sẽ được hoàn thuế đầu vào đối với các chi phí bỏ ra và đây chính là điều mà không chỉ AGRISECO mà các công ty chứng khoán khác đều mong đợi. 2. Kiến nghị với Uỷ ban chứng khoán Nhà nước và trung tâm giao dịch chứng khoán. Để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh chứng khoán được thực hiện một cách công bằng, trung thực, công khai, bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư và công chúng tham gia đầu tư, các chủ thể kinh doanh chứng khoán còn phải chấp hành về đạo đức kinh doanh, quy định về hạn mức áp dụng đối với kinh doanh... do Uỷ ban chứng khoán Nhà nước và trung tâm giao dịch chứng khoán quy định. 2.1. Giám sát và quản lý vốn khả dụng đối với công ty chứng khoán NOC NOCR = * 100 > =100% Tổng rủi ro Trong đó: NOC: chỉ tiêu vốn hoạt động ròng NOC = Tài sản ròng (Tổng tài sản - Tổng nợ) -Tổng các khoản gia tăng + Tổng các khoản giảm trừ. Tổng rủi ro = Rủi ro thị trường + Rủi ro đối tác + Rủi ro cơ bản + Rủi ro tập trung tín dụng - Phần bù rủi ro Trong giai đoạn này, khi các điều kiện cần thiết còn chưa hoàn thiện, chúng ta vẫn áp dụng phương pháp tính như đã được xác định trong Nghị định 48/1998/ NĐ-CP của Chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Đó là phương pháp xác định mức vốn hoạt động ròng so với tổng nợ điêu chỉnh. Tuy nhiên, trong công thức tính cụ thể, cần phải xác định lại như sau: Vốn khả dụng = Tổng tài sản - Các khoản tài sản giảm trừ + Các khoản gia tăng Vốn hoạt động ròng = Vốn khả dụng - Tổng nợ điều chỉnh Tổng nợ điều chỉnh = Tổng nợ - Các khoản giảm trừ Hay: Vốn hoạt động ròng = Tổng tài sản - Tổng nợ điều chỉnh -Các khoản tài sản giảm trừ + Các khoản gia tăng Và: Vốn hoạt động ròng * 100 >= 8% Tổng nợ điều chỉnh Phương pháp tính mức “Vốn hoạt động ròng/ Tổng rủi ro” không những cho phép các công ty chứng khoán xác định được mức vốn hoạt động ròng cần thiết phải duy trì mà còn cho phép các công ty này xác định được một cách trực tiếp những rủi ro sẽ phải đối mặt trong quá trình hoạt động. Việc xác định được các rủi ro sẽ giúp cho công ty chứng khoán có những đối sách phù hợp để ổn định hoạt động và hạn chế đến mức thấp nhất các tổn thất có thể xảy ra. Mặc dù việc áp dụng phương pháp tính theo chỉ tiêu “Tổng rủi ro” trong thực tế hết sức phức tạp, nhưng các nước hiện nay đều có xu hướng chung là chuyển sang áp dụng phương pháp này. Việc triển khai áp dụng phương pháp này, trong thực tế chỉ có hiệu quả khi chúng ta đã hội tụ đủ những cơ sở cần thiết như sự phát triển của thị trường và các công ty chứng khoán; sự hoàn thiện của công tác kế toán, thống kê; khả năng nhận thức của mọi người về các loại hình rủi ro... Thực tiễn cho thấy, loại hình và mức độ rủi ro của các nước khác nhau phụ thuộc vào những điều kiện thực tế của môi trường kinh tế, chính trị, xã hội của nước đó. Vì vậy, chúng ta chỉ có thể tham khảo, học hỏi kinh nghiệm chứ không thể rập khuôn mô hình của một nước cụ thể nào đó vào thực tiễn Việt Nam. Việc áp dụng một cách máy móc này sẽ gây ra những sai lệch nghiêm trọng trong kết quả phân tích và kết quả đó sẽ phản ánh không đúng bản chất của thị trường chứng khoán và các công ty chứng khoán. Quy định về việc trích lập dự phòng vốn điều lệ: Quy định này yêu cầu công ty chứng khoán trong quá trình hoạt động phải trích 5% lãi ròng hàng năm để lập quỹ dự phòng, bổ sung vốn điều lệ cho đến mức bằng 10% vốn điều lệ của công ty. Việc thực hiện quỹ này được thực hiện theo những quy định hiện hành đối với các loại hình công ty cổ phần và TNHH. 2.2.Quy định về chế độ báo cáo và công khai hoá thông tin Quy định này được áp dụng ở các thị trường chứng khoán trên thế giới, theo đó các công ty chứng khoán phải công khai hoá các thông tin về hoạt động kinh doanh chứng khoán cho công chúng, phải tuân thủ chế độ báo cáo định kỳ cho các cơ quan quản lý ngành và Sở giao dịch chứng khoán nếu công ty là thành viên. Ngoài báo cáo định kỳ, công ty chứng khoán phải có trách nhiệm báo cáo đột xuất khi có sự kiện bất thường ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh xảy ra. Đặc biệt là các báo cáo hàng quý của công ty chứng khoán phải được công ty kiểm toán đã được cơ quan quản lý Nhà nước ngành chứng khoán chấp nhận xác nhận. Mặt khác, thông tin về thị trường chứng khoán là cơ sở hoạt động của thị trường chứng khoán, là yếu tố để các nhà đầu tư định giá mua bán chứng khoán. Ở nhiều nước trên thế giới việc công bố thông tin đã trở thành một thứ văn hoá kinh doanh, bởi vì cổ đông và những người có quyền lợi liên quan đến công ty cần được thông tin kịp thời và chính xác về tình hình tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh và tình hình quản lý, điều hành công ty. Các thông tin sai lệch trên thị trường chứng khoán có thể gây nên những biến động lớn trong hoạt động của thị trường cũng như sự hoảng loạn trong tâm lý của các nhà đầu tư, đẩy thị trường đến những đột biến giá, tạo nên các cơn sốc đối với hệ thống tài chính quốc gia, và do vậy ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế. Trong giai đoạn toàn cầu hoá kinh tế hiện nay, thông tin không minh bạch có thể gây nên sự xáo trộn thị trường, dẫn đến phản ứng xấu của thị trường chứng khoán và nền kinh tế quốc gia. Chính vì vậy, công khai hoá thông tin được coi là nguyên tắc quan trọng nhất của thị trường chứng khoán. Ngay từ đầu xây dựng thị trường chứng khoán tại Việt Nam, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước đã luôn coi trọng nguyên tắc này, và có những quy định cụ thể về việc bắt buộc công khai thông tin trên thị trường chứng khoán. Các quy định của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước đối với việc công bố thông tin của các tổ chức niêm yết, công ty quản lý quỹ, các tổ chức hoạt động kinh doanh chứng khoán là tương đối chặt chẽ, phù hợp với thông lệ quốc tế về thông tin trên thị trường. Vấn đề còn lại chính là tính tự giác của các tổ chức có trách nhiệm phải công bố thông tin. Xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, các doanh nghiệp Việt Nam chưa có thói quen và chưa sẵn sàng công bố công khai thông tin về tình hình hoạt động của mình. Để giải quyết tốt vấn đề này đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan Nhà nước đối với Uỷ ban chứng khoán Nhà nước. Uỷ ban chứng khoán Nhà nước à Trung tâm giao dịch chứng khoán cần nghiên cứu, bổ sung, sửa đổi, cụ thể hoá các quy định về thông tin như thời điểm, cách thức và nội dung công bố thông tin, đặc biệt liên quan tới những vấn đề như phát hành cổ phiếu mới, thay đổi chế độ kế toán, hợp nhất báo cáo tài chính, công bố ấn phẩm thường niên, công bố trên báo... Những quy định này cần cụ thể và phù hợp với thực tế để tạo điều kiện cho các công ty niêm yết thực hiện được tốt. Đồng thời Uỷ ban chứng khoán Nhà nước và Trung tâm giao dịch chứng khoán cần tăng cường thông tin về thị trường để định hướng người đầu tư, bác bỏ những thông tin sai lệch, gây hoang mang hoặc gây nhiễu. Cần sớm xây dựng một tờ thông tin chính thức của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước, bên cạnh tờ tin của Trung tâm giao dịch chứng khoán cùng với việc cập nhật trang Web thông tin để đưa ra những quan điểm chính thức của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước về những vấn đề chứng khoán và thị trường chứng khoán, tạo điều kiện cho công chúng đầu tư và những người muốn tìm hiểu lĩnh vực này có được những thông tin đáng tin cậy. 2.3. Tuyên truyền và đào tạo kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán Việc tuyên truyền và quảng bá rộng rãi kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán cho công chúng là điều hết sức quan trọng và không nên xem nhẹ vì người ta chỉ có thể tham gia “cuộc chơi” khi mà họ tin rằng đã hiểu “luật chơi” và biết cách tự mình giành chiến thắng trong cuộc chơi đó. Theo số liệu điều tra của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước, công chúng cho rằng tuy thị trường chứng khoán còn là lĩnh vực mới mẻ, chứa đựng nhiều rủi ro nhưng cũng không phải là ít tiềm năng đáng trông đợi. Đa số các nhà đầu tư là tổ chức, cho dù có hay không ý định huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán đều mong muốn có được hiểu biết về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Đối với nhà đầu tư cá nhân, phần lớn đều chưa qua đào tạo kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán mà chủ yếu thông qua các phương tiện thông tin đại chúng và các buổi nói chuyện đề nên hiểu biết của họ còn hạn chế. Điều này phản ánh thực tế là công tác thông tin tuyên truyền và đào tạo kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán chưa được triển khai mạnh mẽ và hiệu quả. Uỷ ban chứng khoán Nhà nước cần phối hợp với Bộ giáo dục và đào tạo và các cơ quan chức năng trong chương trình đào tạo về chứng khoán và thị trường chứng khoán theo một chuẩn nhất định để tranh thủ sự liên kết giữa ngành chứng khoán với các trường đại học hoặc các trung tâm đào tạo khác góp phần tuyên truyền và đào tạo một cách có hiệu quả nhất. 2.4. Thành lập Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán Thực tiễn hoạt động của nền kinh tế nước ta trong những năm gần đây đã cho thấy rõ tầm quan trọng của Hiệp hội ngành nghề. Do vậy, đối với các công ty chứng khoán sẽ chẳng khó khăn gì khi thuyết phục họ thiết lập và tham gia một hiệp hội những doanh nghiệp cùng chức năng vào thời điểm này. Đối với các công ty chứng khoán, sự ra đời của Hiệp hội là rất cần thiết, một tiếng nói chung đứng ra bảo vệ lợi ích chính đáng cho các công ty chứng khoán là nhu cầu không thể thiếu. Các công ty chứng khoán tuy mới chỉ hoạt động sau một thời gian ngắn nhưng tất cả hầu như đang chờ đón và sẵn sàng gia nhập hiệp hội. Vì vậy, để thành lập Hiệp hội trước mắt phải đặt ra ban trù bị các bước liên quan đến Hiệp hội phải là một tổ chức thực sự đem lại lợi ích cho các hội viên. AGRISECO cũng như tất cả các công ty chứng khoán khác đều nhận thức rằng, một sự đơn lẻ sẽ khó lòng có trọng lượng bằng tiếng nói chung khi cùng đề xuất một vấn đề. Tuy nhiên, nhu cầu bình thường này của các công ty chứng khoán vẫn chưa nhận được sự giúp đỡ của các cơ quan chức năng. Các cơ quan này không thể giữ nguyên sự bàng quan trước nhu cầu của các công ty chứng khoán mà cần có biện pháp cụ thể trước vấn đề này. KIẾN NGHỊ VỚI NGÂN HÀNG NO&PTNT VIỆT NAM. Tăng định biên cho công ty. Theo yêu cầu công việc AGRISECO phải phát triển thêm 3 bộ phận nghiệp vụ trực thuộc phòng kinh doanh. Hiện công ty có 30 cán bộ từ Ngân hàng No&PTNT Việt Nam chuyển sang. Năm nay, công ty xin tuyển chọn thêm cán bộ để tăng định biên cho toàn công ty lên 60 cán bộ, trong đó cán bộ cho chi nhánh Đà Nẵng là 12, chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh là 23, trụ sở chính là 25. Mở chi nhánh ở Đà Nẵng. Việc mở chi nhánh ở Đà Nẵng là cần thiết bởi nhu cầu quản lý mạng lưới nhận lệnh sẽ thành lập trên quy mô cả nước. Điều kiện kinh tế-xã hội cũng như địa lý văn hoá của Đà Nẵng cho phép chi nhánh có điều kiện kinh doanh trước mắt cũng như lâu dài. Uỷ ban chứng khoán Nhà nước cũng khuyến khích các công ty chứng khoán đặt cơ sở tại Đà Nẵng để mở rộng khách hàng. Có chi nhánh tại Đà Nẵng cũng là cơ sở để triển khai các Đề án đưa chứng khoán về nông thôn và Thành lập Quỹ hỗ trợ cổ phần hoá các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn. Tăng vốn điều lệ. Để tăng vốn lên 300 tỷ vào năm 2005, Ngân hàng No&PTNT Việt Nam cần tăng vốn điều lệ cho công ty theo các bước: Năm 2003: Tăng vốn điều lệ lên 160 tỷ đồng Năm 2004: Tăng vốn điều lệ lên 250 tỷ đồng Năm 2005: Tăng vốn điều lệ lên 300 tỷ đồng Về cơ chế chính sách Như đã đề cập ở phần trên, hiện tại AGRISECO trong quan hệ với Ngân hàng No&PTNT Việt Nam vẫn chưa được cư xử như đối với chi nhánh Ngân hàng cấp I, chưa đáp ứng hết tinh thần của điều lệ công ty là một công ty TNHH một thành viên. Chính vì vậy, Ngân hàng NO&PTNT Việt Nam cần cho các Ban chuyên môn phối hợp với AGRISECO xây dựng các cơ chế, chính sách về vốn, kế hoạch, tài chính, nhân sự cho đúng với tinh thần của điều lệ và luật định đối với công ty TNHH một thành viên. 3. Đào tạo nước ngoài. Đề án thuê tư vấn và đào tạo nước ngoài do các đối tác Thái Lan đảm nhiệm là cơ sở cho việc phát triển và cạnh tranh bền vững của AGRISECO về lâu dài. Do vậy, Ngân hàng NO&PTNT cần sớm đưa đề án vào trong chương trình đào tạo của mình. Hoạt động của AGRISECO được lộ trình hoá cho một khoảng thời gian dài, trong đó năm 2003 là năm bản lề giữa hai giai đoạn. Kết quả đạt được của thời gian vừa qua là rất đáng khích lệ và đã tạo tiền đề cho quá trình phát triển thành công trong những năm tới. Việc sử dụng và nghiên cứu đồng bộ các giải pháp và kiến nghị trên sẽ góp phần giúp công ty ngày càng hoàn thiện hơn trong hoạt động kinh doanh cũng như củng cố vị trí của mình trên thị trường chứng khoán Việt Nam. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCkhoan (12).doc