Đề tài Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở công ty Bánh kẹo Tràng An

Năm 2001 số vòng quay hàng tồn kho là 2,92 vòng/ năm tăng 5,04% so với năm 2000, thời gian một vòng quay giảm xuống còn 123 ngày. Điều đó cho thấy rằng đây là một biểu hiện tích cực, nhưng về lâu dài thì việc gia tăng hàng tồn kho quá mức sẽ gây lãng phí vốn. Ngoài ra, nó còn làm gia tăng các chi phí khác như: chi phí bảo quản, hao hụt, mất mát, hỏng Chính vì vậy mà công tác quản trị hàng tồn kho đòi hỏi phải giảm đến mức tối thiểu lượng hàng tồn kho để có thể giảm được đến mức thấp nhất các khoản chi phí trên. Qua việc phân tích, đánh giá tình hình sử dụng vốn lưu động thông qua hệ thống các chỉ tiêu ở B6 ta thấy việc sử dụng vốn lưu động tại công ty Bánh kẹo Tràng An là có hiệu quả. Đó là một dấu hiệu rất khả quan. Với thành quả đó, công ty nên tích cực phát huy hơn nữa trong việc đưa ra những giải pháp: làm thế nào để giải phóng nhanh lượng hàng tồn kho và giảm lượng hàng tồn kho đến mức tối thiểu, đẩy nhanh hơn nữa tốc độ chu chuyển vốn góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Như đã phân tích ở trên, khoản lợi nhuận năm 2001 tăng rất nhanh so với năm 2000 ở mức 102,79%. Tuy nhiên lợi nhuận tài chính doanh nghiệp cần xem xét lại hoạt động đầu tư tài chính. Vì chính hoạt động này công ty đã bị mắc nợ. Điều này được thể hiện ở B7.

doc68 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1380 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở công ty Bánh kẹo Tràng An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thuật Các phân xưởng sản xuất Phòng kinh doanh Phòng phát triển thị trường Phòng kế toán tài vụ Phòng tổ chức Phòng hành chính tổng hợp Phòng kỹ thuật 2.1.3. Quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm. Không giống các nhà máy dệt hay các đơn vị sản xuất xe đạp, mỗi phân xưởng sản xuất chỉ là một công đoạn của quy trình công nghệ.ở các nhà máy kẹo nói chung và công ty kẹo Tràng An nói riêng, mỗi phân xưởng sản xuất là một dây chuyền công nghệ khép kín từ lúc bắt đầu bỏ nguyên liệu vào sản xuất cho đến khi sản phẩm hoàn thành. Theo cách thức tổ chức sản xuất ở công ty, mỗi phân xưởng chịu trách nhiệm sản xuất một hoặc một số loại kẹo khác nhau nhưng nói chung quy trình sản xuất của các loại kẹo này đều giống nhau và trải qua 5 giai đoạn: Hoà đường, nấu, làm nguội, tạo hình và đóng gói. - Giai đoạn 1: Hoà đường Trong giai đoạn này, đường, nha và nước được hoà tan hoàn toàn với nhau thành dung dịch Si Rô đồng nhất ở nhiệt độ 100 0C - 110 0C theo tỷ lệ quy định cho từng loại kẹo. Chẳng hạn, đối với kẹo cứng, đường chiếm một tỷ lệ khá lớn từ 70% - 90% trong khi nha chỉ chiếm khoảng 10% - 30%. Nhưng với kẹo mềm, tỷ lệ nha và đường lại gần tương đương: đường từ 40% - 50%, nha từ 50% - 60%. Hoà đường là công việc được tiến hành một cách thủ công vì vậy, đòi hỏi người công nhân hoà đường phải có trình độ chuyên môn khá vững, nắm chắc các tiêu chuẩn kỹ thuật cho từng loại kẹo. - Giai đoạn 2: Nấu Đây là giai đoạn thực hiện quá trình cô đặc dịch kẹo từ độ ẩm 20% xuống còn 1% - 3%. Sau khi đã hoà tan, dung dịch sẽ được đưa vào nồi nấu thủ công hoặc nồi nấu hiện đại tuỳ thuộc vào máy móc thiết bị ở từng phân xưởng.ở giai đoạn này mỗi loại kẹo sẽ được nấu ở một nhiệt độ khác nhau. Chẳng hạn, đối với kẹo cứng từ 140 0C - 165 0C, kẹo mềm từ 110 0C - 125 0C. - Giai đoạn 3: Làm nguội Khi nấu xong, dung dịch kẹo lỏng đã quánh lại và được đổ ra bàn làm nguội. Lúc này, tuỳ thuộc từng loại kẹo người ta sẽ cho thêm các chất phụ gia như: axít, tinh dầu, phẩm thực phẩm... vào hỗn hợp. Mục đích của khâu này là thực hiện quá trình làm nguội dịch kẹo từ hơn 100 0C xuống còn 80 0C - 90 0C để khi đưa vào khâu định hình kẹo không bị dính. - Giai đoạn 4: Tạo hình Công việc tạo hình gồm các công đoạn: Lăn côn, vuốt thoi, định hình và làm nguội. Giai đoạn này ở mọi phân xưởng đều được thực hiện bằng máy. Khi các mảng kẹo được cho vào máy, máy sẽ lần lượt lăn côn, trộn đều các chất trong hỗn hợp một lần nữa rồi chuyển sang vuốt thoi, các mảng kẹo sẽ được vuốt thành các dải dài sau đó sẽ đưa vào máy định hình, cắt những dải này theo những khuôn mẫu kẹo định sẵn. Các viên kẹo được cắt xong rơi xuống các tấm sàng để làm nguội nhanh xuống đến nhiệt độ 40 0C - 50 0C, đảm bảo kẹo ở trạng thái cứng, giòn, không bị biến dạng khi gói. - Giai đoạn 5: Đóng gói Sau khi được cắt và làm nguội, kẹo sẽ được gói có thể là đóng gói bằng máy hoặc bằng tay. Gói xong kẹo sẽ được đóng gói vào thùng theo trọng lượng quy định sẵn. Quá trình sản xuất kẹo diễn ra rất nhanh, nếu sử dụng lao động thủ công thì trong 1 ca người ta sản xuất được 1 mẻ kẹo từ 25 đến 30 kg. Còn nếu sử dụng máy thì cứ 1 phút mẻ kẹo 5 kg sẽ được hoàn thành. Trong quy trình này, 3 giai đoạn đầu gói đóng một vai trò rất quan trọng, nó không chỉ ảnh hưởng tới việc xác định loại kẹo sản xuất mà còn ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng sản phẩm được sản xuất. Do vậy, ngoài việc bố trí vào các giai đoạn này những lao động có tay nghề cao, có kiến thức chuyên môn vững vàng, Công ty còn yêu cầu bộ phận KCS kiểm tra chất lượng sản phẩm của những giai đoạn này rất khắt khe và kỹ lưỡng: Sơ đồ trang bên sẽ minh hoạ quy trình công nghệ sản xuất kẹo 2.2. Thực trạng sử dụng vốn lưu động tại công ty Bánh kẹo Tràng An. 2.2.1. Tình hình chung về hoạt động sản xuất kinh doanh trong mấy năm gần đây. Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay ở nước ta, sự linh hoạt, nhạy bén trong quản lý kinh tế và quản lý sản xuất đã thực sự trở thành chìa khoá cho sự tồn tại và phát triển của công ty. Công ty đã vận dụng các quy luật kinh tế thị trường đồng thời thực hiện các chủ trương cải tiến cơ chế quản lý kinh tế của Đảng và Nhà nước. Nhờ vậy công ty đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ trong sản xuất, không ngừng nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên, sản phẩm được thị trường chấp nhận và tạo được độ tin cậy lớn của bạn hàng. Trong mấy năm gần đây, do thị trường có nhiều biến động nên việc tiêu thụ sản phẩm của công ty có phần chậm lại. Tình hình này đặt ra cho công ty những khó khăn thử thách mới. Những khó khăn thử thách hiện nay là sự cạnh tranh khốc liệt với các đơn vị sản xuất trong nước, các doanh nghiệp liên doanh và các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Đứng trước tình hình trên đòi hỏi công ty phải có những sách lược mới, một mặt phải giữ được khách hàng cũ, khách hàng truyền thống. Mặt khác, công ty phải đẩy mạnh công tác tiếp thị, tìm kiếm bạn hàng mới nhằm mở rộng hơn nữa thị trường tiêu thụ để công ty không những đứng vững mà ngày càng phát triển hơn nữa. Ta có thể thấy rõ hơn tình hình hoạt động kinh doanh của công ty thông qua một số chỉ tiêu tài chính sau: B1: Kết quả hoạt động kinh doanh trong năm 2000, 2001 Chỉ tiêu Đơn vị Năm Chênh lệch 2001/2000 2000 2001 Tuyệt đối % 1. Tổng doanh thu tr.đ 29.325 31.810 2.485 8,47 2. Tổng chi phí tr.đ 28.715 30.225 1.510 5,26 3. Lợi nhuận tr.đ 170 346 176 103,53 4. Thu nhập bình quân đ/người 510.000 550.000 40.000 7,84 Nguồn: Phòng tài chính kế toán Qua B1 ta thấy được khái quát tình hình tài chính của công ty trong hai năm gần đây. Cụ thể qua một năm hoạt động thì doanh thu tăng 2.485 tr.đ với mức tăng 8,47%. Chi phí tăng 1.510 tr.đ với mức tăng là 5,26%. Do đó mức tăng của chi phí thấp hơn so với mức tăng của doanh thu, đồng thời lợi nhuận sau thuế tăng 176 tr.đ với tốc độ tăng 103,53%. Mức thu nhập bình quân đầu người tăng 40.000 đ/người/tháng với mức tăng 7,84%. Như vậy, công ty làm ăn có lãi, mức sống của người dân được cả thiện. Đó là một kết quả đáng khích lệ. 2.2.2. Tình hình tài sản và nguồn vốn của công ty. 2.2.2.1. Đánh giá khái quát. B2: Kết cấu tài sản và nguồn vốn tại công ty Bánh kẹo Tràng An Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Chênh lệch 2001/2000 Số tiền TT% Số tiền TT% Tuyệt đối % A. Tài sản I. TSLĐ 12.094 50,59 14.341 45,73 2.247 18,58 1. Vốn bằng tiền 547 2,29 1.212 3,86 665 121,57 2. Khoản phải thu 2.500 10,46 3.090 9,85 590 23,60 3. Hàng tồn kho 8.784 36,74 9.609 30,64 825 9,39 4. TSLĐ khác 263 1,10 430 1,37 167 63,50 II. TSCĐ 11.813 49,41 17.019 54,27 5.206 44,07 Tổng TS 23.907 100,00 31.360 100,00 7.453 31,17 B. Nguồn vốn I. Nợ phải trả 8.086 33,82 14.602 46,56 6.516 80,58 1. Nợ ngắn hạn 5.326 22,28 7.195 22,94 1.869 35,09 2. Nợ dài hạn 2.733 11,43 7.407 23,62 4.674 171,02 3. Nợ khác 27 0,11 (27) -100,00 II. NVCSH 15.821 66,18 16.758 53,44 937 5,92 Tổng NV 23.907 100,00 31.360 100,00 7.453 31,17 Nguồn: Phòng tài chính kế toán Từ số liệu ở B2, ta tính toán một vài chỉ tiêu tài chính sau: Qua B2 ta thấy, tổng tài sản mà công ty đang quản lý tới đầu năm 2001 là 23.907 tr.đ. Trong đó, tài sản lưu động chiếm 50,59%, tài sản cố định chiếm 49,41%. Trong tài sản lưu động, riêng hàng tồn kho chiếm một tỷ trọng lớn là 36,74% tổng giá trị tài sản, khoản phải thu chiếm 10,46%. Mà tổng tài sản được hình thành từ các nguồn: nợ phải trả và nguồn vốn chủ sở hữu. Trong đó nợ phải trả chiếm 33,82% và vốn chủ sở hữu chiếm 66,18%. Qua một năm hoạt động, quy mô tài sản và nguồn vốn tăng 7.453 tr.đ. Năm 2001 tổng tài sản tăng 31,17% so với năm 2000. Giá trị tổng tài sản tăng từ 23.907 tr.đ đến 31.360 tr.đ. Điều đó cho thấy công ty đã có nhiều cố gắng trong việc huy động vốn tài trợ cho các tài sản của mình để tiến hành sản xuất kinh doanh. Về nguồn vốn, vốn chủ sở hữu là nguồn vốn chính, nợ phải trả tăng thêm 6516 tr.đ với mức tăng 80,58% so với năm 2000. Việc tăng tài sản, tăng nguồn vốn có hợp lý hay không chúng ta sẽ tiếp tục phân tích, đánh giá ở những phần tiếp theo. B3: Một số chỉ tiêu tài chính năm 2000, 2001 dùng để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 1. Tỷ suất tài trợ =VCSH/ Tổng NV(%) 66,18 53,44 2. Tỷ suất đầu tư =TSCĐ/ Tổng TS (%) 49,41 54,27 3. Tỷ lệ NPT/ Tổng TS (%) 33,82 46,56 4. Khả năng TT hiện hành = TSLĐ/ Nợ ngắn hạn 2,27 1,99 5. Khả năng TT nhanh = Vốn bằng tiền/ Nợ ngắn hạn 0,103 0,168 Nguồn: Phòng tài chính kế toán Về tỷ suất tài trợ, năm 2000 là 66,18% đến năm 2001 giảm xuống còn 54,44%. Như vậy, tỷ suất tài trợ của năm sau là thấp hơn so với năm trước. Trong khi tổng nguồn vốn tăng, vốn chủ sở hữu cũng tăng. Sự biến động như vậy là không hợp lý, điều đó cho thấy rằng mức độ độc lập về tài chính của doanh nghiệp là thấp. Tỷ suất đầu tư cho tài sản cố định năm 2001 cao hơn so với năm 2000. Cụ thể năm 2000 là 49,41%, năm 2001 là 54,27%. Đối với công ty thì tỷ lệ nợ của năm sau là cao hơn so với năm trước. Cụ thể năm 2000 là 33,82%, đến năm 2001 đã tăng đến 46,56%. Nguyên nhân của sự biến động này là do tăng các khoản nợ phải trả (năm 2000 nợ phải trả là 8.086 tr.đ, đến năm 2001 tăng lên đến 14.602 tr.đ). Điều này cho thấy với tỷ lệ nợ 46,56% công ty có thể gặp khó khăn trong việc huy động tiền vay để tiến hành sản xuất kinh doanh trong thời gian tới. Về khả năng thanh toán hiện hành thì tỷ lệ khả năng thanh toán hiện hành năm 2001 là thấp hơn so với năm 2000. Cụ thể năm 2000 là 2,27 đến năm 2001 thì tỷ lệ này giảm xuống còn 1,99. Nguyên nhân của sự biến động này là do mức tiêu thụ hàng hoá bị chậm lại. Do vậy mà công ty rất khó khăn để thanh toán những khoản nợ ngắn hạn trong vòng một năm hay một chu kỳ kinh doanh. Cũng qua hệ số trên ta thấy do phải đổi mới công nghệ cho phù hợp với thị trường đòi hỏi công ty đã đầu tư máy móc phục vụ sản xuất. Khả năng thanh toán nhanh của năm 2000 là 0,103 đến năm 2001 tăng lên đến 0,168. Do đó khả năng thanh toán nhanh của năm sau là cao hơn so với năm trước. 2.2.2.2. Phân tích sự biến động của tài sản và nguồn vốn. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, các doanh nghiệp xem xét thực trạng quá trình vận động của tài sản và nguồn vốn tạo nên bức tranh tổng quát tình hình tài chính của doanh nghiệp. Do đó mà nhận biết được khả năng đáp ứng nhu cấu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời biết được tính hợp lý của cơ cấu vốn và sự ảnh hưởng của chúng đến tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chính vì vậy, việc so sánh tổng tài sản và nguồn vốn giữa các kỳ báo cáo để thấy được sự biến động về quy mô tài sản cũng như khả năng huy động vốn của doanh nghiệp. Nếu tổng tài sản và nguồn vốn tăng, đồng thời giá trị sản lượng hàng hoá và doanh thu tăng thì quy mô kinh doanh của doanh nghiệp tăng và ngược lại. Sự so sánh trên giúp chúng ta thấy được sự biến động của tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn, tài sản cố định và đầu tư dài hạn cả về mặt giá trị và tỷ trọng. Chúng ta biết rằng trong cơ chế thị trường hiện nay, một doanh nghiệp có càng nhiều tài sản thì càng tốt nhưng vấn đề ở chỗ doanh nghiệp phải phân bổ tài sản đó sao cho hợp lý và mang lại hiệu quả cao nhất cho doanh nghiệp. Phân tích sự biến động của các khoản nợ và nguồn vốn chủ sở hữu cả về mặt giá trị và tỷ trọng để thấy được khả năng huy động vốn, khả năng tự đảm bảo về mặt tài chính và mức độ độc lập cũng như tính chủ động trong kinh doanh của doanh nghiệp. Qua B2 ta thấy, về tài sản thì tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn năm 2000 là 12.094 tr.đ, năm 2001 tăng lên là 14.341 tr.đ. Như vậy, năm 2001 tăng hơn so với năm 2000 là 2.247 tr.đ với mức tăng là 18,58%. Trong tổng số thì tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn chiếm 50,59% (năm 2000), 45,73% (năm 2001). Về tài sản cố định và đầu tư dài hạn năm 2000 là 11.813 tr.đ, năm 2001 tăng lên là 17.019 tr.đ. Năm 2001 tăng hơn so với năm 2000 là 5.206 tr.đ với mức tăng là 44,07%. Trong tổng số tài sản thì tài sản cố định và đầu tư dài hạn chiếm 49,41% (năm 2000), 54,27% (năm 2001). Ban đầu tài sản cố định và đầu tư dài hạn chiếm ít hơn so với tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn, qua một năm hoạt động thì tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn có xu hướng giảm dần với tỷ trọng giảm 4,86% (50,59% - 45,73%). Về nguồn vốn: Vốn chủ sở hữu là nguồn vốn chính, năm 2000 chiếm 66,18% đến năm 2001 giảm xuống còn 53,44%. Nợ phải trả có xu hướng tăng lên từ 33,82% (năm 2000) đến 46,56% (năm 2001). Năm 2000 nợ phải trả là 8.086 tr.đ, năm 2001 tăng lên đến 14.602 tr.đ với mức tăng 80,58%. Trong khi đó vốn chủ sở hữu là 15.821 tr.đ, năm 2001 là 16.758 tr.đ với tốc độ tăng là 5,92%. Nhận xét thấy tỷ lệ tăng các khoản nợ phải trả là cao hơn so với tỷ lệ tăng nguồn vốn của nhà cung ứng, của các tổ chức, cá nhân khác nhiều hơn. Qua một năm hoạt động ta thấy tình hình tài chính của công ty vẫn được đảm bảo tốt và luôn tìm kiếm bổ sung Nguồn vốn để đảm bảo và mở rộng sản xuất kinh doanh. 2.2.3.Tình hình tổ chức và quản lý vốn lưu động. Như chúng ta biết công tác xây dựng cơ cấu vốn là một nội dung trong công tác quản lý vốn của các doanh nghiệp. Vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền của tài sản lưu động. Do vậy, cơ cấu vốn lưu động cũng được biểu hiện thông qua cơ cấu tài sản lưu động của công ty. Tại công ty Bánh kẹo Tràng An, cơ cấu tài sản lưu động được xây dựng dựa vào tính chất, đặc điểm của các loại tài sản lưu động. Trong năm 2000, 2001 cơ cấu tài sản lưu động có sự biến động như sau: B4: Cơ cấu TSLĐ của công ty Bánh kẹo Tràng An Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Chênh lệch 2000/2001 Số tiền TT% Số tiền TT% Tuyệt đối % TT% 1. Vốn bằng tiền 547 4,52 1.212 8,45 665 121,57 3,93 2. Khoản phải thu 2.500 20,67 3.090 21,55 590 23,60 0,88 3. Hàng tồn kho 8.784 72,63 9.609 67,00 825 9,39 -5,63 4.TSLĐ khác 263 2,18 430 3,00 167 63,50 0,82 Tổng TSLĐ 12.094 100,00 14.341 100,00 2.247 18,58 Nguồn: Phòng tài chính kế toán Qua số liệu bảng trên ta thấy: tổng số vốn lưu động năm 2001 tăng 2.247 tr.đ so với năm 2000 với mức tăng 18,58%. Nguyên nhân là do sự gia tăng của tất cả các loại vốn lưu động trong công ty. Sự gia tăng này biểu hiện những bước phát triển lớn mạnh về quy mô kinh doanh mà biểu hiện của nó là quy mô vốn lưu động được mở rộng sau một năm hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị. Để đánh giá đúng đắn về sự thay đổi này ta xem xét sự thay đổi tỷ trọng cũng như mức tăng giảm của từng loại vốn lưu động. Vốn bằng tiền là một bộ phận trong tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn của doanh nghiệp được biểu hiện dưới nhiều hình thái như: Tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển. Trong năm 2000 thì lượng vốn lưu động bằng tiền là 547 tr.đ chiếm 4,52% tổng số vốn lưu động trong công ty, năm 2001 con số này đã tăng lên đến 1.212 tr.đ chiếm 8,45 % tổng số vốn lưu động. Số vốn bằng tiền chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng tài sản lưu động của doanh nghiệp. Qua một năm hoạt động thì con số này tăng 665 tr.đ với tỷ lệ tăng 121,57%, tỷ trọng tăng là 3,93%. Điều này cho thấy rằng tăng lượng vốn bằng tiền là một dấu hiệu tốt về sự tự chủ tài chính của doanh ngiệp, vậy công ty cần phát huy hơn nữa để đẩy nhanh tốc độ tăng của loại vốn lưu động này trong những năm tiếp theo. Các khoản phải thu là chỉ tiêu phản ánh số vốn lưu động mà công ty bị khách hàng, các tổ chức, cá nhân khác chiếm dụng trong quá trình thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh. Số lượng các khoản phải thu càng lớn điều đó chứng tỏ rằng công ty càng bị chiếm dụng vốn rất nhiều, đây là biểu hiện không tốt. Do đó, cần phải thường xuyên theo dõi, kiểm tra, nhanh chóng thu hồi, tránh trường hợp vốn bị chiếm dụng lâu và có thể không thu hồi được. Trong năm 2000, khoản phải thu số tiền là 2.500 tr.đ chiếm 20,67% trong tổng số vốn lưu động tại đơn vị. Đến năm 2001, khoản phải thu số tiền đã tăng lên 3.090 tr.đ chiếm 21,55% tổng số vốn lưu động. Ta thấy số tiền khoản phải thu qua một năm tăng lên 590tr.đ, tỷ lệ tăng là 23,6%, tỷ trọng tăng 0,88%. Như vậy, quy mô vốn lưu động tăng là nhờ một phần khá lớn sự gia tăng của các khoản phải thu. Qua sự phân tích trên ta thấy vốn của công ty bị chiếm dụng không phải là ít. Chính vì vậy công tác quản lý tài chính đòi hỏi phải có những biện pháp khắc phục, có các chính sách phù hợp sao cho thu được các khoản phải thu, giảm tình trạng vốn của công ty bị chiếm dụng. Tình hình hàng tồn kho, như chúng ta biết hàng tồn kho là chỉ tiêu phản ánh giá trị các loại hàng hoá, nguyên nhiên vật liệu, công cụ dụng cụ dự trữ cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nó chiếm một phần không nhỏ trong tổng tài sản của doanh nghiệp. Đối với lượng hàng tồn kho, ở công ty Bánh kẹo Tràng An thì hàng tồn kho chủ yếu là thành phẩm. Trong năm 2000 có 8.784 chiếm tỷ trọng 72,63%, sang đến năm 2001 thì giá trị hàng tồn kho tăng lên 9.609 tr.đ chiếm 67%.Trị giá hàng tồn kho năm 2001 tăng hơn năm 2000 là 825 tr.đ với tỷ lệ tăng 9,39%, nhưng tỷ trọng hàng tồn kho trong năm 2001 lại giảm 5,63% so với năm 2000. Điều này thể hiện một xu hướng biến đổi tốt về cơ cấu vốn lưu động tại công ty Bánh kẹo Tràng An, nó cho biết công tác tiêu thụ hàng hoá trong năm nay được tiến hành tốt, diễn ra một cách thuận lợi. Một số tài sản lưu động khác, đây là loại vốn lưu động không thuộc các loại vốn trên có trong cơ cấu vốn lưu động của doanh nghiệp nên nó chiếm một tỷ trọng nhỏ. Cụ thể, trong năm 2000 là 263 tr.đ chiếm tỷ trọng 2,18%, năm 2001 là 430 tr.đ chiếm khoảng 3%. Như vậy, năm 2001 tăng hơn năm 2000 là 167 tr.đ với tỷ lệ tăng 63,5%, tỷ trọng tăng 0,82%. Ta thấy tỷ lệ tăng của loại vốn này khá lớn chỉ sau vốn bằng tiền. Tuy nhiên, sự tăng giảm vốn lưu động này không thể lấy làm căn cứ để đánh giá biểu hiện tốt hay không tốt đối với sự phát triển của doanh nghiệp nhưng nó đã góp phần không nhỏ trong việc tăng quy mô vốn lưu động trong năm qua của công ty Bánh kẹo Tràng An. 2.2.4. Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại công ty Bánh kẹo Tràng An. 2.2.4.1. Hiệu quả sử dụng toàn bộ vốn. Hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh được xem xét và đánh giá một cách tổng quát thông qua một số chỉ tiêu sau: hiệu suất sử dụng vốn, tỷ suất sinh lợi của doanh thu, tỷ suất sinh lợi của vốn chủ sở hữu. Ta có bảng sau: B5: Hiệu quả sử dụng vốn tại công ty Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu 2000 2001 Chênh lệch 01/00 Tuyệt đối % 1. Doanh thu thuần 28.922 31.377 2.455 8,49 2. Lợi nhuận sau thuế 170 346 176 103,53 3. Tổng vốn bình quân 23.837 27.633 3.796 15,92 4. Vốn chủ sở hữu bình quân 15.958 16.289 331 2,07 5. Tỷ suất sinh lợi doanh thu 0,006 0,011 0,005 83,33 6. Hiệu suất sử dụng vốn 1,213 1,135 -0,078 -6,43 7. Tỷ suất lợi nhuận/ vốn 0,007 0,013 0,006 85,71 8. Tỷ suất lợi nhuận/ vốn chủ sở hữu 0,011 0,021 0,010 90,91 Nguồn: Phòng tài chính kế toán Qua số liệu bảng trên ta thấy: Hiệu suất sử dụng vốn năm 2000 là 1,213 và năm 2001 là 1,135. Như vậy, hiệu suất sử dụng vốn năm 2001 là giảm 6,43% so với năm 2000. Nó cho biết một đồng vốn đem lại cho doanh nghiệp 1,213 đồng doanh thu. Trong khi đó, năm 2001 thì một đồng vốn chỉ đem lại 1,135 đồng doanh thu. Ta nhận thấy với kết quả như vậy thì chưa có dấu hiệu khả quan. Về doanh thu thuần: năm 2001 doanh thu tăng 8,49% so với năm 2000, về số tuyệt đối là 2.455 tr.đ. Chính vì doanh thu tăng nên khoản lợi nhuận sau thuế cũng tăng lên. Cụ thể: năm 2000 lợi nhuận là 170 tr.đ, năm 2001 đã tăng 176 tr.đ so với năm 2000 với mức tăng 103,53%. Đây là một dấu hiệu khả quan. Xét tỷ suất sinh lợi của doanh thu ta thấy: năm 2000 là 0,006 và năm 2001 là 0,011. Tỷ suất sinh lợi doanh thu tăng 83,33% so với năm 2000. Nó cho biết: Năm 2000 một đồng doanh thu tạo ra 0,006 đồng lợi nhuận. Năm 2001 một đồng doanh thu tạo ra 0,011 đồng lợi nhuận. Về tỷ suất lợi nhuận/ vốn: Năm 2000 một đồng vốn tạo ra 0,007 đồng lợi nhuận. Năm 2001 một đồng vốn tạo ra 0,013 đồng lợi nhuận. Ta thấy tỷ suất lợi nhuận/ vốn tăng 85,71% so với năm 2000 mà mức tăng của doanh thu năm 2001 tăng 8,49% so với năm 2000. Do đó, mức tăng của lợi nhuận vượt xa mức tăng của doanh thu gấp nhiều lần. Về tỷ suất lợi nhuận/ vốn chủ sở hữu: năm 2000 là 0,011 và năm 2001 là 0,021. Như vậy, tỷ suất lợi nhuận/ vốn chủ sở hữu năm sau tăng 90,91% so với năm trước. Cụ thể là: Năm 2000 một đồng vốn chủ sở hữu tạo ra 0,011 đồng lợi nhuận. Năm 2001 một đồng vốn chủ sở hữu tạo ra 0,021 đồng lợi nhuận. Qua việc nhận xét, đánh giá các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn tại doanh nghiệp ta thấy: chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn là không mấy khả quan như đã phân tích ở trên. Các chỉ tiêu còn lại có sự biến động một các tích cực. Do đó, chúng ta cần đi sâu phân tích chi tiết để phát hiện thêm những mặt tích cực và những mặt còn hạn chế để có biện pháp xử lý kịp thời và hiệu quả. 2.2.4.2. Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại công ty Bánh kẹo Tràng An. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động là một trong những chỉ tiêu làm căn cứ đánh giá tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thông qua việc theo dõi, xem xét, đánh giá tình hình sử dụng vốn lưu động. Nhưng yêu cầu đặt ra cho các nhà quản trị không đơn thuần là đánh giá xem vốn lưu động có hiệu quả hay không, mà còn thông qua quá trình đánh giá để các nhà quản trị đưa ra được những biện pháp cụ thể nhằm khắc phục, không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động cho những năm tiếp theo. Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp chúng ta sử dụng những chỉ tiêu như: hệ số đảm nhiệm vốn lưu động, sức sinh lợi của vốn lưu động, số vòng quay vốn lưu động, thời gian một vòng quay vốn lưu động, vòng quay hàng tồn kho, thời gian một vòng quay hàng tồn kho. B6: Hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại công ty Bánh kẹo Tràng An Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu 2.000 2.001 Chênh lệch 01/00 Tuyệt đối % 1. Doanh thu thuần 28.922 31.377 2.455 8,49 2. Lợi nhuận trước thuế 251 509 258 102,79 3. VLĐ bình quân 12.471 13.217 746 5,98 4. HTK bình quân 9.098 9.196 98 1,08 5. Sức sinh lợi của VLĐ 0,02 0,04 0,02 100 6. Hệ số đảm nhiệm của VLĐ 0,43 0,42 -0,01 -2,33 7. Số vòng quay VLĐ 2,32 2,37 0,05 2,16 8. Thời gian một vòng quay VLĐ 155 152 -3 -1,94 9. Vòng quay HTK 2,78 2,92 0,14 5,04 10. Thời gian một vòng quay HTK 129 123 -6 -4,65 Nguồn: Phòng tài chính kế toán Thông qua số liệu B6 ta thấy: Doanh thu thuần trong năm 2001 cao hơn so với năm 2000 là 2.455 tr.đ với mức tăng 8,49%. Điều này làm cho lợi nhuận tăng 258 tr.đ với mức tăng 102,79% so với năm 2000. Vốn lưu động bình quân năm 2001 cao hơn năm 2000 là 746 tr.đ với mức tăng 5,98%. Trong đó hàng tồn kho bình quân tăng 1,08%. Ta thấy sức sinh lợi của vốn lưu động năm sau cao hơn so với năm trước với mức tăng 100% so với năm 2000 và ở mức 1 tr.đ vốn lưu động tạo ra 40.000 đồng lợi nhuận. Cụ thể: Năm 2000 một đồng vốn lưu động tạo ra 0,02 đồng lợi nhuận. Năm 2001 một đồng vốn lưu động tạo ra 0,04 đồng lợi nhuận. Điều đó nói lên rằng tình hình sử dụng vốn lưu động trong hai năm 2000, 2001 là có hiệu quả và hiệu quả ngày càng cao. Nguyên nhân của sự biến động này là do cả hai yếu tố lợi nhuận và vốn lưu động bình quân tăng nhưng mức tăng của lợi nhuận cao hơn mức tăng của vốn lưu động bình quân. Đây là một dấu hiệu khả quan. Về hệ số đảm nhiệm của vốn lưu động, ta thấy hệ số này giảm xuống ở mức 2,33% so với năm 2000. Cụ thể: Năm 2000 để tạo ra một đồng doanh thu cần 0,43 đồng vốn lưu động. Năm 2001 để tạo ra một đồng doanh thu cần 0,42 đồng vốn lưu động. Hệ số đảm nhiệm của vốn lưu động giảm đi chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động ngày càng cao, số vốn tiết kiệm được càng nhiều. Kế tiếp chúng ta đi xem xét các chỉ tiêu: số vòng quay của vốn lưu động và thời gian một vòng quay vốn lưu động. Việc phân tích, đánh giá chỉ tiêu này giúp ta thấy được khả năng quay vòng vốn của doanh nghiệp. Từ năm 2000 đến năm 2001 số vòng quay của vốn lưu động tăng dần lên và thời gian một vòng quay vốn lưu động thì giảm dần đi. Cụ thể là: Năm 2000 vốn lưu động quay được 2,32 vòng, thời gian một vòng luân chuyển là 155 ngày. Năm 2001 vốn lưu động quay được 2,37 vòng, thời gian một vòng luân chuyển là 152 ngày. Điều đó cho chúng ta thấy, số vòng quay của vốn lưu động tăng chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu dộng tăng, vốn sẽ ít bị lãng phí. Đồng thời thời gian của một vòng luân chuyển giảm đi cho thấy việc thu hồi vốn lưu dộng rất nhanh và làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty được diễn ra trôi chảy hơn. Đối với hai chỉ tiêu vòng quay hàng tồn kho và thời gian một vòng quay hàng tồn kho. Ta thấy, từ năm 2000 đến năm 2001 vòng quay hàng tồn kho tăng lên và thời gian một vòng quay hàng tồn kho thì giảm đi. Cụ thể: Năm 2000 số vòng quay hàng tồn kho là 2,78 vòng/ năm, thời gian một vòng quay là 129 ngày. Năm 2001 số vòng quay hàng tồn kho là 2,92 vòng/ năm tăng 5,04% so với năm 2000, thời gian một vòng quay giảm xuống còn 123 ngày. Điều đó cho thấy rằng đây là một biểu hiện tích cực, nhưng về lâu dài thì việc gia tăng hàng tồn kho quá mức sẽ gây lãng phí vốn. Ngoài ra, nó còn làm gia tăng các chi phí khác như: chi phí bảo quản, hao hụt, mất mát, hỏng…Chính vì vậy mà công tác quản trị hàng tồn kho đòi hỏi phải giảm đến mức tối thiểu lượng hàng tồn kho để có thể giảm được đến mức thấp nhất các khoản chi phí trên. Qua việc phân tích, đánh giá tình hình sử dụng vốn lưu động thông qua hệ thống các chỉ tiêu ở B6 ta thấy việc sử dụng vốn lưu động tại công ty Bánh kẹo Tràng An là có hiệu quả. Đó là một dấu hiệu rất khả quan. Với thành quả đó, công ty nên tích cực phát huy hơn nữa trong việc đưa ra những giải pháp: làm thế nào để giải phóng nhanh lượng hàng tồn kho và giảm lượng hàng tồn kho đến mức tối thiểu, đẩy nhanh hơn nữa tốc độ chu chuyển vốn góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Như đã phân tích ở trên, khoản lợi nhuận năm 2001 tăng rất nhanh so với năm 2000 ở mức 102,79%. Tuy nhiên lợi nhuận tài chính doanh nghiệp cần xem xét lại hoạt động đầu tư tài chính. Vì chính hoạt động này công ty đã bị mắc nợ. Điều này được thể hiện ở B7. B7: Một số chỉ tiêu về lợi nhuận Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu 2000 2001 1. Lợi nhuận gộp 3.644 4.487 2. Lợi nhuận thuần từ hoạt động sản xuất kinh doanh 207 1.152 3. Lợi nhuận hoạt động tài chính (266) (691) 4. Lợi tức bất thường 310 48 5. Tổng lợi nhuận trước thuế 251 509 6. Lợi nhuận sau thuế 170 346 Nguồn: Phòng tài chính kế toán 2.2.5. Những thành quả đạt được và những vấn đề còn tồn tại trong công tác sử dụng lưu động tại công ty Bánh kẹo Tràng An. 2.2.5.1. Những thành quả đạt được. Kể từ khi mới thành lập cho tới nay, đã hơn 25 năm trôi qua, công ty Bánh kẹo Tràng An đã trải qua biết bao trăng trầm. Bằng sự nỗ lực cố gắng không mệt mỏi công ty đã dần dần tự khẳng định mình, tạo cho mình một vị trí đáng kể trong trái tim người tiêu dùng cả nước. Để có được quy mô sản xuất và trình độ quản lý như hiện nay là một quá trình phấn đấu liên tục không ngừng của toàn bộ cán bộ, công nhân viên các thế hệ của công ty.Đặc biệt trong điều kiện cơ chế thị trường có tính cạnh tranh ngày càng khốc liệt, bằng mọi cách, mọi nỗ lực công ty Bánh kẹo Tràng An đã cố gắng tìm biện pháp để hoà nhập bước đi của mình cùng với nhịp độ phát triển của đất nước. Bằng sự nỗ lực cố gắng không mệt mỏi công ty đã dần dần tự khẳng định mình, tạo cho mình một vị trí đáng kể trong trái tim người tiêu dùng cả nước. Công ty đã từng bước nâng cao thu nhập, đời sống của cán bộ công nhân viên. Sản phẩm được thị trường chấp nhận và tạo được độ tin cậy lớn của bạn hàng. Nhìn chung trong năm 2000, 2001 quy mô sản xuất của công ty được giữ vững và phát triển. Biểu hiện, năm 2001 nguồn vốn đầu tư của công ty tăng 31,17% so với năm 2000. Cụ thể: năm 2000 là 23.907 tr.đ, năm 2001 là 31.360 tr.đ. Sự tăng lên của vốn sản xuất kinh doanh cho thấy năng lực sản xuất kinh doanh của công ty tăng lên, tính cạnh tranh trên thị trường tăng lên. Đồng thời với việc mở rộng quy mô sản xuất, khả năng huy động vốn từ bên ngoài vào càng tốt. Đối với vấn đề quản lý và sử dụng vốn lưu động, nguồn vốn của công ty đã đạt được những thành tích nhất định. Giá trị tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn đã tăng lên 2.247 tr.đ với mức tăng 18,58%, giá trị tài sản cố định và đầu tư dài hạn tăng lên 5.206 tr.đ với mức tăng 44,07%. Nguồn vốn chủ sở hữu ngày càng được bổ sung, công ty đã có nhiều cố gắng trong việc huy động các nguồn vốn vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Đồng thời, công ty đã có nhiều biện pháp quản lý và sử dụng vốn, nguồn vốn chặt chẽ, phân bổ cho các bộ phận, các phân xưởng sản xuất hợp lý. Từ đó hạn chế được những lãng phí về vốn, vì vậy vốn trong công ty được sử dụng ngày càng hiệu quả hơn. Biểu hiện: Một là, hiệu suất sử dụng vốn lưu động năm 2001 tăng so với năm 2000. Cụ thể, năm 2000 là 2,32 đồng doanh thu/ một đồng vốn lưu động, năm 2001 tăng lên 2,37 đồng doanh thu/ một đồng vốn lưu động. Hai là, doanh thu cũng như lợi nhuận năm 2001 tăng so với năm 2000. Về tỷ suất sinh lợi của doanh thu tăng 83,33% so với năm 2000. Cụ thể: năm 2000 là 0,006 đồng lợi nhuận/ một đồng doanh thu, năm 2001 tăng lên 0,011 đồng lợi nhuận/ một đồng doanh thu . Ba là, tỷ suất lợi nhuận/ vốn tăng 85,71% so với năm 2000 và tỷ suất lợi nhuận/ vốn chủ sở hữu tăng 90,91% so với năm 2000. Cụ thể: năm 2000 là 0,011 đồng lợi nhuận/ một đồng vốn chủ sở hữu. Năm 2001 tăng lên 0,021 đồng lợi nhuận/ một đồng vốn chủ sở hữu. Bốn là, sức sinh lợi của vốn lưu động tăng 100% so với năm 2000. Cụ thể: năm 2000 là 0,02 đồng lợi nhuận/ một đồng vốn lưu động, năm 2001 tăng lên 0,04 đồng lợi nhuận/ một đồng vốn lưu động. Năm là, hệ số đảm nhiệm vốn lưu động giảm xuống 2,33% so với năm 2000. Điều này nói lên rằng hiệu quả sử dụng vốn lưu động ngày càng cao, số vốn tiết kiệm được càng nhiều. Sáu là, số vòng quay vốn lưu động tăng so với năm 2000. Điều đó nói lên việc thu hồi vốn lưu động nhanh và làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được diễn ra thuận lợi hơn. Để đạt được kết quả như hiện nay là cả một quá trình phấn đấu liên tục, không ngừng của toàn bộ cán bộ, công nhân viên các thế hệ của công ty, phải kể đến đó là sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước. Trong những năm qua, công ty đã tăng cường đổi mới máy móc trang thiết bị, công nghệ mới để phục vụ cho sản xuất. Đặc biệt trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay ở nước ta, sự linh hoạt, nhạy bén trong quản lý kinh tế và quản lý sản xuất đã thực sự trở thành chìa khoá cho sự tồn tại và phát triển của công ty. Là doanh nghiệp với quy mô sản xuất vừa, công ty tổ chức được một bộ máy quản lý gọn nhẹ, các phòng ban chức năng hoạt động hiệu quả, cung cấp một cách kịp thời, chính xác tình hình sản xuất kinh doanh…cho ban lãnh đạo công ty để từ đó có cách thức quản lý, chỉ đạo kịp thời, hiệu quả hơn. Hàng năm công ty giao chỉ tiêu cho các phân xưởng về các chỉ tiêu kinh tế tài chính cơ bản như: doanh thu, lợi nhuận, thuế…Đặc biệt là các phân xưởng tự xây dựng phương án sản xuất, sử dụng và bố trí nhân công lao động, được quyền phê bình thẳng thắn những hiện tượng tiêu cực, tích cực phát huy các mặt tích cực. Cùng với sự phát triển công ty, bộ máy kế toán là một trong những công cụ quan trọng của hệ thống quản lý kinh tế, tài chính của công ty. Bộ máy kế toán được tổ chức tương đối gọn nhẹ, hoàn chỉnh, đội ngũ nhân viên có trình độ nghiệp vụ, chức năng của từng bộ phận do mình phụ trách. Hầu hết các cán bộ phòng kế toán tài chính đều có trình độ đại học và cao đẳng. Hiện nay công ty đang tạo điều kiện để các cán bộ phòng kế toán tài chính được tham gia các khoá học ngoài giờ nhằm nâng cao trình độ chuyên môn. 2.2.5.2. Những vấn đề còn tồn tại. Bên cạnh những thành quả mà công ty đạt được, trong quá trình hoạt động của công ty còn có một số tồn tại. 2.2.5.2.1. Về khả năng thanh toán. Khả năng thanh toán hiện hành năm 2001 thấp hơn so với năm 2000. Nguyên nhân của sự thay đổi này là do mức tiêu thụ hàng hoá bị chậm lại. Do đó mà công ty đã gặp phải khó khăn trong việc thanh toán các khoản nợ ngắn hạn trong vòng một năm hay một chu kỳ kinh doanh. Các khoản nợ phải trả của công ty tăng lên kéo theo sự tăng lên của nhu cầu thanh toán. Đối với công ty, tỷ lệ nợ năm 2001 là cao hơn so với năm 2000. Cụ thể: năm 2000 tỷ lên nợ là 33,82%, đến năm 2001 đã tăng lên ở mức 46,56%. Với tỷ lệ nợ 46,56% công ty có thể gặp khó khăn trong việc huy động tiền vay để tiến hành sản xuất kinh doanh. 2.2.5.2.2. Về cơ cấu tài sản và nguồn vốn. Qua việc phân tích, đánh giá tình hình tài sản và nguồn vốn ta thấy cơ cấu tài sản chưa hợp lý: Trong tổng số tài sản thì tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn chiếm 50,59% (năm2000), chiếm 45,73% (năm2001). Về tài sản cố định và đầu tư dài hạn chiếm 49,41% (năm 2000), chiếm 54,27% (năm2001). Trong đó tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn luôn chiếm tỷ trọng lớn hơn nhưng lại có xu hướng giảm từ 50,59% xuống còn 45,73%. Song tài sản cố định và đầu tư dài hạn đang chiếm tỷ trọng ít hơn nhưng lại có xu hướng tăng từ 49,41% lên 54,27%. 2.2.5.2.3. Về hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Lợi nhuận thu nhập hoạt động tài chính cần xem xét lại hoạt động đầu tư tài chính. Vì chính hoạt động này doanh nghiệp đã bị mắc nợ. Lượng hàng tồn kho vẫn tiếp tục gia tăng nhưng về lâu dài thì việc gia tăng hàng tồn kho quá mức sẽ gây lãng phí vốn. Ngoài ra, nó còn làm gia tăng các chi phí liên quan khác như: chi phí bảo quản, hao hụt, mất mát, hỏng... Chương III Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở công ty Bánh kẹo Tràng An Từ những phân tích, đánh giá ở trên về thực trạng hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở công ty Bánh kẹo Tràng An, tôi xin đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại công ty Bánh kẹo Tràng An: 3.1. Tổ chức tốt hoạt động sản xuất kinh doanh. Hiệu quả và an toàn trong sản xuất kinh doanh là mục tiêu phấn đấu của tất cả các doanh nghiệp. Đối với công ty Bánh kẹo Tràng An, để đạt được điều này không có cách nào khác là phải đẩy mạnh sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, tăng giá trị sản lượng và doanh thu, hạ giá thành sản phẩm, đẩy mạnh tốc độ hoàn thành các chỉ tiêu cấp trên giao xuống. Làm tốt được điều này công ty sẽ đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn, tăng hiệu quả sử dụng vốn, từ đó tăng tích luỹ vốn để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về vốn sản xuất kinh doanh, để đầu tư xây dựng vật chất, hạn chế các khoản nợ phải trả. Tăng cường công tác nghiên cứu và dự báo thị trường để nắm bắt kịp thời nhu cầu của thị trường và xu hướng biến động của nó cũng như các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động trên thị trường, tổ chức mạng lưới tiêu thụ sản phẩm sao cho có hiệu quả. Trên cơ sở đó có những chủ trương biện pháp đầu tư thiết bị, đổi mới công nghệ, cải tiến kỹ thuật hạ chi phí sản xuất dự tính mức dự trữ hàng tồn kho cho phù hợp và có lợi cho công ty, làm ra những sản phẩm có chất lượng phù hợp với thị hiếu của người sử dụng với giá thành thấp nhất có thể. Đây là một biện pháp rất hữu hiệu để tăng số lượng và doanh số bán hàng trong cả hiện tại và tương lai. Tăng cường hoàn thiện công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm. Bên cạnh việc hoàn thành các chỉ tiêu cấp trên giao xuống công ty cần mở rộng hoạt động sản xuất của mình nhiều hơn nữa. Công ty có thể tăng cường công tác quảng cáo, tiếp thị nhằm mở rộng mạng lưới tiêu thụ, tăng khối lượng tiêu thụ, tăng vòng quay vốn tạo uy tín và có mối quan hệ lâu dài với bạn hàng và khách hàng. Công ty cũng cần thực hiện chính sách ưu đãi trong thanh toán đối với khách hàng như cho phép trả chậm, cho chịu một phần đối với khách hàng thường xuyên, đặt hàng với khối lượng lớn trong một thời gian nhất định. Việc thực hiện tốt các hoạt động trên sẽ góp phần đẩy mạnh hoạt động sản xuất, sớm thu hồi vốn để tiếp tục chu kỳ sản xuất. Trên cơ sở đó công ty có điều kiện thuận lợi để đầu tư cơ sở vật chất, hoàn thành các khoản nợ vay, hạn chế bớt các rủi ro, tăng chủ động trong sản xuất hơn nữa. 3.2. Tổ chức tốt công tác tài chính kế toán. 3.2.1. Lựa chọn và sử dụng hợp lý các nguồn lực. Trong quá trình sản xuất kinh doanh , bất kỳ doanh nghiệp nào cũng cần huy động những nguồn vốn bổ sung nhằm đảm bảo sản xuất kinh doanh tiến hành bình thường, đồng thời đáp ứng yêu cầu mở rộng quy mô sản xuất hay đầu tư chiều sâu. Như đã biết, các nguồn huy động thì có rất nhiều, việc lựa chọn nguồn vốn nào rất quan trọng và phải dựa trên nguyên tắc hiệu quả kinh tế. Nếu nhu cầu đầu tư chiều sâu hoặc mở rộng thì trước hết cần huy động nguồn vốn tự bổ sung từ lợi nhuận để lại, từ quỹ khuyến khích phát triển sản xuất, phần còn lại có thể vay tín dụng, vay ngân hàng thu hút vốn liên doanh, liên kết … Nếu nhu cầu bổ sung vố lưu động thì trước hết doanh nghiệp cần sử dụng linh hoạt các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của các quỹ trích lập theo quy định nhưng chưa sử dụng, lợi nhuận chưa phân phối, các khoản phải trả nhưng chưa đến hạn trả, phần còn lại có thể vay ngân hàng hoặc các đối tượng khác. Việc đi vay đòi hỏi doanh nghiệp phải có sự cân nhắc, lựa chọn và đặc biệt là có một quan điểm rõ ràng trong chính sách nguồn tài trợ của doanh nghiệp, bởi vì việc phải chịu lãi từ các khoản vay có thể gây trở ngại cho phát huy hiệu quả đồng vốn. Ngược lại, đối với doanh nghiệp thừa vốn thì tùy từng điều kiện cụ thể để lựa chọn kảh năgn sử dụng. Nếu đưa đi liên doanh, liên kết hoặc cho vay thì cần phải thận trọng, thẩm tra kỹ các dự án liên doanh, kiểm tra tư cách khách hàng nhằm đảm bảo liên doanh có hiệu quả kinh tế, cho vay không bị chiếm dụng vốn do quá hạn chưa trả hoặc mất vốn do khách hàng không có khả năng thanh toán. 3.2.2. Xây dựng kế hoạch định mức vốn nói chung và định mức vốn lưu động nói riêng. Vốn sản xuất kinh doanh mà trước hết là nguồn vốn chủ sở hữu là một đảm bảo cho doanh nghiệp tránh khỏi nguy cơ phá sản và là điểm tựa quan trọng cho mọi quyết định đầu tư cũng như tài trợ. Nguồn vốn chủ sở hữu được coi như sự bảo đảm trước Nhà nước, các bên đối tác, các nhà đầu tư về khả năng kinh doanh của doanh nghiệp. Quy mô của nguồn vốn chủ sở hữu cũng ảnh hưởng rất lớn tới khả năng đầu tư và tìm kiếm nguồn tài trợ của doanh nghiệp. Trong cơ chế thị trường hiện nay, do tác động của nhiều nhân tố khách quan và chủ quan nên giá trị của các nguồn vốn và tài sản của doanh nghiệp luôn luôn biến động. Thực tế cho thấy rằng nhu cầu vốn của công ty tăng đáng kể, nguồn vốn chủ sở hữu đã đáp ứng đủ phần nào số thiếu công ty vẫn phải đi huy động từ bên ngoài gây nên tình trạng công nợ của công ty tăng. Để hạn chế tình trạng này công ty cần phải xây dựng định mức vốn, kế hoạch và sử dụng tài sản trong từng khoảng thời gian nhất định nhằm phục vụ tốt hơn cho sản xuất, không gây lãng phí. 3.2.3. Xác định chính xác nhu cầu vốn lưu động ở từng khâu luân chuyển. Đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công tác quản lý vốn lưu động. Mục đích của công việc này là nhằm: tiết kiệm vốn lưu động sử dụng trong sản xuất kinh doanh. Thông qua việc xác định nhu cầu vốn lưu động ở từng khâu để nắm được lượng vốn lưu động cần phải đi vay, tránh tình trạng vốn bị ứ đọng. Qua đó, đảm bảo lượng đủ vốn lưu động cần thiết cho sản xuất kinh doanh được tiến hành liên tục, thúc đẩy tốc độ luân chuyển vốn nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. 3.2.4. Tổ chức tốt công tác thanh toán. Trong quá trình hoạt động mặc dù công ty thiếu vốn phải đi vay nhưng vốn của công ty vẫn bị các đối tượng khác chiếm dụng. Muốn hạn chế tối đa tình trạng này đòi hỏi công ty cần phải tích cực hơn nữa trong thu hồi vốn. Điều này có nghĩa là công ty vẫn tiếp tục cho khách hàng nợ nhưng phải thường xuyên theo dõi và tiến hành đòi nợ nhanh chóng. Trên thực tế có thể xảy ra trường hợp không phải khách hàng nào cũng thanh toán cho công ty khi đến hạn trả. Như vậy, một mặt công ty thực hiện chính sách ưu đãi nhằm thu hút thêm đơn đặt hàng từ bên ngoài. Mặt khác công ty thu hồi các khoản nợ, tránh các khoản nợ lâu ngày khó có thể đòi được gây nên tình trạng ứ đọng vốn. Công ty cần thực hiện nghiêm túc, triệt để công tác thanh toán công nợ, chủ động phòng ngừa rủi do, hạn chế tình trạng vốn bị chiếm dụng mà từ đó làm phát sinh nhu cầu vốn lưu động dẫn đến doanh nghiệp phải đi vay ngoài kế hoạch, tăng chi phí vốn mà đáng lẽ không có. Vốn bị chiếm dụng ngày càng trơ thành nợ khó đòi, gây thất thoát vốn của doanh nghiệp. Do đó để có thể chủ động hơn trong hoạt động kinh doanh, công ty nên lập các quỹ dự phòng tài chính để có thể bù đắp khi vốn bị thiếu hụt. Đồng thời trong quá trình hoạt động, công ty cần chú trọng công tác thanh quyết toán các hợp đồng mua bán, thu hồi và thanh toán các khoản nợ nhằm thực hiện tốt các hoạt động. Trong những trường hợp cần thiết khi các khoản nợ đến hạn phải trả công ty có thể tạm thời vay ngân hàng để trả nợ nhằm giữ vững quan hệ kinh doanh về lâu dài. Tóm lại đi đôi với chính sách ưu đãi khách hàng trong thanh toán, công ty phải tổ chức ký hợp đồng tiêu thụ, kịp thời theo dõi một cách chặt chẽ. Đồng thời phải có những biện pháp đôn đốc khuyến khích hành chính, pháp lý cân thiết nhằm thu hồi vốn nhanh nhất. 3.2.5. Tăng cường quản lý hàng tồn kho. ở công ty Bánh kẹo Tràng An, hàng tồn kho năm 2001 tăng so với năm 2000, nó chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng tài sản lưu động. Việc hàng tồn kho tăng lên sẽ làm ảnh hưởng đến việc sử dụng vốn lưu động ở đơn vị. Do đó, giải pháp cần thiết đối với lượng hàng tồn kho là phải tổ chức thực hiện công tác nghiên cứu thị trường, tìm hiểu nhu cầu của thị trường và xu hướng biến động của nó cũng như các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động trên thị trường. Từ đó tính toán lượng hàng sẽ tiêu thụ trong các chu kỳ kinh doanh để cung cấp một lượng vừa đủ, tránh việc dự trữ quá nhiều để tồn đọng vốn và cũng tránh tình trạng mua thiếu hàng để lỡ cơ hội kinh doanh. Thực tế cho thấy, một trong các biện pháp hiệu quả nhất là làm sao để trong một thời gian mà lượng vốn lưu động quay vòng được nhiều nhất sẽ đem lại hiệu quả nhất có thể cho công ty. Do đó, để quay nhanh được vòng quay vốn lưu động thì chỉ có biện pháp là làm sao bán được nhiều hàng nhất trong thời gian đó với mức giá hợp lý. Muốn thực hiện được công việc này thì công ty cần quan tâm và chú ý đến một số hoạt động, chính sách sau: Trước tiên phải kể đến đó là: công tác nghiên cứu thị trường. Việc thực hiện công tác này giúp cho công ty xác định được các đối thủ cạnh tranh, tập quán, thị hiếu tiêu dùng trên thị trường về loại hàng hoá mà công ty sản xuất và kinh doanh. Từ đó, công ty đưa ra được biện pháp, chính sách hợp lý về giá cả, sản phẩm, quảng cáo… Thứ hai đó là: chính sách sản phẩm. Trong điều kiện thị trường hiện nay cạnh tranh ngày càng khốc liệt, vậy làm sao để cho khách hàng chấp nhận sản phẩm của mình là một vấn đề đáng phải suy nghĩ về phía các nhà quản trị. Muốn thực hiện tốt được chính sách này thì công ty phải chú ý quan tâm đến chất lượng cũng như mẫu mã của các loại kẹo, bánh, bột ngọt và tính ưu việt của chúng. Ba là: chính sách giá cả. Công ty nên thực hiện hình thức chiết khấu bán hàng. Với những khách hàng tiêu thụ sản phẩm của công ty với khối lượng lớn hoặc là những bạn hàng quen thuộc của công ty thì công ty nên áp dụng hình thức chiết khấu nhằm thúc đẩy sức mua của bạn hàng. Bốn là: chính sách phân phối. Khi thực hiện chính sách này, công ty nên tính toán một cách kỹ lưỡng trước khi đưa ra quyết định phân phối cụ thể làm sao để tiết kiệm được chi phí, tận dụng các nguồn lực khác và giảm tối thiểu lượng thành phẩm, hàng hoá tồn kho. Đây là biện pháp quan trọng nhằm giảm lượng hàng hoá tồn kho gây ứ đọng vốn lưu động cho công ty. Năm là: chính sách quảng cáo. Chúng ta biết rằng, nền kinh tế thị trường đa dạng sản sinh ra nhiều loại hình doanh nghiệp, có nhiều doanh nghiệp ồ ạt mọc lên và cùng sản xuất một loại sản phẩm. Điều này khiến cho khách hàng rất khó lựa chọn mặt hàng nào là thực sự phù hợp với nhu cầu của mình. Chính vì lẽ đó mà dẫn đến một tâm lý lựa chọn những mặt hàng có nhiều tiếng tăm, được mọi người nhắc đến nhiều và hay dùng. Với những lý do này thì chính sách quảng cáo thực sự là một biện pháp rất hữu hiệu để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động cho công ty. 3.2.6. Tăng cường tiện ích cho khách hàng đồng thời quản lý tốt khoản phải thu. Việc quản lý chặt chẽ khoản phải thu để công ty vừa gia tăng được doanh thu, tận dụng tối đa năng lực sản xuất hiện có vừa đảm bảo tính hiệu quả là điều rất quan trọng. Do đó, việc nên làm là giảm thiểu khoản phải thu. Muốn vậy, công ty không chấp nhận bán chịu với mọi giá để giải phóng hàng tồn kho. Mà trước khi quyết định bán chịu hay không thì công ty nên xem xét, phân tích kỹ lưỡng lịch sử tín dụng của khách hàng và đánh giá khoản tín dụng được đề nghị. Đánh giá khả năng tín dụng của khách hàng là nhằm xác định liệu khoản tín dụng này sẽ được khách hàng thanh toán đúng thời hạn hay không. Kế tiếp là công ty phải phân tích, đánh giá cái được cái mất của khoản tín dụng này. Công ty chỉ cung cấp khoản tín dụng thương mại cho khách hàng khi có khả năng thu hồi nợ. Thực tế cho thấy: công ty đã có quan tâm đến khách hàng, tạo tin tưởng trong quan hệ kinh doanh thông qua hoạt động bán chịu sản phẩm. Mặc dù việc tăng số dư nợ các khoản phải thu là tăng rủi ro cho công ty, song việc tăng cường quan hệ mua bán và tạo điều kiện thuận lợi cho bạn hàng là điều kiện cần thiết trong hoạt động của công ty. Song song với việc tồn tại số dư nợ các khoản phải thu thì công ty cũng tăng cường quản lý chặt các khoản này thông qua việc xem xét kỹ lưỡng lịch sử tín dụng của khách hàng. Đồng thời giao nhiệm vụ cho phòng thị trường giám sát và đốc thúc công nợ. Chính vì vậy, ở công ty không tồn tại các khoản nợ khó đòi hay nợ không đòi được… Điều này đã góp phần ổn định tình hình tài chính của công ty và tăng cường được mối quan hệ với bạn hàng. Chúng ta biết rằng đối với khoản phải thu thì mặc dù công ty không có tình trạng khách hàng nợ đọng, dây dưa kéo dài song công ty vẫn cần phải tăng cường quản lý hơn nữa các khoản phải thu thông qua việc phân định số khách hàng nợ nhiều, sắp xếp các khoản phải thu theo độ dài thời gian để theo dõi và có biện pháp giải quyết thu nợ khi đến hạn, theo dõi kỳ thu tiền bình quân khi thấy kỳ thu tiền bình quân tăng lên mà doanh thu không tăng có nghĩa công ty đang bị ứ đọng ở khâu thanh toán. Do đó phải có biện pháp để xử lý kịp thời, từ đó quản lý chặt chẽ hơn những khoản nợ dài hạn, những khách hàng có số nợ cao, tránh trường hợp rủi ro có thể xảy ra. 3.2.7. Tổ chức khai thác tốt các nguồn vốn lưu động phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Trong quá trình hoạt động của mình, công ty nên giảm tối thiểu lượng vốn đi vay, tăng nguồn vốn tự có, huy động vốn nhàn rỗi của mọi thành viên trong công ty, khai thác triệt để các khoản vốn có thể chiếm dụng một cách thường xuyên và sử dụng có hiệu quả nhất nguồn vốn này. Khi cần thiết phải vay nợ thì công ty nên chọn các ngân hàng có điều kiện thuận lợi giá vay thấp, các tổ chức tín dụng… và một điều hết sức quan trọng là công ty cần phải cân nhắc tính toán, lựa chọn phương thức huy động vốn sao cho chi phí vốn là thấp nhất. 3.2.8. Sử dụng đòn bẩy tài chính một cách linh hoạt. Sử dụng đòn bẩy tài chính một cách linh hoạt như một chính sách tài chính của doanh nghiệp , cố gắng tạo ra lợi nhuận trên tiền vay lớn hơn so với tiền lãi phải trả thì phần lợi nhuận dành cho chủ sở hữu gia tăng rất nhanh. Khi sử dụng cần phải chú ý rằng đòn bẩy tài chính có thể thu được từ nhiều nguồn, trong đó các khoản chiếm dụng luôn luôn là đòn bẩy kinh tế dương ở chỗ vốn được cung cấp cho việc sử dụng nhưng nhà doanh nghiệp không phải trả lãi. 3.2.9. Thường xuyên đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Công việc này hết sức quan trọng, có thường xuyên đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động mới có những giải pháp kịp thời và có hiệu quả để giải quyết các khó khăn, vướng mắc nhằm sửa đổi kịp thời, nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở công ty Bánh kẹo Tràng An. 3.3. Công tác đào tạo cán bộ công nhân viên. Đó là việc tổ chức, sắp xếp, bố trí công việc cho phù hợp với khả năng của từng người. Để từ đó họ phát huy được tính sáng tạo, khả năng thực sự của mình góp phần nâng cao hiệu quả quản lý, tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng vốn lưu động nói riêng. Thực hiện chương trình đào tạo nâng cao và bổ sung thêm các bộ cho các phòng ban chức năng. Tiến hành đào tạo và đào tạo lại cho đội ngũ những người lao động để nâng cao tay nghề góp phần tăng năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, giúp họ có thể thích nghi nhanh chóng với các công nghệ và máy móc, trang thiết bị hiện đại. kết luận Mặc dù trong nền kinh tế thị trường, công ty phải trải qua một thời kỳ cạnh tranh gay go và quyết liệt, song công ty Bánh kẹo Tràng An với truyền thống đoàn kết, nhất trí, với định hướng của Đảng uỷ công ty đúng đắn, ban quản lý công ty năng động sáng tạo cùng với sự tin tưởng và say mê công tác của toàn cán bộ công nhân viên. Công ty đã từng bước vươn lên và trưởng thành trong sản xuất kinh doanh với những thành tích và đem lại hiệu quả kinh tế cao. Luận văn đã cố gắng phân tích, đánh giá các vấn đề một cách khách quan, ngắn gọn nhằm làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu và đưa ra các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại công ty Bánh kẹo Tràng An. Với thời gian chuẩn bị không dài và trình độ bản thân còn hạn chế nên luận văn này sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được các thầy cô giáo trong khoa Ngân hàng - Tài chính và các cô chú trong phòng tài vụ công ty tham gia góp ý để em có thể hoàn thiện hơn nữa luận văn tốt nghiệp cũng như kiến thức của bản thân. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn thầy giáo TS. Đặng Ngọc Đức và các thầy cô giáo trong khoa, cảm ơn các cô chú trong phòng tài vụ công ty Bánh kẹo Tràng An đã giúp đỡ em trong suốt thời gian thực tập cũng như hoàn thành luận văn tốt nghiệp. Mục lục Trang Danh mục tài liệu tham khảo 1. Giáo trình tài chính doanh nghiệp Chủ biên: T.S Lưu Thị Hương, NXB Giáo dục - 2000 2. Quản trị tài chính doanh nghiệp Chủ biên: T.S Vũ Duy Hào - Đàm Văn Huệ, NXB Thống kê -1998 3. Giáo trình phân tích hoạt động kinh doanh, khoa Kế toán ĐHKTQD, NXB Giáo dục - 1997 4. Báo cáo tài chính của công ty Bánh kẹo Tràng An 2000, 2001. 5. Tạp chí Tài chính 6. Thời báo Kinh tế

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0078.doc
Tài liệu liên quan